1
Câu 1: Quản lý rừng cộng đồng: khái niệm, phân loại? Hiện nay có nhiều trường hợp cộng
đồng không mặn mà với chính sách giao rừng, hoặc ít tích cực bảo vệ rừng được giao. Anh/chị hãy
thử lý giải nguyên nhân của hiện tượng này?
1. Quản lý rừng cộng đồng
a) Khái niệm
Cộng đồng tham gia quản lý rừng cũng có thể thay thế bằng một từ chung nhất là lâm nghiệp cộng
đồng (LNCÐ). Theo FAO, LNCÐ là thuật ngữ bao trùm diễn tả hàng loạt các hoạt động gắn người dân
với rừng, cây, các sản phẩm của rừng và việc phân chia lợi ích các sản phẩm này.
Hiện nay, ở Việt Nam có những quan điểm khác nhau về LNCÐ và chưa có một định nghĩa chính
thức nào được công nhận. Tuy nhiên, qua các cuộc hội thảo dường như mọi người đều thống nhất ở Việt
Nam có hai hình thức quản lý rừng cộng đồng phù hợp với định nghĩa của FAO như sau:
- Thứ nhất là quản lý rừng cộng đồng:
Ðây là hình thức mà mọi thành viên của cộng đồng tham gia quản lý và ăn chia sản phẩm hoặc
hưởng lợi từ những khu rừng thuộc quyền quản lý, sử dụng, sở hữu của cộng đồng hoặc thuộc quyền sử
dụng chung của cộng đồng.
Rừng của cộng đồng là rừng của thôn dã được quản lý theo truyền thống truớc dây (quản lý theo
các luật tục truyền thống), rừng trồng của các hợp tác xã, rừng tự nhiên đã được giao cho các hợp tác xã
trước đây mà sau khi chuyển đổi hoặc giải thể, hợp tác xã đã giao lại cho các xã hoặc các thôn quản lý.
Những diện tích rừng này có thể Nhà nuớc chưa cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đã công
nhận quyền sử dụng đất của cộng đồng, song trên thực tế, mặc nhiên cộng đồng đang tự tổ chức quản lý
sử dụng và hưởng lợi từ những khu rừng đó.
Như vậy, thực chất “quản lý rừng cộng đồng” là cộng đồng dân cư thôn quản lý rừng thuộc quyền
sở hữu hoặc thuộc quyền sử dụng chung của cộng đồng, được hình thành chủ yếu thông qua chính sách
giao đất, giao rừng cho cộng đồng dân cư thôn.
Tóm lại hình thức quản lý này bao gồm các đối tuợng chính sau:
+ Cộng đồng trực tiếp quản lý những diện tích rừng hoặc những đám cây gỗ của họ từ lâu đời.
+ Cộng đồng trực tiếp quản lý những khu rừng được Nhà nuớc giao.
+ Các hoạt động mang tính chất lâm nghiệp khác do cộng đồng tổ chức phục vụ lợi ích trực tiếp
cho cộng đồng.
Cũng cần nói thêm rằng theo Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004, có quy định nếu cộng dồng
được giao rừng tự nhiên thì cộng đồng chỉ có quyền sử dụng chứ không có quyền sở hữu khu rừng đó và
được thực hiện thông qua chính sách hưởng lợi từ rừng, đương nhiên nếu cộng đồng quản lý rừng trồng
được hình thành bằng nguồn vốn tự có của mình thì cộng đồng có quyền sở hữu khu rừng đó.
- Thứ hai là quản lý rừng dựa vào cộng đồng:
Ðây là hình thức cộng đồng tham gia quản lý các khu rừng không thuộc quyền quản lý, sử dụng,
sở hữu chung của họ mà thuộc quyền quản lý, sử dụng sở hữu của các thành phần kinh tế khác nhưng có
quan hệ trực tiếp đến đời sống, đến việc làm, thu hoạch sản phẩm, thu nhập hay các lợi ích khác của cộng
đồng (thuỷ lợi nhỏ, nuớc sinh hoạt…).
Hình thức này có thể chia thành hai đối tượng:
+ Rừng của hộ gia dình, cá nhân là thành viên trong cộng đồng. Cộng đồng tham gia quản lý với
tính chất hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau, chia sẻ lợi ích cùng nhau trên cơ sở tự nguyện (tạo thêm sức mạnh để
bảo vệ rừng, hỗ trợ hoặc đổi công cho nhau trong các hoạt dộng lâm nghiệp…).
