MÔN VĂN – MÃ CHẤM: V12a
Chuyên đề Hùng Vƣơng 2016
Vấn đề:
quan niệm nghệ thuật về con ngƣời trong tiến trình văn
học trung đại
Nội dung đề tài:
con ngƣời trần tục, nhục cảm trong văn học trung đại
giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX qua thơ
Hồ Xuân Hƣơng
MỤC LỤC
1
Chuyên đề bồi dưỡng HSG
A. PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................................................1
B. PHẦN NỘI DUNG.........................................................................…………...3
I. Cơ sở xã hội, lịch sử, văn hóa.................................................................................3
II. Thơ Hồ Xuân Hương – Tiếng nói khám phá vẻ đẹp con người trần tục, nhục cảm
nhằm khẳng định nhu cầu sống tự nhiên của con người……………..……………….6
1. Ngôn từ ma thuật…………………………………….……………………..........7
1.1. Sắc “trắng”, màu “son”………………………………………………………….7
1.2. Lạ kì hình khối………………………………………………………………….10
2. Biểu tượng “ám ảnh”…………………………………………………………….11
2.1. “Ám ảnh” hang động…………………………………………………………12
2.2. Dệt cửi hay là………………………………………………………………….13
C. PHẦN KẾT LUẬN……………………………………………………………...16
2
Chuyên đề bồi dưỡng HSG
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
1. Trong tiến trình lịch sử văn học dân tộc, mười thế kỉ văn học trung đại đã kết tinh
nhiều giá trị thâm sâu và trở thành niềm tự hào của thi ca mai hậu. Có thể nói rằng, văn
học trung đại Việt Nam đến nay vẫn mang một sức hút mãnh liệt đối với những nhà
nghiên cứu học thuật trong và ngoài nước, là nơi thể nghiệm và đạt được nhiều thành
tựu của nhiều hệ thống lí thuyết nghiên cứu văn học mà một trong số đó là thi pháp học.
Dưới góc nhìn của thi pháp học, nhiều giá trị ẩn tàng của các tác phẩm văn học trung
đại Việt Nam được khám phá, phát hiện, khiến chúng lấp lánh thêm nhiều giá trị đáng
trân quí.
Trong phạm vi của chuyên đề nhỏ này người viết không tham vọng đề cập đến tất cả
các phạm trù thi pháp của nghành nghiên cứu thi pháp học để khám phá những giá trị ẩn
tàng của các tác phẩm văn học trung đại mà chỉ dừng lại ở việc sử dụng quan niệm nghệ
thuật về con người của thi pháp học như là một nguyên tắc lý giả, cảm thụ những tác
phẩm văn học đó.
2. Chúng ta – đặc biệt là những người quan tâm và ái mộ văn học – đều biết rằng
“văn học là nhân học”, là nghệ thuật miêu tả, biểu hiện con người. Con người là đối
tượng trung tâm của văn học, dẫu rằng trong nhiều tác phẩm văn học đôi khi ta thấy
chân dung con người vắng bóng mà chỉ thấy hiện hữu ở đó những đồ vật, loài vật hay
thần linh, ma quỉ… nhưng nhìn một cách sâu sắc ta thấy rằng chúng đều kết tinh
“những quan hệ người” ở trong đó. Song ở đây chúng ta không quan tâm đến con
người trong văn học theo cách đơn thuần là khám phá vẻ đẹp của các nhân vật trong các
tác phẩm mà nhìn nhận ở góc độ khác: quan niệm nghệ thuật về con người – một hình
thức đặc thù thể hiện con người trong văn học. “Đó là những nguyên tắc cảm thấy, hiểu
biết và miêu tả con người trong văn học” (GS. Trần Đình Sử). Nói cách khác, quan
niệm nghệ thuật về con người chính là sự khám phá về con người bằng nghệ thuật, dưới
ánh sáng của khoa học lí luận hiện đại chứ không chỉ dừng lại ở sự cảm thụ, rung cảm
của tâm hồn. Nhìn một cách sâu sắc hơn thì có thể coi đây là một tiêu chuẩn quan trọng
để đánh giá giá trị nhân văn vốn có của một hiện tượng văn học bởi lẽ quan niệm nghệ
thuật về con người trong tác phẩm luôn hướng vào con người trong mọi chiều sâu có thể
có, bởi người nghệ sĩ đích thực luôn suy nghĩ về con người, nêu ra những tư tưởng mới
để khám phá và hiểu về con người. Do đó càng đi sâu vào khám phá quan niệm nghệ
thuật về con người thì càng đi sâu vào thực chất sáng tạo của họ, càng đánh giá đúng
đắn những thành tựu, những đóng góp của họ đối với nền văn học.
3. Mười thế kỉ văn học trung đại đã qua, dẫu trải qua bao thăng trầm, biến cố của lịch
sử dân tộc, song không thể phủ nhận rằng văn học trung đại Việt Nam đã kết tinh nhiều
3
Chuyên đề bồi dưỡng HSG
tác phẩm văn học có giá trị, ghi danh tên tuổi của nhiều tài năng văn học. Thi ca mai
hậu sẽ còn mãi tự hào với những áng “thiên cổ hùng văn” Bình Ngô đại cáo, “thiên cổ
kì bút” Truyền kì mạn lục, “tập đại thành ngôn ngữ” Truyện Kiều… Hậu thế sẽ còn
mãi tự hào về những tác gia Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương… sẽ còn ghi
nhớ mãi những đóng góp lớn lao của họ cho sự phát triển của văn học nước nhà và đặc
biệt là sự giàu đẹp của tiếng mẹ đẻ hôm nay. Sẽ thật sự ôm đồm và thiếu sót nếu chỉ
trong phạm vi chuyên đề này mà cố gắng điểm đến tất cả những tác phẩm văn học trung
đại, hay chí ít là những tác phẩm tiêu biểu. Bởi thế, người viết chỉ đặc biệt hướng sự
quan tâm tới những sáng tác thơ của “Bà chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương và giới hạn
bài viết chuyên đề với nội dung: “Con người trần tục, nhục cảm trong văn học trung
đại giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX qua thơ Hồ Xuân Hương”.
II. Mục đích của đề tài
Ở các trường THPT Chuyên việc bồi dưỡng HSG là công tác mũi nhọn, đặc biệt ở
các lớp Chuyên Văn, giáo viên không chỉ có nhiệm vụ tìm kiếm, phát hiện, bồi dưỡng
để tài năng văn học nảy nở mà còn cần truyền đến các em tình yêu, niềm say mê đối với
văn chương nhất là quốc văn. Hàng năm, việc tham gia những sân chơi như Trại hè
Hùng Vương quả thực rất bổ ích đối với các em học sinh và những người làm công tác
giảng dạy như chúng tôi. Trại hè không chỉ là nơi thầy và trò khám phá những miền đất
mới mà còn là nơi để những người thầy cùng trao đổi kinh nghiệm giảng dạy, tiếp thêm
lửa say mê văn chương. Vì lẽ đó, chuyên đề này của chúng tôi hi vọng sẽ trở thành một
tiếng nói cùng chia sẻ với bạn bè, đồng nghiệp về kinh nghiệm dạy học, hi vọng sẽ trở
thành một tư liệu để học sinh có thể tham khảo, bồi dưỡng tình yêu quốc văn và năng
lực văn chương.
