A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Không phải qua cuộc khủng hoảng ở Đông Âu vừa qua, chủ nghĩa xã
hội khoa học mới bị người ta phê phán dữ dội, mà cách đây hàng trăm năm,
từ khi nó mới ra đời cho đến nay, chủ nghĩa xã hội khoa học đã bị mọi thế
lực có ác ý phê phán từ mọi phía. Nhưng chủ nghĩa xã hội khoa học chấp
nhận mọi sự phê phán, vì chỉ có như thế, khoa học mới phát triển và
trưởng thành.
Nhưng sự phê phán trước đây với sự phê phán ngày nay qua cuộc
khủng hoảng Đông Âu có những nét khác nhau. Người ta cố tình không
phân biệt giữa chủ nghĩa xã hội khoa học và những biến dạng của nó. Một
số Đảng cộng sản công nhân ở Đông Âu đã tuyên bố đổi tiên đảng và
chuyển sang lập trường của chủ nghĩa xã hội dân chủ.
Bên cạnh con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội khoa học, nổi lên cái
gọi là “con đường thứ ba” của chủ nghĩa xã hội dân chủ. Nó được buyên bố
như là lối thoát duy nhất ra khỏi cuộc khủng hoảng toàn diện và sâu sắc của
chủ nghĩa xã hội hiện nay.
Có đúng chủ nghĩa xã hội dân chủ là một giải pháp đi tới một xã hội
không còn áp bức, bóc lột, vươn tới các giá trị tự do, bình đẳng và đoàn kết
hay không?
Đứng trước nhiều câu hỏi cấp bách và phức tạp trong đấu tranh tư
tưởng hiện nay, quán triệt tinh thần Nghị quyết 8 và 9 của Ban chấp hành
trung ương Đảng, việc nghiên cứu về chủ nghĩa xã hội dân chủ có ý nghĩa
quan trọng. Với một số kết quả bước đầu, nhóm nghiên cứu của Viện MácLênin cố gắng cung cấp cho bạn đọc nước ta một tài liệu theo quan điểm
mới nhận thức về trào lưu xã hội- dân chủ hiện đại. Dựa trên việc phân tích
các văn kiện cương lĩnh, các tuyên bố của Quốc tế xã hội chủ nghĩa và các
tư liệu khác của một số đảng xã hội-dân chủ ở châu Âu, các tác giả cố gắng
1
phác họa ra những đặc trưng nổi bật nhất trong diện mạo chính trị - tư
tưởng của chủ nghĩa xã hội dân chủ. Bằng cách tiếp cận lịch sử, phân tích
lý luận và thường xuyên đối chiếu với hoạt động thực tiễn, các tác giả vạch
rõ tính ảo tưởng của mô hình xã hội – dân chủ và cơ sở lý luận cải lương,
cơ hội của nó. Thiếu một cơ sở lý luận khoa học nhất quán, trong quá khứ,
hiện tại và tương lai, chủ nghĩa xã hội dân chủ không thể là một giải pháp
về con đường phát triển xã hội.
Là một phong trào chính trị có lịch sử lâu đời, có cội nguồn trong
phong trào đấu tranh của công nhân, phong trào công đoàn, trào lưu xã hộidân chủ có kinh nghiệm hoạt động phong phú nhằm tập hợp quần chúng lao
động đòi các quyền dân sinh dân chủ. Nó thể hiện nguyện vọng sâu sa của
nhân loại vươn tới một xã hội bình đẳng, tự do và không còn áp bức bóc
lột. Với lý luận về ảo tưởng “cải biến” chủ nghĩa tư bản, trên thực tế chủ
nghĩa xã hội dân chủ chỉ đưa quần chúng đến thất vọng mà thôi.
Tư tưởng đoàn kết tất cả các lực lượng cách mạng, chĩa mũi nhọn vào
kẻ thù chủ yếu là tư tưởng Hồ Chí Minh, thể hiện rõ trong quá trình Người
lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Là người gắn bó với tư tưởng tự do, bình
đẳng, bác ái của cách mạng Pháp, Hồ Chí Minh đã nêu cao các giá trị dân
chủ và nhân đạo mà những người xã hội – dân chủ vẫn thường tuyên bố,
nhưng không phải bằng con đường cải lương, cơ hội mà bằng con đường
cách mạng triệt để.
Kế thừa truyền thống quý báu của Đảng và Bác Hồ trong chính sách
đối với trào lưu xã hội – dân chủ, chúng ta hoan ngênh những thay đổi của
những người xã hội –dân chủ cánh tả đấu tranh cho dân chủ và tiến bộ, đặc
biệt là trong vấn đề bảo hệ hòa bình, chống chiến tranh hạt nhân, vấn đề
bảo vệ môi trường và sinh thái, vấn đề ủng hộ một trật tự kinh tế mới giữa
các nước giàu và các nước nghèo.
Trào lưu xã hội – dân chủ với bề dạy lịch sử và sự thâm nhập của nó
vào nhiều hoàn cảnh, trình độ phát triển kinh tế, xã hội khác nhau, là một
2
kho tàng kinh nghiệm phong phú mà nhân dân ta có thể tiếp thu có sự chọn
lọc những giá trị chân chính của nó nhằm phục vụ cho sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Ngay những kinh nghiệm thất bại của xu hướng
xã hội – dân chủ cánh hữu ở nhiều nước cũng là bài học phản diện giúp
chúng ta quyết tâm đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, không ảo tưởng về
con đường của chủ nghĩa xã hội dân chủ.
Tóm lại, cần tránh hai thái độ sai lệch, cực đoan đối với các trào lưu
xã hội – dân chủ: hoặc là, phủ định sạch trơn, coi họ tất cả là cơ hội, cải
lương và đầu hàng; từ đó có thái độ đối đầu triệt để với mọi khuynh hướng
xã hội – dân chủ. Hoặc là, ủng hộ một cách nhiệt thành không có phân
tích, tiếp nhận hoàn toàn cơ sở tư tưởng của các trào lưu tư tưởng xã hội –
dân chủ và muốn áp dụng nó vào hoàn cảnh nước ta, để cuối cùng dẫn đến
phủ nhận chủ nghĩa xã hội học và lựa chọn con đường của chủ nghĩa xã hội
dân chủ.
Cả hai thái độ trên đều không đúng, sẽ dẫn chúng ta đi lạc hướng,
chệch mục tiêu và mang lại tổn thất cho sự nghiệp cách mạng nước ta.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vấn đề so sánh sự giống và khác biệt của CNXHKH và CNXH phi
mác xít đã đang được quan tâm nghiên cứu. Đặc biệt là từ khi CNXH phi
mác xít đã thay đổi và tác động những sự phát triển khác nhau và giống
nhau với CNXHKH là vấn đề này trở thành vấn đề thời sự cấp bách. Đồng
thời đề tài sẽ đi sâu phân tích so sánh cụ thể của các nhà sáng lập ra chủ
nghĩa XHCKH.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
a. Mục đích nghiên cứu:
+ Đề tài nhằm giúp cho bạn thân nhận thức sâu hơn về CNXH phi
mác xít và CNXHKH mà đã so sánh sự giống nhau và khác nhau.
+ Qua nghiên cứu về đề tài, bản thân sẽ nắm được sơ lược sự hình
thành và phát triển của CNXH phi mác xít và CNXHKH của chủ nghĩa
3
Mác-Lênin. Đồng thời biết được quá trình vận dụng lý luận và thực tiễn của
CNXH phi mác xít và CNXH KH để so sánh vơi đất nước Việt Nam ta.
b. Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Đề tài sẽ đi sâu và làm rõ quá trình phát triển lý luận và thực tiễn
để so sánh vấn đề giống nhau và khác nhau của CNXH phi mác xít và
CNXHKH vào đất nước Việt Nam để thay đổi cong cuộc đổi mới đất nươc.
