MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
1.
Lịch sử hình thành hình tượng con Rồng trong nền Mĩ thật Việt
Nam
2. Đặc điểm Rồng Việt Nam
3. Hình tượng Rồng qua các triều đại phong kiến Việt Nam
Rồng thời Lý (thế kỷ XI - XII)
Rồng thời Trần (TK XIII - XIV)
Rồng thời Lê sơ (TK XV)
Rồng thời Mạc (TK XVI)
Rồng thời Lê Trung Hưng (TK XVII)
Rồng thời Lê Mạc (TK XVIII)
Rồng thời Nguyễn (TK XIX - đầu TK XX)
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
Đối với người Việt, con rồng đã ăn sâu trong tâm trí của mỗi người, rồng
được xem là thủy tổ của dân tộc. Người dân Việt dù đi bất cứ nơi đâu cũng
tự hào mình là con rồng cháu tiên. Còn theo truyền thuyết của người Hoa,
rồng là con vật rất cổ xưa và linh thiêng. Rồng tượng trưng cho vận may và
là biểu tượng của sức mạnh và uy quyền. Các triều đại phong kiến Trung
Quốc đã lấy con rồng làm biểu tượng cho các bậc quân vương từ rất sớm,
thời Trần Thủy Hoàng và họ cho rằng vua chúa là sự hoá thân của rồng nơi
trần gian.
Trong cuộc sống người Hoa cũng thích rồng, hình tượng rồng có nhiều
trong các trò chơi dân gian vào những dịp lễ tết, hội hè, khai trương như
múa lân, rồng…với hy vọng Lân, rồng mang lại mang lại vận may trong
làm ăn, mua bán, mang lại hạnh phúc ấm no cho gia đình. Con rồng trong
dân gian của người Trung Quốc là sự kết hợp 36 bộ phận tiêu biểu của 36
con vật có gốc Totem của các bộ tộc người Trung Hoa cổ xưa.
Riêng ngừơi Việt, rồng là con vật gắn liền với thực tại, đem lại mưa thuận
gió hòa, đem lại sự màu mỡ, phì nhiêu cho đất đai. Rồng được xem là con
vật linh thiêng, biểu trưng cho uy quyền và hạnh phúc. Trong việc xây
dựng cung điện, lăng tẩm, đình chùa, miếu mạo…đều được các nhà địa lý
xem xét tới long mạch và được trang trí nhiều rồng. Trong chế độ phong
kiến, rồng có liên quan đến vua chúa như Long bào, Long sàng…nhiều địa
danh sông núi cũng được gắn liền với rồng như: Thăng Long, cầu Hàm
Rồng, Cửu Long Giang…
Rồng là biểu tượng của sự cao quý, của sức sống vĩnh hằng và sức mạnh vũ
trụ nên hình tượng rồng được sử dụng nhiều trong kiến trúc cung đình, đình
chùa, trang phục vua chúa… Hình tượng con rồng cũng thay đổi theo dòng
lịch sử qua các triều đại. Việc xác định phong cách thể hiện con rồng qua
các thời kỳ sẽ là một căn cứ để xác định niên đại công trình kiến trúc nào
đó.
Trong thời đại phong kiến Việt Nam nối tiếp nhau cũng đều lấy rồng làm
biểu tượng cho thế lực và uy quyền của quân vương. Do vậy, hình tượng
rồng không ngừng được sáng tạo, thay đổi kiểu dáng…trong qúa trình ấy
rồng cũng luôn gắn bó với dân tộc trong các thời kỳ dựng nước và giữ
nước.
Hình tượng con rồng của người Việt qua mỗi triều đại có những nét riêng,
phong cách riêng. Điều đó thể hiện rất rõ trên tranh vẽ, gốm, điêu khắc, sơn
mài…
NỘI DUNG
1. Lịch sử hình thành hình tượng con rồng trong nền Mĩ thật Việt Nam
Từ xa xưa con Rồng đã có trong tâm thức người Việt, nhiều huyền thoại về
rồng, với biểu hiện linh thiêng. Rồng là điểm hội tụ với ý nghĩa vũ trụ và
nhân sinh. Người Việt có nguồn cội Lạc Hồng (Lạc Long Quân và Âu Cơ).
Rồng là biểu tượng vật linh trong tín ngưỡng văn hoá dân gian. Rồng được
sáng tạo thành hình tượng nghệ thuật và có mặt trong các thời kỳ nghệ
thuật truyền thống của các vương triều tự chủ.
Người Việt sống tại vùng sông nước nên từ xưa họ đã tôn sùng cá sấu như
một con vật linh thiêng, vì chúng đại diện cho sự trù phú và sức mạnh, thời
kỳ này vùng đất người Việt sống còn rất nhiều cá sấu. Họ đã thần thánh hóa
loài cá sấu lên thành con Giao Long mà người Trung Hoa gọi sau này, một
cách thức tô điểm cho hình hài con cá sấu nhiều chi tiết tưởng tượng và
cũng nhiều ý nghĩa hơn. Con rồng này tồn tại cùng tâm thức của người Việt
trong suốt thời Văn Lang - Âu Lạc. Rất có thể từ con Giao Long này mà
người Trung Hoa đã tạo ra con rồng Trung Hoa của họ.