4
Chuyên đề bồi dưỡng HSG
B. PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ XÃ HỘI, LỊCH SỬ, VĂN HÓA
1. Giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX là giai đoạn suy sụp của chế độ
phong kiến Việt Nam, đánh dấu nhiều bi kịch lịch sử dân tộc. Chưa bao giờ chế độ
phong kiến Việt Nam, giai cấp phong kiến Việt Nam lại bộc lộ bản chất tàn bạo, phản
động toàn diện như ở giai đoạn này. Kinh tế đặc biệt là nông nghiệp vốn lạc hậu càng
trở nên trì trệ khiến nhân dân đói khổ lầm than, vua chúa tàn bạo xa hoa trụy lạc khiến
nhân dân khắp nơi oán thán. Lẽ thường “con giun xéo lắm cũng quằn”, khi ngai vàng đã
mục ruỗng dân đen con đỏ đâu thể gửi lòng tin ở đám hôn quân, họ cần một cơn gió
quét sạch những “đền đài” cũ nát. Điều đó giải thích tại sao thế kỉ này được mệnh danh
là thế kỉ “nông dân khởi nghĩa”. Phong trào khởi nghĩa nông dân diễn ra liên tục, rộng
khắp, quyết liệt và kết tinh ở cuộc khởi nghĩa Tây Sơn bùng nổ năm 1771, đánh dấu vẻ
vang bằng những chiến công của lãnh tụ áo vải Nguyễn Huệ, mở đầu cho triều đại Tây
Sơn. Đây là cuộc khởi nghĩa nông dân có tính chất qui mô toàn quốc, đập tan cùng một
lúc ba tập đoàn phong kiến trong nước đồng thời gắn liền với chiến tranh vệ quốc oanh
liệt phá tan hơn 20 vạn quân Thanh xâm lược năm 1789. Tất nhiên rút cuộc, phong trào
Tây Sơn cũng chỉ có thể lập nên một triều đại mới nhưng lần đầu tiên trong lịch sử, sức
mạnh tinh thần và vật chất của nhân dân bị áp bức, của dân tộc được biểu hiện đẹp đẽ và
trọn vẹn trên cả hai bình diện đấu tranh giai cấp và đấu tranh chống giặc ngoại xâm.
Những biến cố lớn lao về lịch sử đã làm lay chuyển, thậm chí làm đảo lộn cả một nề
nếp tư tưởng vốn bộc lộ nhiều “tù đọng” và mâu thuẫn. Sự phá sản ấy chủ yếu phát sinh
từ sự công phá mạnh mẽ của trào lưu tư tưởng nhân văn xuất hiện trong quần chúng
nhân dân nhằm tìm đến một cuộc sống tươi sáng, hạnh phúc… nhưng điều đáng nói là
sự phá sản ấy nảy sinh ngay từ hàng ngũ gia cấp đã khẳng định, tôn sùng và nuôi dưỡng
Nho giáo. Không ít người đã vươn khỏi chỗ đứng giai cấp để đồng cảm với cuộc sống
đói khổ của quần chúng nhân dân. Bên cạnh đó là khuynh hướng yêu cầu phát triển
cuộc sống cá nhân mà nổi bật nhất là khát vọng giải phóng tình cảm cá nhân. “Tình yêu
trai gái không phải chỉ đến thời đại này mới nảy nở nhưng chỉ đến thời đại này mới có
những biểu hiện mới và tiến đến một mức độ sâu sắc… yêu cầu giải phóng tình dục
cũng là một hiện tượng đáng lưu ý” (GS. Đặng Thanh Lê). Đó cũng là khởi điểm cho tư
tưởng nhân văn tiến bộ trong đời sống và trong văn học nảy sinh, phát triển.
2. Trong văn học, lực lượng sáng tác cũng có những thay đổi nhất định. “Đại đa số
những tên tuổi trên văn đàn lúc này là những trí thức nghệ sĩ không giữ những trọng
trách ở triều đình” (GS. Đặng Thanh Lê) hoặc là những “nho sĩ bình dân” hoặc là
nhưng hàn sĩ sống cảnh thanh bần. Thời cuộc nhiều thay đổi đã đưa những nho sĩ tiến
bộ gần gũi hơn với đời sống của những người bình dân, điều đó là dẫn đến nhiều biến
5
Chuyên đề bồi dưỡng HSG
chuyển trong quan niệm sáng tác của chính họ. Họ tuy không thoát li hoàn toàn với
quan niệm “văn dĩ tải đạo” đã hình thành và tồn tại lâu đời nhưng không còn sáng tác
một cách “cứng nhắc” theo quan niệm đó như trước. Lúc này đây văn chương không chỉ
nhằm mục đich giáo dục đạo đức, lễ nghĩa hay thuyết minh cho tư tưởng tôn giáo mà
hướng vào hiện thực đời sống, vì thế khuynh hướng sáng tác về con người bình thường,
về cuộc sống xã hội rộng rãi đã thu hút đông đảo giới nho sĩ nghệ sĩ. Từ sự thay đổi ấy
quan niệm sáng tác dẫn đến sự hình thành những khuynh hướng mới trong nội dung tư
tưởng các sáng tác. Văn học đã thành thực phản ánh những khát vọng giải phóng của
con người trong đó nổi bật nhất là nhu cầu giải phóng tình cảm, hạnh phúc lứa đôi cũng
như nhu cầu giải phóng tài năng khỏi sự tỏa chiết của đạo đức, lễ giáo phong kiến. Vì lẽ
đó, ta thấy xuất hiện trong văn học những mẫu hình nhân vật mới: người anh hùng,
người phụ nữ đặc biệt là những người phụ nữ gặp nhiều oan khổ lưu ly, khác với mẫu
hình của vua sáng, quan tốt, vợ hiền, con hiếu… của dòng văn học chính thống trước
đó.
Trong mạch nguồn chung ấy, thơ Hồ Xuân Hương vừa xuôi theo nguồn chung của
thời đại vừa mang những “dòng riêng” đầy hấp dẫn và lôi cuốn, rất thành thực nhưng
cũng rất giàu giá trị nhân văn. Đó không chỉ là tiếng nói của một nỗi niềm riêng của nữ
sĩ có cái tên thơm ngát hương Xuân mà còn là tiếng lòng của biết bao người phụ nữ tràn
đầy khát vọng tình yêu, khát vọng nhục cảm giữa thời tao loạn, giữa vòng cương tỏa của
những lễ giáo hà khắc đến nghẹt thở.
3. Suốt một thời gian dài, người ta băn khoăn với câu hỏi: thơ Xuân Hương thanh
hay dâm? Và không ít người trì triết nặng nề “dục tình đã được chuyển biến qua mĩ
thuật thơ” (Nguyễn Văn Hanh), “thiên tài hiếu dâm đến cực điểm” (Trương Tửu), ngay
cả đến một danh sĩ hết sức hào hoa, phóng khoáng như Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu cũng
phải thốt lên “thi trung hữu quỉ” (trong thơ có ma quỉ)… ý chừng vẫn còn ngần ngại
lắm trước phong cách độc đáo của nữ sĩ đầu thế kỉ XIX. Không thể phủ nhận rằng thơ
Hồ Xuân Hương không có cái tục nhưng cần khẳng định tiếng thơ Người không hề có
chút tà dâm. “Hồ Xuân Hương cũng chỉ nêu lại cái quan niệm lành mạnh của quần
chúng: chuyện ân ái trong cuộc sống là tự nhiên, không chỉ là một nhu cầu mà còn là
một quyền lợi của tuổi trẻ, của tất cả mọi người” (Hoàng Hữu Yên).