4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài có tham vọng nhiều và chỉ nghiên cứu các toàn bộ các giáo
trình mà các nhà sáng lập của thời kỳ CNXH phi mác xít và CNXHKH đã
trình bày về luận điểm của nó. Đó là những giáo trình tiêu biểu về sự so
sánh của CNXH phi mác xít và CNXHKH nửa thế kỷ XIX và đầu thế kỷ
XX.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài chủ yếu dùng phương pháp phân tích, tổng hợp, ngoài ra còn
sử dụng kết hợp các phương pháp khác.
6. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu – kết luận và nội dung đề tài chia làm 3 phần.
Chương I: Quan niệm cơ bản về CNXHKH và CNXH phi mác xít.
Chương II: Phân tích so sánh quan niệm sự giống và khác nhau của
CNXHKH và CNXH phi mác xít.
Chương III: ý nghĩa so sánh của CNXHKH và CNXH phi mác xít.
4
B. NỘI DUNG
Chương 1:
QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ CNXH – CNXH PHI MÁC XÍT
1. Khái niệm CNXH phi Mác xít:
Chính là thông qua cuộc đấu tranh tự phát,công nhân đã dần dần nhận
thức được rằng phải đoàn kết lực lượng mới có thể chống lại có hiệu quả sự
áp bức bóc lột của giai cấp tư sản. Các hiệp hội công nhân bắt đầu được
hình thành và phát triển, điều đó chứng tỏ sự giác ngộ chính trị của giai cấp
công nhân đã được nâng lên.
Cuộc đấu tranh có tổ chức của giai cấp công nhân là nguồn động lực
thúc đẩy sự ra đời của chủ nghĩa Mác . C.Mác-Lênin và Ph. Ănghen đã thể
hiện nguyện vọng của tất cả những người lao động hướng tới một xã hội
công bằng, bình đẳng, tự do và không có áp bức bóc lột. Bằng việc phát
hiện ra chủ nghĩa duy vật lịch sử và quy luật giá trị thặng dư dưới chủ
nghĩa tư bản, trở thành khoa học. Lý luận mác-xít khi kết hợp với phong
trào công nhân đã trở thành một sức mạnh vĩ đại chi phối và dần dần quyết
định đường hướng của sự phát triển lịch sử nhân loại từ nửa sau thế kỷ
XIX. Tất nhiên xu hướng này không phải lúc nào cũng diễn tiến theo một
đường kẻ sẵn.
Tuy nhiên lịch sử đã chứng minh khuynh hướng cách mạng trong
phong trào công nhân đã thắng thế và giai cấp vô sản với học thuyết cách
mạng mác – xít củamình đã phát triển từ giai cấp “tự mình” trở thành giai
cấp “cho mình” mà đỉnh cao là Công xã Pari. Hai tháng dòng dã chiến đấu
trong vòng vây của giai cấp tư sản đang lên, lần đầu tiên trong lịch sử, giai
cấp công nhân cách mạng đã thiết lập được chính quyền của giai cấp vô
sản. Tuy nhiên cuộc “tấn công lên trời” của giai cấp công nhân cách mạng
5
đã thất bại. Những người theo khuynh hướng cải lương đã lợi dụng sự thất
bại này để minh chứng thêm quan niệm của họ cho rằng, tư tưởng mác- xít
về cuộc đấu tranh cách mạng- mà những người cải lương và vô chính phủ
trong phong trào công nhân hiểu thô thiển chỉ là đấu tranh vũ trang và các
biện pháp bạo lực - để giành chính quyền của giai cấp vô sản là sai lầm.
Trong những thập niên cuối thế kỷ XIX, thực tế những khuynh hướng cải
lương đã dần dần thắng thế trong phong trào công nhân, đặc biệt sau khi
P.Ănghen qua đời (1895). Tiến trình phát triển này đặc biệt rõ nét trong
phong trào công nhân Đức.
1.2. Khái niệm CNXH KH
Chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời là kết quả tất yéu của sự phát triển
học thuyết Mác-Lênin về triết học và kinh tế chính trị học, cơ sở cho việc
luận chứng về kinh tế-xã hội của quá trình nảy sinh hình thành và phát triển
của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, luận giải sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân – người sáng tạo xã hội mới. Đồng thời, thực tiễn đấu
tranh cách mang của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là cơ sở để
kiểm nghiệm, tiếp tục phát triển triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa
xã hội khoa học. Sự hoàn chỉnh, cân đối, thống nhất gắn bó chặt chẽ của
học thuyết thể hiện tính khoa học và cách mạng, lý luận gắn với thực tiễn
của học thuyết Mác-Lênin. Chủ nghĩa xã hội “là phương tiện giải phóng
giai cấp vô sản và việc giải phóng giai cấp vô sản là mục đích của nó”.
CNXH khoa học là lý luận chính trị của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời trên cơ sở hiện thực trong xã hội tư
bản chủ nghĩa; mặt khác là kết tinh toàn bộ trí tuệ nhân loại những thành
tựu khoa học giữa thế kỷ XIX. Trong khoa học tự nhiên, các lý thuyết về
tiến hóa, bảo oàn và chuyển hóa năng lượng, học thuyết về tế bào, toán học,
thiên văn và hàng hải…đã tác động mạnh quá trình chinh phục nghiên cứu
và ứng dụng khoa học tự nhiên đã đem lại giá trị to lớn về phương pháp
6
luận cho việc nghiên cứu lĩnh vực khoa học xã hội như: Triết học, kinh tế,
chính trị và xã hội học…
Cùng với phát triển về duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư,
các Mác đã phát hiện giai cấp công nhân hiện đại và vai trò của nó trong
lịch sdử và xây dựng lý luận khoa học về chủ nghĩa xã hội, học thuyết cách
mạng của giai cấp công nhân. Chủ nghĩa xã hội không cò là một sự phát
hiện ngẫu nhiên của một trí tuệ thiên tài nào mà là kết quả tất nhiên của
cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Nhiệm vụ của chủ
nghĩa xã hội khoa học không phải là dựng lên một chế độ hết sức hoàn
thiện mà là nghiên cứu quá trình lịch sử kinh tế đã làm xuất hiện các giai
cấp nói trên và cuộc đấu tranh giữa các giai cấp ấy là một kết quả tất nhiên
của quá trình đó, và trong tình hình kinh tế do quá trình đó tạo ra, tìm cho
được những phương pháp, cách thức, con người để giải quyết những xung
đột giai cấp đó trong điều kiện kinh tế – xã hội của xã hội tư sản. Chủ nghĩa
xã hội trở thành khoa học cách mạng của giai cấp công nhân trong sự
nghiệp sáng tạo xã hội mới.
Từ năm 1844 C. Mác và Ph. Ănghen đã gắn bó với nhau trong công
tác nghiên cứu khoa học và trong thực tiễn cách mạng, hình thành hệ thống
quan điểm về chủ nghĩa xã hội khoa học; vai trò lịch sử của giai cấp vô sản,
Đảng Cộng sản, cách mạng vô sản, vấn đề giành chính quyền, xóa bỏ chế
độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất; vấn đè giải
phóng con người và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ
nghĩa.