Trong cả thiên niên kỉ bị đô hộ bởi Trung Hoa, trong hoàn cảnh chung của
chính sách Hán hóa, hình ảnh con rồng Việt Nam phát triển theo các xu
hướng giống với con rồng của người Hán. Đến khi giành được độc lập,
hình tượng con Rồng sáng tạo không chỉ mang tính ứng dụng trang trí
trong Hoàng cung, các ngôi chùa, cung điện mà còn có giá trị cái đẹp tạo
hình. Hình tượng Rồng phát triển ở các vương triều, mỗi thời đều có đặc
điểm phong cách đặc trưng. Cơ sở nhận diện hình tượng trên các phần thể
hiện: Đầu Rồng (mắt, mũi, mồm, râu, bờm, sừng); hình dáng thân Rồng
(các khúc uốn lượn); các chi tiết (vây, móng, đuôi) và đối chiếu với niên
đại di tích để xác định Rồng các thời.
2. Đặc điểm Rồng Việt Nam
Hình tượng Rồng được sáng tạo, thể hiện phong phú, chiếm vị trí quan
trọng trong các hợp thể kiến trúc (hoàng cung hay chùa, miếu, đền, đình).
Các vương triều đều lấy hình tượng Rồng là biểu tượng quyền uy của
vương triều. Từ thời Lý, thời Trần, thời Lê sơ phong cách Rồng nhất quán
hoặc tập trung rõ đặc trưng (ở đầu và khúc uốn). Từ thời Mạc đến thời
Nguyễn hình Rồng có nhiều biến đổi và đa dạng. Nét tiêu biểu tập trung ở
các di tích trung tâm. Những văn bia phát triển, ta biết được xuất xứ nội
dung, niên đại là những giá trị để ta xác định thời đại các chạm khắc hình
Rồng. Các hình tượng Rồng thời sau một mặt kế thừa thời trước, mặt khác
muốn tìm ra những cái riêng về phong cách của vương triều mình. Những
nét đặc trưng tiêu biểu của hình tượng Rồng ở các thời được nhận diện với
sự so sánh, đối chiếu để xác định phong cách nghệ thuật. Hình Rồng mỗi
vương triều đều có đặc điểm và phong cách trong sự phát triển của nghệ
thuật tạo hình truyền thống. Nó không chỉ ở sử dụng mà còn là dấu ấn quan
niệm thẩm mỹ, sắc thái dân gian mang đặc thù dân tộc.
Nhìn chung, Rồng Việt Nam luôn có những mô-típ rõ ràng đặc trưng:
Thân rồng uốn hình sin 12 khúc, đại diện 12 tháng trong năm, biểu
trưng cho sự thay đổi thời tiết năm tháng, sự trù phú và phồn vinh
của nền văn hóa nông nghiệp lúa nước. Thân mềm mại uốn lượn thể
hiện sự biến hóa và khả năng thay đổi, dịch chuyển thiên nhiên của
con rồng cai quản thời tiết, mùa màng. Trên lưng có vây nhỏ liền
mạch và đều đặn.
Đầu rồng là phần rất đặc biệt, hoàn toàn khác rồng Trung Hoa. Nó có
bờm dài, râu cằm, không sừng (như rồng Trung Hoa). Mắt lồi to,
hàm mở rộng có răng nanh ngắt lên, đây là điểm hoàn toàn khác với
các con rồng khác của các nước. Đặc biệt là cái mào ở mũi (rồng
thời Lý-Trần), sun sóng đều đặn (có người gọi là mào lửa) chứ
không phải là cái mũi thú như rồng Trung Hoa. Lưỡi mảnh rất dài.
Miệng rồng luôn ngậm viên châu, trong khi ở Nhật Bản, Hàn Quốc
và Trung Quốc rồng hay cầm ngọc bằng chân trước. Viên châu tượng
trưng cho tính nhân văn, tri thức và lòng cao thượng. Đầu rồng luôn
hướng lên đớp lấy viên ngọc thể hiện tinh thần tôn trọng các giá trị
nhân văn cao quý, theo đuổi sự uyên bác và tinh thần cao thượng.
Những điều ấy được đặt lên trên tất cả các giá trị khác kể cả sức
mạnh và sự thống trị thường thấy của một con rồng phương Đông.
Toàn thân rồng toát lên uyển chuyển và một sức căng rất lớn từ cái
vươn chân dài, đầu ngẩng cao, dáng đầu rực lửa thể hiện cho khí thế
hừng hực muốn tiến chinh phục các giá trị văn minh nhất của
phương Đông cổ đại.
3.