Từ góc độ văn hóa, trông vào chiều sâu văn hóa dân tộc Việt ta thấy điều Xuân
Hương viết từ mấy trăm năm trước không phải là không có những điểm tựa vững chắc.
Xuất phát điểm là một nước nông nghiệp, chủ yếu nhờ cây lúa nước, người Việt tự bao
đời đã hình thành một văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên, những tín ngưỡng cũng
được hình thành từ đó. Một trong những tín ngưỡng văn hóa phổ biến và quan trọng của
người Việt thể hiện nét sùng bái sự sinh sôi nảy nở của tự nhiên và con người chính là
6
Chuyên đề bồi dưỡng HSG
tín ngưỡng phồn thực. Trong tâm thức của người Việt, duy trì và phát triển sự sống đã
trở thành một nhu cầu thiết yếu nhất của con người. Đối với một đất nước nông nghiệp,
có nền văn hóa nông nghiệp thì hai việc đó lại càng bội phần hệ trọng. Để duy trì cuộc
sống cần cho mùa màng tươi tốt. Để phát triển sự sống cần cho con người sinh sôi. Ở
Việt Nam, tín ngưỡng phồn thực tồn tại suốt chiều dài lịch sử và có hai dạng biểu hiện:
thờ cơ quan sinh dục và thờ bản thân hành vi giao phối. Bởi thế sẽ không còn xa lạ khi
những hình ảnh thuộc nhưng dạng biểu hiện nói trên xuất hiện trên các đồ dùng, ở nhà
mồ của đồng bào các dân tộc thiểu số, đặc biệt là trên mặt trống đồng – biểu tượng của
sức mạnh, quyền lực… của người xưa, đồng thời cũng là biểu tượng toàn diện của tín
ngưỡng phồn thực.
Là một tài nữ cũng là một người từng trải, từng đi nhiều nơi, hẳn những kiến thức
văn hóa nền tảng nữ sĩ họ Hồ không thể không biết tới vì lẽ đó cũng chẳng nên lấy làm
sửng sốt trước những hình ảnh mà nhiều người vốn cho là “dâm” là “tục” trong thơ bà.
Từ góc độ văn hóa, đó là sự “hắt bóng” của văn hóa trong văn học.
Dưới ánh sáng của những lí thuyết phương Tây hiện đại, có thể nói thêm rằng: tín
ngưỡng phồn thực – khởi sinh từ nhiều thế kỉ trước đó – có thể vượt qua vực thẳm thời
gian để đến với thơ Hồ Xuân Hương là bởi “vô thức tập thể” (lý thuyết của K. Jung).
Tín ngưỡng phồn thực đi sâu vào vô thức tập thể, tồn tại dạng các siêu mẫu hoạt động
trong kí ức cộng đồng và tạo ra những biểu tượng gốc trong sáng tạo văn học nghệ thuật
của tập thể và cá nhân. “Sự di truyền văn hóa” này làm cho dòng chảy của kí ức, một
kiểu “trí nhớ thể loại” (Bakhtin) được liên tục, bất chấp những khoảng cách không gian
và thời gian. Như vậy thì những gì Hồ Xuân Hương đã “mạnh bạo trải lòng” từ những
thế kỉ trước có lẽ nào đáng bị chê trách, phê phán thậm chí là lên án trong khi đó là
những điều đã được khoa học phương Tây nghiên cứu, chấp nhận, được văn hóa
phương Tây trân trọng?
Trải bao thế kỉ, tiếng thơ của Hồ Xuân Hương được độc giả và giới phê bình tiếp
nhận với nhiều thái độ và suy nghĩ trái chiều, tuy nhiên, thiết nghĩ dưới ánh sáng của
khoa học, của lí luận văn học (phê bình văn học hiện đại, tiếp nhận văn học, thi pháp
học hiện đại…) đã đến lúc chúng ta cần trả về cho thơ Hồ Xuân Hương những giá trị
đích thực, tôn vinh những đóng góp lớn nhất là về mặt tư tưởng của người tài nữ họ Hồ.
Chuyên đề này với hướng khám phá vẻ đẹp con người trần tục, nhục cảm để khẳng định
nhu cầu sống tự nhiên nhất của con người không nhằm mục đích nào khác là hướng đến
việc tôn vinh đóng góp lớn lao ấy của Hồ Xuân Hương.
7
Chuyên đề bồi dưỡng HSG
II. THƠ HỒ XUÂN HƢƠNG – TIẾNG NÓI KHÁM PHÁ VẺ ĐẸP CON
NGƢỜI TRẦN TỤC, NHỤC CẢM NHẰM KHẲNG ĐỊNH NHU CẦU SỐNG TỰ
NHIÊN CỦA CON NGƢỜI
Trong suốt 10 thế kỉ văn học, trải qua các giai đoạn phát triển, quan niệm nghệ thuật
về con người trong văn học trung đại Việt Nam luôn luôn có sự vận động. Đó là con
người sử thi, con người khí tiết, giữ mình trong sạch ở thế kỉ X – XIV; con người duy lí,
tận tâm trau đức sửa mình tận hiến cho dân cho nước ở thế kỉ XV – XVII; con người
với những khát vọng khẳng định nhu cầu tự nhiên của chính mình ở thế kỉ XVIII – XIX.
Nhìn một cách khái quát, quan niệm về con người trong thơ trước thế kỉ XVIII là “nặng
mùi đạo mà nhẹ mùi đời” (GS. Trần Đình Sử), con người chỉ có thể khẳng định mình
bằng cách hạn chế, chống lại con người cảm tính sống bằng thân xác của chính mình. Vì
thế không mấy xa lạ khi trong thơ giai đoạn trước chủ yếu chỉ thấy nói đến: chân,
huyễn, thanh, tục, khôn, dại, cương, nhu, xuất xử, ít nói đến thân, thảng hoặc có nhắc
đến thì chỉ thấy xuất hiện: thư nhàn, yên thân, tinh thần ngạo nghễ đứng ngoài sống
chết, danh lợi, sướng khổ, trẻ già. Lúc này đây, để đánh dấu sự tự ý thức về chính mình,
khẳng định sự tồn tại của mình, người ta thấy xuất hiện trong thơ trữ tình những chữ
thân, chữ tài, chữ tình với đúng nghĩa của nó. Điều đó chứng tỏ rằng, giai đoạn văn học
thế kỉ XVIII – XIX đặc biệt đến nửa đầu thế kỉ XIX nhu cầu khẳng định mình được
quan tâm như là một nhu cầu tự nhiên, cần thiết của con người. Vì lẽ đó, sự xuất hiện
của con người trần tục, nhục cảm trong sáng tác của nhiều tác giả đặc biệt là trong thơ
của Hồ Xuân Hương là điều dễ hiểu, tự nhiên như chính khát vọng khẳng định nhu cầu
sống tự nhiên của con người.
