ĐỀ CƯƠNG PHẦN II
Thầy Khanh
Câu 1 – Tổ 1: Đ/c hãy phân tích ý nghĩa của học thuyết Mac – Lên Nin về đảng và xây dựng đảng?
(Trang 38,39,40)
Câu 2 - tổ 1: Phân tích những nguyên lý về đảng kiểu mới của Lê nin, liên hệ vận dụng đối với Đảng
Cộng sản Việt Nam?
Trả lời:
1. Nguyên lý về đảng kiểu mới của Lê nin
Lê-nin đã xây dựng nên một học thuyết về đảng cộng sản kiểu mới trên cơ sở kế thừa và phát triển những
tư tưởng của C.Mác và Ph. Ăngghen, có thể khái quát ở một số điểm nổi bật sau:
* Chủ nghĩa Mác là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng Cộng sản:
Lê - Nin viết: “Học thuyết của Mác là học thuyết vạn năng vì nó là một học thuyết chính xác. Nó là
một học thuyết hoàn bị và chặt chẽ; nó cung cấp cho người ta một thế giới quan hoàn chỉnh, không thỏa hiệp
với bất cứ một sự mê tín nào, một thế lực phản động nào, một hành vi nào bảo vệ sự áp bức của tư sản”
Lê - Nin nhấn mạnh, chúng ta hoàn toàn đứng trên cơ sở lý luận của Mác; lý luận đó là lý luận lần
đầu tiên biến chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành khoa học,… Lý luận đó đã chỉ rõ nhiệm vụ thật sự
của đảng xã hội chủ nghĩa cách mạng. Tuy đánh giá rất cao, nhưng Người cũng không quên căn dặn rằng
không được coi lý luận của C.Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm, trái lại, các
đảng cộng sản phải phát triển lý luận của C. Mác và vận dụng lý luận ấy phù hợp với điều kiện cụ thể của
mỗi nước.
* Đảng cộng sản là đội tiên phong chính trị có tổ chức và là đội ngũ có tổ chức chặt chẽ nhất,
cách mạng nhất và giác ngộ nhất của giai cấp công nhân:
Đảng là tập hợp những người tiên tiến, ưu tú của giai cấp CN, thể hiệ ở sự tiên phong về hành động
và tiên phong về lý luận.
Đảng là tổ chức được tổ chức chặt chẽ, có kỷ luật sắt, tự giác, nghiêm minh thống nhất ý chí và hành
động
Vai trò tiên phong của Đảng thể hiện trên lĩnh vực lý luận, về mặt tổ chức và hành động gương mẫu
của đảng viên trong thực tiễn. Lê-nin đã đưa ra một số luận điểm: “chỉ đảng nào được một lý luận tiền phong
hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò người chiến sĩ tiền phong”. Đảng phải là “trí tuệ, danh dự và
lương tâm của thời đại chúng ta”; Không được lẫn lộn đảng, tức là đội tiền phong của giai cấp công nhân,
với toàn bộ giai cấp, mà Đảng là “đội tiên phong giác ngộ nhất của giai cấp vô sản”.
* Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của
Đảng:
Đảng là tổ chức tự nguyện của những người cùng chung lý tưởng cộng sản, quyết tâm thực hiện lý
tưởng đó, đồng thời là một tổ chức chiến đấu. Để thực hiện lý tưởng của mình, một mặt đảng phải thực hiện
tốt dân chủ để phát huy cao độ trí tuệ, tính sáng tạo của mọi đảng viên trong hoạt động, đồng thời đảng phải
hoạt động một cách tập trung nhất. Vì thế, đảng phải xây dựng tổ chức, sinh hoạt và hoạt động theo nguyên
tắc tập trung dân chủ để thống nhất ý chí và hành động. Đó là vấn đề thuộc bản chất của đảng, phân biệt
đảng kiểu mới của giai cấp công nhân với đảng kiểu cũ – đảng cải lương.
* Đoàn kết thống nhất là sức mạnh vô địch của đảng, tự phê bình và phê bình là quy luật phát
triển của đảng
V.I.Lê nin khẳng định, để lãnh đạo cách mạng giành thắng lợi, Đảng “phải có một sự thống nhất ý
chí hết sức chặt chẽ, tuyệt đối”. Người chỉ rõ: Đoàn kết thống nhất là sức mạnh to lớn của đảng. Đó là sự
đoàn kết của những người cùng chung lý tưởng cộng sản, chung mục đích và có lợi ích chung. Sự đoàn kết
đó dựa trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ đảng. Trong điều kiện đảng cầm quyền, sự đoàn kết thống
nhất của đảng lại càng đặc biệt quan trọng, nhất la những nước có giai cấp công nhân chiếm tỷ lệ nhỏ bé.
Từng cán bộ đảng viên và các tổ chức đảng phải giữ gìn sự đoàn kết thống nhất của đảng..
Tự phê bình và phê bình là biện pháp căn bản để xây dựng, củng cố sự đoàn kết thống nhất của đảng.
Một chính đảng thẳng thắn tự phê bình sai lầm khuyết điểm, đó là đảng trưởng thành. V.I.Lê nin viết: “Nếu
một chính đảng nào không dám nói thật bệnh tật của mình ra, không dám chẩn đoán bệnh một cách thẳng
tay, và tìm phương cứu chữa bệnh đó, thì đảng đó sẽ không xứng đáng được người ta tôn trọng”.
* Gắn bó mật thiết với nhân dân, đấu tranh kiên quyết để ngăn chặn và loại trừ bệnh quan
liêu, xa rời nhân dân:
-1-
Người cho rằng “những người cộng sản chỉ như những giọt nước trong đại dương nhân dân”. Nếu
không có sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thì mọi chủ trương, đường lối của Đảng không thể trở thành hiện
thực. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Khi nắm chính quyền, Đảng có nhiều điều
kiện mới, công cụ mới để tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân, nhưng cũng dễ nảy sinh bệnh
quan liêu, mệnh lệnh, tham nhũng;làm cho đảng viên thoái hoá biến chất, xa rời quần chúng. Đó là nguyên
nhân căn bản làm cho Đảng suy yếu. Đó là một nguy cơ lớn của đảng cộng sdanr cầm quyền đã được V.I.Lê
nin cảnh báo.
* Đảng cực kết nạp những người ưu tú của giai cấp công nhân, nhân dân lao động vào đảng,
kịp thời đưa những người không đủ tiêu chuẩn đảng viên ra khỏi đảng
Để đảng ngày càng phát triển và làm tròn nhiệm vụ của mình thì một mặt, đảng phải tích cực kết nạp
những người ưu tú vào đảng; mặt khác, đảng cũng không thể để trong đảng những người thoái hóa, biến
chất, những phần tử cơ hội. Đó là một biện pháp đặc biệt quan trọng nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng.
* Khi có chính quyền, đảng là hạt nhân lãnh đạo chuyên chính vô sản và là một bộ phận của
hệ thống đó
Đảng lãnh đạo cách mạng giành được chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động,
đó mới là thành công bước đầu. Nhiệm vụ khó khăn và phức tạp hơn nhiều là đảng phải lãnh đạo xây dựng
thành công chế độ xã hội chủ nghĩa. Đảng là một bộ phận của hệ thống chuyên chính vô sản, nhưng là hạt
nhân lãnh đạo của hệ thống đó. Sự lãnh đạo của đảng là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội thành công.
* Tính quốc tế của đảng cộng sản
Tính quốc tế của đảng cộng sản bắt nguồn từ tính chất quốc tế của giai cấp công nhân. Điều này lại
bắt nguồn từ sứ mệnh lịch sử thế giới của họ. Tính quốc tế của đảng cộng sản không chỉ thể hiện trong lời
nói mà còn trong hành động, tức là đảng phải xây dựng và hoạt động theo các nguyên lý học thuyết Mác;
đường lối của đảng phải thể hiện chủ nghĩa quốc tế vô sản.
2. Liên hệ vận dụng đối với Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhờ học thuyết Mác- Lê nin, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo những nguyên lý xây dựng đảng
kiểu mới vào cách mạng Việt Nam, thể hiện ở 4 lĩnh vực sau:
* Xây dựng Đảng về tư tưởng, lý luận.
Để đạt mục tiêu cách mạng, Hồ Chí Minh chỉ rõ: phải dựa vào lý luận cách mạng và khoa học của
chủ nghĩa Mác - Lênin. Khi huấn luyện cho cán bộ cách mạng từ năm 1925 đến năm 1927, Hồ Chí Minh
khẳng định:"Đảng muốn vừng thi phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo
chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam" [1];
"chủ nghĩa" ấy là chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh đã ví chủ nghĩa Mác - Lênin như trí khôn của con
người, như bàn chỉ nam định hướng cho con tàu đi, điều đó nói lên vai trò cực kỳ quan trọng của lý luận ấy
trong tất cả các thời kỳ cách mạng. Với ý nghĩa đó, theo Người, chủ nghĩa Mác - Lênin trở thành "cốt", trở
thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong việc tiếp nhận và vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh lưu ý những điểm sau đây:
Một là, việc học tập nghiên cứu, tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin phải luôn phù hợp với từng đối
tượng.
Hai là, việc vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin phải luôn luôn phù hợp với từng hoàn cảnh.
Ba là, trong quá trình hoạt động, Đảng ta phải chú ý học tập, kế thừa những kinh nghiệm tốt của các
Đảng cộng sản khác, đồng thời Đảng ta phải tổng kết kinh nghiệm của mình để bổ sung vào chủ nghĩa Mác
— Lênin.
Bốn là, Đảng ta phải tăng cường đấu tranh bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chú ý
chống giáo điều, cơ hội, xét lại chủ nghĩa Mác - Lênin; chống lại những luận điểm sai trái, xuyên tạc, phủ
nhận chủ nghĩa Mác - Lênin.
* Xây dựng Đảng về chính trị
Tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng Đảng về chính trị có nhiều nội dung, bao gồm: xây dựng
đường lối, chính trị, bảo vệ chính trị, xây dựng và thực hiện nghị quyết, xây dựng và phát triển hệ tư tưởng
chính trị, củng cố lập trường chính trị, nâng cao bản lĩnh chính trị... Trong đó, theo Hồ Chí Minh, đường lối
chính trị là một vấn đề cốt tử trong sự tồn tại và phát triển của Đảng. Hoạch định đường lối chính trị trở
thành một trong những vấn đề cực kỳ quan trọng trong xây dựng Đảng.
-2-
Hồ Chí Minh lưu ý cần phải giáo dục đường lối, chính sách của Đảng, thông tin thời sự cho cán bộ,
đảng viên để họ luôn luôn kiên định lập trường, giữ vững bản lĩnh chính trị trong mọi hoàn cảnh. Đồng thời
Người cũng cảnh báo nguy cơ sai lầm về đường lối chính trị sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng đối với vận
mệnh của Tổ quốc, sính mệnh chính trị của hàng triệu đảng viên cũng như của hàng triệu nhân dân lao động.
* Xây dựng Đảng về tổ chức, bộ máy, công tác cán bộ
Về hệ thống tổ chức của Đảng: Hồ Chí Minh khẳng định sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ tổ chức,
một tổ chức tiên phong chiến đấu của giai cấp công nhân. Hệ thống tổ chức của Đảng từ trung ương đến cơ
sở phải chặt chẽ, có tính kỷ luật cao. Mỗi cấp độ tổ chức có chức năng, nhiệm vụ riêng.
Trong hệ thống tổ chức Đảng. Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò của chi bộ. Bởi lẽ, đối với bản thân
Đảng, chi bộ là tổ chức hạt nhân, quyết định chất lượng lãnh đạo của Đảng; là môi trường tu dưỡng, rèn
luyện và cũng là nơi giám sát đảng viên: chi bộ có vai trò quan trọng trong việc gắn kết giữa Đảng và quần
chúng nhân dân.
Các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng:
+ Tập trung dân chủ
Đây là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng Đảng. Giữa "tập trung" và"dân chủ" có mối quan hệ khăng
khít với nhau, đó là hai vế của một nguyên tắc. Hồ Chí Minh viết về mối quan hệ đó như sau: Tập trung trên
nền tảng của dân chủ, dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung. Người viết "Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng
phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm
ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến,
đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý"‘.
+ Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách
Hồ Chí Minh giải thích về tập thể lãnh đạo như sau: "Vì sao cần phải có tập thể lãnh đạo? Vì một
người dù khôn ngoan, tài giỏi mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đâu, cũng chỉ trông thấy, chỉ xem xét được
một hoặc nhiều mặt của một vấn đề, không thể trông thấy xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề.
Vì vậy, cần phải có nhiều người, nhiều người thì nhiều kinh nghiệm. Người thì thấy rõ mặt này,
người thì trông thấy rõ mặt khác của vấn đề đó.
Góp kinh nghiệm và sự xem xét của nhiều người, thì vấn đề đó được thấy rõ khắp mọi mặt. Mà có
thấy rõ khắp mọi mặt, thì vấn đề ấy mới được giải quyết chu đáo, khỏi sai lầm" về cá nhân phụ trách, Hồ Chí
Minh cho rằng: "việc ai đã được đông người bàn bạc kỹ lưỡng rồi, kế hoạch định rõ ràng rồi, thì cần phải
giao cho một người hoặc một nhóm người phụ trách theo kế hoạch đó mà thi hành. Như thế mới có chuyên
trách, công việc mới chạy. Nếu không có cá nhân phụ trách thì sẽ sinh ra cái tệ người này ủy cho người kia,
người kia ủy cho người nọ, kết quả là không ai thi hành. Như thế thì việc gì cũng không xong"'.
+ Tự phê bình và phê bình
Mục đích của tự phê bình và phê bình là để làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa
mùa xuân, làm cho mỗi tổ chức tốt lên, phần xấu bị mất dần đi, tức là nói đến sự vươn tới chân, thiện, mỹ.
Mục đích này được quy định bởi tính tất yếu trong quá trình hoạt động của Đảng ta. Bởi vì, Đảng là một thực
thể của xã hội. Đảng bao gồm các tầng lớp xã hội. đội ngũ của Đảng bao gồm những người ưu tú, những
trong Đảng cũng không tránh khỏi những khuyết điểm, không phải mọi người đều tốt, mọi việc đều hay, mỗi
con người đều có cái thiện và cái ác ở trong lòng. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh cho rằng, thang thuốc tốt nhất
là tự phê bình và phê bình.
Thái độ, phương pháp tự phê bình và phê bình được Hồ Chí Minh nêu rõ ở những điểm như: phải
tiến hành thường xuyên như người ta mà mặt hằng ngày: phải thẳng thắn, chân thành, trung thực, không nể
nang, không giấu giếm mà cũng không thêm bớt khuyết điểm; "phải có tình thương yêu lẫn nhau".
+ Kỷ luật nghiêm minh, tự giác
Sức mạnh của một tổ chức cộng sản và của mỗi đảng viên bắt nguồn từ ý thức tổ chức kỷ luật
nghiêm minh, tự giác. Tính nghiêm minh của kỹ luật Đảng đòi hòi tất cả mọi tổ chức đảng, tất cả mọi đảng
viên đều phải bình đẳng trước Điều lệ Đảng, trước pháp luật của Nhà nước, trước mọi quyết định của Đảng.