Một vấn đề có tính quy ước, quy tắc của so sánh
- Về hình thức:
So với Tuyên bố Pharanphuốc1951,rõ ràng, với Tuyên bố Xtốckhôm,
Quốc tế xã hội chủ nghĩa đã có những đổi mới đáng kể trong quan niệm, tư
duy và định hướng hoạt động của mình. Nhiều nhận định hiện thực về thế
giới ngày nay đã được nêu lên như: tính chất phụ thuộc lẫn nhau của các
7
nước trên hành tinh; những tác động to lớn của cuộc cách mạng khoa học –
kỹ thuật; những khả năng mới đem lại cho con người và đồng thời sự tiềm
ẩn những thảm họa; những mâu thuẫn giữa những nước giàu và nước
nghèo, giữa những nước phát triển và đang phát triển; mâu thuẫn giữa các
nước phương Đông và phương Tây và mâu thuẫn giữa khu vực Bắc và khu
vực Nam. Quốc tế xã hội chủ nghĩa đặc biệt nhấn mạnh những giá trị
chung của loài người như: hòa bình, tự do, dân chủ, bình đẳng, công bằng,
nhân đạo, đoàn kết…
Quốc tế xã hội chủ nghĩa đã cố gắng đề ra những kiến giải và biện
pháp cụ thể và nhiều vấn đề như: xây dựng trật tự kinh tế và chính trị thế
giới mới; đẩy mạnh quá trình hòa dịu, đối thoại và giải trừ quân bị, bảo vệ
hòa bình và tránh thảm họa hạt nhân; việc bảo vệ môi trường và giải quyết
vấn đề nợ nần giữa các nước trên thế giới; nhấn mạnh đến sự phối hợp và
nỗ lực quốc tế chung để kiểm soát và giải quyết các vấn đề chung của thế
giới hiện đại.
Bản tuyên ngôn có tính cương lĩnh đó cũng nêu lên những tham
vọng của “chủ nghĩa xã hội dân chủ” nhằm mục tiêu “đạt được một thiết
chế quốc tế có thể tăng cường những giá trị cơ bản, sử dụng những bảo đảm
của các quyền công dân và quyền con người trong một xã hội dân chủ”.
Tuyên ngôn nhấn mạnh tính chất đa nguyên trong quan niệm và tổ chức của
những người xã hội – dân chủ.
- Lý luận: thứ hai cho rằng lý luận mác- xít đã lạc hậu, không chịu
nổi sự thử thách của thời gian. Dưới chiêu bài cần phải xét lại chủ nghĩa
Mác cho phù hợp với hoàn cảnh mới, Béc –stanh và các thủ lĩnh của Đảng
xã hội –dân chủ Đức trước đây cũng như đa số các đảng xã hội- dân chủ
trong thời kỳ hiện nay đã theo đuổi đường lối phủ nhận chủ nghĩa Mác
thay thế nó bằng một lý luận cải lương.
Nhìn chung đặc trưng của giai đoạn này là sự đói đầu gay gắt giữa
những người xã hội – dân chủ và những người cộng sản. Đặc biệt, cách hữu
8
xã hội – dân chủ phụ họa với chủ nghĩa chống cộng, chống các nước xã hội
chủ nghĩa của giai cấp tư sản, tiếp tục gây ra những bị kích như trước cuộc
đại chiến thế giới lần thứ hai. Về mặt lý luận, mặc dù có những thay đổi, bổ
sung, hoàn chỉnh bộ mặt mới của chủ nghĩa xã hội – dân chủ, nhưng tựu lại,
nó ngày càng xa rời chủ nghĩa Mác và nuôi ảo vọng “cải tạo” chủ nghĩa tư
bản bằng hòa bình. Cuộc đấu tranh của nhân dân lao động trong các nước
tư bản chủ nghĩa, tuy có cải thiện được phần nào đời sống của họ, nâng cao
các quyền dân sinh dân chủ, nhưng không khắc phục được các mâu thuẫn
vốn có của chủ nghĩa tư bản, khoảng cách giữa người giàu và người nghèo
không giảm đi, mà còn tăng lên rõ rệt.
Ngay từ năm 1919, trong cuốn sách “con đường tiến tới chủ nghĩa xã
hội” xuất bản ở Viên (Áo), Ốt – tô Bau-ơ, nhà lý luận của Đảng xã hội –
dân chủ Áo đã viết: “Chúng ta không muốn có một chủ nghĩa xã hội quan
liêu, có nghĩa là một thiểu số nhỏ thống trị cả dân tộc. Chúng ta muốn có
chủ nghĩa xã hội – dân chủ”. Quan niệm này còn được nói rõ hơn khi
những người xã hội – dân chủ trương thực hiện chủ nghĩa xã hội bằng cách
thi hành những biện pháp dân chủ trong tất cả các lĩnh vực của đời sống
nhằm cải cách chủ nghĩa tư bản thành chủ nghĩa xã hội.
Tuyên bố mục đích, tên gọi:
Sau những thập kỷ truyền bá và áp dụng lý thuyết về “con đường thứ
ba”, về mô hình “chủ nghĩa xã hội dân chủ”, các nhà xã hội – dân chủ cùng
lắm chỉ có thể đạt được những biến đổi tạm thời, đáp ứng được phần nào
những lợi ích tối thiểu của quần chúng, những biến bộ về phúc lợi xã hội,
về một số quyền hoạt đọng xã hội của các giới chủ và nghiệp đoàn. Nhưng
biến đổi và tiến bộ đó là rất có giới hạn. Phong trào xã hội – dân chủ và các
đảng xã hội – dân chủ, kể cả các đảng có vị trí trong chính quyền, đã không
thể giải quyết được về căn bản lợi ích và nhu cầu giải phóng của quần
chúng lao động. Hoạt động của họ không thể không bị khống chế và nhiều
trường hợp, các nhà xã hội – dân chủ (phái hữu) đã đứng trên lập trường tư
9
sản và bảo vệ lợi ích tư sản. Cơ sở xã hội của các đảng xã hội - dân chủ
phổ biến là tầng lớp trí thức, những nhà tư sản trung lưu,các nhà sản xuất
nhỏ, công nhân quý tộc, chứ không phải là mở rộng vào quần chúng lao
động nghèo khổ nhất. Những căn bệnh xã hội vẫn còn nguyên vì cơ sở xã
hội của nó là chế độ tư bản chủ nghĩa vẫn không bị đụng chạm tới.
Cái gọi là tăng cường các quyền lực chính trị và hoạt động của
nghiệp đoàn mà các nhà xã hội – dân chủ đặt vào đó nhiều hy vọng thực ra
cũng không vượt được giới hạn của chủ nghĩa công liên mà từ cuối thế kỷ
trước các nhà kinh điển đã từng phê phán. Chủ nghĩa công lien không thể
giải phóng được lao động làm thuê, không thể nâng công nhân và quần
chúng lao động lên trình độ chính trị, sự giác ngộ chính trị trong cuộc đấu
tranh giai cấp.Nó giới hạn những phản ứng xã hội của công nhân và lao
động chỉ trong các biện pháp đấu tranh đòi lợi ích kinh tế trước mắt, mang
tính chất cải lượng và thỏa hiệp. Chủ nghĩa xã hội dân chủ chính là một
hình thức mới của chủ nghĩa công liên mà thôi.
Do tình hình của các nước Châu Âu khác nhau, truyền thống lịch sử
Việt Nam khác nhau, điều kiện môi trường kinh tế xã hội cũng khác nhau,
nên các chính sách, đường lối cải cách trong thực tiễn của các Đảng cũng
khác nhau, mặc dù chia xẻ triết lý chung về “con đường thứ ba”. Tùy theo
truyền thống và đặc thù riêng của mình, mỗi đảng phải đề ra các đường lối,
chính sách cải cách phù hợp với đất nướcmình – “con đường thứ ba” của
mình.