Hình tượng Rồng qua các triều đại phong kiến Việt Nam
Rồng thời Lý (thế kỷ XI - XII)
Thăng Long nơi Rồng vàng xuất hiện. Hình tượng con Rồng Lý sáng tạo
còn là bảo lưu của con rồng dân gian vốn có lâu đời của dân tộc. Nhà Lý đã
duy trì gìn giữ những biểu tượng của Rồng truyền thống, và đưa lại ý nghĩa
mới của vương quyền. Hình tượng Rồng thời Lý trở thành biểu tượng cao
quý - quyền uy của Vương quyền và linh thiêng của Thần quyền (với đạo
Phật là Quốc giáo).
Hình tượng Rồng chỉ thực sự phát triển từ triều Lý (thế kỷ XI-XII), mở đầu
cho nền văn minh Đại Việt sau ngàn năm Bắc thuộc. Đây là thời kỳ đạo
phật được phát triển mạnh, tinh thần tự cường dân tộc luôn được đề cao,
nhiều công trình văn hoá nghệ thuật được xây dựng, nghệ thuật trang trí
hoa văn cũng phong phú đa dạng. Hình tượng Rồng mang tính linh thiêng,
cao quý. Đường nét mềm mại, tinh tế, bố cục hoàn chỉnh nhất quán, mang
rõ phong cách.
Hình tượng Rồng trong Tứ Linh (Long- Ly - Quy - Phượng) là đề tài quan
trọng của Mỹ thuật truyền thống. Rồng còn là hình tượng độc lập, được thể
hiện ở Điêu khắc (Tượng và Phù điêu), trên chất liệu (gỗ, đá). Hoặc Rồng
là Hoa văn, họa tiết được thể hiện ở trang trí (trên chất liệu Giấy, Lụa). Nó
ứng dụng trong các Hợp thể nghệ thuật: Kiến trúc - Điêu khắc và trang trí
thời Lý. Rồng là hình tượng nghệ thuật được đặt ở những vị trí quan trọng
trong các kiến trúc Hoàng thành, trang trí trên các cột (gỗ hay đồng) trong
kiến trúc Hoàng cung. Hình Rồng thể hiện trên trang phục (Hoàng bào),
trên vương miện, cân đai, của vua, hay trong các Chiếu chỉ, Sắc phong...
biểu thị uy quyền của vương triều.
Hình tượng rồng trong các ngôi Chùa Phật (Đạo Phật là Quốc giáo), luôn
đi liền với vật tế lễ, thờ tự. Hình Rồng trên các Hoành phi, Cửa võng, Long
đình, Kiệu , Ngai, trong các Đồ thờ, đồ tế -lễ. Hình tượng rồng trong: Đền,
Miếu (hoặc ở Đình từ thế kỷ 16 về sau) thờ những thánh, thần có công với
dân. Hình Rồng trên Văn bia đá: Rồng chầu Nhật, Nguyệt (mặt trời, mặt
Trăng) chầu lá đề nhà Phật, trên cột đá. Hình Rồng trang trí trên binh khí,
trên án thư, hương án, vòm trần, tán lọng... Dù là hình tượng Rồng độc lập
hay phối hợp với các mô típ hoa văn, trang trí, chạm khắc thì con Rồng
trong nghệ thuật thời Lý có đặc trưng riêng với một phong cách và hình
dáng uốn lượn độc đáo.
Cái đẹp của Hình tượng Rồng thể hiện trên các loại hiện vật rất phong phú.
Về Hình, khối, Hình dáng Rồng Lý: phần lớn trong chạm khắc không quá
sâu (tức là khối không làm nổi cao), mà chủ yếu chú ý nhiều đến hình
dáng, mang nhiều chất hoạ. Do vậy khi in rập giấy dó lên các chạm khắc
thực hiện được tương đối thuận lợi. Bố cục Hình Rồng Lý: được quy vào
trong các loại hình học. Chẳng hạn: Bố cục trong hình Chữ nhật: như các
bức chạm đá “Hình Rồng chầu lá đề, đăng đối hai bên là hình các Tiên nữ,
nhạc công múa hát” (đế kê chân cột chùa Phật Tích- năm 1057). Các “Hình
Rồng chầu lá Đề”, “ hình rồng trên bệ” (tượng Phật, chùa Phật Tích - năm
1066, xã Phật Tích-Tiên Sơn-Bắc Ninh). “Hình rồng trên vách đố” bằng đá
(Tháp Chương Sơn - năm 1117), hoặc “Hình rồng trên đồ đất nung “ phát
hiện ở khu vực thành Thăng Long. Hình Rồng trong bố cục hình tròn: như
chạm đá “Hình Rồng và hoa dây” (Tháp Chương Sơn - năm 1118, Yên
Lợi- ý Yên- Nam Định). Hình Rồng trong bố cục hình bán nguyệt: “Các
hình Rồng chầu”, (chạm đá - năm 1118, trong trán bia Chùa Long Đội Đọi Sơn -Duy Tiên - Hà Nam). Hình Rồng trong bố cục hình lá Đề: “Hình
Rồng chầu dâng Ngọc”, Gốm (phát hiện ở khu vực thành Thăng Long Hà
Nội). Hình Rồng trong bố cục hình cánh hoa Sen: “Hình Rồng trong các
cánh Liên hoa” bệ tượng (Tháp Chương Sơn - năm 1117), hoặc “Hình rồng
trên các cánh hoa Sen” chạm ở mặt trụ đá kê chân cột ở một số công trình
kiến trúc Lý mà Khảo cổ học phát hiện được ở khu Hoàng Thành Thăng
Long...