Nếu ở những giai đoạn trước đó, người ta dường như chỉ quan tâm đến đời sống
tinh thần của con người và giành sự ưu tiên sáng tác về điều đó thì giờ đây những vấn
đề về quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc trần thế được biểu hiện trong hầu khắp mọi
thể loại, mọi tác giả. Điều đó chứng tỏ quan niệm xưa cũ đang từng bước được thay đổi,
thay vì chỉ quan tâm đến hình ảnh con người đang “cố gồng mình” theo những lễ giáo
người ta đã quan tâm sâu sắc đến đời sống thực của con người, quan tâm và lên tiếng
bênh vực những quyền sống chính đáng của con người vốn trước đây phải kìm nén, né
tránh. Bắt kịp với sự chuyển biến của tư tưởng trong đời sống, văn học trung đại giai
đoạn này đã thực sự mang đến cho nền văn học dân tộc những tiếng lòng, tiếng nói đầy
giá trị nhân văn và tiến bộ. Ngoài Đặng Trần Côn, Nguyễn Gia Thiều và một số tác giả
khác thì không thể không kể đến Hồ Xuân Hương.
Có thể nói rằng, tiếng thơ của Hồ Xuân Hương không chỉ nhân văn, tiến bộ trong
nội dung tư tưởng mà đặc biệt táo bạo trong cách thức thể hiện với những chữ dùng
mạnh bạo, hình ảnh đậm đà cảm tính, mới lạ chưa từng có.
8
Chuyên đề bồi dưỡng HSG
Khảo sát 46 bài thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương trong cuốn “Hồ Xuân
Hương – Thơ và đời” của NXB Văn học năm 2000 chúng tôi thấy rằng hầu hết các bài
thơ đều nói đến chuyện tình cảm nam nữ luyến ái thông qua hệ thống các biểu tượng
giàu ý nghĩa và ngôn từ giàu giá trị tạo hình.
1. Ngôn từ “ma thuật”
Là một hình thái ý thức mang tính chất đặc thù, thuộc thượng tầng kiến trúc, nghệ
thuật phản ánh đời sống bằng hình tượng. Hình tượng nghệ thuật của những loại hình
nghệ thuật khác nhau mang những đặc trưng khác nhau bởi thế chất liệu và phương tiện
biểu hiện của mỗi loại hình nghệ thuật cũng mang những nét riêng. Văn học là nghệ
thuật ngôn từ. Vì vậy mà L. Tônxtôi gọi nhà văn là “nghệ sĩ của từ” và Gorki cho rằng:
“ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học”. Không có ngôn ngữ thì không thể có văn
học, cũng như không có đường nét, màu sắc, âm thanh thì hội họa, âm nhạc không thể
tồn tại. Trong một tác phẩm văn học cụ thể nếu không có ngôn ngữ thì chủ đề, tư tưởng
không thể bộc lộ, cốt truyện và kết cấu không được hình thành. Bởi chăng, vì thế để
thấu suốt tư tưởng và tấm lòng của người nghệ sĩ, việc khám phá vẻ đẹp ngôn từ trong
sáng tác của họ là điều vô cùng cần thiết. Khám phá thế giới ngôn từ trong thơ Hồ Xuân
Hương là “chìa khóa” để hiểu nỗi lòng thi sĩ và cảm cái tài của Người.
1.1. Sắc “trắng”, màu “son”
Đây là những từ ngữ khá thường xuyên xuất hiện trong những bài thơ Nôm của nữ
sĩ họ Hồ, tạo thành một môtip “trắng, son” giàu ý nghĩa biểu đạt.
Trước hết hãy cùng thống kê tần suất xuất hiện của cặp từ này.
Văn bản
STT
Bài thơ
Trắng
1
Đôi lứa như in tờ giấy trắng
Tranh tố nữ
x
2
Cầu trắng phau phau đôi ván ghép
Giếng thơi
x
3
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bánh trôi nước
x
4
Mà em vẫn giữ tấm lòng son
Bánh trôi nước
5
Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phau
Con cò mấp máy suốt đêm thâu
Dệt cửi
6
Cửa son đỏ loét tùm hum nóc
Đèo Ba Dội
7
Đêm vắng cớ chi phô tuyết trắng?
Ngày xanh sao lại thẹn vừng son?
Hỏi trăng
Son
x
x
x
x
x
Có thể thấy, trong 7 trường hợp văn bản thì có tới 5 lần từ “trắng” và 3 lần từ “son”
xuất hiện, tuy không xuất hiện với tần xuất dày đặc nhưng cũng đáng khiến người đọc
chú ý. Mặt khác, mặc dù những từ ngữ đó đều gắn liền với những đồ vật, địa danh
(trường hợp thứ nhất không nói đến đồ vật nhưng chỉ là người trong tranh) nhằm để chỉ
9
Chuyên đề bồi dưỡng HSG
màu sắc, sắc thái của đồ vật hay địa danh đó nhưng nếu đọc thơ Xuân Hương chỉ chú
tâm và chỉ thấy được “cái biểu hiện” trên bề mặt thì đâu còn cái thú nữa. Cái hấp dẫn
của thơ Xuân Hương chính là ở lớp nghĩa ẩn dụ, lớp nghĩa biểu tượng kia. Trong trường
hợp này môtip “trắng, son” gợi về hình ảnh người phụ nữ. Màu trắng của làn da, của
thân thể người phụ nữ mà cái lạ là ở chỗ: đó không phải là một cô gái quyền quí mà
đích thực là một là một cô gái bình dân.
Điểm lại những tác phẩm thơ trong giai đoạn này, hầu hết các nhân vật nữ đều xuất
thân từ tầng lớp quí phái. Người chinh phụ trong “Chinh phụ ngâm” và người cung nữ
trong “Cung oán ngâm khúc” đích là quí phái trăm phần trăm rồi. Người cô gái khác
trong các truyện Nôm bác học đều là con quan, thậm chí là con quan to trong triều, hay
chí ít cũng phải con nhà khuê các, nơi “gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung”, “
êm đềm trướng rủ màn che”. Có lẽ Hồ Xuân Hương là người đầu tiên “và có thể là duy
nhất đưa vào văn học giai đoạn này” (Nguyễn Lộc) hình ảnh những cô gái bình dân.
Đọc thơ Hồ Xuân Hương, tiếp xúc với những nhân vật nữ trong thơ bà, ta càng thấy sự
khác biệt: họ không phải là những cô gái yểu điệu sống nơi lầu son gác tía mà là những
cô gái bình dân, gần gũi và đảm đang với những công việc lao động, gia đình, phải
chăng vì thế mà các cô thường rất “mặn mà” về hình thể, thắt đáy lưng ong đầy hấp dẫn.
Người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương đẹp, một vẻ đẹp khỏe khoắn, trẻ trung, dồi dào
sức sống. Bà cũng sẵn sàng ca ngợi cái cơ thể đẹp của người phụ nữ:
Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm
Một lạch đào nguyên suối chửa thông
(Thiếu nữ ngủ ngày)
Có thể ai đó lớn tiếng chỉ trích đó là những câu thơ dâm đãng nhưng hẳn ngay cả
khi người đó nghĩ nó dâm đãng cũng chẳng thể phủ nhận rằng đó là một cơ thể phụ nữ
đẹp, hấp dẫn, một vẻ đẹp trời cho. Ở góc độ bàn về cái đẹp thì vẻ đẹp một phụ nữ cũng
có khác gì những vẻ đẹp tỏa ra từ những sự vật khác, điều đó có gì đáng phê phán?