Những tuyên bố và những bước đi đầu tiên của các chính phủ dân
chủ xã hội mới cho phép ngày nay rút ra kết luận sau: sẽ không thể có sự
“chuyển hướng cải cách” căn bản như sự “chuyển hướng bảo thủ”của
những năm 80.. Nhìn toàn cục, sẽ không có những thay đổi căn bản trong
mô hình “kinh tế thị trường xã hội” đã hình thành do kết quả của các cuộc
cải cách bảo thủ. Thực ra, từ đây nócó thể gọi là mô hình “con đường thứ
ba”, hoặc “trung dung mới”; có thể tuyên bố trung thành với các bảo đảm
10
xã hội ( tuy nhiên nhưng bảo đảm ấy lại phải gộp chung với sự cắt giảm
các chi tiêu Nhà nước).
Sau thời kỳ gián đoạn và phân biệt về tổ chức, đến khi Quốc tế xã
hội chủ nghĩa của các đảng xã hội – dân chủ phục hồi trở lại (đầu năm 50)
thì nét nổi bật trong đường lối chính trị của trào lưu xã hội – dân chủ là
đoạn tuyệt với tư tưởng và truyền thống mác – xít, chủ trương giải thể hệ
tư tưởng, phi ý thức hệ, không quan tâm tới sự thuần nhất về tư tưởng và lý
luận trong chính trị cũng như trong toàn bộ hoạt động của phong trào nói
chung. Đây là điều được nhấn mạnh nhiều lần trong các cương lĩnh chính
trị của các cương lĩnh chính trị của các Đảng xã hội- dân chủ. Tìm hiểu về
các luận điểm và các cách thành lập luận của các nhà xã hội- dân chủ trong
thời gian gần đây ta thấy rõ khuynh hướng chính trị cải lương của họ có
mối liên hệ gần gũi với phái Béc stanh, và sự phục hồi những quan điểm
của ông ta. Lý luận cải lương và đường lối chính trị cơ hội chủ nghĩa của
Béc stanh tập trung vào 3 điểm lớn.
Song, do hệ tư tưởng của những người xã hội – dân chủ được xây
dựng trên tinh thần nhân đạo trừu tượng và cùng với những biện pháp cải
tạo xã hội cải lương nửa vời đã ngày càng chứng tỏ họ không đạt được tinh
thần “duy vật lịch sử” mà vẫn dừng lại ở duy tâm và chiết trung. Hậu quả là
lực lượng xã hội ủng hộ các đảng xã hội – dân chủ đã chuyển từ giai cấp
công nhân sang các tầng lớp trung gian, trong đó có tầng lớp “công nhân
quý tộc”. Cơ sở xã hội này đã làm biến dạng phong trào xã hội – dân chủ.
Một mặt thì các chương trình “phúc lợi chung” không bảo đảm được chất
lượng phục vụ công cộng, và hơn thế các chương trình chỉ chủ yếu đáp ứng
được lợi ích của các tầng lớp trung lưu còn những người thất nghiệp toàn
phần hay thực tế bị gạt ra “ngoại vi” của các chương trình đó, mặt khác,
khu vực kinh tế Nhà nước từ Pháp, Anh cho đến các nước châu Phi, nơi
các Đảng xã hội – dân chủ cầm quyền thì hoạt động không có hiệu quả do
nạn quan liêu và áp lực của tình hình chính trị – xã hội thường xuyên biến
11
động. Mô hình Thụy Điển nổi tiếng như là hình mẫu lý tưởng của “con
đường thứ ba” hiện cũng đang bị nghi ngờ. Ở nước này sở hữu của chính
phủ chỉ chiếm có 7% thấp hơn cả ở Tây Âu và chỉ bằng 1/2 so với nước
Anh thời kỳ M.Thátchơ cầm quyền. Những nét chủ yếu của “mô hình” này
là kinh doanh tự do năng động, không có thất nghiệp, phân phối lại thu
nhập một cách căn bản. Nhưng hiện nay người ta đang phải thay đổi
những đường nét chính của mô hình này, mức đánh thuế giảm từ 72%
xuống còn 50% theo kế hoạch cải cách hiện nay. Do nhiều vấn đề kinh tế và
phúc lợi xã hội nên sự ủng hộ Đảng xã hội – dân chủ đã giảm 34%. Cơ sở
xã hội của Đảng chủ yếu là tầng lớp trung gian, tầng lớp “cổ xanh” hiện chỉ
chiếm 23%. B.Mai-cơ, nhà kinh tế có ảnh hưởng nhất của Đảng, nói “ Nếu
Đảng xã hội – dân chủ trở thành một đảng của giai cấp trung gian, hướng
theo thị trường, thì nó sẽ phải cạnh tranh với nhiều đảng Khác…nếu họ đi
theo con đường khác, trở lại với hình ảnh xã hội chủ nghĩa cũ, thì họ sẽ mất
những lá phiếu trung gian”.
Những nội dung tư tưởng mới của trào lưu xã hội – dân chủ được thể
hiện một lần nữa trong tuyên ngôn Phranphuốccủa Đại hội thành lập Quốc
tế xã hội chủ nghĩa năm 1951. Bản tuyên ngôn đã chính thức thừa nhận
thuyết “phi hệ tư tưởng” và tuyên bố rằng “Chủ nghĩa xã hội là một phong
trào quốc tế, không đòi hỏi sự thuần nhất nghiêm ngặt của các quan điểm.
Bất kể cơ sở niềm tin của những người xã hội là phương pháp mác xít hay
một phương pháp nào khác để phân tích xã hội, bất kể những nguyên lý
nhân đạo chủ nghĩa, mọi người xã hội cố sức đạt một mục đích duy nhất:
tiến tới một xã hội công bằng, một đời sống tốt hơn, tự do và hòa bình trên
thế giới”.
Về thế giới quan:
Việc phủ nhận hệ tư tưởng, thế giới quan đưa đến chủ trương một lý
thuyết bỏ ngỏ, xóa nhòa các quan điểm và ranh giới giai cấp trong đấu
tranh chính trị. Trong cương lĩnh và tuyên bố của các Đảng xã hội – dân
12
chủ hầu như đã hoàn toàn vắng bóng những luận đề về giai cấp, đấu tranh
giai cấp và vai trò lịch sử của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh này.
Thay thế vào đó, các nhà lý luận và tư tưởng chủ nghĩa xã hội – dân chủ đã
đưa ra các quan điểm trừu tượng về tự do, dân chủ bình đẳng và cuối cùng
họ cũng đã công khai đường lối chính trị thỏa hiệp với giai cấp tư sản.
Đường lối đó được biện luận bởi các quan niệm hợp tác, hòa giải, đoàn
kết.
Với tuyên bố “ Trung lập về thế giới quan”, phái hữu xã hội – dân
chủ đã hoàn toàn bộc lộ rõ bản chất cơ hội chủ nghĩa của họ. Họ chủ cải
biến chế độ tư bản bằng những cải cách bộ phận, để có “sự chuyển hóa
dần” từ chủ nghĩa tư bản thành chủ nghĩa xã hội. Về hành động, họ từ bỏ sự
hợp tác với những người cộng sản, đấu tranh chống lại hệ thống xã hội chủ
nghĩa đang hình thành và tích cực ủng hộ đường lối ngoại của Mỹ. Quốc tế
xã hội tuyên bố: giữa những người xã hội và những người cộng sản “không
có gì là mang tính chung cả”. Họ công khai chống lại bất cứ mặt trận thống
nhất nào hoặc bất cứ một hình thức hợp tác chính trị nào với các Đảng cộng
sản.