+ Rừng thuộc quyền quản lý, sử dụng, sở hữu của các tổ chức nhà nuớc (các ban quản lý rừng
phòng hộ, đặc dụng, các lâm trường, công ty lâm nghiệp nhà nuớc, các trạm trại…) và các tổ chức tư
nhân khác. Cộng đồng tham gia các hoạt động lâm nghiệp như bảo vệ, khoanh nuôi, xúc tiến tái sinh,
phục hồi rừng, trồng rừng với tư cách là người làm thuê thông qua các hợp dđồng khoán và hưởng lợi
2
theo các cam kết trong hợp đồng.
Tại Hội thảo quốc gia “Những kinh nghiệm và tiềm năng của QLRCÐ ở Việt Nam” tổ chức tại Hà
Nội vào tháng 6/2000, phần lớn các đại biểu đã thống nhất hai hình thức quản lý trên đều thuộc LNCÐ
hay cộng đồng tham gia quản lý rừng.
Từ sự phân tích trên cho thấy, LNCÐ và quản lý rừng cộng đồng là hai khái niệm khác nhau.
Thuật ngữ quản lý rừng cộng đồng được sử dụng với nghĩa hẹp hơn thuật ngữ lâm nghiệp cộng dồng.
Thuật ngữ này được sử dụng khi đề cập đến việc quản lý những khu rừng của một cộng đồng dân cư, còn
nói đến LNCÐ hay cộng đồng tham gia quản lý rừng chính là diễn tả hàng loạt các hoạt động gắn nguời
dân trong cộng đồng dân cư thôn với rừng, cây, các sản phẩm của rừng và việc phân chia lợi ích từ rừng.
Hay nói cách khác, LNCÐ là một hình thức quản lý, bảo vệ, sử dụng và phát triển rừng do cộng đồng dân
cư thôn thực hiện bao gồm cả rừng của cộng đồng và rừng của các thành phần kinh tế khác.
Với cách hiểu như vậy nên chấp nhận LNCÐ bao gồm cả quản lý rừng cộng đồng (cộng đồng
quản lý rừng của cộng đồng) và quản lý rừng dựa vào cộng đồng (cộng đồng quản lý rừng của các chủ
rừng khác). Khái niệm này vừa phù hợp với định nghĩa của FAO vừa phát huy được nhiều hơn sự đóng
góp của cộng đồng vào quản lý, bảo vệ, xây dựng và phát triển rừng.
b) Phân loại
- Quản lý dựa vào niềm tin, tôn giáo, văn hóa truyền thống cộng đồng (dòng tộc, dân tộc):
+ Rừng thiêng; rừng ma;
+ Rừng mó nước (khu vực bảo vệ nguồn nuớc cung cấp trực tiếp cho cộng đồng);
+ Bảo tồn dựa vào đạo đức văn hóa;
+ Các nhóm tự hình thành – mức độ thành công phụ thuộc vào khả năng lồng ghép thực thi các
quy định phù hợp với bối cảnh địa phương;
- Chương trình quản lý dựa vào cộng đồng do chính phủ khởi xướng: lồng ghép các công cụ quản
lý và sử dụng bền vững nguồn TN bao gồm kỹ năng lập kế hoạch, kỹ năng quản lý, quyền lực nhằm kiểm
soát việc sử dụng và phân chia quyền lợi từ các nguồn tài nguyên (Ðây là hình thức tổ chức quản lý rừng
cộng đồng chủ yếu hiện nay. Hình thức tổ chức này dựa trên cơ sở vị trí địa lý và khu vực người dân sinh
sống. Phần lớn các thôn đều xây dựng quy ước/hương uớc quản lý và bảo vệ rừng cộng đồng, tổ chức lực
lượng tuần tra rừng chuyên trách hoặc phân công luân phiên các hộ gia đình trong thôn. Truởng thôn điều
hành các công việc chung liên quan đến bảo vệ rừng cộng đồng).
- Sáng kiến của các tổ chức NGO.
- Hiện nay, đồng quản lý là loại hình mới đang tập trung được sự quan tâm của nhiều tổ chức, cơ
quan nghiên cứu. Đã có nhiều mô hình đồng quản lý được triển khai và đạt được kết quả khả quan.