Nhận diện hình tượng, đặc điểm phong cách tạo hình Rồng thời Lý: trên cơ
sở so sánh, đối chiếu với hình Rồng (các thời tiếp sau: Trần, Lê, Mạc,
Nguyễn). Ta thấy Rồng ở mỗi vương triều đều có đặc điểm và phong cách
riêng.
Vương triều Lý kéo dài suốt 216 năm, hình tượng Rồng có một phong cách
độc đáo, và có kiểu dáng nhất quán, được quy định thống nhất mang tính
vương triều. Điều này được nghệ nhân tuân thủ triệt để. Trên thực tế khảo
sát chúng tôi thấy rằng: bất kỳ hình rồng ở di tích nào thời Lý, dù ở cách xa
nhau, dù làm vào những năm khác nhau, dù là kiến trúc vương quyền hay
kiến trúc thần quyền thì về cơ bản hình tượng con Rồng Lý vẫn đều có kiểu
dáng và cấu trúc rất thống nhất.
Đặc điểm Hình tượng Rồng thời Lý: mình Rồng kéo dài, thể hiện theo lối
nhìn nghiêng. Đầu Rồng với cổ ngước chếch lên cao. Trên lông mày Rồng
kết xoắn giống hình số 3 ngửa (theo nhãn vòng Kim cô nhà Phật), và trước
trán kết xoắn hình chữ S đứng (ký hiệu tựa hình chớp của hiện tượng tự
nhiên ý niệm cổ về uy lực của Phật Pháp Lôi - Pháp Điện (sấm chớp). Sau
gáy rồng, từ hai bên dưới mang tai có dải bờm nhiều tua kết vào nhau bay
thả uốn lượn vút nhọn ra phía sau. Chòm râu dưới cằm rồng cũng kết xoắn
uốn lượn tương tự phía dưới, nhưng nhỏ và ngắn hơn. Quanh đầu có những
viên ngọc lơ lửng và thường có mây quấn. Miệng rồng há rộng để hứng
viên ngọc báu. Trên hai hàm có răng nhọn, hai nanh cuối hàm kéo dài uốn
cong qua mép liền sát mũi. Mũi Rồng cũng được kéo dài thành một mào
hình vòi. Mào của Rồng cũng hơi uốn khúc và chung quanh có viền kiểu
ngọn lửa. Môi dưới của Rồng ngắn, còn lưỡi lại rất dài. Từ hàm dưới lưỡi
vươn ra uốn lượn sóng để đỡ lấy viên ngọc đang lơ lửng. Mắt Rồng to tròn
và hơi lồi. Cũng còn có loại đầu Rồng nữa là: cổ uốn xuống gấp khúc rồi
ngược lên (trông cổ Rồng như rụt lại) - như đôi rồng chạm trên mặt trán bia
Bia chùa Báo Ân (Thanh Hoá). Hoặc Rồng đàn nối đuôi nhau trên thành
bậc chùa Sùng Nghiêm Diên Khánh.
Thân Rồng cuộn khúc uốn lượn thuôn dần đến cuối đuôi. Đặc biệt là mình
Rồng tròn, trơn, uốn lượn mềm mại hình sin, các khúc uốn lượn phình to
nhưng co lại gần nhau, đều đặn, thon dần về đuôi. Hình dạng khúc cong
giống như hình túi đáy phình, miệng co (đặt xuôi, đặt ngược liên tục một
mạch) thu dần về đuôi. Mình Rồng để trơn (hoặc có vẩy trên thân những
con rồng to). Mặc dầu trên lưng có vẩy cứng nhưng không nổi cao, nên
trông vẫn thon mượt. Rồng Lý có 4 chân, mỗi chân đều có khuỷ, và có 3
móng ngón. Toàn bộ thân hình Rồng khái quát quy hình Rồng nằm gọn vào
đúng một nửa hình lá Đề, nở về phần đầu, thu nhọn về phía đuôi.