Đồng thời Đảng ta là một tổ chức gồm những người tự nguyện phấn đấu cho lý tưởng cộng sản chủ nghĩa
cho nên tự giác là một yêu cầu bắt buộc đối với mọi tổ chức Đảng và đảng viên. Tính nghiêm minh, tự giác
đòi hỏi đảng viên phải gương mẫu trong cuộc sống, công tác. Uy tín của Đảng bắt nguồn từ sự gương mẫu
của mỗi đảng viên trong việc tự giác tuân thủ kỷ luật của Đảng, của Nhà nước, của đoàn thể nhân dân.
+ Đoàn kết thống nhất trong Đảng
-3-
Sự đoàn kết thống nhất của Đảng phải dựa trên cơ sở lý luận của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin: cương lĩnh,
điều lệ Đảng; đường lối, quan điểm của Đảng; nghị quyết của tổ chức đảng các cấp Đồng thời, muốn đoàn
kết thống nhất trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi ở trong Đảng, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự
phê bình và phê bình, thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân và các biểu hiện
tiêu cực khác, phải "sống với nhau có tình, có nghĩa", có đoàn kết tốt thì mới tạo ra cơ sở vững chắc để thống
nhất ý chí và hành động, làm cho "Đảng ta tuy đông người nhưng khi tiến đánh chỉ như là một người"
+ Cán bộ, công tác cán bộ của Đảng
Hồ Chí Minh đề ra một hệ thống các quan điểm về cán bộ và công tác cán bộ. Người nhận thức rất rõ
vị trí, vai trò của cán bộ trong sự nghiệp cách mạng. Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy, là mất khẩu trung
gian nối liền giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Muốn việc thành công hay thất bại là do cán bộ tốt hay
kém. Người cán bộ phải có đủ đức và tài, phẩm chất và năng lực. Trong đó, đạo đức, phẩm chất là gốc.
Hồ Chí Minh cho rằng, công tác cán bộ là công tác gốc của Đảng. Nội dung của nó bao hàm các mật
khẩu liên hoàn, có quan hệ chặt chẽ với nhau: tuyển chọn cán bộ, đào tạo, huấn luyện, bồi dưỡng cán bộ;
đánh giá đúng cán bộ, tuyển dụng, sắp xếp, bố trí cán bộ; thực hiện các chính sách đối với cán bộ.
* Xây dựng Đảng về đạo đức
Hô Chí Minh khẳng định: Một Đảng chân chính cách mạng phải có đạo đức. Đạo đức tạo nên uy tín,
sức mạnh của Đảng, giúp Đảng đủ tư cách lãnh đạo, hướng dẫn quần chúng nhân dân.
Xét về thực chất, đạo đức của Đảng ta là đạo đức mới, đạo đức cách mạng. Đạo đức đó mang bản chất của
giai cấp công nhân, cũng là đạo đức Mác – Lênin, đạo đức cộng sản chủ nghĩa mà nội dung cốt lõi là chủ
nghĩa nhân đạo chiến đấu. Vì thế, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và
cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Có đạo
đức cách mạng trong sáng. Đảng ta mới lãnh đạo nhân đân đấu tranh giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc
giàu mạnh, đồng bào sung sướng. Đó là mục tiêu, lý tưởng của Đảng và cữn là tư cách số một của Đảng cầm
quyền.
Giáo dục đạo đức cách mạng là một nội dung quan trọng trong việc tu dưỡng rèn luyện của cán bộ,
đảng viên. Nó gắn chặt với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân dưới mọi hình thức nhằm làm cho Đảng
luôn luôn thật sự trong sạch.
Đặc biệt quan tâm đến vấn đề đạo đức, gắn đạo đức với tư cách của một Đảng chân chính cách mạng,
Hồ Chí Minh đã góp phần bổ sung, mở rộng, phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về nội dung
công tác xây dựng Đảng phù hợp với truyền thống văn hóa, lịch sử của các nước phương Đông, trong đó có
Việt Nam.
Câu 3 – Tổ 2: Đ/c hãy làm rõ vì sao đảng ta phải tiến hành thực hiện xây dựng chỉnh đốn đảng, liên hệ
với cơ quan đơn vị đ/c công tác?
Trả lời:
VN đang trên con đường phát triển theo hướng CNH, HĐH, muốn phát triển đất nước thì Đảng phải
vững mạnh vì vậy Đảng cần phải thường xuyên đổi mới, chỉnh đốn để phát triển vững mạnh. Chỉnh đốn, đổi
mới Đảng là yêu cầu khách quan làm cho Đảng thường xuyên trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư
tưởng và tổ chức.
* Đảng ta phải tiến hành thực hiện xây dựng chỉnh đốn đảng, vì:
- ĐCS là nhân tố quyết định đến sự thành bại của CM VN, do vậy đảng phải luôn tự tôi luyện xây
dựng vững mạnh về tư tưởng, về chính trị và tổ chức để nâng cao năng lực lãnh đạo, tầm trí tuệ và sức chiến
đấu của đảng. Đó chính là lý do tại sao, bên cạnh việc xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm,
Đảng ta khẳng định rằng, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự
chỉnh đốn bản thân mình. Điều đó chứng tỏ Đảng tuân thủ những quan điểm chỉ dẫn của chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng sản; Đảng tích cực triển khai Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- ĐCS VN là đảng duy nhất cầm quyền, đảng có nhiều thuận lợi cơ bản nhưng cũng có nguy cơ tiềm
ẩn cực kỳ nguy hại, nếu không kịp thời chỉnh đốn sửa chữa sẽ làm cho đảng đánh mất đi vai trò lãnh đạo
cầm quyền.
- Từ yêu cầu mỗi thời kỳ của CM đòi hỏi đảng phải thay đổi cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ CM
của tình hình trong nước và thế giới, đảng phải luôn tự đổi mới chính mình để thúc đẩy đổi mới xã hội
- Trong quá trình lãnh đạo CM bên cạnh những ưu điểm đảng ta cũng có nhều khuyết điểm, yếu kém
cần phải khắc phục, sửa chữa.
-4-
- Từ hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và bọn phản động luôn tìm mọi cách chống phá
đối với sự nghiệp cách mạng của đảng và nhân dân ta.
* Liên hệ thực tế:
Câu 4– Tổ 3: Đ/c hãy làm rõ yêu cầu mới đặt ra đối với xây dựng đảng về chính trị, tư tưởng và tổ
chức. Liên hệ với chi bộ (đảng bộ) nơi đ/c công tác?
Trả lời:
Đảng cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân, có tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và
hành động trên cơ sở những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng. Trong hệ thống chính trị, đảng đóng
vài trò là hạt nhân lãnh đạo. Đảng phải xác định rõ nội dung và phương thức hoạt động đảm bảo vừa giữu
vững được vai trò lãnh đạo của đảng đồng thời phát huy được hiệu lực quản lý, điều hành của nhà nước và
hoạt động có hiệu quả của các đoàn thể nhân dân.
Để không ngừng nâng cao vai trò lãnh đạo của đảng, yêu cầu mới đặt ra đối với xây dựng đảng về
chính trị, tư tưởng và tổ chức là:
* Yêu cầu mới về chính trị:
- Xây dựng đường lối, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và dân tộc VN.
- Phải đứng vững trên lập trường tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng HCM, đồng thời tiếp thu
những tinh hoa trí tuệ của nhân loại, những kinh nghiệm quý giá của cách mạng Việt Nam và thế giới để kiến
tạo đường lối chính sách.
- Thường xuyên nghiên cứu đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng đối với nhà nước và XH sao cho có hiệu
quả nhất.
* Yêu cầu mới về tư tưởng:
- Mở rộng dân chủ trong nghiên cứu, trao đổi những vấn đề lí luận.
- Thông tin đa chiều, song cần định hướng thuyết phục về chính trị (ví dụ: Khi cung cấp thông tin các kì đại
hội cần chính xác,...)
- Cần lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ giỏi làm công tác tư tưởng.
- Phải đầu tư nghiên cứu lí luận 1 cách sâu sắc về kinh tế thị trường, định hướng XHCN. Vấn đề có tính hiệu
quả và vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Vấn đề nhà nước pháp quyền XHCN và một đảng duy nhất cầm
quyền.
* Yêu cầu mới về tổ chức:
- Trong các nhiệm vụ xây dựng tổ chức bộ máy và cán bộ, phải đề phòng thái độ chủ quan, duy ý chí.
- Trước bất kì nhiệm vụ thay đổi, đổi mới nào về tổ chức cần tôn trọng khoa học về tổ chức.
- Cần có thái độ trách nhiệm của cá nhân và tổ chức trong vấn đề xây dựng tổ chức cán bộ.
- Công tác cán bộ phải được điều lệ hóa, luật hóa.
* Liên hệ với chi bộ (đảng bộ) nơi đ/c công tác: (Các đ/c viết theo gợi ý sau)
- Nói qua về vai trò (sự cần thiết) của xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức
- Giới thiệu qua về chi bộ (đảng bộ) nơi đ/c công tác: (năm thành lập, số đảng viên...)
- Liên hệ với chi bộ nơi công tác theo các yêu cầu nêu trên.
* Những kết quả đạt được về : + Xây dựng về chính trị.
+ Xây dựng về tư tưởng.
+ Xây dựng về tổ chức
* Những tồn tại, hạn chế của chi bộ (đảng bộ)
* Đề xuất những giải pháp khắc phục.
Câu 5– Tổ 4: Từ lý luận về công tác xây dựng đảng trên cơ sở của Mac – Ăng ghen - Lê Nin, đ/c hãy
làm rõ những vấn đề cần lưu ý trong vận dụng, phát triển học thuyết Mac - Lê Nin về đảng và XD đảng
hiện nay.
Trả lời:
Học thuyết Mác –Lênin, về đảng cộng sản là cơ sở lí luận cho sự ra đời, phát triển của các đảng cộng
sản trên thế giới. Được học thuyết soi sáng, các đảng cộng sản đã xây dựng ngày càng lớn mạnh, đưa cách
mạng vô sản và cách mạng XHCN giành thắng lợi to lớn, đưa CNXH trở thành hiện thực và từng bước trở
thành hệ thống hùng mạnh, đạt thành tựu to lớn về phát triển toàn diện, nhiều mặt đứng đầu thế giới.
-5-
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo học thuyết Mác-Lênin về đảng cộng sản phù hợp với
nước ta, xây dựng thành công một đảng kiểu mới ở VN, đưa cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng
lợi khác.
Đảng cộng sản Việt Nam ta là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lê-nin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, nhưng bản thân Đảng không phải ngay một lúc đã nắm vững
và vận dụng thành thạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Hơn nữa, trong xã hội còn giai cấp và đấu tranh giai cấp,
những lý luận, quan điểm không vô sản đủ màu sắc không ngừng tác động vào trong Đảng. Vì vậy, để xác
lập ưu thế tuyệt đối của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về đảng và xây dựng đảng hiện nay, cần lưu ý một số vấn đề
sau:
- Phải nhận thức rõ những vấn đề có tính nguyên tắc trọng vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết
đó là: phát triển lí luận phải đảm bảo cho ĐCS vững mạnh hơn, có nhiều uy tín chính trị hơn trong giai cấp
công nhân và các tầng lớp nhân dân.
- Phải làm rõ những nội dung nào trong học thuyết về xây dựng chính đảng cách mạng của g/c công
nhân đã bị thực tiễn chính trị vượt qua cần thay đổi. Những nội dung nào còn nguyên giá trị cần tiếp tục
nghiên cứu và vận dụng.
- Việc nghiên cứu tiếp thu và vận dụng bất kì một luận điểm và nguyên tắc nào của học thuyết cũng
phải trên tinh thần sáng tạo, cách mạng “Dĩ bất biến, vạn bất biến”.
- Phải luôn cảnh giác nguy cơ xét lại trong quá trình phát triển các quan điểm lí luận về đảng của chủ
nghĩa Mac-Lênin; tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
=> Trong công cuộc đổi mới hiện nay, học thuyết Mác- Lênin về đảng và xây dựng đảng vẫn là cẩm
nang có giá trị nhất, là ngọn đuốc soi đường cho đảng và nhân dân VN tiến hành công tác xd đảng, để từ đó
đủ năng lực lãnh đạo thắng lợi công cuộc đổi mới, đưa đất nước đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh, xây dựng thành công CNXH.
Thầy Tâm
Câu 1 – Tổ 2: Đồng chí hãy nêu nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện Đảng cầm
quyền? Liên hệ việc thực hiện nội dung và phương thức lãnh đạo ở Đảng bộ đồng chí?
Trả lời
Sách giáo trình T86+87+88+89+90+91+92
Thầy Ngọc Anh
Câu 1 : Bằng những tư liệu lịch sử có chọn lọc trong những năm đầu thế kỉ XX, làm rõ tính tất
yếu lịch sử của sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam?
Trả lời:
Đảng cộng sản Việt Nam được thành lập ngày 3-2-1930. Sự ra đời của Đảng là kết quả tất yếu của
một quá trình vận động cách mạng trong hoàn cảnh cụ thể của nước ta, phù hợp với xu thế phát triển của thời
đại mới, là sự kiện có ý nghĩa quyết định đối vơí tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam.
- Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam phù hợp với xu thế vận động của thời đại: Sự thắng lợi
của cách mạng tháng Mười Nga (1917) là một hiện thực chứng minh việc biến lý luận cách mạng thành hiện
thực, mở ra một thời đại mới trong lịch sử nhân loại có tác dụng thức tỉnh các dân tộc đang đấu tranh giải
phóng.
Vai trò và sự tác động của lý luận cách mạng chủ nghĩa Mác- Lê-nin, là nhân tố thúc đẩy sự ra đời
của Đảng cộng sản và sự thành lập Quốc tế Cộng sản. Điều đó khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công
nhân trong việc quyết định sự phát triển của toàn xã hội. Phong trào giải phóng dân tộc theo con đường cách
mạng vô sản dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản trở thành xu thế chung của thời đại.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đáp ứng yêu cầu khách quan của xã hội Việt Nam đầu thế kỉ
XX: Cuộc khai thác, bóc lột thuộc địa của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam nảy sinh các mâu
thuẫn. Tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội, đặc biệt là các mâu thuẫn về dân tộc và giai cấp dẫn đến nhu
cầu đấu tranh để tự giải phóng. Độc lập dân tộc và tự do dân chủ là nguyện vộng tha thiết của nhân dân ta là
nhu cầu bức thiết của dân tộc.
Cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược giành độc lập dân tộc đã diễn ra liên tục mạnh mẽ.
Các phong trào yêu nước phát triển theo nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau ( tư sản, tiểu tư sản, nho sĩ
-6-
,…), nhưng phong trào giải phóng dân tộc ở nước ta đầu thế kỉ XX đã lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu
sắc về đường lối mà thực chất là thiếu một giai cấp tiên phong lãnh đạo. Trong khi các phong trào yêu nước
ở VN theo các khuynh hướng chính trị khác nhau đang bế tắc về đường lối, thì khuynh hướng vô sản thắng
thế ra đời để giải quyết triệt để sự khủng hoảng này.
- Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị về tư tưởng, chính trị, tổ chức - những điều kiện cần thiết để có sự ra
đời của một Đảng Cộng sản: Trong quá trình phát triển của phong trào công nhân và phong trào yêu nước
nhiều chiến sĩ yêu nước đã ra đi tìm đường cứu nước nhưng chỉ có Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu
tiên tìm thấy Chủ Nghĩa Mác Lê-nin và con đường giải phóng dân tộc theo Cách mạng Tư sản
Nguyễn Ái Quốc có công truyền bá Chủ nghĩa Mác- Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị về chính trị, tư
tưởng, tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác- Lê-nin được truyền bá vào Việt Nam đã thúc đẩy cho phong trào công nhân và
phong trào yêu nước phát triển. Các phong trào đấu tranh của công nhân Việt Nam từ năm 1925 đến 1929
chứng tỏ giai cấp công nhân đã trưởng thành, đã trở thành lực lượng chính trị độc lập tình hình khách quan
đó đòi hỏi phải có một Đảng Cộng sản lãnh đạo
Sự phân hoá của tổ chức “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội” đã hình thành các tổ chức
cộng sản là sự kiện chứng tỏ việc thành lập Đảng Cộng sản là kết quả tất yếu của sự phát triển phong trào
công nhân, phong trào yêu nước Việt Nam vào những năm 20 của thế kỉ XX.