2. Nguyên nhân của hiện tượng có nhiều trường hợp cộng đồng không mặn mà với chính
sách giao rừng, hoặc ít tích cực bảo vệ rừng được giao
a) Địa vị pháp lý của cộng đồng dân cư thôn chưa thực sự rõ ràng
Mặc dù Luật đất đai 2003, Luật BV&PTR 2004 và một số văn bản khác của Nhà nước quy định
cộng đồng dân cư thôn thuộc đối tượng giao đất, giao rừng, có quyền quản lý và sử dụng rừng nhưng địa
vị pháp lý của cộng đồng vẫn chưa đầy đủ và rõ ràng. Bộ Luật dân sự 2005 quy định một tổ chức được
công nhận là một pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau: Ðược cơ quan có thẩm quyền thành lập hoặc
công nhận; có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; có tài sản; tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Cộng đồng dân cư thôn chưa hội đủ các điều kiện trên nên không phải là một pháp nhân. Nếu giao rừng
cho cộng đồng dân cư thôn, khi có xẩy ra tranh chấp dân sự với chủ thể khác hoặc có vi phạm pháp luật
thì cơ quan pháp luật không thể giải quyết được.
Vấn đề ở đây là trong khi địa vị pháp lý của cộng đồng dân cư thôn chưa rõ ràng cho giao đất,
giao rừng và quản lý rừng nhưng lại thiếu những nghiên cứu bổ sung vào các luật có liên quan.
b) Quy định về cơ chế hưởng lợi chưa rõ ràng, chưa cụ thể
3
Chính phủ đã ban hành quyết định số 178/2001/QĐ-TTg ngày 12/11/2001 về quyền hưởng lợi,
nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân được giao, được thuê, nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp . Quyết định
này áp dụng cho cá nhân, hộ gia đình được giao, được thuê, nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp, chưa đề
cập đến quyền lợi của chủ thể quản lý rừng là cộng đồng dân cư thôn bản.
Theo quyết định 178/2001/QĐ-TTg thì đa số các khu rừng được giao chưa đạt tiêu chuẩn rừng
khai thác theo các quy định hiện hành, cần phải khoanh nuôi, xúc tiến tái sinh tự nhiên, làm giàu rừng và
như vậy người quản lý rừng phải chờ đợi, điều này không đáp ứng được nhu cầu trước mắt cũng như
nguyện vọng của người dân, cộng đồng nên đã làm người dân đứng ngoài cuộc
Sau giao đất giao rừng, người dân chưa được hưởng lợi nhiều từ rừng, rừng chưa trở thành một
thành tố sinh kế ở vùng cao.
c) Quy trình lâm sinh hiện tại không phù hợp để áp dụng trong điều kiện của cộng đồng dân tộc
thiểu số ;
Đa số các khu rừng được giao chưa đạt tiêu chuẩn rừng khai thác nên cộng đồng không rõ khi nào
thì rừng của họ đạt tiêu chuẩn khai thác, tiêu chuẩn đó là gì và có nhận biết được hay không? Có nhận
biết được thì ai hay cơ quan nào sẽ xác nhận điều này để họ có thể tiến hành khai thác để hưởng lợi? Thủ
tục hợp pháp để tiến hành khai thác được quy định như thế nào? Hạn mức, số lượng mỗi lần khai thác
được là bao nhiêu?… Chính điều này đã hạn chế mối quan tâm của người dân, cộng đồng.
d) Kế hoạch quản lý rừng cộng đồng chưa được thừa nhận và thể chế hoá như một phương án kinh
doanh rừng hay phương án điều chế rừng cộng đồng.
Các bản kế hoạch này mới được thừa nhận như là kế hoạch quản lý rừng mục đích sử dụng rừng
nội bộ, phi thương mại. Khai thác gỗ từ rừng tự nhiên của cộng đồng cho mục dích thương mại chưa được
thừa nhận, kế hoạch khai thác gỗ từ rừng tự nhiên do cộng đồng quản lý chưa được đưa vào “hạn ngạch”
hàng năm của các địa phương. Bản kế hoạch quản lý rừng cộng đồng không được xem là phương án kinh
doanh hay phương án điều chế rừng tự nhiên của cộng đồng, trong khi thực tế chỉ ra rằng sự cần thiết phải
được xem nó như một phương án điều chế rừng cho rừng cộng đồng.
e) Thiếu các giải pháp tiếp cận kỹ thuật, cơ chế chính sách để hỗ trợ cộng đồng lập kế hoạch quản
lý rừng bền vững và hưởng lợi từ rừng
Hoạt động khuyến lâm hầu như chưa phát huy được vai trò, hiệu quả đạt được rất hạn chế.
Thủ tục hiện tại trong kinh doanh, sử dụng rừng là rất phức tạp, gồm nhiều bước với sự phê duyệt
của nhiều cơ quan làm người dân, cộng đồng khó có thể tiếp cận.