Phái hữu xã hội – dân chủ đã tung ra các quan điểm lý luận đủ kiểu
“Đồng hành xã hội”, “Nhà nước phúc lợi chung”, “cuộc cách mạng quản
lý”, “nền kinh tế hỗn hợp”, “cuộc cách mạng về thu nhập”, “xóa bỏ sự vô
sản hóa”, “phân tán sở hữu”… Họ hứa hẹn đưa giai cấp công nhân lên chủ
nghĩa xã hội bằng con đường bầu cử, con đường nghị viện. Họ cho rằng chế
độ dân chủ là một phương tiện có khả năng bảo vệ lợi ích của người lao
động dưới chủ nghĩa tư bản và dần dần “xóa bỏ” chủ nghĩa tư bản.
Phương pháp luận
C.Mác viết: “Sự phân tích của tôi bắt nguồn từ chỗ cho rằng các
quan hệ luật pháp như các hình thức Nhà nước, không thể xem xét từ bản
thân chúng, và cũng không từ tự phát triển chung chung của tinh thần nhân
loại, mà hơn thế bắt rễ từ các quan hệ của đời sống vật chất”. Đời sống xã
13
hội đã và đang diễn tiến theo hướng hợp lực -như dự báo của Ph.Ăng ghen
năm 1980 – tất cả các yếu tố kinh tế, văn hóa, chính trị, truyền thống dân
tộc…. Trong đó các quan hệ kinh tế đống vai trò như một nguồn quyết
định. Nhà nước tư sản dù cho được những người xã hội – dân chủ cải biến
đến đâu cũng không thể thoát ly khỏi sự vận động của đời sống xã hội tư
sản. U.Bran ghi nhận: “ chúng ta phải xuất phát từ một sự thật là chế độ
Nhà nước của chúng ta trong tương lai sẽ phải chịu nhiều thử thách trong
quá trình xung đột giữa nhu cầu của xã hội nói chung và những tham vọng
vô trách nhiệm của những nhóm cá biệt đang chiếm giữ nhiều vị trí then
chốt và của các tổ chức hùng cường”. Chính những “nhóm cá biệt” này
đang đứng lên trên pháp luật, bất chấp cả quy định của hiến pháp và luật
pháp, bắt “nhà nước” phải làm theo ý kiến riêng (thông qua những “thư
tay”, những hoạt động maphia).
So sánh từng nội dung
Về nguyên lý: Xã hội xã hội chủ nghĩa được xây dựng theo nguyên
lý CNXH Khoa học, nó thuộc về hình thái kinh tế xã hộ mới khác về chất
so với CNTB, các mục tiêu dân chủ và nhân đạo được giải quyết bằng sự
nghiệp giải phóng nhân dân lao động, đưa họ tới tự do và trở thành chủ
thể chân chính, không những chỉ sở hữu các thành quả xã hội đạt được bằng
cách mạng mà còn trực tiếp xây dựng tổ chức, quản lý xã hội theo bản chất
nguyên thủ và nhân đạo XHCN.
Trong cuộc hành chính lịch sử tới tự do, mỗi lần chuyển mình tới
một hình thái mới của sự phát triển xã hội, mỗi lần chuyển sang một chế độ
xã hội khác cao hơn, loài người đã dần từng bước thực hiện các mục tiêu
của tiến bộ, văn hóa và văn minh, đạt tới những khả năng hiện thực mới để
giành lấy dân chủ, tự do, công bằng và nhân đạo. Nhưng trước chủ nghĩa xã
hội, việc thực hiện các bước tiến này không khỏi có những giới hạn, những
hạn chế. Chính phủ xã hội đã mở ra kỷ nguyên mới để thực hiện dân chủ
triệt để, dân chủ cho số đong những người nghèo khổ và nhân đạo cho
14
chính bản thân những người lao động là trung hợp tự nhiên và đầy đủ nhất
với bản chất của dân chủ và nhân đạo.
Hai điều căn bản sau đây là hoàn toàn sáng tỏ trong lý luận khoa học
và cách mạng của chủ nghĩa xã hội trên lập trường mác xít.
- Quan niệm như thế nào về CNXH
“Chủ nghĩa xã hội dân chủ”, theo quan điểm đã được ghi thành văn
của trào lưu xã hội – dân chủ, chủ yếu được thực hiện “bằng những biện
pháp dân chủ” trong tất cả các lĩnh vực của đời sống để cải cách chủ nghĩa
tư bản thành chủ nghĩa xã hội! Cách hiểu về “chủ nghĩa xã hội dân chủ”
với nội dung chung như thế, thường được các đảng xã hội – dân chủ diễn
giảng cũng như thể hiện trong thực tế rất khác nhau. Ôlốp Panmơ là cố Phó
chủ tịch Quốc tế xã hội chủ nghĩa và nguyên Thủ tướng Thụy Điển đã nói
rằng : ‘ Thế giới không phụ thuộc vào một mô hình nào cả, vì nếu định
nghĩa chủ nghĩa xã hội là gì, thì đã có 71 định nghĩa khác nhau, nếu tôi có
đưa ra một định nghĩa thứ 72 thì cũng chẳng làm cho tình hình đỡ rắc rối
hơn. Không có một định nghĩa nào được thừa nhận cả”.
Đó là cách nói để che giấu bản chất cải lương tư sản của trào lưu đó.
Cũng không phải thuần túy chỉ là vấn đề “tìm đường” lên chủ nghĩa xã hội
cho phù hợp thực tế. Ý đồ sâu xa của họ chính là bác bỏ chủ nghĩa xã hội
khoa học và chống lại chủ nghĩa xã hội hiện thực. Đặc biệt những người xã
hội – dân chủ cách hữu từ lâu vẫn thường phỉ báng chế độ xã hội chủ nghĩa
là chế độ cực quyền, phản dân chủ nhằm đề cao “chủ nghĩa xã hội dân chủ”
của họ.
Đối với các nước xã hội chủ nghĩa, Quốc tế xã hội chủ nghĩa đã có
chủ trương cải thiện quan hệ rõ rệt. Họ khuyến khích các đảng xã hội –dân
chủ tiếp xúc, đối thoại với các đảng cộng sản và công nhân và với nguyên
tắc của họ. Từ đó đến nay, nhiều đại hội của các đảng xã hội – dân chủ
cũng như đại hội của các đảng cộng sản và công nhân các nước xã hội chủ
nghĩa đã có đại biểu của cả hai bên tham dự. Đáng chú ý nhất là tại lễ kỷ
15
niệm 70 năm cách mạng tháng Mười ở Matxcơva tháng 11-1987 đã có 26
đoàn đại biểu các đảng xã hội – dân chủ tham dự. Nói chung, trên vấn đề
bảo vệ hòa bình, an ninh và hợp tác quốc tế ngày nay lập trường của những
người xã hội – dân chủ rất gần với lập trường của những người cộng sản.
Đó là nhân tố tạo cơ sở xích gần nhau giữa hai trào lưu chính của phong
trào cong nhân quốc tế trong giai đoạn hiện nay.