Người dám nói về những vẻ đẹp ấy có gì đáng chỉ trích? Thiết nghĩ, nếu chỉ trích thì chỉ
vì một lí do duy nhất: Xuân Hương đã tả cơ thể người phụ nữ đẹp đầy mê hoặc, chẳng
phải đợi vào lúc đêm tối, chẳng phải bày biện cầu kì khi tắm như Nguyễn Du tả Kiều
mà đúng vào ban ngày, một buổi trưa hè gió mát. “Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng”
đã phô hết toàn vẹn cái cơ thể ngọc ngà của mình. Một vẻ đẹp Á Đông đầy hấp dẫn,
khơi gợi ở kẻ nam nhi khát khao được khám phá, tận hưởng những lạc thú ở đời, chẳng
thế mà Xuân Hương từng chẳng ngần ngại miêu tả bước chân dùng dằng của chàng
“quân tử” nọ:
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt
Đi thì cũng dở, ở không xong
10
Chuyên đề bồi dưỡng HSG
(Thiếu nữ ngủ ngày)
Hẳn trong quan niệm của nữ sĩ, cơ thể đẹp là niềm tự hào của con người, hơn thế vẻ
đẹp ấy còn khơi dậy ở kẻ khác những khao khát, thiêu đốt ánh nhìn của kẻ khác thì có gì
tuyệt diệu bằng. Đó là vẻ đẹp tự nhiên của con người, là nhu cầu tự nhiên của con người
lẽ chi mà không dám thành thực lên tiếng. Sức sống và giá trị của thơ Hồ Xuân Hương
chính là ở chỗ đó: dám lên tiếng về những điều rất đỗi tự nhiên mà kẻ khác không dám
lên tiếng dẫu rằng mặc lòng chấp nhận. Đó cũng chính là bản lĩnh Xuân Hương.
Không những thế, từ sắc trắng màu da của người thiếu nữ, Xuân Hương còn nồng
nhiệt ca ngợi tuổi trẻ:
Đôi lứa như in tờ giấy trắng
Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh
Hình ảnh thiếu nữ với mùa xuân, đó là biểu tượng của cái đẹp muôn đời, của vẻ đẹp
cuộc sống.
Trở lại với môtip “trắng, son”, nếu “trắng” gợi màu da, thân thể người phụ nữ thì
“son” lại dùng để chỉ màu son của trái tim, tâm hồn, tấm lòng của người phụ nữ… là
biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn, những nét đẹp của người phụ nữ. Ở đây xin xét thông
qua trường hợp bài “Bánh trôi nước”. Người phụ nữ trong bài thơ bị đặt vào một hoàn
cảnh đặc biệt: “Bảy nổi ba chìm với nước non” nghĩa là cuộc đời kém may mắn, phải
chịu nhiều sóng gió, thậm chí kiếp đời bất hạnh (khi phải sống kiếp đời lẽ mọn, không
chồng mà chửa, chồng mất sớm) nhưng vẫn khẳng khái “mà em vẫn giữ tấm lòng son”.
Trong một số trường hợp khác, người thiếu nữ trong thơ Hồ Xuân Hương luôn ý thức
về phẩm giá và đức hạnh của mình, luôn đòi hỏi được kẻ khác nhất là đấng nam nhi tôn
trọng mà cất tiếng:
Quân tử có yêu thì đóng cọc
Xin đừng mân mó nhựa ra tay
(Quả mít)
Hay
Quân tử có thương thì bóc yếm
Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi
(Ốc nhồi)
Như vậy với hai màu trắng, son đặc biệt trên cái nền của mùa xuân nhà thơ ngợi ca
vẻ đẹp trắng trong, cái đẹp sắt son của người phụ nữ, khẳng định vẻ đẹp vĩnh cửu của
người phụ nữ. Đặc biệt, với những vần thơ viết về vẻ đẹp thân thể người phụ nữ, Hồ
Xuân Hương đã truyền đến bạn đọc chúng ta không chỉ tự hào về vẻ đẹp nữ giới – một
vẻ đẹp tự nhiên, đầy nhục cảm, hấp dẫn, mà còn đánh dấu một điểm sáng trong thơ
trung đại Việt Nam giai đoạn thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX: khám vẻ đẹp con
11
Chuyên đề bồi dưỡng HSG
người tự nhiên, nhục cảm như là một cách thể hiện và khẳng định nhu cầu sống tự nhiên
của con người một cách thành thực nhất giữa lúc con người vẫn bị kiểm tỏa bởi nhiều
sự ràng buộc về đạo đức nên thường e dè khi nói về chính mình, về những khát vọng
thẳm sâu của mình và những người phụ nữ nói chung. Về phương diện này, những gì
mà Hồ Xuân Hương đã thể hiện hoàn toàn đầy tính nhân văn và tiến bộ.
1.2. Lạ kì “hình khối”
Không gian thơ Hồ Xuân Hương đầy ắp các sự vật mà lạ thay mỗi sự vật được nữ sĩ
tạo tác một hình thù ấn tượng khiến cho mỗi bài thơ như là một công trình nghệ thuật
kiến trúc. Sẽ chẳng lấy làm ngạc nhiên khi đọc thơ Xuân Hương ta thấy đầy rẫy những
hình thù, nào tròn: “một trái trăng thu”, “đôi gò bồng đảo”, “một khối tình cọ mãi với
non sông”; nào méo, nào khòm: “giữa in chiếc bách khuôn còn méo” “Ngoài khép đôi
cung cánh vẫn khòm”; nào mỏng, dày, rộng, hẹp: “Mỏng dày chừng ấy chành ba góc/
Rộng hẹp dường nào cắm một cay”, “Một suốt đâm ngang thích thích mau/ Rộng hẹp
nhỏ to vừa vặn cả/ Ngắn dài khuôn khổ cũng như nhau”; nào “tùm hum”, nào “lún
phún”, “lam nham”, “rậm rạp”: “Lườn đá cỏ leo sờ rậm rạp/ Lách khe nước rit mó lam
nham”, “Cửa son đỏ loét tùm hum nóc/ Hòn đá xanh rì lún phún rêu”, “Cỏ gà lún phún
leo quanh mép”; nào “khom khom”, “song song”, nhấp nhổm: “Nhấp nhổm bên ghềnh
đít vắt ve”, “Trai du gối hạc khom khom cật/ Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng/ Mấy
mảnh quần hồng bay phấp phới/ Hai hàng chân ngọc duỗi song song”. Thật đúng là đủ
dạng hình thù, mỗi hình thù gắn liền với một sự vật, một hoạt động nhưng sự vật ấy,
hoạt động ấy đầy sức “ám gợi”, cứ khiến ta liên tưởng đến con người và những hoạt
động của con người. Những hình thù ấy chẳng hề đứng yên, chúng cựa động, hoặc đâm
lên hoặc chọc suống hoặc dang ngang hoặc duỗi song song… tóm lại là tạo nên một
không gian động, rất động. Cái động trong hình hài sự vật khua động ý nghĩ con người.
Nó gợi đến hình ảnh thân thể người phụ nữ, nhưng lúc này không chỉ dừng lại ở làn da
trắng, ở “đôi gò bồng đảo” quyến rũ như đã nói ở trên mà là nơi “kín” nhất và rất đỗi tế
nhị của người phụ nữ. Điều đáng nói là ở chỗ, cũng như ở trên khi miêu tả thân thể
người phụ nữ Xuân Hương đã làm toát lên một vẻ đẹp hình thể tràn đầy sức sống thì ở
đây khi nói đến bộ phận “nhạy cảm” của người phụ nữ nhà thơ cũng khơi gợi được một
sức hấp dẫn riêng: một vẻ đẹp mạnh khỏe, “phồn thực” đúng theo quan niệm văn hóa
của người Việt, một vẻ đẹp rạo rực đầy khao khát và có khả năng khơi dậy những khao
khát nhục thể ở con người. Một vẻ đẹp tự nhiên và trần tục theo đúng nghĩa. Quả thực,
“nó thức tỉnh, khua động, gọi dậy sức sống, cái đẹp tiềm năng trong con người” (Đỗ
Đức Hiểu).