Ngoài ra, còn có một số nguyên nhân khác tùy thuộc đặc điểm từng vùng, từng loại hình giao đất,
loại hình quản lý. Do vậy, nguyên nhân của vấn đề cần phải được xem xét toàn diện, tổng hợp ở nhiều
khía cạnh khác nhau để có những đánh giá chính xác, hợp lý, khách quan.
Câu 2: Nêu khái niệm ‘Phát triển bền vững’. Phân tích và cho ví dụ minh họa về cơ sở và
cách tiếp cận đối với phát triển bền vững.
1. Khái niệm Phát triển bền vững
Thỏa mãn các nhu cầu hiện tại và không làm tổn hại đến sự thỏa mãn nhu cầu trong tương lai,
đảm bảo sử dụng đúng mức và ổn định TNTN, môi trường sống (WCED, 1983).
2. Các cơ sở của Phát triển bền vững
- Sử dụng lâu dài các TN không tái tạo bằng tái chế, tránh lãng phí, sử dụng ít hoặc thay thế ->
giảm sự khánh kiệt TNTN.
Ví dụ: nguồn than đá nước ta là loại tài nguyên có thể tái tạo nhưng phải trải qua quá trình hàng
chục, hàng trăm thế kỷ. Nếu chúng ta không sử dụng một cách tiết kiệm, hiệu quả mà sử dụng lãng phí,
xuất khẩu ồ ạt không theo quy hoạch thì một lúc nào đó chúng ta lại phải nhập khẩu than đá để phục vụ
các hoạt động khác.
- Bảo tồn tính đa dạng sinh học, sử dụng lâu bền bằng cách quản lý phương thức và mức độ sử
4
dụng, làm cho TN vẫn tiếp tục tái tạo.
Ví dụ: hệ sinh thái rừng tự nhiên là một trong những hệ sinh thái có mức độ đa dạng sinh học bậc
nhất của trái đất. Tuy nhiên, nếu rừng bị tàn phá quá mức làm suy giảm diện tích, chất lượng sẽ làm giảm
độ đa dạng sinh học, cạn kiệt nguồn tài nguyên, gây ảnh hưởng đến cuộc sống, sự tồn tại của con người.
Do vậy, cần phải nâng cao ý thức, trách nhiệm trong công tác bảo vệ rừng.
- Duy trì các hệ sinh thái tự nhiên đảm bảo hoạt động trong giới hạn sức chứa của trái đất.
Ví dụ: Bảo vệ hệ sinh thái rừng tự nhiên trên trái đất là bảo vệ “lá phổi xanh của hành tinh” góp
phần vào bảo đảm môi trường sinh thái, duy trì trạng thái cân bằng của hành tinh, do đó góp phần đảm
bảo sự sống nói chung trên trái đất.
3. Cách tiếp cận đối với phát triển bền vững
a) Tiếp cận mang tính đạo đức:
- Định luật Pareto về sự cải thiện tối ưu: “Khi phát triển ít nhất là có một người khá lên nhưng
không có ai bị tồi đi”.
- Nguyên tắc đền bù do tồn hại môi trường.
- Trợ giúp tài chính đối với các nước nghèo.
- Lợi ích, trách nhiệm lâu dài hơn là lợi ích trước mắt.
- Phát triển tiến bộ KHKT để tối ưu hóa việc sử dụng TN.
Ví dụ: các nước tham gia nghị định thư Kyoto về giảm phát thải khí nhà kính, trong đó có nội
dung yêu cầu các nước công nghiệp phát triển sả thải khí công nghiệp nhiều phải trả tiền cho các nước có
diện tích rừng lớn, các nước có công tác bảo vệ rừng tốt hoặc phải trực tiếp hỗ trợ các nước đang phát
triển, kém phát triển thực hiện. Vì vậy, hàng năm nước ta có nhiều dự án nước ngoài hỗ trợ kinh phí, kỹ
thuật, chuyên gia,… cho công tác bảo vệ, phát triển rừng như: Dự án Khôi phục và quản lý rừng bền vững
(KfW6), Dự án Phát triển ngành lâm nghiệp (WB3),…
b) Tiếp cận kinh tế
- Tăng trưởng bền vững kinh tế: tối đa lượng hàng hóa cực đại có thể tiêu thụ mà không làm giảm
giá trị tài sản vốn có.