Hình tượng Rồng thường được kết hợp với mây (dạng mây bay, mây tụ,
mây hình lửa, mây hình hoa...). Hình tượng Rồng để trang trí đăng đối
(Rồng chầu), Rồng còn được kết hợp với hình tượng Phượng, thành cặp
Long- Phượng. Hoặc Rồng trong bộ Tứ linh: “Long, Ly, Quy, Phượng”,
hoặc kết hợp với hoa dây, hoa Sen... Hình tượng Rồng triều Lý (10101125) được chọn trang trí ở nơi trang trọng trên các công trình của Vương
triều, và các Chùa thời Lý (như các chùa: Dạm, Phật Tích, Long Đội,
Chương Sơn, Quỳnh Lâm, Báo Ân, Linh Xứng, Sùng Nghiêm, Diên Thánh
... Nội dung tư tưởng thẩm mỹ hình tượng Rồng thể hiện rõ tính cách
quyền quý. Đó là những nét tiêu biểu của hình tượng Rồng thời Lý. Song
bên cạnh tính cách dân gian cũng đã dần bộc lộ tâm lý cộng đồng, tâm hồn
khoáng đạt thanh cao, hàm chứa trí tuệ uyên bác. Tư tưởng đó sau này phát
triển trên các chạm khắc Đình làng. Những hình tượng Rồng không chỉ là
mô típ trang trí mà còn là hình tượng sinh động. Các hình tượng Rồng thời
sau một mặt kế thừa thời trước, mặt khác muốn tìm ra những cái riêng về
phong cách của vương triều mình.
Hình tượng Rồng thời Lý được nghệ nhân sáng tạo ứng dụng trong các
Hợp thể nghệ thuật: Kiến trúc - Điêu khắc - Trang trí. Hình tượng Rồng có
trong các di tích lịch sử văn hoá truyền thống. Nó không chỉ không những
mang tính ứng dụng mà còn có giá trị về nghệ thuật tạo hình. Tuy nhiên,
các di vật thời Lý, còn lại đến ngày nay không nhiều, những ngược tìm quá
khứ trên những di tích còn lại, và cố gắng của Khảo cổ học tìm bới: Hình
rồng phát hiện ở Hoàng thành Thăng Long (2000-2005) cung cấp thêm cho
ta một số hiện vật gốm có hình Rồng thời đầu lập đô Thăng Long của nhà
Lý.
Hình 1: Hình tượng Rồng thời Lý
Rồng thời Trần (TK XIII - XIV)
Từ nửa cuối thế kỷ XIV, con rồng đã rời khỏi kiến trúc cung đình để có mặt
trong các kiến trúc dân dã, không những chỉ có trên điêu khắc đá và gốm,
mà còn xuất hiện trên điêu khắc gỗ ở chùa. Rồng cũng không chỉ có ở các
vị trí trang nghiêm mà rồng còn có mặt ở các bậc thềm (như ở chùa Phổ
Minh).
Trong chạm khắc, còn có tượng Rồng ở thành bậc thành quách, lăng mộ và
chùa. Hình tượng Rồng có nhiều thay đổi so với thời Lý. Thân Rồng to
mập, khoẻ chắc, khúc nới ra uốn lượn đều đặn hình sin thu dần về đuôi.
Đầu xuất hiện cặp sừng, đôi tai và những chi tiết mới. Hình dáng Rồng uy
nghi mang ý nghĩa mới của vương triều. Nổi rõ phong cách với những hình
khối, đường nét mập khỏe, tinh lọc giản dị, vững chãi mà không nặng nề,
không tĩnh của cốt cách truyền thống. Tượng Rồng ở khu lăng mộ An Sinh
(Thế kỷ XIV Đông Triều Quảng Ninh). Điển hình là đôi tượng (thành bậc
cửa lăng vua Trần Anh Tông, dài 1.70m) mình tròn mập, đuôi dài và nhọn.
Bốn chân to khỏe, có bốn móng nhọn. Đầu dữ tợn, mào kéo dài ra phía
trước, cặp sừng nhọn vút về phía sau. Bờm tóc to trải dài, những chòm lông
quanh cổ hình xoắn ốc dựng lên. Trên thân có chạm vẩy. Đôi tượng Rồng
(ở thành nhà Hồ, dài 3.60m) đầu bị gãy mất, còn lại từ má bờm uốn sóng
đều đặn trải dài nhọn. Thân Rồng dài và mập, có vẩy hình vòng cung, uốn
khúc cong sáu nhịp đều đặn thon đến cuối đuôi.
Hình dáng Rồng thời Trần đa dạng, nên trong cùng một thời gian, những
chi tiết hình Rồng đã có những khác nhau. Chẳng hạn: Có dạng đuôi thẳng
vút nhọn, lại có đuôi xoắn tròn, hay có đuôi chạm văn xoắn ốc. Có Rồng
chạm 3 móng, lại có Rồng 4 móng. Hình Rồng với bốn khúc uốn, trên bệ
tượng chùa Thanh Sam (ứng Hòa - Hà Tây nay là Hà Nội) chạm đầu quay
lại nằm gọn trong khúc uốn lớn. Râu uốn lượn dài, hai chân trước to, giơ ba
móng. Cũng Rồng với bốn khúc uốn thì chạm đá bệ tượng chùa Đô Quan
(Yên Khang, ý Yên, Nam Định), khúc lớn vòng qua đầu, ba khúc uốn còn
lại gần như thẳng. Râu uốn lượn dài, hai chân trước to bốn móng. Lại có
hình Rồng với bảy khúc uốn chạm đá bệ tượng chùa Thầy (Sài Sơn, Quốc
oai, Hà Tây) dáng Rồng trườn lên phía trước. Đầu ngước ngậm ngọc, hai
mào dài xoắn lại, bờm tỏa dài uốn lượn ra phía sau, vây rồng nhọn cao.