Việc chia quan điểm của những người xã hội- dân chủ theo cánh tả
và cánh hữu vẫn còn nhưng chắc chắn phải được hiện đại hóa. Bản thân tôi
vẫn quan niệm mình là một người xã hội chủ nghĩa sinh thái, nhân đạo,
toàn cầu và giản dị – trong đó các khái niệm toàn cầu và nhân đạo vốn là
truyền thống của cánh tả. Các khái niệm giản dị và sinh thái tương đối còn
mới, nhưng cũng phù hợp với truyền thống trên. Nhận xét đó phản ánh
đúng thực trạng kết cấu thành phần hiện nay trong các đảng xã hội – dân
chủ. Nói chung, trong hàng ngũ của họ bao gồm nhiều xu hướng, nhiều
quan điểm khác nhau và nhiều khi đối lập và đấu tranh với nhau khá gay
gắt.Do mâu thuẫn nội bộ, tháng 3-1981, trong Công đảng Anh đã xảy rạ
phân liệt, kết quả là nhóm đảng viên phái hữu tách khỏi đảng và thành lập
Đảng xã hội- dân chủ Anh. Ở Nhật Bản cũng xảy ra trường hợp tương tự,
do sự phân liệt đã tách ra làm hai đảng xã hội – dân chủ và Đảng xã hội chủ
nghĩa: cả hai cùng hoạt động và cùng là thành viên của Quốc tế xã hội chủ
nghĩa.
Quan niệm về chủ nghĩa xã hội như là sự phủ định trực tiếp chủ
nghĩa tư bản, nhưng trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội lại không
chú ý tới tính kế thừa vốn là một yêu cầu quan trọng của phủ định biện
chứng. Nó liên hệ chặt chẽ với tính lịch sử – tự nhiên của sự phát triển. Hầu
hết các nước xây dựng chủ nghĩa xã hội đều từ điểm xuất phát thấp, hoặc
chưa qua trình độ phát triển điển hình của chủ nghĩa tư bản (như ở Nga và
các nước Đông Âu), hoặc còn dừng lại ở các quan hệ tiền tư bản, ở xã hội
phong kiến, lạc hậu, chậm phát triển (như ở nước ta và các nước xã hội chủ
16
nghĩa châu Á). Lênin , với “Chính sách kinh tế mới” đã hình dung thấy
những đường nét lý luận chủ yếu của mô hình quá độ gián tiếp tới chủ
nghĩa xã hội. Nhưng đáng tiếc là phát hiện sáng tạo đó của Lênin đã không
được khai thác, vận dụng và phát triển sau khi Lênin mất. Do đó, khi áp
dụng những biện pháp cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội, ở nhiều nước,
vẫn bị chi phối bởi quan niệm về một con đường thẳng, trực tiếp tới chủ
nghĩa xã hội trong khi, sau thắng lợi của cuộc cách mạng chính trị, giành
chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động, xã hội vẫn
chưa hoàn toàn chín muồi những tiền đề tất yếu kinh tế – xã hội. Rõ nét
nhất là lực lượng sản xuất thấp kém, nền sản xuất vẫn là sản xuất nhỏ, kỹ
thuật thủ công lạc hậu. Ở nước ta, thậm chí còn là nền sản xuất nhỏ – tự
nhiên chứ chưa đạt tới sản xuất nhỏ – hàng hóa.
Quan niệm của các nhà kinh điển mác xít về chủ nghĩa xã hội là dựa
trên những phân tích khoa học về chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội
muốn bộc lộ tính ưu việt của nó, phải xây dựng sao cho nó vượt qua trình
độ của chủ nghĩa tư bản và đủ sức phát triển trên trình độ của của chính nó.
Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, quan niệm đó đã bị nhận thức một cách
giản đơn và phiến diện. Đã xẩy ra hai trường hợp phản ánh rất rõ tính giáo
điều: tuyên truyền cho tính ưu viẹt của chủ nghĩa xã hội một cách hìh thức
và khiên cưỡng.Chủ nghĩa xã hội còn là mầm mống của cái mới, tính ưu
việt của nó còn là một xu hướng của tương lai chứ chưa phải là một trạng
thái hiện thực. Do đó, càng nói về ưu việt của chủ nghĩa xã hội bao nhiêu
thì càng mâu thuẫn với thực tiễn bấy nhiêu – một thực tiễn quá độ đang còn
lẫn rất nhiều tàn dư, tạp chất, những mẩu vụn còn sót lại của cái cũ trong
cái mới còn đang manh nha. Điều đó, không ngừng mang tính thuyết phục,
không đạt được hiệu quả giáo dục niềm tin khoa học đối với quần chúng mà
ngược lại còn làm giám sút sức hấp dẫn đích thực của lý tưởng xã hội chủ
nghĩa.
- Về lý luận để thực hiện con đường đi lên CNXH
17
Thắng lợi của cách mạng tháng Mười năm 1917 đã mở đầu một thời
đại mới trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, thời đại mà nội dung
cơ bản là sự quá độ từ chủ nghĩa tư sản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi
toàn thế giới. Sự vận động của lịch sử, sự nỗ lực của các dân tộc, các quốc
gia hướng theo đường nét tổng quát đó trong suốt thế kỷ XX này đã tạo nên
những biến đổi căn bản về kinh tế, chính trị và xã hội của thế giới hiện đại.
Tuy nhiên, lịch sử không diễn ra theo một con đường thẳng tắp chỉ gồm có
thuận lợi và những thành tựu. Đã không có không ít những khó khăn, mâu
thuẫn, những vấp váp, sai lầm và cả những thất bại trê con đường đấu tranh
để đạt tới tiến bộ và phát triển xã hội. Trong nhiều thập kỷ nay, thế giới
đang tích tụ hàng loạt những vấn đề chưa giải quyết.
Những biến đổi dồn dập của các sự kiện chính trị trên tất cả các cấp
độ quốc gia, khu vực và trên thế giới cũng theo đó đã tăng lên một cách
đáng kể. Sự tác động, ảnh hưởng và đan xen lẫn nhau giữa các khuynh
hướng và xu hướng chính trị, giữa các trào lưu tư tưởng, các học thuyết lý
luận đã đem lại những nội dung mới mẻ và hết sức đa dạng cho cuộc đấu
tranh giữa các lực lượng, các phong trào và các tổ chức chính trị trong thế
giới ngày nay về việc lựa chọn con đường phát triển và tìm kiếm những giải
pháp cho hiện tại và tương lai.
Một là, thiết lập Nhà nước chuyên chính vô sản, do giai cấp công
nhân lãnh đạo, dựa trên nền tảng liên minh của giai cấp công nhân với nông
dân và quần chính lao động vô sản, là điều kiện tiên quyết để từng bước
xây dựng, hoàn thiện và phát triển các tiền đề kinh tế cần thiết cho việc
thực hiện quá độ lên CNXH.
Hai là, do xuất phát điểm là một xã hội lạc hậu, nên quá độ lên
CNXH không qua chế độ TBCN là một kiểu chế độ gián tiếp, phải trải qua
“một loạt bước quá độ trung gian”, đòi hỏi giai cấp vô sản phải tìm kiếm và
sử dụng hàng loạt biện pháp quá độ đặc biệt. Vốn không cần thiết đối với
kiểu quá độ trực tiếp.
18
Ba là, về phương diện kinh tế, trong thời kỳ quá độ kiểu gián tiếp, tất
yếu còn tồn tại nhiều hình thức sử hữu, tồn tại nhiều thành phần kinh tế.
Trong quá trình phát triển kinh tế, hình thức kinh tế hợp tác đóng vai trò
cực kỳ qun trọng để dẫn dắt những người sản xuất hàng hóa nhỏ từng bước
đi theo quỹ đạo của CNXH.
Bốn là, xây dựng và phát triển nền đại công nghiệp có khả năng cải
tạo cả công nghiệp là cơ sở vật chất bảo đảm cho sự thắng lợi của CNXH.
Nền đại công nghiệp được xây dựng nhờ sự phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần giải phóng mọi tiềm năng trong nước; mặt khác nhờ tiếp
thu, vận dụng những thành tựu của các nước trên thế giới.