Câu 2 : Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với việc thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam và ý nghĩa của việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam như thế nào?
Trả lời
Sự thất bại của phong trào yêu nước chống thực dân Pháp cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX đã chứng tỏ
con đường cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và hệ tư tưởng tư sản đã bế tắc. Cách mạng Việt Nam lâm
vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc về đường lối, về giai cấp lãnh đạo. Nhiệm vụ lịch sử đặt ra là phải tìm
một con đường cách mạng mới với một giai cấp có đủ tư cách đại biểu cho quyền lợi của dân tộc, của nhân
dân, có đủ uy tín và năng lực để lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ dẫn đến thành công. Và Nguyễn
Ái Quốc đã làm được điều đó.
* Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam:
- Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra cho dân tộc mình một con đường, một hướng đi đúng đắn, phù hợp
với xu thế thời đại: đó là con đường cách mạng vô sản.
Nguyễn Ái Quốc Sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, trên quê hương Nghệ Tĩnh giàu
truyền thống đấu tranh cách mạng lại lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan nên Người sớm có tinh thần yêu
nước. Người rất khâm phục tấm lòng yêu nước và tinh thần đấu tranh của các bậc tiền bối như: Phan Bội
Châu, Phan Chu Trinh, Phan Đình Phùng… nhưng lại không tán thành với con đường cứu nước của các cụ.
Xuất phát từ lòng yêu nước và trên cơ sở rút kinh nghiệm thất bại của các thế hệ cách mạng tiến bối. Nguyễn
Ái Quốc đã quyết tâm ra đi tìm con đường cứu nước mới hữu hiệu hơn.
+ Ngày 5 tháng 6 năm1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ quốc ra đi tìm
con đường cứu nước giải phóng dân tộc.
+ Tháng 7 năm 1920 Người đã đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và
thuộc địa” của Lênin, Người đã tìm ra con đường cứu nước cho cách mạng Việt Nam theo con đường cách
mạng vô sản. Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác- Lê nin; Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin đã soi
rọi đã mở ra cho cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam một giai đoạn phát triển mới – giai đoạn “gắn
phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế, đưa nhân dân Việt Nam đi theo con
đường mà chính Người đã trải qua, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác- Lênin”. Từ đây, Nguyễn
Ái Quốc ra sức chuẩn bị mọi mặt cho việc thành lập một chính đảng vô sản ở Việt Nam.
- Nguyễn Ái Quốc là người trực tiếp chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam:
+ Về tư tưởng: Để truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã viết rất nhiều bài cho các
báo Nhân đạo, Đời sống công nhân, Tạp chí cộng sản,Tập san thư tín quốc tế,…đặc biệt Người viết các tác
phẩm đặc sắc “Bản án chế độ thực dân Pháp”(1925) và cuốn “Đường cách mạng” (1927). Đây là tài liệu
nhằm chuẩn bị cho những người yêu nước Việt Nam những quan điểm cơ bản về chiến lược và sách lược của
cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam.
-7-
+ Về Chính trị: Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã hình thành một hệ thống quan điểm chính trị, khẳng
định con đường cách mạng của dân tộc Việt Nam theo con đường cách mạng vô sản.
+ Về tổ chức: Tháng 11/1924, Nguyễn Ái Quốc về tới Quảng Châu (Trung Quốc); thành lập Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên (6/1925) với nhóm Cộng sản đoàn làm nòng cốt rồi truyền bá chủ nghĩa Mác –
Lênin vào Việt Nam chuẩn bị cho việc thành lập chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, Người sáng
lập tuần báo Thanh niên làm cơ quan tuyên truyền của Hội.
Người đã trực tiếp mở nhiều khóa huấn luyện chính trị nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ cốt cán cho cách
mạng Việt Nam. Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc về sau được tập hợp trong cuốn Đường cách mệnh
(1927). Đây là tài liệu nhằm chuẩn bị cho những người yêu nước Việt Nam những quan điểm cơ bản về
chiến lược và sách lược của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam. Hội Việt Nam cách mạng thanh niên là
tổ chức trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác Lê-nin vào trong nước là sự chuẩn bị quan trọng về tổ chức để tiến
tới thành lập chính đảng của giai cấp vô sản ở Việt Nam.
- Nguyễn Ái Quốc bằng tài năng, uy tín và đức độ của mình đã thống nhất các tổ chức cộng sản ở
Việt Nam để thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất.
Sự phân hoá của tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã hình thành các tổ chức cộng sản.
Năm 1930, ba tổ chức cộng sản ra đời ở Việt Nam: Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng,
Đông Dương Cộng sản Liên Đoàn, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của phong trào cách mạng. Được sự ủy
nhiệm của Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc triệu tập và chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản tại
Hương Cảng (Hồng Công -Trung Quốc). Hội nghị đã thống nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng duy
nhất là: Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Nguyễn Ái Quốc đã soạn thảo Cương lĩnh chính trị đúng đắn đầu tiên của Đảng nhằm dẫn
đường cho dân tộc ta tiến lên trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội.
* Ý nghĩa lịch sử của sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam:
+ Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã chấm dứt sự khủng hoảng và bế tắc về đường lối cứu nước, mở
ra thời kì mới cho cách mạng Việt Nam: thời kì có đường lối cách mạng đúng đắn và tổ chức cách mạng tiên
phong lãnh đạo.
+ Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
+ Sự ra đời của Đảng chứng tỏ giai cấp vô sản Việt Nam đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách
mạng.
+ Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập đã khẳng định dứt khoát nội dung, xu hướng phát triển của xã
hội Việt Nam là gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
+ Đảng ra đời làm cho cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng thế
giới.
+ Đảng ra đời là bước ngoặt quyết định trong sự phát triển của dân tộc ta, tạo những tiền đề và nhân
tố quyết định đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, mở đầu bằng Cách
mạng tháng Tám 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Câu 3: Đồng chí hãy làm rõ nội dung và ý nghĩa lịch sử của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng cộng sản Việt Nam?
Trả lời
* Nội dung
Thông qua các văn kiện do lãnh tụ Nguyễn ái Quốc soạn thảo. Ðó là Chánh cýõng vắn tắt của Ðảng,
Sách lýợc vắn tắt của Ðảng, Chýõng trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Lấy tên
Đảng
Cộng
sản
Việt
Nam.
Sau này Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng được xem là Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong đó, đã phản ánh những nội dung cơ bản nhất của sự nghiệp giải
phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người trên đất nước Việt Nam.
Những nội dung cơ bản của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (2-1930) được
Hội nghị thống nhất thông qua là:
1- Khẳng định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam. Đó là: "chủ trương làm tư sản
dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản".(Sau này gọi là cách mạng dân tộc dân
chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa). Tính chất giai đoạn và lý luận cách mạng không ngừng đã được thể
hiện trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng: cách mạng tư sản dân quyền là thời kỳ dự bị để tiên lên cách mạng
-8-
xã hội chủ nghĩa. Đây là con đường cứu nước mới, khác với những chủ trương, những con đường cứu nước
của những nhà yêu nước đương thời đã đi vào bê tắc và thất bại. Như vậy, ngay từ đầu Đảng ta đã tiếp thu và
vận dụng sáng tạo lý luận MÁC-LÊNIN vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Đường lối cơ bản của cách
mạng Việt Nam được phản ánh trong Cương lĩnh đã thiện được tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghiã xã hội. Việc xác định đúng đắn phương hướng, con đường của cách mạng Việt Nam ngay từ đầu có ý
nghĩa hết sức quan trọng. Đó là ngọn cờ tập hợp lực lượng cách mạng, là cơ sở để giải quyết đứng đắn các
vấn đề cơ bản của cách mạng việt Nam.
2- Nhiệm vụ, mục tiêu cơ bản của cách mạng Việt Nam, Cương lĩnh chỉ rõ: ''Đánh đố đế quốc chủ
nghĩa và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập". Tức là nhiệm vụ của cách mạng tư
sản dân quyền (sau này gọi là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân) là chống đế quốc giành độc lập cho dân
tộc và chống phong kiến để giành ruộng đất cho dân cày. Trong đó nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân
tộc là nhiệm vụ được đặt lên hàng đầu. Xuất phát từ đặc điếm của chế độ thuộc địa nửa phong kiến, đây là
hai nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam. Sự kết hợp hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến
đã khẳng định tính toàn diện, triệt để của đường lối cách mạng Việt Nam. Những nhiệm vụ đó là biểu hiện
sinh động của việc kết hợp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con
người trong đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.
3- Về lực lượng của cách mạng Việt Nam, phải đoàn kết công nhân, nông dân-đây là lực lượng cơ
bản trong đó giai cấp công nhân lãnh đạo; đồng thời Cương lĩnh nêu rõ: "Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu
tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt, v.v. đế kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn
phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới
làm cho họ đứng trung lập''. Đây là tư tưởng tập hợp lực lượng cách mạng trên cơ sở đánh giá thái độ các
giai cấp phù hợp với đặc điểm xã hội Việt Nam. Để thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc, Cương lĩnh chỉ
ra rằng, phải đoàn kết với tất cả các giai cấp, các tầng lớp nhân dân yêu nước. Đó là sự thể hiện quan điểm:
cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người làm nên lịch sử. Đồng thời, Cương lĩnh cũng đã
chỉ ra lực lượng chính, động lực chủ yếu của sự nghiệp cách mạng Việt Nam là công nhân và nông dân. Đây
là sự thể hiện tính nguyên tắc trong chính sách đại đoàn kết dân tộc và sự sắp xếp, tổ chức lực lượng cách
mạng của Đảng ta. Việc tập hợp lực lượng rộng rãi cũng như xác định được động lực chủ yếu, cơ bản của sự
nghiệp cách mạng phản ánh sự mềm dẻo và linh hoạt trong chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Đảng ta.
4- Về phương pháp cách mạng Việt Nam, Cương lĩnh đã khẳng định: phương pháp cách mạng cơ bản
của Việt Nam là dùng sức mạnh tổng hợp của quần chúng nhân dân để đánh đổ đế quốc phong kiến, đó là
bạo lực cách mạng. Phương pháp bạo lực cách mạng được nêu lên với những biểu hiện cụ thể: đánh đổ đế
quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, đánh đổ các đảng phản cách mạng như Đảng Lập hiến, đánh trúc
bọn đại địa chủ và phong kiến. Chính sự thất bại của khuynh hướng cải lương hoà bình ở Việt Nam những
năm đầu thế kỷ XX đã cho thấy cách mạng muốn giành thắng lợi, không có con đường nào khác là phải sử
dụng bạo lực cách mạng. Việc nêu lên phương pháp cách mạng bạo lực trong sự nghiệp cách mạng của nhân
dân ta đã thể hiện sự thấm nhuần và tiếp thu tư tưởng cách mạng bạo lực của chủ nghĩa MÁC-LÊNIN.
5- Xác định vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, phải thu
phục và lãnh đạo được dân chúng. Để thực hiện thành công sự nghiệp cách mạng, Cương lĩnh đã khẳng định
vai trò quyết định của Đảng: Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp. Để lám tròn sứ mệnh lịch sử là nhân
tố tiên phong quyết đinh thắng lơi của cách mạng Việt Nam, Đảng phải: "thu phục cho được đại bộ phận giai
cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng". Khẳng định bản chất giai cấp của Đảng, vai
trò lãnh đạo của giai cấp công nhân và chiến lược đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên minh công - nông là
những vấn đế then chốt bảo đảm cho Đảng ta trở thành nhân tố duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Cương lĩnh cũng nêu lên sự gắn bó, quan hệ máu thịt giữa Đảng với quần chúng. Đây là điều kiện tạo cho
Đảng có nguồn súc mạnh vĩ đại và trở thành lãnh tụ chính trị cho cả dân tộc. Sự lãnh đạo của.Đảng là yếu tố
quyết định nhất cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
6- Phát huy tinh thần tự lực tự cường, đồng thời tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của các dân tộc bị áp
bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp. Vấn đề đoàn kết quốc tế cũng là một nội dung
quan trọng của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Đoàn kết quốc tế là một vấn đề có tính nguyên tắc
của cách mạng Việt Nam: "Trong khi tuyên truyền cái khấu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên
truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp".
Đồng thời, Cương lĩnh cũng đã xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Gắn
cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, đề cao vấn đoàn kết quốc tế chính là sự thể hiện việc kết hợp
-9-
chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, lợi ích dân tộc và lợi ích toàn nhân loại tiến bộ
đang đấu tranh để giải phóng khỏi ách áp bức, bất công trên thế giới. Vấn đề đoàn kêt quốc tế cũng đồng thời
là một động lực quan trọng của cách mạng Việt Nam.
7- Xây dựng Đảng cách mạng vững mạnh, kêu gọi mọi người ủng hộ và gia nhập Đảng, phải có tổ
chức chặt chẽ. Lần đầu tiên cách mạng Việt Nam có một bản cương lĩnh chính trị phản ánh được quy luật
khách quan của xã hội Việt Nam, đáp ứng những nhu cầu cơ bản và cấp bách của xã hội Việt Nam, phù hợp
với xu thế của thời đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng
thiết tha của đại đa số nhân dân ta... Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn chung
quanh giai cấp mình. Còn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá sản, hoặc bị cô lập. Do đó,
quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của giai cấp công nhân - không ngừng củng cố và tăng cường".
* Ý nghĩa lịch sử: *(Sách giáo trình T127+128)
+ Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã phản ánh một cách súc tích các luận điểm cơ bản của
cách mạng Việt Nam.
+ Phản ánh quy luật khách quan của xã hội Việt Nam, đáp ứng những nhu cầu cơ bản và cấp bách của
xã hội Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời đại, định hướng chiến lược đúng đắn cho tiến trình phát triển
của cách mạng Việt Nam.
+ Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin
vào hoàn cảnh cụ thể của một nước thuộc địa nửa phong kiến.
+ Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng khẳng định dứt khoát nội dung, xu hướng phát triển của xã
hội Việt Nam là độc lập dân tộc.
Câu 4: Từ năm 1930 đến năm 1945, Đảng đã đề ra chủ trương như thế nào để lãnh đạo tổ chức
thực hiện nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam?
Trả lời
- Thời kỳ 1930 – 1931:
+ Đặc điểm tình hình: Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933 nổ ra trong hệ thống các nước
TBCN đã tàn phá nền kinh tế của các nước này. Ở Đông Dương, thực dân Pháp tăng cường bóc lột nhân dân
ta. Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp ngày càng sâu sắc.
+ Chủ trương của Đảng: phát động quần chúng đấu tranh đòi tự do dân chủ, cải thiện đời sống, chống
địch khủng bố trắng, đòi trả tự do cho những người yêu nước bị bắt, đòi bồi thường cho những gia đình nạn
nhân và làng mạc bị phá.