Bốn chân to với bốn móng nhọn, Còn có các đầu Rồng (đất nung) thấy ở
Tháp Phổ Minh (Nam Định), hay ở Đông Triều - Quảng Ninh, ở Hoàng
thành Thăng Long. Hoặc có hình Rồng trang trí trên gạch gốm tráng men
chùa Hoa Yên (Yên Tử - Quảng Ninh).
Hình 2: Hình rồng chạm khắc trên cửa ở Chùa Phổ Minh (Nam Định)
Rồng thời Lê Sơ (TK XV)
Đến thời Lê Sơ, rồng có sự thay đổi hẳn, không nhất thiết là một con vật
mình dài uốn lượn đều đặn nữa mà ở trong nhiều tư thế khác nhau. Đầu
rồng to, bờm lớn ngược ra sau, mào lửa mất hẳn, thay vào đó là một chiếc
mũi to. Mép trên của miệng rồng vẫn kéo dài nhưng được vuốt gần như
thẳng ra, bao quanh có một hàng vải răng cưa kết lại như hình chiếc lá.
Nổi bật hình tượng đôi Rồng trên các thành bậc đá (làm thời vua Lê Thánh
Tông (1470-1497), như: điện Lam Kinh (1433) và Điện Kính Thiên (1467).
Đôi Rồng uốn khúc bò từ trên nền thềm điện xuống (đặt lối lên chính
giữa). Đầu Rồng to, có hai nhánh sừng nhô cao, mắt lồi, bờm mượt cuộn ra
sau. Lưng Rồng nhô hình vây nhọn theo khúc uốn. Một tay Rồng cầm lấy
râu. Chân Rồng chạm 5 móng sắc nhọn, các hình xoắn trang trí bên thân
Rồng, kết hợp với mây đao lửa. Đó là mô típ trang trí điển hình mang đặc
trưng thời Lê Sơ. Hình tượng Rồng trang nghiêm, râu bờm và sừng nổi cao
dũng mãnh uy quyền. Những chạm khắc trìu tượng hình rồng uốn khúc ở
mặt ngoài thành bậc đá của điện Lam Kinh (Thanh Hóa), Điện Kính Thiên,
Đàn Nam Giao (Hà Nội) trong khung tam giác vuông viền hình hoa chanh,
đều chạm hoa văn hoa sen, hoa cúc và lá cách điệu, mây xoắn cuộn, nổi ở
giữa là hình đao ngọn lửa (gọi là mây đao lửa). Còn thấy hình Rồng 4
móng kết với hình mây hoa lá trên các văn bia (Văn Miếu). Những chạm
khắc hình Rồng và các mô típ Mây đao lửa, hoa văn với nét chạm sắc sảo,
điêu luyện, bố cục chặt chẽ với đặc trưng riêng, tiêu biểu phong cách thời
Lê Sơ.
Rồng Lê sơ xuất hiện khi Nho giáo và văn hóa Trung Hoa thâm nhập mạnh
mẽ vào nước ta. Rồng lúc này trở thành biểu trưng cho vua, cho quyền thế
vương triều, nên ít nhiều chịu ảnh hưởng bởi biểu tượng rồng bên Trung
Hoa.
Hình 3: Đôi rồng đá thềm trước Điện Kính Thiên (thời Lê Sơ)
Rồng thời Mạc (TK XVI)
Hình tượng Rồng thời Mạc kế thừa rồng truyền thống Lý, Trần, và cả rồng
thời Lê sơ. Đặc điểm chung là: thân mập, uốn lượn đều đặn, bờm kéo dài
uốn theo xuống nửa lưng, mây đao lửa điểm xuyết trên thân, sóng cuộn
dưới bụng, chân ngắn, lông khủyu sợi đơn uốn xoắn. Đầu rồng có sừng hai
chạc, hai mắt lồi, mũi sư tử, mồm thú nhô ra phía trước. Các chân Rồng
thường chạm 4 móng. Hình tượng rồng phát triển trên các chạm khắc Chùa
và Đình làng. Còn hình: Rồng, phượng, lân trang trí trên gạch chùa Ông,
chùa Trăm gian, và chùa Bối Khê… Hoặc Gốm đất nung: Rồng, Phượng,
con Xô, con Kìm là gắn trên bờ nóc, bờ giải, các đầu đao, tầu mái: cung
điện, đình, chùa. Hiện còn thấy hai đầu rồng: có sừng hai chạc, mắt lồi, tai
to, mồm sư tử cao 0.85cm trên hai bờ mái ở chùa Mui (Hà Tây cũ). Hình
Rồng mây trang trí trên gốm dáng uốn lượn, thân hình khỏe chắc. Đình là
công trình to lớn, đòi hỏi nhu cầu thẩm mỹ với giá trị nghệ thuật. Những
thành phần kiến trúc gỗ vốn nặng nề, thô mộc của kết cấu Kiến trúc gỗ. Ta
thấy chạm đề tài Tứ linh, như các đầu dư chạm “Đầu Rồng ngậm ngọc”,
đầu bẩy, các kẻ hiên chạm các đề tài như: Rồng cuốn thủy, Cá hóa Rồng.