Năm là, xác lập, mở rộng và thực hiện quyền dân chủ XHCN, khắc
phục xu hướng tự phát triển tiểu tư sản, tệ quan liêu trong bộ máy Nhà
nước.
Sáu là, tiến hành cách mạng văn hóa, coi đó là bộ phận có tầm quan
trọng đặc biệt của toàn bộ sự nghiệp cách mạng XHCN. Chống bệnh giáo
điều, bắt chước máy móc.
Các đảng xã hội và xã hội – dân chủ với lý luận về chủ nghĩa xã hội
dân chủ của nó mặc dù thời gian gần đây đã có ít nhiều thay đổi về thái độ,
đổi sách, từ chỗ chống cộng, chống Liên Xô, chống chủ nghĩa xã hội khoa
học đã chuyển sang chính sách hòa dịu, thực hiện đối thoại và hợp tác với
các đảng cộng sản và các nước xã hội chủ nghĩa, nhưng nét về cơ bản, hệ
tư tưởng, lập trường, quan điểm của chủ nghĩa xã hội dân chủ vẫn đối lập
với chủ nghĩa xã hội khoa học.
Sự đối lập này biểu hiện tập trung ở con đường và các giải pháp tiến
tới chủ nghĩa xã hội và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Điều này đã được
đề cập ở phần trên khi chúng ta vạch rõ tính chất vô căn cứ của con đường
thứ ba của trào lưu xã hội – dân chủ.
Dưới đây, chúng ta thử đưa ra một sự so sánh tổng quát về lý luận và
tư tưởng.
19
Nếu chủ nghĩa xã hội khoa học vạch rõ chỉ có thông qua đấu tranh
giai cấp và cách mạng xã hội, giai cấp vô sản và quần chúng bị áp bức bóc
lột mới có thể giải phóng mình khỏi ách thống trị tư bản chủ nghĩa và xây
dựng chế độ xã hội mới do mình làm chủ, thì chủ nghĩa xã hội dân chủ lại
chủ trương điều hòa mâu thuẫn và hợp tác giai cấp, đặt phong trào đấu
tranh của giai cấp vô sản và quần chúng lao động trong khuôn khổ của
những cải cách kinh tế mà chủ nghĩa tư bản có thể chấp nhận được.
20
Chương 2
PHÂN TÍCH ĐỂ SO SÁNH QUAN NIỆM SỰ GIỐNG NHAU VÀ
KHÁC NHAU CỦA CNXHKH VÀ CNXH PHI MÁC XÍT
1.Chọn các tiêu chí đưa ra ở phần một để so sánh.
1.1. So sánh theo nội dung:
Ngay từ năm 1919, trong cuốn sách “ con đường tiến tới chủ nghĩa xã
hội” xuất bản ở Viên (Áo), Ôttô Bauơ, nhà lý luận của Đảng xã hội – dân
chủ Áo đã viết: “Chúng ta không muốn cómột chủ nghĩa xã hội quan liêu,
có nghĩa là một thiểu số nhỏ thống trị của dân tộc. Chúng ta muốn có chủ
nghĩa xã hội - dân chủ”. Quan niệm này được nói rõ hơn khi những người
xã hội bằng cách thi hành những biện pháp dân chủ trong tất cả các lĩnh
vực của đời sống nhằm cải cách chủ nghĩa tư bản thành chủ nghĩa xã hội.
Tô mát Muyen cho rằng “chủ nghĩa xã hội là một nguyên lý tổ chức
xã hội mà cấu trúc thể chế và tổ chức có thể có nhiều hình thái khác nhau
tùy giai đoạn phát triển và kinh nghiệm xã hội”….
Rõ ràng là những quan niệm trên đây là lảng tránh tất cả những vấn
đề về bản chất của chế độ sở hữu, quan hệ giai cấp, chế độ kinh tế và chế
độ chính trị mà chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ xã hội khác về
chất so với chế độ tư bản chủ nghĩa không thể không đặt ra. Sự lảng tránh
đó là có dụng ý. Nó bị quy định bởi thái độ chính trị cải lương của trào lưu
xã hội –dân chủ phủ nhận sự cải biến xã hội cách mạng và phủ nhận
nguyên lý chỉ thông qua con đường xóa bỏ trật tự xã hội tư bản chủ nghĩa
mới có thể tạo lập được chủ nghĩa xã hội. Các khái niệm “những người bị
thiệt thòi”, “những thành viên yếu kém về kinh tế” không nói lên một điều
gì xác định về sự nghiệp giải phóng giai cấp và giải phóng xã hội hướng
vào giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Dù cho có đề cập tới việc
bảo vệ lợi ich của công nhân, lý luận xã hội – dân chủ vẫn không che lấp
được ý định thực tế của họ là phủ nhận vai trò chính trị của giai cấp này
21
trong cuộc sống cách mạng vì mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Vấn đề càng trở
nên trừu tượng hơn khi các nhà xã hội – dân chủ cho rằng, “muốn có chủ
nghĩa xã hội , giai cấp công phải tự tổ chức lại và vượt qua những giới hạn
của họ dưới hệ thống tư bản chủ nghĩa, diễn đạt được những nguyên lý xã
hội chủ nghĩa và những đối sách hiện đại cho những điều kiện đó. Những
đối sach cụ thể phải được thiết kế như những yếu tố của chủ nghĩa xã hội sẽ
từng bước thay thế chủ nghĩa tư bản”, ‘Chủ nghĩa xã hội sẽ phát triển từ tác
động lẫn nhau giữa sự thay đổi xã hội có tính xây dựng và kinh nghiệm”.
Theo quan niệm nay, phong trào công nhân dù với nội dung và hình thức
đấu tranh giải phóng như thế nào cũng chỉ nằm trong khuôn khổ, giới hạn
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là phương thức đã ra đời và tồn
tại được bởi sự bóc lột và nô dịch công nhân. Bảo tồn chủ nghĩa tư bản, xét
đến cùng vẫn là sự lưu ý lớn nhất, quan trọng nhất mà các nhà cải lương xã
hội – dân chủ đặt ra trước phong trào công nhân.
Việc lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là dựa trên cơ sở các
quy luât khách quan của đời sống xã hội. Nó khác về căn bản với con
đường cải lương, hòa nhập vào chủ nghĩa tư bản.Về hệ tư tưởng, sự lựa
chọn chủ nghĩa xã hội khoa học là nhất quán với việc bảo vệ và phát triển
chủ nghĩa Mac trong điều kiện lịch sử ngày nay. Đa nguyên chính trị, đa
đảng và những khái niệm “dân chủ thuần túy” “dân chủ vô hạn”…chỉ là
những mưu toan phát triển dân chủ tư sản,thúc đẩy diễn biến hòa bình ở các
nước xã hội chủ nghĩa, đẩy các nước này rơi vào quỹ đạo của chủ nghĩa tư
bản.
Trên vấn đề Nhà nước, thực chất của cái gọi là “Nhà nước phúc lợi
chung”, “nhà nước toàn dân” của những người xã hội – dân chủ chỉ che
đậy cho khoảng cách giữa những người giàu với người nghèo đang tăng lên
ở ngay cả các nước do những người xã hội – dân chủ cầm quyền nhiều
năm.