+ Kết quả: dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã vùng lên đấu tranh đưa phong trào phát triển
thành cao trào 1930 - 1931 với đỉnh cao là Xô viết Nghệ - Tĩnh.
- Thời kỳ 1932 – 1935:
+ Đặc điểm tình hình: Từ cuối năm 1931, đế quốc và tay sai thẳng tay thi hành một chính sách khủng
bố cực kì tàn bạo. Cách mạng Việt Nam bị tổn thất nghiêm trọng.
+ Chủ trương của Đảng: lãnh đạo đấu tranh phục hồi hệ thống tổ chức Đảng và phong trào cách mạng
của quần chúng.
+ Kết quả: hệ thống tổ chức của Đảng được xây dựng và chắp nối lại, phong trào đấu tranh của quần
chúng được phục hồi, chuẩn bị cho cao trào cách mạng mới.
- Thời kỳ 1936 – 1939:
+ Đặc điểm tình hình: Chủ nghĩa phát xít trở thành mối nguy cơ lớn đe doạ hoà bình và an ninh quốc
tế. Do đó, nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân quốc tế là đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít và chiến
tranh đế quốc, giành dân chủ và hoà bình. Năm 1936, Mặt trận nhân dân Pháp lên cầm quyền, ban bố một số
chính sách tự do dân chủ đối với thuộc địa song bọn cầm quyền phản động ở Đông Dương lại không chịu thi
hành những chính sách này.
+ Chủ trương của Đảng: lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít
và chiến tranh đế quốc, dòi dân sinh, dân chủ và hoà bình.
+ Kết quả: phong trào đấu tranh phát triển thành cao trào. Qua cao trào, Đảng ta đã mở rộng được lực
lượng cách mạng bên cạnh lực lượng cơ bản là công nhân và nông dân.
- Từ tháng 9 - 1939 đến tháng 8 - 1945:
+ Đặc điểm tình hình: Tháng 9 – 1939, Chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ làm ảnh sâu sắc đến tình
hình mọi mặt ở Đông Dương.
- 10 -
+ Chủ trương của Đảng: nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc đồng thời tích cực chuẩn bị về mọi mặt
cho khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền (xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, căn cứ địa
cách mạng)
+ Kết quả: Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành Cách mạng tháng Tám thành công trong cả nước,
đập tan ách áp bức thực dân phong kiến, xây dựng nên một chế độ xã hội mới, chế độ dân chủ nhân dân.
Câu 5: Làm rõ ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám năm 1945?
Liên hệ cách mạng tháng 8 năm 1945 ở Sơn La?
Trả lời
- Ý nghĩa lịch sử
+ Đối với dân tộc: Cách mạng Tháng Tám đã mở ra một kỉ nguyên mới - kỉ nguyên độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người dân độc lập, tự do làm chủ
nước nhà. Đảng Cộng sản Đông Dương từ một đảng hoạt động bí mật trở thành một đảng cầm quyền. Nước
ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, một nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở
Đông Nam Á.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám xác lập và nâng cao vị trí quốc tế của dân tộc Việt Nam.
+ Đối với quốc tế và thời đại: Cách mạng tháng Tám mở ra thời kỳ suy sụp, tan rã của chủ nghĩa thực
dân cũ trên phạm vi thế giới, thúc đẩy và cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ.
- Một số kinh nghiệm chủ yếu của Cách mạng tháng Tám năm 1945
+ Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giải quyết đúng đắn mối quan hệ độc lập
dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và chống phong kiến.
+ Đoàn kết toàn dân trong mặt trận dân tộc thống nhất, nòng cốt là công nhân và nông dân.
+ Kiên quyết sử dụng bạo lực cách mạng để giành chính quyền, triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong
hàng ngũ kẻ thù để phân hóa, cô lập rồi tiến lên đánh bại chúng.
+ Nắm vững thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, chủ động sáng tạo tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền.
+ Xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, thống nhất ý chí và hành động trong Đảng.
- Liên hệ cách mạng tháng 8 năm 1945 ở Sơn La
Trong những năm tiền khởi nghĩa Sơn La chịu ảnh hưởng chủ yếu 2 trung tâm cách mạng là yếu tố
quyết định tiến tới phát động phong trào cách mạng của tỉnh tiến tới giành chính quyền trong khởi nghĩa
cách mạng tháng 8-1945.
Thứ nhất: do ảnh hưởng của căn cứ địa cách mạng vùng chiến khu Vần - Hiền-Lương (Yên BáiPhú Thọ) phong trào cách mạng ở phía Nam tỉnh (Phù yên) đã phát triển cơ sở quần chúng, tháng 7-1945
phối hợp với đội vũ trang ở chiến khu, quần chúng cách mạng đã nổi dậy khởi nghĩa từng phần và giành
chính quyền trước cách mạng tháng 8-1945.
Thứ hai: do ảnh hưởng trực tiếp của chi bộ đảng nhà ngục Sơn La, chi bộ đã chú trọng phát triển
các tổ chức quần chúng cách mạng bên trong và bên ngoài nhà tù.
- Ngày 18-8-1945 lệnh tổng khởi nghĩa của Trung ương và xứ ủy Bắc kỳ được chuyển tới chiến khu
Quang Trung (Chiến Khu Hoà - Ninh - Thanh).
- Ngày 21-8-1945, các đồng chí lãnh đạo đã họp bàn và quyết định kế hoạch khởi nghĩa giành
chính quyền.
- Ngày 22-8-1945 tiến hành khởi nghĩa và giành thắng lợi đồng loạt ở châu Mai Sơn và Sơn La.
- Ngày 26-8-1945 cuộc mít tinh tại đồi Khau cả do Việt Minh tổ chức Ủy ban cách mạng lâm thời
được thành lập.
- Ngày 18-10-1945 Ủy ban cách mạng lâm thời được thành lập do Điêu chính Châu làm Chủ tịch.
- Ý nghĩa lịch sử:
+ Thể hiện lòng yêu nước căm thù giặc sâu sắc qua hàng ngàn năm lịch sử của các dân tộc Sơn La.
+ Là kết quả tất yếu quá trình vận động, tuyên truyền xây dựng những nhân cốt và cơ sở cách mạng
của Đảng mà ở đây chính là sự lãnh đạo của chi bộ nhà ngục Sơn La.
+ Là kết quả vận dụng sáng tạo đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng vào thực tế một tỉnh miền
núi có nhiều dân tộc.
+ Là kết quả của một quá trình xây dựng lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị của quần chúng, xậy
dựng những điều kiện cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền, tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn chiến thắng
kẻ thù.
- 11 -
+ Thể hiện sự chủ động, sáng tạo, linh hoạt, biết chớp thời cơ; sử dụng phương pháp cách mạng mềm
dẻo nhưng kiên quyết của đội ngũ cán bộ địa phương.
Cô Quỳnh
Câu 1 – Tổ 1: Đ/c hãy nêu những chủ trương của đảng ta nhằm xây dựng và bảo vệ chính quyền CM từ
9/1945 đến 12/1946
Trả lời:
Trong giai đoạn từ tháng 9/1945 đến tháng 12/1946 Đảng ta đã đề ra 4 chủ trương nhằm xây dựng và
bảo vệ chính quyền cách mạng. Đó là:
* Chủ trương xây dựng, cổng cố, bảo vệ chính quyền cách mạng và chế độ xã hội mới.
- Ngày 03/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trì phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, thay
mặt chính phủ nêu lên những nhiệm vụ cấp bách của nhà nước Việt nam dân chủ cộng hòa cần phải làm ngay
là:
+ Giải quyết nạn đói;
+ Giải quyết nạn dốt;
+ Tổ chức tổng tuyển cử;
+ Thực hiện cầm, kiệm, liêm, chính;
+ Xóa bỏ thuế vô nhân đạo;
+ Cấm hút thuốc phiện;
+ Tuyên bố tín ngưỡng tự do và lương giáo đào kết.
- Ngày 25/11/1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị kháng chiến kiến quốc:
+ Củng cố chính quyền;
+ Chống thực dân pháp;
+ Bài trừ nội phản;
+ Cải thiện đời sống cho nhân dân.
- Ngày 06/01/1946, cuộc tổng tuyển cử đầu tiên được tổ chức tại Hà Nội đã giành thắng lợi to lớn.
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh trúng cử với số phiếu cao 98,4%.
+ Ngày 02/3/1946 Quốc hội khóa I họp phiên thứ nhất, đã chỉ định Chủ tịch HCM đứng đầu Chính
Phủ liên hiệp kháng chiến gồm 12 thành viên. Các địa phương đã bầu ra hội đồng nhân dân các cấp.
+ Ngày 9- 11 -1946 tại kỳ học thứ 2 quốc hội đã thông qua bản hiến phát dân chủ đầu tiên của nước
ta.
+ Tăng cường sức mạnh, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố: Ngày 29-5- 1946 hội liên
hiệp quốc dân việt nam được thành lập. Các đoàn thể như công thương cứu quốc, công nhân cứu quốc, thanh
niên cứu quốc lần lượt mở hội nghị để thống nhất và hành động. Mặt trận doàn kết, nha dân tộc thiểu số
được thành lập. Hội nghị các dân tộc thiểu số toàn quốc được tổ chức tháng 12 -1946 và hội nghị đại biểu
các dân tộc thiểu số khu vực miền nam họp tháng 4-1946 khối dại đoàn kết toàn dân mà nồng cốt là mặt trận
việt Minh và hội liên hiệp quốc dân việt nam là cơ sở chính trị xã hội rộng lớn, là chỗ dựa cho chính quyền
nhân dân cho những năm tháng đầu tiên quản lý đất nước, chống thừ trong giặc ngoài.
* Chủ trương khắc phục những khó khăn về kinh tế, văn hóa, xã hội:
- Diệt giặc đói: Cứ 10 ngày nhịn một bữa ăn, hú gạo tiết kiệm, ngày đồng tâm, tăng gia sản xuất, chia
đất cho nông dân; ban hành sắc lệnh bỏ thếu thân, giảm thuế, miễn thuế cho dân nghèo.
- Khắc phục nền tài chính quốc gia: Tuần lễ vàng, quý độc lập.
- Diệt giặc dốt: Ngày 08/9/1945 ban hành sắc lệnh thành lập nha bình dân học vụ, phong trào xóa mù
chữ phát triển khắp cả nước.
* Chủ trương tiến hành kháng chiến chống thực dân pháp ở nam bộ:
- Đêm ngày 22, rạng sáng ngày 23/9/1945 thực dân pháp nổ súng đánh chiếm Nam bộ.
- Ngày 23/9/1945 xứ ủy và UBND nam bộ họp đề ra chủ trương phát động và chỉ đạo cuộc kháng
chiến.
- Ngày 26/9/1945 Chủ tịch HCM gửi thư gọi đồng bào miền nam kháng chiến chống thực dân pháp.
* Chủ trương đấu tranh trên mặt trận ngoại giao:
- Hòa hoãn thích hợp với từng kẻ thù, lợi dụng mâu thuẫn giữa các kẻ thù để phân hóa, loại bỏ chúng.
+ Từ 9/1945 đến tháng 3/1946: Hòa hoãn với Tưởng ở phía Bắc để tập trung chống pháp ở Miền
nam.
- 12 -
+ Từ 3/1946 đến 12/1946: Hòa hoãn với thực dân pháp để có thời gian xây dựng và phát triển lực
lượng cách mạng, chuẩn bị moin mặt cho cuộc kháng chiến toàn quốc.
Câu 2- Tổ 2: Đồng chí hãy làm rõ chủ trương của Đảng lãnh đạo cách mạng Miền Nam từ năm 1954
đến 1975?
Trả lời:
Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết (tháng 7-1954), cách mạng Việt Nam có những thuận lợi mới
nhưng cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Yêu cầu bức thiết đặt ra cho Đảng ta là phải hoạch định
được đường lối cách mạng đúng đắn, vừa phù hợp với tình hình trong nước, vừa phù hợp xu thế của thời đại.
1. Đường lối cách mạng Việt Nam ở miền Nam (1954 -1964)
Vào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (tháng 7-1954) đã xác định: đế quốc Mỹ là kẻ thủ chính của nhân dân thế giới và hiện
đang trở thành kẻ thù chính trực tiếp của nhân dân Đông Dương. Như vậy, Đảng ta đã sớm xác định được: kẻ
thù của cách mạng Việt Nam. Tiếp đó, tháng 9-1954,
Bộ Chính trị ra Nghị quyết về tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách mới của Đảng. Nghị quyết
đã chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của tình hình trong lúc cách mạng Việt Nam bước vào một giai đoạn mới
là: từ chiến tranh chuyển sang hoà bình; nước nhà tạm chia làm hai miền; từ nông thôn chuyển vào thành thị;
từ phân tán chuyển đến tập trung.
Tại Hội nghị lần thứ VII (tháng 3-1955) và lần thứ VIII (tháng 8-1955) Trung ương Đảng nhận định:
muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai, củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ,
điều cốt lõi là phải ra sức củng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc dấu tranh của nhân dân
miền Nam.
Đặc biệt, tháng 12-1957, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 13, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:
ta đang đồng thời tiến hành hai chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Nhiệm vụ củng cố miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội có tính chất quyết định cho toàn bộ thắng
lợi cách mạng trong giai đoạn mới. Lực lượng cách mạng ở miền Nam được duy trì và phát triển là nhân tố
trực tiếp quyết định thắng lợi của cuộc đấu tranh cách mạng của miền Nam.
Từ năm 1954 đến năm 1959, Mỹ - Diệm trắng trợn vi phạm Hiệp định Giơnevơ tiến hành tổngtuyển
cử riêng rẽ khủng bố, đàn áp dã man phong trào yêu nước của nhân dân miền Nam. Tình hình đó đặt cách
mạng miền Nam vào tình trạng hết sức cấp bách. Chính vì vậy, tháng 1-1959, Ban Chấp hành Trung ương đã
triệu tập Hội nghị lần thứ 15 khoá II. Hội nghị họp nhiều đợt, ra Nghị quyết về nhiệm vụ cách mạng ở miền
Nam. Những nội dung cơ bản của Nghị quyết gồm:
- Hội nghị xác định cách mạng Việt Nam lúc này có hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Hai nhiệm vụ chiến lược đó tuy có
tính chất khác nhau, nhưng có quan hệ hữu cơ với nhau, song song tiến hành.
- Nghị quyết chỉ rõ nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là: "giải phóng miền Nam
khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc
lập và giàu mạnh"'.
- Phương hướng phát triển của cách mạng miền Nam: "ngoài con đường cách mạng, nhân dân miền
Nam không có con đường nào khác", cho nên conđường phát triển cơ bản của cách mạng miền Nam là "khởi
nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân... đó là lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị
của quần chúng là chủ yếu, kết hơp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong
kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân"'.
- Hội nghị dự kiến: "cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam cũng có khả năng chuyển thành cuộc
đấu tranh vũ trang trường kỳ. Trong tình hình đó, cuộc đấu tranh sẽ chuyển sang một cục diện mới: đó là
chiến tranh trường kỳ giữa ta và địch, và thắng lợi cuối cùng nhất định về ta".