- Sử dụng tài nguyên có thể tái tạo: tổng giá trị không bị suy giảm theo thời gian, chất lượng cuộc
sống cũng như chất lượng môi trường.
- Đảm bảo trạng thái bền vững kinh tế: tiêu chuẩn an toàn tối thiểu.
Ví dụ: cấp chứng chỉ rừng (FSC) cho các tổ chức, tập thể,… có đủ điều kiện trong kinh doanh gỗ
là một hình thức tiếp cận theo hướng đảm bảo kinh tế, trong đó sản phẩm được cấp chứng chỉ rừng có giá
trị tăng hơn từ 30%-50% so với sản phẩm cùng loại không được cấp chứng chỉ.
c) Tiếp cận sinh thái
- Tính hồi phục;
- Năng suất sinh học;
- Tính bền vững.
Ví dụ: Quan điểm phát triển rừng bền vững luôn đảm bảo 3 yếu tố là kinh tế - xã hội và sinh thái.
Theo đó hướng tiếp cận theo quan điểm sinh thái luôn được ưu tiên. Chẳng hạn: Dự án Khôi phục và
quản lý rừng bền vững (KfW6) đang triển khai trên địa bàn tỉnh Bình Định, có một hợp phần là khôi phục
các hệ sinh thái rừng thông qua hình thức khoanh nuôi tái sinh tự nhiên và khoanh nuôi tái sinh tự nhiên
kết hợp trồng bổ sung. Dự án nhấn mạnh việc hồi phục các trạng thái rừng đã bị tác động để hình thành
hệ sinh thái rừng nguyên trạng trước đây nhằm phát huy được ưu điểm điều kiện lập địa, khí hậu qua đó
tăng năng suất sinh học rừng cũng như tính bền vững của hệ sinh thái rừng tự nhiên.
Câu 3: Các yếu tố ảnh hưởng đến xói mòn đất do nước. Nêu 3 mô hình sử dụng đất hiệu quả
5
mà anh/chị biết.
1. Các yếu tố ảnh hưởng đến xói mòn đất do nước
a) Lượng mưa
- Xói mòn do giọt nước mưa
Xói mòn do giọt nước mưa gọi là xói mòn giọt, đất hấp thu nước mưa và dẫn đến hiện tượng xói
mòn đất. Những hạt đất ở bề mặt đất bị mưa đánh vỡ làm kết cấu bị phá hoại. Do độ dốc của đất mặt, thời
gian hạt đất quay trở về mặt đất theo hướng xuống dưới làm số lượng các hạt đất ở phía dưới nhiều hơn
cho nên làm cho chúng di động.
- Xói mòn đất mặt do tác dụng của dòng chảy bề mặt
Hiện tượng xói mòn do dòng chảy bề mặt gọi là xói mòn mặt.
Dòng chảy bề mặt trên mặt đất dốc tạo ra sự phân tán và rửa trôi các hạt nhỏ của đất. Tùy theo
cường độ mưa, độ dốc mà dòng chảy bề mặt có thể gây ra xói mòn rãnh nhỏ hay xói mòn rãnh lớn, thậm
chí là gây ra xói mòn lũ lụt.
b) Độ che phủ mặt đất
Độ che phủ mặt đất có ảnh hưởng rất lớn đến xói mòn đất. Mặt đất có độ che phủ cao sẽ hạn chế
tình trạng xói mòn đất và ngược lại.
Trên đất có hệ sinh thái rừng thì hạn chế rất tốt tình trạng xói mong đất. Tán rừng có tác dụng
ngăn cản và giữ lại một phần nước mưa không cho chảy xuống đất rừng. Gốc cây rừng cùng với cây bụi
thảm tươi làm giảm tốc độ dòng chảy trên mặt đất, tạo điều kiện cho nước thấm từ từ vào trong đất. Tầng
thảm mục rừng có khả năng hút nước rất lớn. Hệ rễ cây rừng và hang hốc động vật trong rừng làm tăng
khả năng hút nước của đất. Nhờ tác dụng tổng hợp nhu vậy, rừng có khả năng chống xói mòn, bảo vệ độ
phì đất đai và nuôi dưỡng nguồn nước. Vai trò này chính là vai trò thủy văn của rừng, thể hiện rõ nhất ở
các rừng đầu nguồn phân bố ở những vùng núi cao.
c) Địa hình
Địa hình cũng là nhân tố có ảnh hưởng lớn đến xói mòn đất, nhất là trong loại hình xói mòn đất do
dòng chảy bề mặt. Nơi có địa hình bằng phẳng sẽ hạn chế được xói mòn do dòng chảy bề mặt, ngược lại
nơi có địa hình dốc dễ chịu tác động của dòng chảy bề mặt nên dễ xảy ra tình trạng xói mòn đất.