1.2. So sánh:
22
Chủ nghĩa cộng sản không phải là một ý tưởng đạo đức tốt đẹp mà
hiện thực phải tuân theo. Nó là kết quả tất yếu của sự vận động hiện thực
của sản xuất , của kinh tế. Trong bản chất của nó, cách mạng cộng sản chủ
nghĩa có nội dung kinh tế. Chính là dựa trên tính tất yếu kinh tế và căn
nguyên kinh tế, xem nó là nguồn gốc và động lực sâu xa nằm ở bên trong
các quá trình lịch sử mà Mác từ chỗ phân tích quy luật về sự phù hợp của
quan hệ với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất đã tiến đến khái
quát khoa học có giá trị phổ đại lịch sử. Phát hiện và giải quyết mâu
thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, rằng mỗi
thời đại lịch sử được đo bằng một trình độ phát triển đặc trưng của lực
lượng sản xuất cũng như mỗi chế đọ xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất
phù hợp với lực lượng sản xuất mà xã hội đo đạt được.
Kết luận rút ra ở đây là, một mô hình phát triển xã hội, một sự lựa
chọn con đường phát triển lịch sử, trước hết phải giải quyết vấn đề chế độ
sở hữu, xác lập xem kiểu sở hữu nào được coi là trật tự thống trị xã hội.
Mọi giá trị tinh thần, mọi tuyên ngôn đạo đức trong xã hội mới được lựa
chọn và tạo dựng nó thực hiện được hay không, có hợp lý hay không, có
triển vọng hay bị phá sản ngay từ đầu. Điều đó được soi rọi và chịu thử
thách bởi chính bản chất kinh tế, quan hệ sở hữu của xã hội ấy. Tính quy
định đó chung cho mọi người thời đại lịch sử.
2. Chỉ ra ý nghĩa của việc đối tượng phương pháp những quan
điểm sai lầm.
2.1. Về lý luận
Lý luận mới về Việt Nam xã hội sinh thành trong đổi mới cần phải
trở thành lý luận khoa học thực sự như thế. Nó không ngừng khắc phục triệt
để tình trạng giáo điều, chủ quan như đã từng mắc phải mà còn đạt tới trình
độ mới, có tầm khái quát sâu sắc khi tổng kết thực tiễn, phát hiện được
những cái mới trong sự vận động và phát triển phong phú của thực tiễn
mang ý nghĩa của những tư tưởng sáng tạo.
23
Phòng ngừa cực đoạn giáo điều và tính đơn giản hóa trong nghiên
cứu lý luận về đổi mới chủ nghĩa xã hội cũng là phòng ngừa tính hời hợt,
hình thức; phòng ngưà tình trạng tiếp tục tách rời giữa lý luận với thực
tiễn. Thực chất của tình trạng đó là ở chỗ sự sản xuất ra lý luận không ở
trong quá trình tìm kiếm từ thực tiễn để phát hiện ở bản thân nó những mâu
thuẫn, những tình huống lý luận cần phải giải quyết; rằng, phải giải phóng
cho thực tiễn những gì và như thế nào một khi lý luận lạc hậu hoặc sai lầm
đang áp vào thực tiễn, đang cản trở sự phát triển của nó. Mặc khác, nghiên
cứu lý luận và đề xuất các giải pháp lý luận không ở trong sự thôi thúc của
thực tiễn, do đó không phát hiện được hoặc phát hiện không đúng nhu càu
lý luận bức xúc của thực tiễn, vì thực tiễn.
Kết quả là, cái lý luận mà thực tiễn đang cần, đang rất cần thì lý luận
không đáp ứng được, đang thiếu hụt, thậm chí hoàn toàn vắng bóng. Ngược
lại, cái lý luận không được nhào nặn, chưng cất, chắt lọc từ thực tiễn, có
ích cho thực tiễn và cho bản thân lý luận - tức là một loại sản phẩm lý
luận thuần túy nhân đạo từ đầu óc bằng câu chữ, khái niệm dựng nên và chỉ
dừng lại là câu chữ, khái niệm thì lại thừa thãi nhưng vô bổ.
Tình trạng đó đang tiếp tục kéo dài sự nghèo nàn của lý luận, của tư
tưởng và đời sống thực tiễn vẫn không thêm một chút rọi sáng nào của lý
luận gắn chặt với những chất liệu của thực tiễn, nhờ đó thúc đẩy thực tiễn
phát triển. Là có lý khi co người đã khái quát tình trạng đó như sau: Đang
có một thực tiễn không lý luận bên cạnh một lý luận không thực tiễn.
Tư duy lý luận mới và nhận thức lý luận mới về chủ nghĩa xã hội
muốn thực sự góp vào sự phát triển mới của chủ nghĩa xã hội phải khắc
phục tình trạng chia cắt, tách rời nói trên.
Đã một thời, do những sai lầm cực đoan giáo điều, chúng ta đã không
sao có thể hình dung được chủ nghĩa xã hội lại là kinh tế hàng hóa và thị
trường; lại là tư nhân, cá thể có thể tồn tại lâu dài bên cạnh nhà nước quốc doanh và tập thể – hợp tác xã. Nếu không nghiên cứu thấu đáo thì đến
24
thời đổi mới ngày nay có thể lại chuyển sang một cực đoan giáo điều kiểu
khác, một thứ giản đơn hóa khác khi chuyển dịch những cái khẳng định
trước đây cái phủ định và đem cái bị phủ định ngày hôm qua thành cái
khẳng định ngày hôm nay. Nếu xét theo hình thức biểu hiện có thể thấy trên
một số tiêu chí nào đó được khẳng định hiện nay chính là cái đã bị phủ định
trước đây. Nhưng bản chất vấn đề lại không dừng ở đó. Có thể phát hiện
thấy và tập hợp được rất nhiều dấu hiệu, đặc trưng về một khái niệm nào đó
mà vẫn chưa giải quyết xong định nghĩa khoa học về nó.
Chính vì vậy, những kết quả nghiên cứu lý luận về chủ nghĩa xã hội
trong quá trình đổi mới trước hết vẫn là những tìm tòi, phát hiện các vấn đề
mới đang nảy sinh nhiều hơn là giải quyết các vấn đề đó. Một thực tế mới
lạ đang mở ra, đang bắt đầu những thử nghiệm thì chưa thể giải trình đầy
đủ, tường minh và có kết luận dễ dàng. Trình bày các nhân tố khách quan
và chủ quan dẫn tới đổi mới; tính chất, nội dung và ý nghĩa của đổi mới
như đã nêu trên; đó là những đường nét tổng quát của lý luận đổi mới và là
nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thực tiễn phát triển của nước
ta trong tiến trình đổi mới sẽ là làm sâu sắc thêm những nhận thức đó.
Một mưu toán khác của chủ nghĩa chống Cộng là cố tình đối lập chủ
nghĩa Lênin với chủ nghĩa Mác trước hết trên các vấn đề cốt yếu về lý luận
cách mạng xã hội chủ nghĩa và về lý luận đảng kiểu mới. Những luận điểm
của chủ nghĩa Mác được Lênin phát triển trong những điều kiện lịch sử
mới đều bị họ coi là ngược lại di sản của Mác . Họ phủ nhận những học
thuyết cơ bản của Mác, nhưng lại giả vờ trung thành với chủ nghĩa Mác .
Họ lên án chủ nghĩa Lênin đã áp đặt chuyên chính của giai cấp lên toàn xã
hội, chuyên chính của đảng đối với giai cấp và cuối cùng chuyên chính của
một nhóm lãnh tụ chuyên nghiệp đối với toàn đảng. Bằng nhiều cách khác
nhau các nhà tư tưởng xã hội – dân chủ phái hữu cố chứng minh tính hạn
chế của chủ nghĩa Lênin, rằng nó chỉ có tác dụng đối với các nước chậm
phát triển như nước Nga. Họ muốn hạ thấp chủ nghĩa Lênin như là một học
25