- Nghị quyết chỉ rõ ở miền Nam cần có Mặt trận dân tộc thống nhất riêng cho phù hợp với tính chất
và nhiệm vụ của cách mạng.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 có ý nghĩa lịch sử to lớn, không những đã mở đường cho cách mạng
miền Nam tiến lên, mà còn thể hiện rõ bán lĩnh độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng ta trong những năm tháng
khó khăn của cách mạng. Có thể nói, đến Hội nghị 15, đường lối cách mạng ở miền Nam đã được hoạch
định một cách căn bản. Sau đó, đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (từ ngày 5 đến ngày 109-1960), Đảng ta đã khẳng định những nội dung căn bản đó. Đại hội đã bổ sung và hoàn chỉnh đường lối
- 13 -
chiến lược chung của cách mạng Việt Nam. Trong đó, Đại hội đã vạch ra nhiệm vụ chung, nhiệm vụ chiến
lược, mục tiền chiến lược của cách mạng, đồng thời nêu bật mối quan hệ giữa hai chiến lược cách mạng ở
hai miền.
2. Đường lối của Đảng về kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1965 - 1975)
Dưới sự lãnh dạo của Đảng, quân và dân ta ở miền Nam đã tập trung sức lực làm thất bại chiến lược
"chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ. Chiến thắng Ấp Bắc (Cai Lậy - Mỹ Tho) đầu tháng 1-1963 mở đầu
cao trào diệt quân ngụy. Chiến thắng Bình Giã (Bà Rịa) từ ngày 1-12-1964 đến ngày 3-1-1965, chiến thắng
An Lão (Bình Định), chiến thắng Ba Gia (Quảng Ngãi) ngày 25-5-1965, chiến thắng Đồng Xoài từ ngày 115 đến ngày 22-7-1965 đã làm thất bại hoàn toàn chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ.
Sau thất bại trong chiến lược "chiến tranh đặc biệt" năm 1965, đế quốc Mỹ ồ ạt đưa quân đội viễn chinh Mỹ
và quân đội của các nước phụ thuộc Mỹ vào miền Nam Việt Nam nhằm tiến hành chiến lược "chiến tranh
cục bộ", đồng thời phát động chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc.
Trước tình hình đó, trong năm 1965, Trung ương Đảng đã tiến hành hai Hội nghị: Hội nghị Trung ương lần
thứ 11 (tháng 3-1965) và Hội nghị Trung ương lần thứ 12 (tháng 12-1965).
Hai Hội nghị đã phân tích toàn diện sâu sắc chiến lược mới của Mỹ:
+ Tính chất cơ bản của cuộc chiến tranh của Mỹ ở miền Nam vẫn là chiến tranh xâm lược thực dân
mới. Mỹ tuy có tăng về lực lượng quân sự nhưng lại có nhiều chỗ yếu cơ bản, nhất là về chính trị.
+ Về phía ta, từ một nửa nước có chiến tranh thành cả nước có chiến tranh với mức độ và hình thức
khác nhau. Cuộc chiến đấu gay go, quyết liệt nhưng ta đã vững mạnh hơn hẳn trước, đã có chuẩn bị về tư
tưởng và tổ chức.
Từ đó, Đảng rút ra kết luận:
Một là, so sánh lực lượng giữa ta và địch căn bản không thay đổi. Vì thế, ta cần giũ vững và phát huy
chiến lược tiến công.
Hai là, tiếp tục tiến công và phản công, kết hợp đấu tranh quân sự và chính trị nhưng đấu tranh quân
sự ngày càng có tác dụng quyết định trực tiếp.
Ba là, chủ trương đẩy mạnh hơn nữa hoạt động đối ngoại và đấu tranh ngoại giao, tăng cường tiếp
xúc cả công khai và bí mật với nhiều nước trên thế giới, làm rõ chính nghĩa và thiện chí của ta.
Hội nghị Trung ương lần thứ 11 và 12 là sự phát triển rất quan trọng của đường lối kháng chiến
chống Mỹ cứu nước trong tình thế phải trực tiếp đánh đội quân viễn chinh xâm lược Mỹ. Ở đây, ngoài quyết
tâm đánh Mỹ thể hiện bản lĩnh vững vàng của Đảng, còn thể hiện sự phát triển kinh nghiệm khoa học, nghệ
thuật lãnh đạo chiến tranh cách mạng của Đảng được kế thừa từ các thời kỳ trước.
Với đường lối đúng đắn của Đảng, quân và dân ta trên cả nước đã kết thành một khối. Ở miền Nam,
đã dành thắng lợi to lớn trong mùa khô 1965 - 1966, 1966 - 1967 và cuộc tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân
1968 đã làm thất bại chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ, buộc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán ở Pari từ
ngày 13-5-1968 và từ ngày 1-11-1968 Mỹ buộc phải chấm dứt ném bom miền Bắc.
Sang năm 1969, đế quốc Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh" với âm
mưu cực kỳ tàn bạo và thâm độc. Trong những năm 1969, 1970, cách mạng miền Nam gặp nhiều khó khăn
và tổn thất. Nhưng ý chí và quyết tâm chiến thắng của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân không hề suy giảm.
Tháng 2- 1971, địch mở cuộc hành quân "Lam Sơn 719". Quân ta thắng lớn trong Chiến dịch Đường 9 Nam Lào. Chiến thắng này chứng minh quân ngụy Sài Gòn không thể đương đầu được với quân giải phóng,
nhất là lực lượng quân chủ lực của miền Bắc. Cuộc tiến công Xuân - Hè 1972 trên toàn chiến trường miền
Nam thể hiện ý chí và sức mạnh của quân và dân ta. Để đối phó, Mỹ buộc phải "Mỹ hoá" trở lại cuộc chiến
tranh bằng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai đối với miền Bắc bắt đầu từ ngày 6-4-1972 và đỉnh cao nhất
là cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B52 vào Hà Nội, Hải Phòng 12 ngày đêm cuối tháng 12-1972.
Thất bại trong trận "Điện Biên Phủ trên không" ở Hà Nội, Hải Phòng, Mỹ phải trở lại Hội nghị đàm phán và
ký kết Hiệp định Pari (27-1-1973) chấm dứt sự có mặt của quân viễn chinh Mỹ ở Việt Nam.
Sau khi Hiệp định Pari được ký kết, quân Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam (29-3-1973) nhưng đế
quốc Mỹ vẫn ra sức viện trợ cho chính quyền Sài Gòn, tiếp tục thực hiện chiến lược "Việt Nam hoá chiến
tranh". Chính quyền Nguyễn Văn Thiệu được Mỹ trợ giúp đã lấn chiếm, ngoan cố tiến hành chiến tranh, vi
phạm những điều khoản của Hiệp định Pari. Tình hình đó cho thấy con đường phát triển của cách mạng ở
miền Nam vẫn phải là tiến hành chiến tranh cách mạng đánh bại ngụy quân, ngụy quyền để giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước.
- 14 -
Để thúc đẩy sự phát triển của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới, Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành
Trung ương khoá III có tầm quan trọng đặc biệt. Hội nghị đợi I từ ngày 19-6 đến ngày 6-7-1973 và đợt II từ
ngày 1-10 đến ngày 4-10-1973 với những nội dung chủ yếu sau:
Hội nghị đã tổng kết 18 năm chiến đấu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và đề ra nhiệm vụ
của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới. Đó là sự tổng kết có giá trị sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn,
làm cơ sở cho những quyết sách trong giai đoạn mới.
- Hội nghị nhận định đế quốc Mỹ vẫn thực hiện "học thuyết Níchxơn", áp đặt chủ nghĩa thực dân mới
ở miền Nam, chia cắt lâu dài đất nước ta, từ đó khẳng định dù tình hình phát triển như thế nào, con đường
cách mạng miền Nam vẫn là con đường bạo lực. Vì vậy, phải nắm vững thời cơ giữ vững thế chiến lược tiến
công và chỉ dạo linh hoạt để đưa cách mạng tiến lên.
- Hội nghị Trung ương lần thứ 21 cũng dự kiến hai khả năng phát triển của cách mạng miền Nam, tuy
nhiên Trung ương Đảng cũng cho rằng: Dù tình hình phát triển theo khả năng nào, con đường tiến lên giành
thắng lợi của cách mạng miền Nam chỉ có thể là con đường bạo lực diễn ra dưới hình thức này hay hình thức
khác. Ta phải sẵn sàng đối phó chắc thắng với khả năng xấu nhất là địch gây lại chiến tranh. Đồng thời, Nghị
quyết Trung ương lần thứ 21 cũng đề ra những biện pháp cơ bản để thúc đẩy cách mạng miền Nam phát triển
và bảo đảm cho thắng lợi hoàn toàn.
Từ Nghị quyết Trung ương 15 (1959) đến Nghị quyết Trung ương 21 (1973) là sự phát triển đường
lối cách mạng của Đảng ở miền Nam và cho thấy quy luật phát triển tất yếu của cách mạng miền Nam là con
đường bạo lực, là chiến tranh cách mạng. Đường lối đó được hoạch định và phát triển trên cơ sở tư duy biện
chứng từ thực tiễn của cuộc chiến tranh cách mạng trong thế kỷ XX chống chủ nghĩa thực dân mới của đế
quốc Mỹ.
Với một đường lối cách mạng đúng đắn, chủ động, sáng tạo, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng
miền Nam đă từng bước chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang thế liên tục tiến công địch và giành được nhiều
thắng lợi to lớn. Trải qua quá trình đấu tranh chống lại các chiến lược chiến tranh của đế quố Mỹ từ việc làm
thất bại hình thức điển hình của chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ ở miền Nam (1954-1960), đến làm phá sản
chiến lược "chiến tranh đặc biệt” (1961 - 1965), chiến lược ''chiến tranh cục bộ" (1965-1968) và chiến lược
"Việt Nam hoá chiến tranh" (1960 - 1975) của đế quốc Mỹ, buộc đế quốc Mỹ phải ký kết Hiệp định Pari (271-1973), công nhận những quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam. Cách mạng miền Nam đã đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác mà đỉnh cao là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 và Chiến dịch Hồ
Chí Minh lịch sử.
Cuộc tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 bắt đầu bằng chiến dịch Tây Nguyên đánh vào Buôn Ma
Thuột lúc 1 giờ 35 phút ngày 10-3-1975. Trước tình hình thắng lớn ở Tây Nguyên, cuộc họp Bộ Chính trị
ngày 18-3-1975 đã quyết định giải phóng miền Nam trong năm 1975.
Phối hợp với chiến trường Tây Nguyên, ngày 21-3-1975, chiến dịch Huế - Đà Nẵng đã bắt đầu. Ngày
26-3, ta giải phóng Huế, ngày 29-3, giải phóng Đà Nẵng. Trên đà thắng lợi của mặt trận Tây Nguyên và Huế
- Đà Nẵng, ngày 25-3-1975, Bộ Chính trị họp và chủ trương: tập trung nhanh nhất lực lượng binh khí kỹ
thuật và vật chất, giải phóng Sài Gòn trước mùa mưa.
Sau khi làm tan rã quân đoàn I và II, giải phóng hoàn toàn quân khu I và II, ngày 1-4-1975, Bộ Chính
trị quyết định: giải phóng miền Nam trong tháng 4-1975.
Sau khi tạo thế và lực, ngày 26-4-1975, Chiến dịch lịch sử Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn - Gia Định bắt
đầu. Vào lúc 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, lá cờ cách mạng đã tung bay trên nóc Phủ Tổng thống ngụy
(Dinh Độc lập). Toàn bộ lực lượng quân sự và bộ máy chính quyền địch ở quân khu III, quân đoàn III bị tiêu
diệt. Ngày 2-5-1975, cuộc chiến đấu để giải phóng các vùng đất còn lại và các đảo ngoài biển đều thắng lợi,
chế độ ngụy quyền sụp đổ hoàn toàn. Sau 117 năm bị đô hộ, đất nước Việt Nam sạch bóng quân xâm lược,
Nam Bắc liền một dải.
Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả vĩ đại nhất của
sự nghiệp giải phóng dân tộc do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Thắng lợi đó đã kết thúc vẻ vang
30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị kéo dài hơn một
thế kỷ của chủ nghĩa thực dân, đế quốc trên đất nước ta, hoàn thành về cơ bản cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân trên cả nước, bảo vệ và phát triển những thành tựu của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc, hoàn thành thống nhất đất nước. Thắng lợi đó đã mở ra một thời kỳ mới cho dân tộc Việt Nam: đất
nước độc lập, thống nhất và tiến lên chủ nghĩa xã hội, chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng đất nước
giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, góp phần làm tăng
- 15 -
thêm sức mạnh và thế tiến công cách mạng trên thế giới, động viên, cổ vũ hàng trăm triệu người đang đấu
tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (tháng 12-1976) đã nhận định: "Năm tháng
sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được
ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu lượng sáng ngời về sự toàn
thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công
vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc".
Câu 3 – Tổ 3: Đ/c hãy làm rõ chủ trương của Đảng lãnh đạo XD CNXH ở Miền Bắc từ 1954 đến 1975?
Trung thành với cương lĩnh chính trị đã vạch ra từ năm 1930, sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp thắng lợi, Đảng ta chủ trương đưa miền Bắc lên chủ nghĩa xã hội, nhằm đem lại cuộc sống ấm no, hạnh
phúc cho nhân dân miền Bắc và làm hậu phương vững chắc cho việc tiếp tục thực hiện cách mạng dân tộc dân
chủ ở miền Nam, đấu tranh thống nhất nước nhà.
Trong bối cảnh như vậy, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1954-1975) đã trải qua
nhiều thời kỳ, với các bước đi, kế hoạch dài hạn và ngắn hạn khác nhau.
1) Thời kỳ 1954 – 1957: Đảng lănh đạo hoàn thành những nhiệm vụ còn lại của CM DTDC,
khôi phục KT.
a) Hoàn thành cải cách ruộng đất:
Việc khôi phục kinh tế nông nghiệp có liên quan mật thiết với việc giải quyết vấn đề ruộng đất nhằm
giải phóng lực lượng sản xuất của hàng triệu nông dân, thực hiện khẩu hiệu "Người cày có ruộng" đã được
nêu lên trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương
khóa II (5-1955) nêu rõ chủ trương: để củng cố miền Bắc, trước hết cần phải hoàn thành cải cách ruộng đất
và coi đây là chính sách bất di bất dịch. Để đảm bảo cho công cuộc cải cách ruộng đất giành được thắng lợi,
Đảng xác định rõ phương pháp tiến hành là:
- Dựa hẳn vào bần cố nông; Đoàn kết chặt chẽ với trung nông; Liên hiệp phú nông; Tiêu diệt chế độ
ĐC PK từng bước và có phân biệt.
- Phát triển sản xuất đẩy mạnh kháng chiến; củng cố quốc phòng, củng cố cơ sở của Đảng và chính
quyền ở nông thôn, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất.
b) Khôi phục kinh tế
Cùng với việc hoàn thành cải cách ruộng đất, Nhà nước đã ban hành các chính sách kinh tế quan
trọng, như: khuyến khích phát triển kinh tế hộ nông dân; bảo đảm quyền sử dụng ruộng đất của nông dân;
bảo vệ tài sản của các tầng lớp nhân dân; cho tự do vay mượn và thuê mướn nhân công; khuyến khích các
hình thức đổi công; sửa đổi chính sách thuế, nhằm giảm bớt sự đóng góp của nông dân, v.v.. Những biện
pháp đó đã tạo ra sự phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh chuyển biến mạnh mẽ trong nền kinh tế
miền Bắc, góp phần hoàn thành công cuộc khôi phục kinh tế.
Trong công nghiệp, hầu hết các xí nghiệp quan trọng được phục hồi, nâng cấp và xây dựng thêm một
số nhà máy mới; chú trọng phát triển tiểu thủ công nghiệp. Hệ thống giao thông được cải tạo và nâng cấp,
nhất là các tuyến đường thuỷ, đường bộ và bốn tuyến đường sắt nối Thủ đô Hà Nội với các tỉnh phía Bắc,...
bảo đảm giao lưu giữa các vùng, phục vụ công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội.