Bên cạnh đó, cái động trong những hình ảnh trên trong thế giới thơ Hồ Xuân Hương
còn khơi gợi ta nghĩ đến những hành động của tính giao, của hành vi hoan lạc của người
12
Chuyên đề bồi dưỡng HSG
đàn ông và người phụ nữ trong đời sống. Ngòi bút thơ của Xuân Hương không những
mô tả chân xác và sinh động những hành động ấy mà còn đem đến cho nó một giá trị
tạo hình bởi sự “lấp lửng” hai mặt của bản thân hình ảnh trong thơ. Thành ra nhà thơ
“nói” mà như “không nói”, “không nói” mà hóa ra lại đang “nói” rất thành thực và rất
say sưa về chuyện phòng the của trai gái – một chuyện vốn bị coi là một điều cấm kị khi
nhắc đến trong xã hội xưa. Bởi chăng, trong tâm ý của nữ sĩ họ Hồ, chuyện trai gái đến
tuổi trưởng thành, gặp gỡ kết giao để thỏa mãn những ham muốn thể xác là một lẽ tự
nhiên, tự nhiên như vạn vật từ thuở tạo sinh đã được tạo hóa ban tặng những món quà kì
diệu: là sự “hấp dẫn” thể xác từ hai phía. Đã là tự nhiên thì đương nhiên là nhu cầu và
khát vọng chính đáng của con người, đặc biệt là đối với người phụ nữ, họ có quyền
“yêu” và “được yêu” theo nghĩa trọn vẹn của từ này. Đã là tự nhiên thì đâu cần phải đưa
đẩy để nói đến chuyện đó, càng đâu cần phải bóng gió khi trong lòng đang dậy sóng
những khát khao luyến ái: “Hoa giãi nguyệt nguyệt in một tấm/ nguyệt lồng hoa hoa
thắm từng bông”. Ở góc độ này, thêm một lần nữa khẳng định tiếng thơ của Hồ Xuân
Hương đã không ngần ngại thức dậy trong con người đặc biệt là người phụ nữ những
“đặc quyền” họ vốn được hưởng từ lúc được tạo sinh ở cõi đời, không ngần ngại bày tỏ
những khát khao luyến ái lành mạnh, tự nhiên của con người.
2. Biểu tƣợng “ám ảnh”
Thơ Hồ Xuân Hương ám ảnh bởi thế giới các biểu tượng. Đó là một thế giới phong
phú và đa dạng nhưng tựu chung lại có thể chia ra thành: biểu tượng gốc và biểu tượng
phái sinh. Biểu tượng gốc là những biểu tượng đã “ăn sâu” vào vốn văn hóa, tín ngưỡng
cộng đồng mà nói như K. Jung thì đó là những “siêu mẫu”. Biểu tượng gốc lại được
chia thành một số loại: âm vật (hang động, khe, giếng…), dương vật (sừng, chày…),
hành động tính giao (đánh đu, giã gạo…). Trong phạm vi bài này, người viết sẽ tập
trung vào hình ảnh môtip “hang động”. Cùng với biểu tượng gốc, thơ Xuân Hương tràn
ngập những biểu tượng phái sinh, đó là những biểu tượng sáng tạo của riêng nữ sĩ, ý
nghĩa phái sinh của những biểu tượng này sở dĩ được hình thành là bởi nó được đặt
trong hệ thống ngôn từ, thi ảnh trong thơ Xuân Hương, còn trong đời thực có thể nó chỉ
đơn thuần mang nét nghĩa biểu đạt như nó vốn có. Ở trường hợp này, bài viết tập trung
vào biểu tượng “dệt cửi”.
13
Chuyên đề bồi dưỡng HSG
2.1. “Ám ảnh hang động”
Trong số 46 bài thơ được khảo sát, chúng tôi thấy thế giới thơ Hồ Xuân Hương mở
ra một số hang động:
Hang, động
STT
Bài thơ
1
Động Hương Tích
Động Hương Tích
2
Hang Thánh Hóa
Hang Thánh Hóa
3
Hang Cắc Cớ
Hang Cắc Cớ
Bên cạnh đó, có một số bài tuy không trực tiếp miêu tả hang động song cũng có
những cấu trúc tương tự:
Hình ảnh
STT
Bài thơ
1
Quán Khánh
Quán Khánh
2
Kẽm Trống
Kẽm Trống
3
Cửa son
Đèo Ba Dội
4
Tầng trên, thớt dưới
Đá ông chồng bà chồng
Điều đáng nói là môtip “hang động”, những hình ảnh nêu trên và những biểu tượng
khác trong thơ Hồ Xuân Hương đều lấp lánh nghĩa thiêng và nghĩa tục, nghĩa thanh và
nghĩa tục. Những bài thơ tả động Hương Tích hay hang Cắc cớ, nhìn trên bề mặt câu
chữ quả thực rất đúng, rất thực. Nhưng điều đáng chú ý là cách Hồ Xuân Hương nói về
những sự vật ấy. Cụ thể:
Thứ nhất: nhà thơ sử dụng một số từ ngữ giàu ý nghĩa, giàu giá trị gợi tả: nứt làm
đôi mảnh, kẽ hầm rêu mốc, giọt nước hữu tình, khe nước rỉ mó lam nham, cỏ leo sờ rậm
rạp, hòn đá xanh rì lún phún rêu… kề cận nhau trong văn bản, làm dậy lên một nghĩa
khác: nghĩa hàm ẩn.
Thứ hai: Trong những bài thơ miêu tả hang động nữ sĩ đặc biệt chú trọng việc sử
dụng những thanh trắc, nhiều khi nhịp thơ dừng lại ở những thanh trắc, không chỉ gợi sự
trúc trắc mà còn có tác dụng tạo ra những “lớp sóng” vang dội cho bài thơ:
Ví dụ:
Kẽ hầm rêu mốc/ trơ toen hoẻn
T
(Hang Cắc Cớ)
Một sư đầu trọc/ ngồi khua mõ
T
(Hang Thánh Hóa)
14
Chuyên đề bồi dưỡng HSG
Người quen cõi Phật/ chen chân xọc
T
(Động Hương Tích)
Ở trong hang núi/ còn hơi hẹp
T
(Kẽm Trống)
Thứ ba: nhà thơ sử dụng nhiều động từ: cọ mãi, gió giật, sóng dồn, đấm, móc, khua,
xọc, dòm… liên kết với các âm rất đặc biệt: phập phòm, hom, rêu mốc, trọc lốc, ngoàm,
bom… với các hình dáng: thiên thẹo, lam nham, lắt léo… với cách nói lái: lộn lèo, đếm
lại đeo, trái gió, đá đeo… Tất thảy đều góp phần tạo nên những nhịp độ (căng, chùng)
riêng cho từng bài thơ, nhằm biểu đạt “tư tưởng” Hồ Xuân Hương.
Trở lại với ý nghĩa của những biểu tượng “hang động” ta thấy rằng: biểu tượng
hang động nói chung và trong thơ Hồ Xuân Hương đều nhằm chỉ “sinh thực khí” của
người phụ nữ. Song nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương ta cũng phát hiện được rằng: hình
ảnh sinh thực khí nữ trong thơ Hồ Xuân Hương thường liên quan đến tính chất sáng thế.