2. Ví dụ về 3 mô hình sử dụng đất hiệu quả
- Khu vực Tây nguyên có mô hình trồng cây muồng đen làm cây chắn gió cho rẫy cà phê, khi cây
muồng lớn thì kết hợp làm trụ để trồng cây tiêu. Đây là mô hình nông lâm kết hợp đã phát huy được hiệu
quả trong nhiều năm trở lại đây. Người sản xuất đã nâng cao được thu nhập trên đơn vị diện tích.
- Khu vực Tây nguyên có mô hình trồng cây sầu riêng, cây bơ xen giữa các hàng cây cà phê, xung
quanh bờ trồng cây chuối. Đây là mô hình nông lâm kết hợp đã phát huy được hiệu quả trong nhiều năm
trở lại đây. Người sản xuất đã nâng cao được thu nhập trên đơn vị diện tích.
- Trên địa bàn huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định: có mô hình trồng keo lai kết hợp trồng điều, khi
rừng chưa khép tán trồng xen cây sắn (cây mì) hoặc trồng xen cây ngô (cây bắp). Đây là mô hình nông
lâm kết hợp đã phát huy được hiệu quả trong nhiều năm trở lại đây, vừa hạn chế được xói mòn đất vừa
nâng cao được thu nhập trên đơn vị diện tích.
- Trên địa bàn huyện Vân Canh, tỉnh Bình Định: có mô hình trồng keo lai phía đỉnh đồi, phía dưới
thấp trồng cây trầm hương, nuôi gà dưới tán rừng trầm hương. Đây là mô hình nông lâm kết hợp đã được
hiệu quả trong nhiều năm trở lại đây.
- Trên địa bàn huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định: có mô hình trồng keo lai xung quanh làm hàng rào
chắn gió, phía trong trồng cây chè. Đây là mô hình nông lâm kết hợp đã được hiệu quả trong nhiều năm
trở lại đây.
Câu 4: Các nguyên nhân chủ yếu gây mất rừng trên thế giới? Liên hệ và cho ví dụ cụ thể ở
Việt Nam.
6
1. Các nguyên nhân chủ yếu gây mất rừng trên thế giới
a) Xây dựng cơ sở hạ tầng
- Đường giao thông;
- Chợ và trung tâm mua sắm;
- Phát triển các vùng kinh tế mới và đô thị mới;
- Dịch vụ công cộng (điện, nước, vận tải,…);
- Phát triển: thủy điện, dầu mỏ, khai thác khoáng sản.
b) Phát triển, mở rộng ngành nông nghiệp
- Sự phát triển ngành trồng trọt: trồng lúa, cà phê,… quy mô lớn và nhỏ; lương thực cho sự sống;
sản xuất cho thương mại và xuất khẩu.
- Coi trọng ngành trồng trọt: phá rừng làm nương rẫy; canh tác truyền thống (du canh du cư).
- Chăn nuôi gia súc: gia súc lớn và nhỏ.
- Dự án định canh định cư, sự di cư.
c) Khai thác gỗ
- Phục vụ công nghiệp và thương mại: theo hạn ngạch nhà nước; khai thác trái phép; hình thức
khác
- Khai thác gỗ nhiên liệu: gỗ, củi.
- Đồ gia dụng trong gia đình.
- Sản xuất than: sử dụng trong công nghiệp và gia đình.
d) Nguyên nhân khác
- Ảnh hưởng của các nhân tố môi trường: đặc trưng đất; ô nhiễm đất; địa hình, địa thế;
- Quá trình sinh lý: diễn thế rừng; cháy rừng; hạn hán, lũ lụt, lở núi, triều cường; sâu bệnh; súc vật
phá hoại,…
- Các nhân tố xã hội: chiến tranh, quy hoạch, khai thác bừa bãi, các tác động bất ngờ, đột ngột;
khủng hoảng kinh tế; sự thay đổi chính sách của nhà nước,…
e) Nhân tố khác
- Nhân tố Dân số: gia tăng dân số tự nhiên; gia tăng dân số cơ học; mật độ dân số lớn; phân bố dân
số không đều; sự phát triển cuộc sống trong tương lai.