2) Thời kỳ 1958 -1960: Cải tạo XHCN đối với các thành phần kinh tế, phát triển văn hóa – xă hội
Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II) tháng 11-1958 đã xác định: Nhiệm vụ
chung của toàn Đảng, toàn dân ta là ra sức củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội,
đồng thời kiên quyết đấu tranh chống Mỹ - Diệm nhằm thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và
dân chủ.
Nhiệm vụ trước mắt của miền Bắc là đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế cá
thể của nông dân, thợ thủ công và thành phần kinh tế tư bản tư doanh; đồng thời ra sức phát triển thành phần
kinh tế quốc doanh, làm cho thành phần kinh tế này giữ vai trò nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
* Một là, lấy cải tạo làm nhiệm vụ trung tâm phát triển kinh tế,văn hóa, cải thiện đời sống nhân dân, chuẩn bị
cho kế hoạch 5 năm lần thứ nhất
* Hai là, cải tạo kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công và những người buôn bán nhỏ tư bản tư doanh.
- Về cải tạo kinh tế cá thể của nông dân: Đảng chủ trương tiến hành hợp tác hóa nhà nước. Với
phương châm tiến hành:
Từ tổ đổi công -> HTX bậc thấp -> HTX bậc cao.
Hợp tác hóa đi đôi với thủy lợi hóa.
- 16 -
Trên nguyên tắc: Tự nguyện, quản lý dân chủ và cùng có lợi.
-Việc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh: được tiến hành bằng phương pháp hoà bình với
phương châm: tốt, vững, gọn. Đảng chủ trương chuộc lại những tư liệu sản xuất của giai cấp tư sản theo
phương thức "trả dần", đồng thời sắp xếp công ăn việc làm hợp lý cho các nhà tư sản và gia đình họ. Chính
sách này về cơ bản được giai cấp tư sản hưởng ứng.
- Về cải tạo thủ công nghiệp và buôn bán nhỏ: Đưa thợ thủ công vào HTX thủ công nghiệp; Đưa
những người buôn bán nhỏ vào HTX mua bán và chuyển dần sang sản xuất
* Ba là, chuyển sở hữu cá thể về TLSX thành sở hữu tập thể XHCN dưới hai hình thức toàn dân và tập thể.
* Bốn là, củng cố chế độ dân chủ nhân dân
* Năm là, xây dựng, củng cố miền Bắc thành cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.
3) Đại hội III của Đảng (9/1960) và kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965)
a) Đại hội III (5-10/ 9/1960): Từ ngày 5 đến ngày 10-9-1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của
Đảng được tiến hành tại Hà Nội. Đại hội đã thảo luận và thông qua đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc:
- Nhiệm vụ chiến lược của cách mạng:
+ Tiến hành cách mạng XHCN ở miền Bắc.
+ Giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, hoàn thành CM DTDC ở
miền Nam.
- Nhiệm vụ chung:
+ Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững ḥa bb́nh.
+ Đẩy mạnh CM DTDCND ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ,
XD một nước Việt Nam ḥa bb́nh, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh.
+ Thiết thực góp phần tăng cường phe xă hội chủ nghĩa ở Đông Nam Á và thế giới.
- Đường lối chung của CM XHCN ở miền Bắc: “ Đoàn kết toàn dân, phát huy tinh thần yêu nước nồng nàn
và truyền thống đấu tranh anh dũng, lao động cần cù của nhân dân ta, đồng thời tăng cường đoàn kết với
các nước xă hội chủ nghĩa anh em do Liên Xô đứng đầu, để đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững
chắc lên chủ nghĩa xă hội, xây dựng đời sống ấm no ở miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh
thực hiện ḥa bb́nh thống nhất nước nhà, góp phần tăng cường phe xă hội chủ nghĩa, bảo vệ ḥa bb́nh ở Đông
Nam Á và thế giới”.
- Biện pháp thực hiện:
+ Sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản để thực hiện cải
tạo XHCN đối với các thành phần kinh tế.
+ Phát triển thành phần kinh tế quốc doanh, thực hiện công nghiệp hóa XHCN bằng cách ưu tiên phát
triển công nghiệp nặng một cách hợp lư, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, đẩy
mạnh CM XHCN về tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật.
+ Biến nước ta thành một nước XHCN có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, văn hóa và khoa học tiên
tiến.
b) Nhiệm vụ kế hoạch 5 năm lần thứ nhất:
- Phương hướng của KH 5 năm: “ Lấy xây dựng XHCN làm trọng tâm, thực hiện một bước công nghiệp
hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đồng thời hoàn
thành cải tạo xã hội chủ nghĩa, làm cho nền kinh tế miền Bắc nước ta trở thành một nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa”.
- Nhà nước tổ chức nhiều phong trào thi đua sôi nổi.
- Các Hội nghị trung ương bàn sâu từng chuyên đề:
+ Hội nghị lần thứ 5 BCH TƯ Đảng khóa III (7/1961), bàn về phát triển NN.
+ HN lần thứ bảy BCHTW Đảng khóa III (6/1962), bàn về vấn đề CN.
- Đầu năm 1963, Bộ chính trị đề ra ba cuộc vận động.
4) TK 1965 -1975: Chuyển hướng phát triển kinh tế, tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xă hội trong điều
kiện cả nước có chiến tranh
a) Hội nghị lần thứ 11 BCHTW Đảng khóa III (Tháng 3/1965)
Nhận thức rõ vai trò của miền Bắc đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của miền Nam, từ
tháng 3-1964 đến tháng 8-1964, đế quốc Mỹ đã lập kế hoạch và dựng lên “Sự kiện vịnh Bắc Bộ” để tiến
hành cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất đối với miền Bắc nước ta. Trong điều kiện chiến tranh lan rộng,
- 17 -
tháng 3-1965, Hội nghị lần thứ 11 của Trung ương Đảng đã đề ra nhiệm vụ cách mạng mới của quân và dân
miền Bắc là: Ra nghị quyết “Về tình hình và nhiệm vụ cấp bách” xác định nhiệm vụ của miền Bắc:
- Một là, phải kịp thời chuyển hướng về tư tưởng và tổ chức, chuyển hướng XD kinh tế và tăng cường lực
lượng quốc phòng cho phù hợp với tình hình mới.
Nội dung chuyển hướng về kinh tế, cụ thể:
+ Tích cực phát triển sản xuất nông nghiệp.
+ Chú trọng phát triển công nghiệp địa phương và thủ công nghiệp, XD những xí nghiệp vừa và nhỏ.
+ Sơ tán, phân nhỏ những nhà máy lớn để giảm tổn thất, song vẫn duy trì, bảo đảm sản xuất.
+ Điều chỉnh lại chỉ tiêu xây dựng.
+ Đẩy mạnh chủ trương nghiên cứu KH, đào tạo cán bộ.
+ Điều tra cơ bản, thăm dò tài nguyên phục vụ công cuộc XD lại đất nước sau chiến thắng đế quốc
Mỹ.
- Hai là, bảo vệ miền Bắc, chống lại cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ.
- Ba là, sẵn sàng chi viện cho cuộc kháng chiến của đồng bào miền Nam.
- Bốn là, Đáp ứng yêu cầu xây dựng cơ sở VC- KT cho CNXH
b) Hội nghị 12 BCH TW khóa III ( 12/1965)
Hội nghị xác định nhiệm vụ chung là: “Động viên lực lượng của cả nước, kiên quyết đánh bại cuộc
chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất cứ tình huống nào, để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền
Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới hòa bình thống nhất nước
nhà”
c) HN lần thứ 19 BCH TƯ khóa III (1/1971):
Căn cứ vào yêu cầu của sự nghiệp kháng chiến chống Mĩ cứu nước và xây dựng CNXH, BCH TW đã
vạch ra phương hướng, mục tiêu quan trọng cho cách mạng miền Bắc:
- Nắm vững chuyên chính vô sản. Phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động.
- Tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng: Cách mạng QHSX, cách mạng KH-KT, cách mạng tư tưởng và văn
hóa.
- Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
- Xác định nhiệm vụ kinh tế trong 3 năm (1971-1973)
d) Cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ 2 (6/4/1972 -> 01/1973): 6//1972, đế quốc Mĩ huy động 1 lực lượng
lớn không quân và hải quân tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc. Đảng ta đã kịp thời, chủ động đề ra
nhiệm vụ cách mạng của miền Bắc:
+ Kiên quyết chiến đấu và đẩy mạnh công tác chuẩn bị chiến đấu.
+ Chuyển hướng mọi hoạt động của MB cho phù hợp với điều kiện chiến tranh.
+ Tiếp tục làm nhiệm vụ chi viện cho chiến trường MN .
+ Chuẩn bị mọi mặt để khi có ĐK thb́ đẩy mạnh khôi phục phát triển kinh tế, VH, SD CNXH.
e) Hội nghị lần thứ 23 BCH TƯ khóa III (12/1973): Năm 1973, do hậu quả của nhiều năm chiến tranh ác
liệt và cũng do tình hình cơ sở vật chất- kỹ thuật của CNXH ở miền Bắc còn yếu. Đảng đã họp và quyết định
những vấn đề về nhiệm vụ. phương hướng khôi phục và phát triển kinh tế miền Bắc trong hai năm 19741975:
- Hàn gắn vết thương chiến tranh.
- Khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, tiếp tục XD cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH.
- Ổn định đời sống nhân dân.
- Củng cố quốc phòng, ra sức chi viện cho miền Nam tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn và xây dựng các
vùng đã giải phóng.
=> Những chủ trương trong quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc từ năm 1954 đến
năm 1975 là những cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoạch định đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta sau năm 1975 của Đảng, khi cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Câu 4 – Tổ 4: Trình bày ý nghĩa và bài học kinh nghiệm của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
1946 – 1954?
Trả lời:
* Ý nghĩa Lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1946 – 1954:
- 18 -
- Cuộc kháng chiến chống pháp thắng lợi ta đã buộc pháp phải công nhận độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân 3 nướ ĐD, làm thất bại âm mưu quốc tế hoá chiến tranh của ĐQ mĩ,
chấm dứt ách thống trị thực dân kiểu cũ của pháp gần 1 thế kỷ trên đất nước ta.
- Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống pháp ta đã bảo vệ và phát triển thành quả của cách mạng
tháng 8, miền bắc hoàn toàn giải phóng , hàn thành cơ bản cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân, mở
ra thời kỳ mới xây dựng CNXH, ở MB trở thành căn cứ địa cách mạng của cả nước là hậu phương vững
chắc cho cuộc kháng chiến chống mĩ cứu nước; tạo điều kiện để giải phóng nửa nước còn lại ở MN, hoàn
thành thống nhất đất nước.
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống pháp của nhân dân ta đã giáng 1 đòn mạnh mẽ vào hệ thống
thực dân, góp phần làm sụp đổ CN thực dân cũ, là nguồn cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên
thế giới, trước hết là các nước á, phi.
- Chứng minh 1 chân lý của thời đại: trong điều kiện ngày nay, 1 dân tộc đất không rộng người không
đông nếu quyết tâm chiến đấu vì độc lập tự do, có đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, được sự ủng hộ của
quốc tế thì dân tộc đó hoàn toàn thắng lợi.
- Đúng như chủ tịch HCM đã nói: "Lần đầu tiên trong lịch sử, 1 nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh
thắng 1 nước thực dân hùng mạnh, đó là thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam đồng thời cũng là thắng
lợi các lực lượng hoà bình, dân chủ tiến bộ trên thế giới.
* Những bài học kinh nghiệm của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1946 – 1954
– Kết hợp đúng đắn nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến. Nhiệm vụ chống phong kiến phải
tiến hành có kế hoạch, từng bước để vừa phát triển lực lượng cách mạng, vừa giữ vững khối đoàn kết dân
tộc.
– Xác định và quán triệt đường lối chiến tranh nhân dân: toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức
mình
là
chính.
Đây
là
bí
quyết
thắng
lợi
của
cuộc
kháng
chiến.
– Vừa kháng chiến, vừa xây dựng chế độ mới, xây dựng hậu phương vững mạnh để đẩy mạnh kháng
chiến.
– Kiên quyết kháng chiến lâu dài, đi từ chiến tranh du kích lên chiến tranh chính quy. Kết hợp chặt
chẽ
giữa
chiến
tranh
chính
quy
và
chiến
tranh
du
kích.
– Xây dựng Đảng vững mạnh và bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, với đường lối chiến tranh
nhân dân đúng đắn, có chủ trương và chính sách kháng chiến ngày càng hoàn chỉnh, có ý chí quyết chiến và
quyết thắng kẻ thù. Có đội ngũ đảng viên dũng cảm, kiên cường, là những chiến sĩ tiên phong trong chiến
đấu và trong sản xuất.
Câu 5 - Tổ 1: Ý nghĩa bài học kinh nghiệm của cuộc kháng chiến chống mỹ cứu nước (1954-1975)
Trả lời
1. Ý nghĩa:
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống mỹ cứu nước là đỉnh cao của bản hùng ca về lòng yêu nước
và tự hào của dân tộc. Đây là một trong những chiến thắng vĩ đại nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân
tộc Việt Nam,một trong những thắng lợi vĩ đại của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX
- Thắng lợi đó chấm dứt 117 năm chống lại các thế lực thực dân, đế quốc xâm lược,hoàn thành sự
nghiệp giải phóng miền Nam, kết thúc cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nước.
- Dân tộc Việt Nam đã làm phá sản chủ nghĩa thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ, mở ra một kỷ
nguyên mới cho dân tộc Việt Nam: kỷ nguyên cả nước hòa bình,độc lập,thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Thắng lợi của nhân dân Việt Nam đã góp phần làm thay đổi tương quan lực lượng có lợi cho chủ
nghĩa xã hội, cổ vũ động viên phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân kiểu mới của Mỹ trên phạm vi
thế giới.
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước khẳng định sáng tạo của đường lối chiên tranh
nhân dân dưới ánh sáng lý luận Mác-Leenin và tư tưởng Hồ Chí Minh.Đó là đường lối kháng chiến độc
lập,tự chủ của Đảng Cộng sản Việt Nam , là sự hiện thực
hóa của sợi chỉ đỏ :kết hợp mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, tạo nên xung lực cho sự
nghiệp thống nhất tổ quốc.
- Chính sức mạnh của chủ nghĩa xã hội, sức mạnh của chính nghĩa , sức mạnh của các dan tộc đang
đấu tranh cho hòa bình,độc lập đã góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến.
2. bài học kinh nghiệm;
- 19 -
Một là, kiên định mục tiêu,giữ vững độc lập tự chủ, xây dựng đường lối và phương pháp cánh
mạng đúng đắn, sáng tạo,phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
-Đó là đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng ở hai miền đất nước, nhằm thực hiện
mục tiêu chung là hoàn thành sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ, thống nhất tổ quốc và đi lên chủ nghĩa
xã hội.
Hai là, xây dựng căn cứ địa cách mạng và hậu phương chiến tranh vững chắc cho sự nghiệp giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
-Từ đầu cuộc kháng chiến, đảng xác định miền Bắc là hậu phương của cách mạng cả nước.
Ba là, thực hiện đoàn kết dân tộc với đoàn kết quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, lợi ích
của các nước trong cộng đồng thế giới.