Trong sự lưỡng phân thì trời là cha, đất là mẹ; con người, cũng như muôn loài, được
sinh ra trong lòng đất mẹ, từ hang động… bởi vậy một cách tự nhiên, người ta coi hang
động như sinh thực khí nữ, nơi con người từ bụng mẹ (đất) đi ra. Hang động cũng là nơi
những người sơ thủy cư trú, chở che họ khỏi nắng mưa, giá rét, bảo vệ họ khỏi kẻ thù,
thú dữ. Ở đây cũng là nơi người ta vẽ lên vách đá nhưng bức tranh mang ý nghĩa ma
thuật, thiêng liêng. Mặt khác, nhắc nhiều đến hang động, thậm chí miêu tả các hang
động rất cụ thể và sinh động nhất là những trạng thái của nó Xuân Hương còn gợi cho ta
nghĩ nhiều hơn đến những khát khao đầy nhục cảm của người nữ. Bà nghĩ và viết về
điều đó một cách rất nhuần nhị, tự nhiên bởi lẽ từ góc độ tín ngưỡng phồn thực, người ta
thấy Xuân Hương đề cao cái tự nhiên trong con người, nhất là cái nhu cầu tự nhiên
trong người phụ nữ vì lẽ đó Người đấu tranh cho quyền tồn tại hợp pháp cái tự nhiên
của con người, bận tâm đến quyền lợi của người phụ nữ. Và như thế, ngay thời bấy giờ
Hồ Xuân Hương đã gieo những hạt mầm đầu tiên của tư tưởng nữ quyền. Điều đáng nói
hơn là sự sống tự nhiên mà nữ sĩ ca ngợi, bảo vệ luôn luôn là một sự sống ở độ sung
mãn nhất, sẵn sàng để tiếp tục sinh sôi nảy nở. Đó là lí do tại sao trong thơ bà người ta
luôn thấy hình ảnh những người phụ nữ bình dân đẹp một vẻ đẹp mạnh khỏe, rạo rực
“phong nhũ phì đồn” chứ không phải là hình ảnh người phụ nữ yểu điệu, mảnh mai hắt
hiu như tơ liễu. Có thể nói với ý nghĩa biểu tượng trên, Hồ Xuân Hương đã sáng tạo và
thể hiện thành công vẻ đẹp của con người đặc biệt là người phụ nữ rất thành thực với
những khát vọng nhục thể như là một nhu cầu tự nhiên của con người.
2.2. “Dệt cửi” hay là…
Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phau
Con cò mấp máy suốt đêm thâu
Hai chân đạp xuống năng năng nhắc
Một suốt đâm ngang thích thích mau
Rộng hẹp nhỏ to vừa vặn cả
Ngắn dài khuôn khổ cũng như nhau
15
Chuyên đề bồi dưỡng HSG
Cô nào muốn tốt ngâm cho kĩ
Chờ đến ba thu mới dãi màu
Nhan đề bài thơ mách bảo người đọc bài thơ nói về chuyện dệt cửi và quả thực
đúng là nói chuyện dệt cửi. Khung cảnh đêm khiến ta nghĩ ngay đến một cô thợ dệt rất
đỗi chăm chỉ, một ngọn đèn soi tỏ cái màu trắng của những suốt sợi, soi đến từng cái bộ
phận của khung cửi: nào con cò (đặt ở trên và chính giữa khung cửi để thắng sợi, làm
chuẩn mực cho cái go khỏi chệch), nào suốt (ống suốt cuốn chỉ, nằm trong ruột con thoi
để nhả sợi), nào khuôn khổ… soi tỏ đến từng động tác của con người và những bộ phận
của khung cửi: nào là “Hai chân đạp xuống năng năng nhắc”, nào là “Một suốt đâm
ngang thích thích mau”. Nhưng càng miêu tả chính xác, rõ ràng những động tác trong
công việc dệt cửi của người phụ nữ trong đêm thì cái nghĩa hàm ẩn, cái nghĩa chìm càng
nổi rõ: hành động tính giao, hành động luyến ái của trai gái. Cái hay và hấp dẫn của bài
thơ này là ở chỗ câu nào cũng rất gợi hình, nhất là 4 câu sau: lời bình luận của nhà thơ
vừa khớp với cái nghĩa thứ nhất vừa làm nổi lên cái nghĩa thứ hai đầy thích thú.
Có thể nói, Hồ Xuân Hương là nhà thơ cổ điển táo bạo nhất, thành thực nhất với
chính mình. Từ biểu tượng của sinh thực khí đến những hình ảnh giao hoan nam nữ đều
hiện lên sinh động trên nền ngôn ngữ diễm lệ. Những biểu tượng phồn thực trong thơ
Hồ Xuân Hương tục mà thanh, không hề dậy lên những ấn tượng, những cảm giác nhục
dục không lành mạnh cho người đọc. Biểu tượng ám ảnh của tín ngưỡng văn hóa lâu
đời của ông cha ta, hình ảnh thiêng liêng và trần tục nhất của con người được nữ thi sĩ
đem vào con đường thơ như một thứ vũ khí để tát vào mặt bọn quan lại thống trị, bọn
vua chúa phong kiến, bọn trí thức nghêu ngao, nhưng đã bị tha hóa về đạo đức. Đó là
tiếng nối phản kháng nhưng cũng chính là tiếng cười trào lộng, hài hước. Lời phê phán,
đả kích mạnh mẽ đến thế thật hiếm thấy trong thơ một người đàn bà luôn phải cô độc, lẻ
loi chống chọi với lễ giáo phong kiến như Hồ Xuân Hương.
Những bài thơ thể hiện sự ám ảnh đến chuyện tình dục như một bản thể sinh dục tự
nhiên, như đặc điểm của tín ngưỡng phồn thực mà bà luôn ca ngợi chiếm số lượng
không nhỏ trong thế giới thơ của Xuân Hương. Theo bà, giao hòa nam nữ là một chuyện
hoàn toàn bình thường. Tín ngưỡng phồn thực đem ra thờ sinh thực khí đã chứng minh
cho Hồ Xuân Hương không hề đem bản năng, khát vọng luyến ái của mình đi quá xa.
Đề cập đến tình dục như một nhu cầu, một khát vọng thì Hồ Xuân Hương là người duy
nhất đi trước thế hệ của bà hàng trăm năm. Và tất nhiên, Hồ Xuân Hương sẽ mãi luôn
tìm được tiếng nói đồng tình khi sống trên đất nước mà phồn thực đã trở thành tín
ngưỡng văn hóa.
Song đó chưa phải là tất cả cốt lõi giá trị trong thơ Hồ Xuân Hương, điều đặc biệt
trong lối thơ phồn thực của bà là đã làm nhiệm vụ của tiếng nói nhân văn cao cả. Đó là
16
Chuyên đề bồi dưỡng HSG
tiếng nói mạnh mẽ, táo bạo nhất của người đàn bà phải sống trong vòng vây phong kiến.
Đồng cảm với người đàn bà thì có rất nhiều nhà văn, nhà thơ nhưng hiếm người đem cái
tinh hoa trời phú cho từng giới mà đồng cảm. Hồ Xuân Hương quan tâm đến hạnh phúc
cá nhân, nhất là hạnh phúc người phụ nữ. Hôn nhân với người đàn bà không phải là một
cuộc chơi và người đàn bà không phải là một thứ đồ chơi.