- Nhân tố Nền kinh tế: gỗ trở thành hàng hóa thương mại; kết cấu nền kinh tế; đô thị hóa và công
nghiệp hóa; sự thay đổi đặc biệt (thay đổi giá cả thị trường lâm sản, lợi ích so với các loại hàng hóa khác,
…).
- Nhân tố Công nghệ: sự phát triển công nghệ nông nghiệp; công nghiệp đồ gỗ là một phần nền
kinh tế; sự phát nền sản xuất nông nghiệp.
- Nhân tố Chính sách và cơ quan quản lý: hình thức chính sách (chính sách phát triển nền kinh tế;
sự tin cậy, uy tín); cơ quan thực thi chính sách (năng lực quản lý kém, tham nhũng,…); tài sản có giá trị
(giá trị đất cao,…);
- Nhân tố văn hóa: ý thức công đồng; giá trị và sự kỳ vọng; hoạt động của cá nhân, hộ gia đình và
cộng đồng.
2) Những nhân tố chủ yếu gây mất rừng và suy thoái rừng ở Việt Nam
Tính trung bình, ở Việt Nam mỗi năm mất khoảng 62.000 ha rừng giai đoạn 2002-2009 (CKL
2010). Những nhân tố dẫn đến mất rừng và suy giảm rừng và những nguyên nhân sâu xa của chúng ở các
vùng rất khác nhau (Hoàng và các cộng sự 2010). Ví dụ, trong khi mất rừng ở vùng Ðông Bắc chủ yếu là
7
do chuyển đổi đất lâm nghiệp sang đất nông nghiệp để trồng màu thì ở vùng cao nguyên lại chủ yếu dể
trồng cây công nghiệp có giá trị cao hơn và cây lâu năm. Ở đồng bằng Sông Mê kông, một diện tích lớn
rừng đã bị chuyển sang nuôi tôm và nuôi trồng thủy sản (Ðoàn 2009, UN-REDD 2009). Hiểu rõ các điều
kiện địa phương là tiền đề khi thiết kế các nỗ lực nhằm hạn chế mất rừng và suy thoái rừng. Những nhân
tố gây mất rừng ở các giai đoạn lịch sử cũng khác nhau. Giai đoạn từ năm 1943 và những năm của thập
niên 1970, phần lớn rừng bị mất là do chiến tranh (UN-REDD và Bộ NN&PTNT 2010). Giai đoạn từ
những năm 1980 và 1990, mất rừng chủ yếu do mở rộng sản xuất nông nghiệp do dòng người di cư từ các
vùng thấp lên vùng cao có rừng (FORMIS, 2005). Gần đây, tỉ lệ mất rừng là do khai thác gỗ thiếu bền
vững và nhu cầu khai hoang lấy đất ngày càng cao (R-PP Vietnam 2011). Sau đây, tóm lược các yếu tố cơ
bản dẫn đến phá rừng và suy thoái rừng cũng như những nguyên nhân trực tiếp, gián tiếp và gốc rễ của
chúng.
2.1. Những nguyên nhân trực tiếp
Hiện nay, những nguyên nhân trực tiếp gây mất rừng gồm:
a) Chuyển đổi đất lâm nghiệp sang đất nông nghiệp, bao gồm cả đất trồng cây lâu năm giá trị cao;
Theo Cục Kiểm lâm Việt Nam (CKL 2010), mỗi năm có khoảng 25 000 ha đất lâm nghiệp đã bị
chuyển sang các mục tiêu sử dụng khác trong giai đoạn từ năm 2003 đến 2009. Phần lớn đất lâm nghiệp
được chuyển sang đất nông nghiệp, gồm cả các thửa, mảnh nhỏ và khu đất quy mô lớn. Những diện tích
dành để trồng cây công nghiệp như cà phê, cao su, tiêu và điều đã tăng lên rất nhanh chóng trong những
năm vừa qua.
b) Chuyển đổi đất lâm nghiệp để xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là để xây dựng các nhà máy
thủy điện
Ðể phát triển các công trình cơ sở hạ tầng quy mô lớn và nhanh chóng, những diện tích rừng lớn
đã phải chuyển đổi, mà chủ yếu là dể xây dựng các nhà máy thủy diện và đường lớn. Hơn nữa, việc xây
dựng cơ sở hạ tầng như đường, nhà máy diện, Chính phủ phải di dân địa phương và chuyển đổi đất lâm
nghiệp.