-trên cơ sở sự đoàn kết của dân tộc, của Đảng, của các giai cấp, tấng lớp vì mục tiêu đánh Mỹ và
thắng Mỹ, Việt Nam đã mở rộng đoàn kết với các nước láng giềng, bạn bè khắp thế giới.
Bốn là, xây dựng Đảng và đội ngũ cán bộ ngang tầm với nhiệm vụ và yêu cầu của cuộc kháng chiến.
Vừa hoạch định đường lối, Đảng vừa chỉ đạo trực tiếp cuộc kháng chiến trong từng thời điểm,
từng giai đoạn.Để hoàn thành trọng trách lớn lao đó của lịch sử.
Cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, thống nhất tổ quốc diễn ra suốt 30 năm.Với sức mạnh của
toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, chiến thắng đã thuộc về nhân dân ta vì đó là quy luật lịch sử, là sự
tiếp nối truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Câu 2 – Tổ 2: Trình bày đặc điểm tình hình khi Miền Bắc tiến lên CNXH.
BÀI LÀM
Đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền. Ở miền Nam, đế quốc Mỹ và tay sai mở cuộc chiến
tranh thực dân mới kéo dài suốt 20 năm, với phạm vi ngày càng mở rộng, quy mô ngày càng leo thang. Vì
vậy, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội phải trải qua ba lần khôi phục kinh tế, vừa phải bảo đảm đời sống
nhân dân và chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa phải làm tròn nghĩa vụ của hậu phương lớn đối với
tiền tuyến lớn miền Nam. Đặc điểm này chi phối trực tiếp đến đường lối và chính sách trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc cũng như cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong cả
nước đã nhận được sự giúp đỡ hết sức to lớn về mọi mặt của các nước xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, từ những
năm 60 thế kỷ XX, trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa cũng xảy ra những chia rẽ sâu sắc, nhất là giữa
Liên Xô và Trung Quốc, đòi hỏi Đảng ta phải có đường lối sáng tạo, độc lập tự chủ, bảo đảm vừa tranh thủ
được sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, góp phần đấu tranh vì sự thống nhất của phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế, vừa giữ vững được độc lập, tự chủ trong tiến trình cách mạng.
Xuất phát điểm đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta rất thấp - từ một nước nông nghiệp, sản
xuất nhỏ là phổ biến, cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Trong khi đó, mô
hình chủ nghĩa xã hội mà Liên Xô và các nước Đông Âu áp dụng có điều kiện, hoàn cảnh, xuất phát điểm
không giống nước ta. Vì vậy, việc xác định mô hình, bước đi phải có thời gian để tìm tòi, khảo nghiệm. Đây
cũng là đặc điểm lớn chi phối đến đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Trong bối cảnh như vậy, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1954-1975) đã trải qua
nhiều thời kỳ, với các bước đi, kế hoạch dài hạn và ngắn hạn khác nhau.
1. Khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, hoàn thành về cơ bản những nhiệm vụ
còn lại của cách mạng dân tộc dân chủ (1954-1957)
Sau chín năm kháng chiến trường kỳ, gian khổ, miền Bắc bị chiến tranh tàn phá nặng nề: 14 vạn
hécta ruộng đất hoang hoá; các công trình thuỷ lợi lớn và vừa đều bị phá hỏng; đê điều không được củng cố;
trâu bò, công cụ sản xuất bị cướp phá; thiên tai liên tiếp làm mất mùa, gây đói kém kéo dài từ vụ mùa năm
1954 đến giữa năm 1955; công nghiệp đình đốn; giao thông hư hại nặng; buôn bán sút kém;...
Đứng trước tình hình đó, Hội nghị Bộ Chính trị tháng 9-1954 đã chỉ rõ: công việc trước mắt là ổn
định đời sống nhân dân, chống chính sách cưỡng ép di cư vào Nam của địch, hàn gắn vết thương chiến tranh,
phục hồi nền kinh tế quốc dân. Trong đó, phục hồi và phát triển sản xuất nông nghiệp là vấn đề trọng tâm
Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa II (5-1955) nêu rõ chủ trương: để
củng cố miền Bắc, trước hết cần phải hoàn thành cải cách ruộng đất và coi đây là chính sách bất di bất dịch.
Để đảm bảo cho công cuộc cải cách ruộng đất giành được thắng lợi, Đảng xác định rõ phương pháp tiến
hành là: dựa hẳn vào bần cố nông, đoàn kết chặt chẽ với trung nông, liên hiệp với phú nông, đánh đổ giai cấp
- 20 -
địa chủ, tiêu diệt chế độ phong kiến từng bước. Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khẳng định: cải cách ruộng đất quan hệ đến củng cố miền Bắc, chẳng những đưa lại quyền làm chủ ruộng đất
cho nông dân, mà còn tạo điều kiện cho công cuộc khôi phục và phát triển sản xuất, củng cố quốc phòng,
củng cố cơ sở của Đảng và chính quyền ở nông thôn, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất.
Tháng 12-1955, cải cách ruộng đất đợt 5 được triển khai ở 1.732 xã, với 6 triệu dân trong 20 tỉnh và 2
thành phố.
+ Tiến hành 8 đợt giảm tô ở 1.777 xã với 1.106.995 ha ruộng đất; 5 đợt cải cách ruộng đất ở 3.653 xã
trên toàn vùng đồng bằng, trung du và 280 xã miền núi với 2.435.518 nhân khẩu, can thiệp vào 1,5 triệu
hécta; đã tịch thu, trưng thu, trưng mua: 810.000 ha ruộng đất chia cho 2,2 triệu hộ nông dân gồm 9,5 triệu
người (72,8% số hộ ở nông thôn được chia ruộng đất).
+ Hoàn thành việc xoá bỏ giai cấp địa chủ và quan hệ sản xuất phong kiến ở miền Bắc; nâng cao
quyền làm chủ cho nông dân ở nông thôn, giải phóng một bước sức sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn.
Cùng với việc hoàn thành cải cách ruộng đất, Nhà nước đã ban hành các chính sách kinh tế quan
trọng, như: khuyến khích phát triển kinh tế hộ nông dân; bảo đảm quyền sử dụng ruộng đất của nông dân;
bảo vệ tài sản của các tầng lớp nhân dân; cho tự do vay mượn và thuê mướn nhân công; khuyến khích các
hình thức đổi công; sửa đổi chính sách thuế, nhằm giảm bớt sự đóng góp của nông dân, v.v.. Những biện
pháp đó đã tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong nền kinh tế miền Bắc, góp phần hoàn thành công cuộc khôi
phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh. Đến cuối năm 1957, 85% diện tích ruộng hoang hoá đã được
khôi phục, nhiều công trình thuỷ lợi được sửa chữa, diện tích tưới nước tăng thêm. Sản lượng lương thực
trung bình hằng năm đạt gần 4 triệu tấn, vượt mức trước chiến tranh (năm 1939 chỉ đạt 2,4 triệu tấn). Trong
công nghiệp, hầu hết các xí nghiệp quan trọng được phục hồi, nâng cấp và xây dựng thêm một số nhà máy
mới; chú trọng phát triển tiểu thủ công nghiệp. Hệ thống giao thông được cải tạo và nâng cấp, nhất là các
tuyến đường thuỷ, đường bộ và bốn tuyến đường sắt nối Thủ đô Hà Nội với các tỉnh phía Bắc,... bảo đảm
giao lưu giữa các vùng, phục vụ công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội.
Các lĩnh vực giáo dục, văn hoá, y tế phát triển nhanh. Sau ba năm đã có hơn một triệu người thoát
nạn mù chữ. Tổng số học sinh phổ thông lên tới trên 1 triệu. Số học sinh trung học chuyên nghiệp là 7.783
người. Số sinh viên đại học lên tới 3.664 người, Hệ thống chính trị từ trung ương đến cơ sở được củng cố,
phát huy tốt vai trò là nhân tố quyết định bảo đảm phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong công cuộc
khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh.
2. Cải tạo xã hội chủ nghĩa, bước đầu phát triển kinh tế và văn hoá (1958-1960)
Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II) tháng 11-1958 đã xác định: Nhiệm
vụ chung của toàn Đảng, toàn dân ta là ra sức củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã
hội, đồng thời kiên quyết đấu tranh chống Mỹ - Diệm nhằm thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập
và dân chủ.
Hội nghị lần thứ 16 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (4-1959) đã xác định những vấn đề cơ bản của
đường lối, chính sách hợp tác hoá nông nghiệp. Hội nghị khẳng định chỉ có đi vào con đường hợp tác hoá,
làm ăn tập thể mới khắc phục được những khó khăn trong sản xuất, cải thiện đời sống. Phương châm tiến
hành hợp tác hoá là: "tích cực lãnh đạo, vững bước tiến lên; quy hoạch về mọi mặt, sát với từng vùng; làm
tốt, vững và gọn". Thực hiện chủ trương của Đảng, phong trào hợp tác hoá được đẩy mạnh từ cuối năm 1958
và nhanh chóng trở thành cao trào. Mùa thu năm 1958, tiến hành thí điểm ở 134 hợp tác xã, đến cuối năm
1960 miền Bắc về cơ bản đã hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp, có 41.401 hợp tác xã
với 85% số hộ nông dân tham gia, chiếm 76% ruộng đất của nông dân. Phong trào hợp tác hoá nông nghiệp
thời gian này đã có tác dụng tích cực trong việc đẩy mạnh sản xuất, đưa mức tăng trưởng bình quân của sản
xuất nông nghiệp đạt 5,6%, đưa tổnxg sản lượng lương thực lên mức cao vào năm 1959 là 5,15 triệu tấn; đời
sống vật chất và văn hoá của nhân dân miền Bắc được cải thiện một bước.
Về cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thợ thủ công và những người buôn bán nhỏ: đến cuối năm 1960
đã có 88% thợ thủ công miền Bắc gia nhập các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp bậc thấp và bậc cao; 45%
người buôn bán nhỏ được tổ chức vào hợp tác xã mua bán, gần 5 vạn người được chuyển sang sản xuất.
Việc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh được tiến hành bằng phương pháp hoà bình với
phương châm: tốt, vững, gọn. Đảng chủ trương chuộc lại những tư liệu sản xuất của giai cấp tư sản theo
phương thức "trả dần", đồng thời sắp xếp công ăn việc làm hợp lý cho các nhà tư sản và gia đình họ. Chính
sách này về cơ bản được giai cấp tư sản hưởng ứng. Đến tháng 11-1960, đã cải tạo được 2.097 cơ sở thương
nghiệp tư bản tư doanh với tổng số vốn là 25 triệu đồng. Song, việc sớm xoá bỏ nền kinh tế nhiều thành phần
- 21 -
và "trong sản xuất kinh doanh không áp dụng những quy luật của sản xuất hàng hoá, đã tác động tiêu cực
không ít đến đời sống kinh tế, hạn chế việc phát triển lực lượng sản xuất"1.
Cùng với nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa, Nhà nước tăng cường đầu tư xây dựng một bước cơ sở
vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Từ năm 1958 đến năm 1960, đã xây dựng 130 công trình công
nghiệp trên hạn ngạch như: khu gang thép Thái Nguyên, nhà máy Súppe phốt phát Lâm Thao.... Nếu như
năm 1957, miền Bắc mới có 97 xí nghiệp thì đến năm 1960 đã có 172 xí nghiệp do trung ương quản lý và
trên 500 xí nghiệp do địa phương quản lý.
Hệ thống giáo dục phổ thông phát triển mạnh, số học sinh năm 1960 tăng 80 lần so với năm 1957. Cơ
sở y tế năm 1960 tăng hơn 11 lần so với năm 1955. Đời sống văn hoá, trình độ hiểu biết của các tầng lớp
nhân dân được nâng lên rõ rệt.
3. Thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965)
Từ ngày 5 đến ngày 10-9-1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng được tiến hành tại Hà
Nội. Đại hội đã thảo luận và thông qua đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Đại hội đã xác định: muốn cải biến tình trạng kinh tế lạc hậu của nước ta thì không có con đường nào
khác ngoài con đường công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ
trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội.
Đồng thời với cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về kinh tế, phải tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá, nhằm thay đổi căn bản đời sống tư tưởng, tinh thần và văn hoá của
xã hội, phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa.
Phương châm lúc này là đưa miền Bắc “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc” lên chủ nghĩa xã hội,
nhằm xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững chắc cho
cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.
Trên cơ sở đường lối chung, Đại hội lần thứ III đã vạch ra phương hướng, nhiệm vụ của kế hoạch 5
năm lần thứ nhất (1961-1965) là "chúng ta cần phải chuyển sang lấy xây dựng chủ nghĩa xã hội làm trọng
tâm, thực hiện một bước công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội, đồng thời hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa, làm cho nền kinh tế miền Bắc nước ta
trở thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa"2.
Nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch 5 năm là:
- Ra sức phát triển công nghiệp và nông nghiệp, thực hiện ưu tiên phát triển công nghiệp nặng; đồng
thời ra sức phát triển nông nghiệp một cách toàn diện, phát triển công nghiệp thực phẩm và công nghiệp nhẹ,
phát triển giao thông vận tải, tăng cường thương nghiệp quốc doanh và thương nghiệp hợp tác xã, chuẩn bị
cơ sở để đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp và nông nghiệp xã hội chủ nghĩa.
- Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương
nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh, tăng cường mối quan hệ giữa sở hữu toàn dân và sở hữu
tập thể, mở rộng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; nâng cao
năng lực quản lý kinh tế của cán bộ, công nhân và nhân dân lao động, tăng cường đào tạo đội ngũ công nhân
lành nghề; xúc tiến công tác khoa học kỹ thuật, xúc tiến thăm dò tài nguyên thiên nhiên và tiến hành điều tra
cơ bản, nhằm phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế và văn hoá xã hội chủ nghĩa.
- Cải thiện thêm một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân lao động, làm cho nhân dân ta
được ấm no, tăng thêm sức khoẻ, có thêm nhà ở và được học tập, mở mang thêm phúc lợi công cộng, xây
dựng đời sống mới ở nông thôn và thành thị.
- Ra sức củng cố quốc phòng, tăng cường an ninh trật tự, bảo vệ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở miền Bắc.
Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương khoá III gồm 48 uỷ viên chính thức và 31 uỷ viên dự khuyết.
Bộ Chính trị gồm 11 uỷ viên chính thức và 2 uỷ viên dự khuyết. Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Đảng,
Lê Duẩn được bầu làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Để thực hiện nhiệm vụ, phương hướng đã đề ra, Trung ương Đảng đã tiến hành nhiều hội nghị cụ thể
hoá đường lối của Đại hội. Năm 1961, Đảng ta họp các hội nghị Trung ương: về công tác xây dựng Đảng
trong quá trình lãnh đạo thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa (4-1961), về phát triển nông nghiệp
(7-1961), về phát triển công nghiệp (7-1961), về công tác thương nghiệp và giá cả (12-1964), v.v..
- 22 -
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân miền Bắc đã hoà chung vào không khí thi đua sôi nổi, lao động
sáng tạo. Do đó, mặc dù kế hoạch 5 năm mới thực hiện được trong 4 năm và phải bước vào chống chiến
tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ, nhưng với sự giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa và
sự nỗ lực của nhân dân, miền Bắc đã căn bản hoàn thành các mục tiêu chủ yếu của kế hoạch đề ra.