Muốn nói gì thì nói tình dục – cái cốt lõi của phồn thực, đóng một vai trò quan
trọng trong hôn nhân và cuộc sống. Chỉ là Hồ Xuân Hương dám nói thẳng vào điều đó
và ca ngợi nó một cách thành thực nhất ở thời đại mà bà đang sống. Là người phụ nữ
mà đường tình duyên không mấy thuận lợi, lại sống trong xã hội không thừa nhận yêu
đương và tự do yêu đương, vì thế mà Hồ Xuân Hương cay đắng lên tiếng.Văn hóa
phương Đông ngần ngại khi nói đến tình dục, đến giao hoan nam nữ Hồ Xuân Hương
không ngần ngại khi nói về những chuyện đó, hơn nữa còn mang đến cho nó những vẻ
đẹp riêng bằng “lễ hội” ngôn từ. Xuyên thấm trong từng trang viết, điều làm nên tinh
hoa thơ Hồ Xuân Hương ấy chính là những cảm xúc đầy nhân văn của chính nữ sĩ. Yếu
tố phồn thực trong thơ Hồ Xuân Hương biểu hiện ở một mức độ lành mạnh và khỏe
khoắn. Hồn thơ phồn thực trong Hồ Xuân Hương đã đạt đến độ cao nhất của nghệ thuật
biểu hiện tư tưởng nhân đạo, gần như đứng chênh vênh trên bờ vực thẳm của chủ nghĩa
tự nhiên mà không bao giờ sa xuống vực. Đúng như lời ca ngợi của các nhà nghiên cứu,
phê bình văn học: “Chính quan niệm bình thường, coi tình dục là một đặc tính hết sức
tự nhiên của con người cho nên Hồ Xuân Hương đã tìm đến tự nhiên để gửi gắm tư
tưởng của mình”.
17
Chuyên đề bồi dưỡng HSG
C. PHẦN KẾT LUẬN
1. Với những gì đã thể hiện, quả thực Hồ Xuân Hương đã đánh dấu sự xuất hiện của
“con người trần tục, nhục cảm” trong thơ nhằm “khẳng định nhu cầu sống tự nhiên của
con người” (GS. Trần Đình Sử). Nếu ở giai đoạn trước văn nhân chỉ chú ý đến đời sống
tinh thần thì nay người ta đã quan tâm nhiều hơn đến con người trần tục đặc biệt ở
phương diện quyền được hưởng những hạnh phúc trần thế nhất. Và tiếng thơ Hồ Xuân
Hương không chỉ đóng vai trò “khởi xướng” mà còn đảm nhận vai trò “lĩnh xướng”,
ngợi ca và bảo vệ quyền lợi ấy của con người, nhất là người phụ nữ. Hồ Xuân Hương
quả không hổ là nhân vật của thời đại mình không chỉ bởi tiếng thơ thấm đẫm hơi thở
nhân văn, nhân đạo mà còn bởi lần đầu tiên, những vấn đề của người phụ nữ được nhìn
nhận bằng con mắt của chính người phự nữ một cách thành thực nhất, sâu sắc nhất. Qua
đó, đề cao triết lí “ca ngợi sự sống, ca ngợi bản chất tự nhiên của con người, khuyến
khích con người sống và phát triển theo tự nhiên, chống lại những gì cản trở con người
được sống theo tự nhiên” (Đỗ Lai Thúy).
Đọc thơ Hồ Xuân Hương, người đọc luôn có cảm giác hứng khởi và đôi khi rất hả hê
bởi lẽ lời thơ ấy không chỉ thành thực lên tiếng cho những khát khao nồng nhiệt và rất
đỗi tự nhiên của con người mà còn chĩa thẳng vào những đối tượng khác mà có thể tóm
gọn trong mấy chữ: những kẻ đạo đức giả trong xã hội phong kiến cũ. Xuân Hương là
một người phụ nữ táo bạo nhất của nền văn học cổ điển đã giám dứng lên chống lại
phong kiến bằng tiếng cười trào lộng qua những biểu tượng ám ảnh con người. Chúng
ta ca ngợi và cảm phục nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương đã đề cao con người với những nhu
cầu tự nhiên nhất, trần tục nhất bằng tất cả niềm khát khao yêu đương, hạnh phúc của
chính mình, của những người phụ nữ thời đại mình; bằng tất cả tài năng thơ xuất chúng
của một kỳ nữ trong văn học trung đại Việt Nam.
2. Việc giảng dạy thơ Hồ Xuân Hương là việc các bậc học phổ thông ở Việt Nam đã
làm từ lâu nhưng có lẽ điều mà những người dạy như chúng ta vẫn hằng băn khoăn trăn
trở sẽ chưa có điểm dừng. Bởi lẽ, dạy – học là một lẽ nhưng dạy thế nào và học như thế
nào để hiểu cho đúng, cho sâu để cảm cho thấm thì mới là điều quan trọng, đòi hỏi
nhiều tâm huyết và tinh huyết. Đối với những học sinh ở lớp chuyên Văn trường THPT
Chuyên, đặc biệt là học sinh đội tuyển học sinh giỏi văn thì đó lại càng trở nên quan
trọng, trở thành đòi hỏi cấp thiết. Đề truyền được niềm say mê khám phá tới các em,
hẳn mỗi người dạy như chúng ta phải là người thấu suốt trước tiên. Để đạt hiệu quả
giảng dạy, đặc biệt với vấn đề thơ Hồ Xuân Hương thiết nghĩ không chỉ dừng lại ở việc
cắt nghĩa từng bài thơ, hình tượng thơ mà cần thấy được cái nhìn riêng trong “dòng
chung” tư tưởng của văn học trung đại Việt Nam mà một trong số đó là sự vận động và
18
Chuyên đề bồi dưỡng HSG
đánh dấu sự ra đời của những quan niệm nghệ thuật mới về con người ở từng giai đoạn
trong tiến trình lịch sử văn học. Từ cái nhìn mang tính chất hệ thống ta sẽ đánh giá đúng
đắn về những đóng góp lớn lao của Hồ Xuân Hương đối với văn học nước nhà trên
nhiều phương diện. Mặt khác, cũng cần đặt sáng tạo trong văn học nói chung và sáng
tạo trong thơ Hồ Xuân Hương nói riêng trong mối quan hệ với những loại hình văn hóa
khác để thấy được sự xuyên thấm mạnh mẽ của văn hóa đến thi ca, để thấy được sự tác
động trở lại đời sống văn hóa của con người một cách bền bỉ và sâu sắc của thi ca nghệ
thuật.
19
Chuyên đề bồi dưỡng HSG
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Bộ giáo dục và đào tạo. Tài liệu tập huấn giáo viên trường THPT Chuyên. HN
2010.
2.
Đỗ Lai Thúy. Bút pháp của ham muốn. NXB Tri thức 2009.
3.
Hà Minh Đức. Lí luận văn học. NXB GD. HN 2001.
4.
Hồ Xuân Hương thơ và đời. NXB Văn học. HN 2000.
5.
Phương Lựu. Lí luận văn học. NXB GD. HN 2003.
6.
Trần Đình Sử. Lí luận văn học (tập 2). NXB GD. HN 2010.
7.
Trần Ngọc Thêm. Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam. NXB Tổng hợp TP HCM.
8.
Xuân Diệu. Các nhà thơ cổ điển Việt Nam. NXB Văn học. HN 1998.
20
Chuyên đề bồi dưỡng HSG