Các cốn, các vì nóc chạm Rồng, Lân. Bức chạm gỗ “Rồng Nho học” ở đình
Vân Sa (Ba vì, Sơn Tây) độc đáo, thể hiện Rồng bố đang cầm bút nho chỉ
bảo, các Rồng con giơ sách dâng lên, nhằm ca ngợi việc học hành. Thể
hiện rõ bàn tay (người) cầm bút, tay dâng sách rất rõ. Hình tượng Rồng
được nhân hóa, đó là nét mới rồng gắn với đời thường. Những chạm khắc ở
đình Thổ Hà (Bắc Giang), đình Tây Đằng (Ba Vì, Sơn Tây), đình Lỗ Hạnh
(Bắc Giang) thể hiện Rồng và các vật linh. Tượng Rồng thành bậc (đá)
chùa Nhân Trai (Hải Phòng) uốn lượn đều đặn, sừng quặp ra sau, bờm kéo
dài uốn xuống lưng. Bia chùa Trà Phương chạm khái quát Rồng Phượng.
Các hình Long - Lân chùa Trăm gian, chùa Đậu, chùa Bối Khê thể hiện
những bố cục sinh động, khối hình khỏe khoắn, đậm tính cách dân gian.
Bia đá thời Mạc phát triển, Rồng trang trí trên trán bia, diềm bia, các góc
của bia.
Hình 4: Hình rồng trên lư hương thời Mạc
Rồng thời Lê Trung Hưng (TK XVII)
Thời này phục hưng những giá trị nghệ thuật truyền thống nhà Lê. Hình
rồng là mô típ tiêu biểu, đặc trưng, thoát khỏi hình thức khuôn mẫu, để trở
về nguồn, với ý nghĩa giá trị sáng tạo mới. Hình Rồng với đầu nhô, có
sừng, hai râu mép dài uốn lượn duỗi ra phía trước, tạo dáng rồng thêm sinh
động. Rồng kết hợp hoa văn mây lửa vẽ men xanh lưu loát. Kỹ thuật vẽ
men màu và kỹ thuật đắp nổi trên gốm điêu luyện. Đặc điểm hình Rồng
cũng có thay đổi. Đầu Rồng đơn giản, thường chỉ thấy râu cằm thưa nhọn,
bờm ngắn tỏa hình quạt. Mào Rồng thanh mảnh uốn lượn kéo dài ra phía
trước, hoặc rủ xuống hai bên. Các hình mây đao lửa thường vút lên từ đầu
các chân Rồng. Hình Rồng với mây đao lửa vẫn duy trì nhưng ở cuối thế
kỷ XVII các mây đao lửa có chiều hướng ngắn lại, và thưa. Độ uốn lượn
của đao mây ít lại, thường chỉ còn hai khúc uốn rồi bắt sang chiều ngang
của đao mây. Ngoài hình tượng rồng còn xuất hiện các loài vật hóa rồng
như ngựa hóa rồng (còn gọi là Long Mã) hay cá hóa rồng. Thậm chí, cả cây
trúc cũng hóa rồng. Rồng còn đi sâu vào kiến trúc đình làng dân dã và đã bị
“giải thiêng” phần nào khi trên các mảng chạm rồng lại có cảnh trai gái
đang tình tự, tiên cưỡi rồng, các con vật như thạch sùng, rắn leo trèo trên
râu rồng. Tại đình Thổ Hà – Bắc Giang, hình ảnh rồng đang “phủ” thú như
một minh chứng rằng đến giai đoạn này rồng đã đi sâu vào dòng văn hóa
dân gian mà bớt đi tính vương quyền.
Hình 5: Lư hương trang trí hình rồng thời Lê Trung Hưng (thế kỉ XVII)
Rồng thời Lê Mạc (TK XVIII)
Hình Rồng thân ngắn và các khúc uốn thường chỉ 3 đến 4 lần cong uốn, chỉ
làm to khúc uốn liền đầu, các khúc sau thường ngắn và thuôn gần thẳng về
đuôi. Chân Rồng 4 móng. Hình mây đao lửa gần như mất. Mây chuyển
sang các hình dải thưa vắt vào chân Rồng, điển hình như: “Hai Rồng chầu
mặt trời” chạm đá bia chùa Chuông 1711 (Kim Thi - Hưng Yên), và chạm
đá bia đền Din (Nam Dương - Nam Ninh - Nam Định). Hoặc hình Rồng
biến thành hình mây, như: “Hai Rồng mây hóa chầu mặt trời” chạm đá bia
chùa Côn Sơn 1788 (Chí Linh - Hải Dương).