c) Khai thác gỗ không bền vững (cả khai thác hợp pháp và bất hợp pháp)
Khai thác gỗ được xem như là nguyên nhân chính dẫn đến suy thoái rừng. Nguyên nhân sâu xa
nhất của tình trạng này là công tác quản lý yếu kém đối với các hoạt động khai thác gỗ thương mại cũng
như việc lấy củi của các hộ dân địa phương. Trong truờng hợp này khai thác gỗ bao gồm cả ‘khai thác
hợp pháp’ và ‘bất hợp pháp’. Khai thác hợp pháp là thu hoạch gỗ theo kế hoạch để xuất khẩu, để làm
nguyên liệu sản xuất giấy và gỗ chống lò và các hoạt động khai thác gỗ thương mại quy mô lớn do chính
phủ cấp phép và khai thác thương mại quy mô nhỏ hơn. Khai thác bất hợp pháp thuờng là không được
nhà nuớc cấp phép, vì vậy bị coi là bất hợp pháp, trái phép.
d) Cháy rừng
Khoảng 6 triệu ha rừng của Việt Nam bị coi là có nguy cơ bị cháy cao (FCPF 2011). Theo Cục
Kiểm Lâm (2010) trung bình mỗi năm xảy ra khoảng 704 vụ cháy rừng trong giai đoạn 2002-2010, gây ra
mất trung bình 5.081,9 ha rừng hàng năm.
2.2. Những nguyên nhân gián tiếp
Những lý do gián tiếp chủ yếu gây mất rừng đã xác định gồm gia tăng cầu đối với các lâm sản và
đất nông nghiệp nảy sinh từ tình trạng dân số tăng, di dân, tăng trưởng kinh tế, gia tăng nhu cầu nguyên
liệu của ngành công nghiệp giấy và bột giấy, ngành xây dựng và chất dốt (Sunderlin và Huỳnh 2005). Tuy
nhiên, nguyên nhân sâu xa nhất của các nhân tố này lại xuất phát từ các chính sách khuyến khích khai
thác thiếu bền vững và chuyển đổi đất thiếu kế hoạch.
Theo dự báo, dân số của Việt Nam ước tính sẽ là 100 triệu người vào năm 2020, tăng 1,07 % mỗi
năm, dẫn đến sự gia tăng nhu cầu đối với thực phẩm, chất đốt và sản phẩm lâm nghiệp. Ðể giải quyết cả
vấn đề gia tăng dân số và mật độ dân số cao (FAO 2010), đặc biệt là ở các vùng đồng bằng ven biển mầu
mỡ, chính phủ đã đưa ra các chính sách di dân nông thôn, xây dựng các khu kinh tế mới dựa vào nông
nghiệp để thúc đẩy di dân đến các vùng miền núi và hải đảo. Những nguời di dân thuờng phá rừng để lấy
8
đất trồng trọt và chăn nuôi làm kế sinh nhai. Diện tích dất dành cho sản xuất lương thực và gỗ củi ngày
càng phải cạnh tranh với diện tích rừng trồng nhằm cung cấp nguyên liệu cho ngành giấy và gỗ, vì dân số
Việt Nam vẫn đang tiếp tục tăng và ngày càng giàu có hơn. Ngoài ra, những chính sách khuyến khích
trồng cây công nghiệp như cà phê, cao su, tiêu, điều,... cũng làm mất đất lâm nghiệp. Ðiều kiện sống duợc
cải thiện ở Việt Nam và sự phát triển trên toàn cầu làm tăng cầu đối với các sản phẩm gỗ và lâm sản, dẫn
đến việc diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp.
Những nguyên nhân sâu xa của tình trạng mất rừng và suy giảm rừng:
Như đã đề cập ở trên, những yếu tố kinh tế chính trị dẫn tới nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp làm
mất và suy giảm rừng. Một số yếu tố sâu xa dẫn đến phá rừng:
a) Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến, mất rừng và suy thoái rừng có thể được bắt nguồn từ các chính
sách ưu tiên phát triển nông nghiệp và cơ sở hạ tầng. Hoạt động SXNN và phát triển cơ sở hạ tầng có thể
gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng tiêu cực đến các loài động thực vật. Buôn bán động vật hoang dã,
gỗ và lâm sản ngoài gỗ cũng làm tăng các áp lực đối với hệ sinh thái rừng, gây nên những thách thức lớn
đối với công tác bảo vệ rừng ở Việt Nam.
b) Quản lý yếu kém
- Quản lý kém hiệu quả của các lâm truờng quốc doanh;
- Quản lý yếu kém ở cấp địa phương;
- Quản lý dất yếu kém;
- Thiếu kinh phí bảo vệ rừng.