Hình 6: Rồng thời Lê Mạc (TK XVIII)
Rồng thời Nguyễn (TK XIX - đầu TK XX)
Rồng thời Nguyễn đã trở lại với vẻ đẹp uy nghi tượng trưng cho sức mạnh
thiêng liêng hình tượng rồng ngậm chữ thọ, hai rồng chầu mặt trời, chầu
hoa cúc, chầu chữ thọ thể hiện sự hiếu thảo của con cháu đối với ông bà
cha mẹ. Thời Nguyễn, các tác phẩm văn hóa nghệ thuật đã gắn liền với
hình tượng rồng và cho đến hiện nay nó vẫn được bảo tồn vô số. Rồng
được chạm khắc lên vàng bạc, những chiếc bình phong và trấn phong vô
giá hình tượng rồng trên những vật phẩm đó được tạo hình với nhiều kiểu
dáng: uốn khúc cong, ngồi xổm, nằm sấp, nằm ngửa… Tuy có nhiều hình
dáng sôi động vậy nhưng rồng vẫn giữ được vẻ oai nghiêm tượng trưng
cho vẻ đẹp và quyền lực của các vua chúa thời bấy giờ. Trên những chiếc
bình phong, thường được tạo tác thành từng đôi đối xứng, kiểu rồng chầu
mặt trời, mặt trăng hay mặt rồng nhìn thẳng thể hện ước muốn một quốc
gia một đất nước phát triển hùng cường, một dân tộc luôn luôn tôn kính với
các đấng thần linh trên trời cao cầu mong cho .mưa thuận gió hòa, mùa
màng tươi tốt. Hình rồng đặc trưng nhất phải kể đến là hình rông khắc trên
Cao đỉnh trước tòa Thế Miếu trong hoàng thành Huế đó là hình tượng phi
long tại thiên (rồng bay giữa trời) với khí thế hiên ngang, ung dung tự tại
giữa mây lành, thân rồng lẫn vào mây chỉ lộ rõ đầu đuôi và bàn chân có 5
móng vuốt, đó cũng chính là hình ảnh vị hoàng đế ỏ ngôi vị cao nhất cai trị
thiên hạ. Rồng thời Nguyễn được thể hiện trên nhiều chất liệu như: sơn
mài, sơn thếp, vàng bạc ngọc ngà, xương, đồ gốm, đồ dệt thêu… mà trên
chất liệu nào cũng không có ít các tác phẩm xuất sắc, đạt được các thành
tựu trên chỉ có thể lí giải rằng nguyên do, Rồng đã trở thành đặc trưng của
văn hóa Việt. Nhìn chung rồng thời này trông mạnh mẽ, uy nghi, biểu trưng
cho vương quyền phong kiến nhà Nguyễn hùng mạnh.
Hình 7: Hình tượng Rồng thời Nguyễn
Hình 8: Hình tượng rồng thời nhà Nguyễn (1802 - 1945)
KẾT LUẬN
Nhìn lại lịch sử mỹ thuật truyền thống Việt Nam bằng cách sắp xếp hiện
vật nghệ thuật Điêu khắc và Trang trí từ niên đại đầu thế kỷ 11 đến đầu thế
kỷ 20, tìm ra những đặc trưng tiêu biểu để xác định phong cách. Trong đó
hình tượng Rồng được sáng tạo, thể hiện phong phú, chiếm vị trí quan
trọng trong các hợp thể kiến trúc (hoàng cung hay chùa, miếu, đền, đình).
Các vương triều đều lấy hình tượng Rồng là biểu tượng quyền uy của
vương triều. Từ thời Lý, thời Trần, thời Lê sơ phong cách Rồng nhất quán
hoặc tập trung rõ đặc trưng (ở đầu và khúc uốn). Từ thời Mạc đến thời
Nguyễn hình Rồng có nhiều biến đổi và đa dạng. Nét tiêu biểu tập trung ở
các di tích trung tâm. Những văn bia phát triển, ta biết được xuất xứ nội
dung, niên đại là những giá trị để ta xác định thời đại các chạm khắc hình
Rồng. Các hình tượng Rồng thời sau một mặt kế thừa thời trước, mặt khác
muốn tìm ra những cái riêng về phong cách của vương triều mình. Những
nét đặc trưng tiêu biểu của hình tượng Rồng ở các thời được nhận diện với
sự so sánh, đối chiếu để xác định phong cách nghệ thuật. Hình Rồng mỗi
vương triều đều có đặc điểm và phong cách trong sự phát triển của nghệ
thuật tạo hình truyền thống. Nó không chỉ ở sử dụng mà còn là dấu ấn quan
niệm thẩm mỹ, sắc thái dân gian mang đặc thù dân tộc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Lịch sử mĩ thuật Việt Nam (NXB Đại học sư phạm) - Phạm Thị
Chỉnh
2.
Mĩ Thuật Thời Lê Sơ (NXB Văn Hóa 1978) - Nguyễn Đức Nùng
vi.wikipedia.org/wiki/Nghệ_thuật_Việt_Nam...
3.
/>enthong/2010/10/2572.html
4.
/>5.
/>