Về nông nghiệp, tiếp tục hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa, đưa 88,8% số hộ nông dân vào hợp tác
xã nông nghiệp, trong đó 71,7% số hộ vào hợp tác xã bậc cao. Tổng thu bình quân trên một hécta canh tác
tăng 43,7%; cuối năm 1965 có 162 xã, gần 700 hợp tác xã đạt và vượt trên 5 tấn thóc trên 1ha gieo trồng hai
vụ; lương thực bình quân đầu người đạt 15kg/tháng; đời sống xã viên được cải thiện; thu nhập của người lao
động từ kinh tế tập thể tăng khá.
Cơ sở vật chất - kỹ thuật trong nông nghiệp tăng đáng kể: nhiều công trình thuỷ lợi lớn đã được xây
dựng, tưới tiêu cho hơn nửa triệu hécta ruộng đất; vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản trong nông nghiệp tăng
4,9 lần; điện cấp cho nông nghiệp tăng 9 lần; số máy kéo tiêu chuẩn tăng 11 lần so với thời kỳ 1958-1960
Bên cạnh thành tích đó, việc đưa ồ ạt các hợp tác xã bậc thấp thành các hợp tác xã bậc cao và quy mô
lớn đã làm cho những yếu kém trước đó của các hợp tác xã tiếp tục bộc lộ: trình độ quản lý và điều hành của
đội ngũ cán bộ không đáp ứng được đòi hỏi của thực tế; tốc độ tăng thu nhập chậm hơn tốc độ tăng chi phí
sản xuất; hiệu quả kinh tế giảm dần; số hợp tác xã yếu kém còn lớn, tỷ lệ xã viên xin ra hợp tác xã tăng.
Nguyên nhân của hiện trạng này là do quan hệ sản xuất đẩy lên quá cao, không phù hợp với trình độ và sức
phát triển của lực lượng sản xuất, dẫn đến làm suy yếu sản xuất nông nghiệp mặc dù mới được giải phóng
sau cải cách ruộng đất.
Nhằm khắc phục những hạn chế nêu trên, ngày 19-2-1963, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết về cuộc vận
động cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật, nhằm phát triển nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững
chắc. Cuộc vận động này có ba yêu cầu lớn: 1- Cải tiến quản lý hợp tác xã; 2- Cải tiến kỹ thuật và bước đầu
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của hợp tác xã; 3- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đối với
nông nghiệp và hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Cuộc vận động này được triển khai sâu rộng trong tất cả
các địa phương, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã nông nghiệp.
Về công nghiệp, bước đầu xây dựng được một số cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Những cơ sở đầu tiên của các ngành công nghiệp chủ yếu như điện, cơ khí, luyện kim, hoá chất, nhiên liệu,
vật liệu xây dựng,... đã được đưa vào sản xuất.
Trong lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và phát triển công nghiệp, chúng ta còn mắc một số khuyết điểm,
nhất là quá nhấn mạnh đến việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng; cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, đầu tư quá
nhiều cho xây dựng cơ bản nhưng đầu tư cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ lại không tương xứng với chủ
trương đề ra, vì vậy khi chiến tranh phá hoại nổ ra đã bị tổn thất lớn. Đặc biệt là quản lý kinh tế nói chung và
quản lý công nghiệp nói riêng theo cơ chế hành chính, quan liêu, bao cấp đã bộc lộ nhiều mặt yếu kém.
Trước tình hình đó, ngày 24-7-1963, Bộ Chính trị chủ trương mở cuộc vận động Nâng cao ý thức
trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế tài chính, cải tiến kỹ thuật; chống tham ô, lãng phí, quan liêu trong
công nghiệp và thương nghiệp (gọi là "ba xây, ba chống"). Yêu cầu của cuộc vận động là thực hiện một cuộc
chuyển biến cách mạng trên các mặt tư tưởng và tổ chức, đưa công tác quản lý trong công nghiệp và thương
nghiệp lên một trình độ mới, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao đời sống nhân dân.
Sự nghiệp phát triển về văn hoá, giáo dục, y tế trong thời kỳ này đạt thêm nhiều thành tích mới: trình
độ văn hoá, khoa học, kỹ thuật của cán bộ và nhân dân được nâng lên rõ rệt. Hầu hết các xã đều có trường
phổ thông cấp I, cấp II, các huyện có trường phổ thông cấp III. Năm 1965 có 18 trường đại học.
Công tác y tế, bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân được coi trọng. Đến năm 1965, 70% số huyện có bệnh
viện, 90% số xã đồng bằng và 78% số xã miền núi có trạm y tế. Số bác sĩ, dược sĩ từ năm 1960 đến năm
1965 tăng 5 lần (năm 1965 có 1.525 bác sĩ và 8.043 y sĩ, trong đó có 3.220 y sĩ phục vụ ở xã).
Đời sống của nhân dân đã được nâng lên rõ rệt. Bình quân thu nhập quốc dân nói chung tăng lên 6,1% và
bình quân theo đầu người tăng 3,4%.
4. Chuyển hướng xây dựng kinh tế trong hoàn cảnh "vừa sản xuất, vừa chiến đấu"
Nhận thức rõ vai trò của miền Bắc đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của miền Nam, từ
tháng 3-1964 đến tháng 8-1964, đế quốc Mỹ đã lập kế hoạch và dựng lên “Sự kiện vịnh Bắc Bộ” để tiến
hành cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất đối với miền Bắc nước ta. Trong điều kiện chiến tranh lan rộng,
tháng 3-1965, Hội nghị lần thứ 11 của Trung ương Đảng đã đề ra nhiệm vụ cách mạng mới của quân và dân
miền Bắc là:
- 23 -
- Chuyển hướng xây dựng kinh tế phù hợp với tình hình có chiến tranh phá hoại, bảo đảm yêu cầu
chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu, tích cực chi viện cho miền Nam, đồng thời vẫn bảo đảm phù hợp với
phương hướng lâu dài về công nghiệp hoá, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội và chú ý
đúng mức đến các nhu cầu thiết yếu về đời sống của nhân dân.
- Tăng cường nhanh chóng lực lượng quốc phòng cho kịp với sự phát triển tình hình có chiến tranh
trong cả nước, ra sức tăng cường công tác phòng thủ để bảo vệ miền Bắc. Cố gắng hạn chế đến mức thấp
nhất sự thiệt hại do địch gây ra và gây thiệt hại cho địch đến mức cao nhất. Nắm vững phương châm dựa vào
sức mình là chính, đồng thời chú trọng tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa.
- Chi viện cao nhất cho miền Nam để đánh bại các chiến lược chiến tranh xâm lược của Mỹ trên
chiến trường miền Nam.
- Kịp thời chuyển hướng tư tưởng và tổ chức đi đôi với việc chuyển hướng kinh tế và tăng cường
quốc phòng cho phù hợp với tình hình mới.
Quán triệt đường lối của Đảng, phong trào thi đua chống Mỹ, cứu nước diễn ra sôi nổi với khẩu hiệu
"mỗi người làm việc bằng hai" do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động từ Hội nghị chính trị đặc biệt năm 1964.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, qua bốn năm thực hiện chuyển hướng kinh tế và chống chiến tranh phá
hoại bằng không quân và hải quân lần thứ nhất của đế quốc Mỹ, nhân dân miền Bắc đã giành được những
thắng lợi to lớn trên nhiều mặt:
Thứ nhất, chế độ xã hội chủ nghĩa được xây dựng ở miền Bắc đã vượt qua thử thách nghiêm trọng và
ngày càng phát huy tính ưu việt trong thời kỳ có chiến tranh. Sản xuất nông nghiệp được đặc biệt coi trọng,
bảo đảm cung cấp phần lớn lương thực, thực phẩm cho nhân dân miền Bắc và chi viện cho chiến trường
miền Nam. Vai trò lãnh đạo của Đảng được tăng cường. Sự nghiệp giáo dục, văn hoá, văn nghệ, y tế, đào tạo
cán bộ phát triển. ….
Thứ hai, qua bốn năm chiến đấu anh dũng, quân và dân miền Bắc đã đánh bại cuộc chiến tranh phá
hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ.
Thứ ba, miền Bắc xã hội chủ nghĩa đã làm tròn nghĩa vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn,
bảo đảm "thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người", góp phần quan trọng vào thắng lợi ở
chiến trường miền Nam.
Hội nghị lần thứ 19 của Ban Chấp hành Trung ương (1-1971) đã chỉ rõ đường lối xây dựng kinh tế
miền Bắc trong giai đoạn trước mắt là: "... Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở
phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ; xây dựng kinh tế trung ương, đồng thời phát triển kinh tế địa
phương; kết hợp kinh tế với quốc phòng"5. Hội nghị đặc biệt nhấn mạnh việc đưa nền nông nghiệp từ sản
xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Nội dung chuyển lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa trong nông
nghiệp ở nước ta là xây dựng từng bước cơ cấu sản xuất toàn diện, hợp lý.
Ngày 1-6-1972, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Nghị quyết về việc khẩn trương chuyển hướng mọi
hoạt động của miền Bắc nhằm vừa đẩy mạnh sản xuất vừa chiến đấu. Quân và dân miền Bắc đã phá vỡ âm
mưu của địch trong việc phong toả bờ biển, bến cảng, giữ vững mạch máu giao thông vận tải nên lượng hàng
hoá chuyển từ miền Bắc vào các chiến trường trong năm 1972 vẫn tăng 1,7 lần so với năm 1971.
Ngày 14-12-1972, chính quyền Níchxơn phê chuẩn kế hoạch mở cuộc tập kích bằng không quân
chiến lược vào Hà Nội, Hải Phòng. Trong 12 ngày đêm đánh phá (18 – 29-12-1972), Mỹ đã sử dụng khoảng
700 lần chiếc máy bay chiến lược B.52, 3.884 lần chiếc máy bay chiến thuật chiến đấu, dội 10 vạn tấn bom
xuống Hà Nội, Hải Phòng và một số mục tiêu phía bắc vĩ tuyến 20.
Do có sự chủ động chuẩn bị toàn diện nên quân và dân miền Bắc, trực tiếp là quân và dân Hà Nội,
Hải Phòng, đã đánh bại hoàn toàn cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B.52 của không quân Mỹ, buộc
Mỹ phải ký Hiệp định Pari (27-1-1973) về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam và rút quân đội về nước
Đến đầu năm 1975, hầu hết các cơ sở kinh tế đã trở lại hoạt động bình thường, năng lực sản xuất của
nhiều ngành được tăng thêm một bước. Trong nông nghiệp, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách khuyến
khích phát triển chăn nuôi, chính sách ổn định nghĩa vụ lương thực đối với hợp tác xã, từng bước đưa chăn
nuôi thành ngành sản xuất chính, khuyến khích phát triển cây công nghiệp, cây ăn quả, mở rộng nghề cá,
nghề rừng... hệ thống đường giao thông, cầu phà, bến bãi, xây dựng thêm cầu đường mới để bảo đảm yêu
cầu vận tải hàng hoá, nhất là hàng hoá chiến lược phục vụ chiến trường miền Nam đánh thắng đế quốc Mỹ
và tay sai. Sự nghiệp giáo dục, văn hoá, y tế tiếp tục đạt được nhiều thành tựu to lớn.
Trải qua 20 năm bền bỉ, kiên cường, Đảng đã lãnh đạo nhân dân miền Bắc giành được nhiều thắng lợi
to lớn: chế độ người bóc lột người bị xoá bỏ, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa bước đầu được xác lập; đánh
- 24 -
thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ; làm tròn nhiệm vụ chi
viện cho tiền tuyến lớn miền Nam và giúp đỡ cách mạng Lào, Campuchia; phát triển mạnh mẽ giáo dục, văn
hoá, y tế; cải thiện nhiều mặt đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân.
Tuy vậy, nền kinh tế miền Bắc vẫn mang tính sản xuất nhỏ, cơ sở vật chất - kỹ thuật còn thấp kém.
Các ngành công nghiệp then chốt còn nhỏ bé, chưa đủ sức làm nền tảng cho nền kinh tế quốc dân. Nông
nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho nhân dân và nguyên liệu cho công nghiệp.
Năng suất lao động xã hội còn thấp; tổng sản phẩm xã hội chưa bảo đảm được các nhu cầu của nhân dân.
Nguyên nhân của tình trạng này xuất phát từ cả lý do khách quan và chủ quan:
Về khách quan, miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện xuất phát điểm còn thấp,
bị chính sách khai thác hàng trăm năm của thực dân Pháp làm kiệt quệ. Mặt khác, miền Bắc tiến hành xây
dựng kinh tế trong điều kiện đất nước có chiến tranh, phải tập trung sức người, sức của cho cuộc chiến tranh
giải phóng miền Nam và chống chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ.
Về chủ quan, chúng ta đã mắc một số sai lầm, bắt nguồn từ những nhận thức còn đơn giản, duy ý
chí, chưa nắm đúng quy luật vận động đi lên chủ nghĩa xã hội ở một nước vốn là thuộc địa, sản xuất nhỏ, lạc
hậu. Đây là biểu hiện của phương pháp tư duy giáo điều, rập khuôn mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội của
Liên Xô, chưa xuất phát đầy đủ từ hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của thực tiễn đất nước ta.
Những thành tựu và hạn chế trong quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc từ
năm 1954 đến năm 1975 là những cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoạch định đường lối xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta sau năm 1975 của Đảng, khi cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Câu 7 – Tổ 3: Trình bày chủ trương và quá trình lãnh đạo thực hiện cải cách ruộng đất của Đảng từ
1954 – 1957?
Trả lời
Cải cách ruộng đất là cuộc cách mạng nhằm đánh đổ ách áp bức bóc lột cùng với sự chiếm hữu
ruộng đất của giai cấp địa chủ, đem lại ruộng đất và quyền làm chủ cho nông dân lao động, thực hiện khẩu
hiêu: “người cày có ruộng”.
* Chủ trương thực hiện cải cách ruộng đất của Đảng từ 1954 – 1957
Sau chín năm kháng chiến trường kỳ, gian khổ, miền Bắc bị chiến tranh tàn phá nặng nề: 14 vạn
hécta ruộng đất hoang hoá; các công trình thuỷ lợi lớn và vừa đều bị phá hỏng; đê điều không được củng cố;
trâu bò, công cụ sản xuất bị cướp phá; thiên tai liên tiếp làm mất mùa, gây đói kém kéo dài từ vụ mùa năm
1954 đến giữa năm 1955; công nghiệp đình đốn; giao thông hư hại nặng; buôn bán sút kém;...
Đứng trước tình hình đó, Hội nghị Bộ Chính trị tháng 9-1954 đã chỉ rõ: công việc trước mắt là ổn
định đời sống nhân dân, trong đó, phục hồi và phát triển sản xuất nông nghiệp là vấn đề trọng tâm. Đây là
chủ trương đúng đắn của Đảng, có ý nghĩa lớn đối với việc cải thiện đời sống nhân dân, tạo tiền đề cho công
cuộc cải tạo nông nghiệp và xây dựng mô hình quản lý nông nghiệp phù hợp với tình hình đất nước.
Việc khôi phục kinh tế nông nghiệp có liên quan mật thiết với việc giải quyết vấn đề ruộng đất nhằm
giải phóng lực lượng sản xuất của hàng triệu nông dân.
Thực hiện khẩu hiệu "Người cày có ruộng" đã được nêu lên trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa II (3-1955) chỉ rõ “Để củng cố miền Bắc,
trước hết cần phải hoàn thành cải cách ruộng đất và coi đây là chính sách bất di bất dịch”.
Để đảm bảo cho công cuộc cải cách ruộng đất giành được thắng lợi, Đảng xác định rõ phương pháp
tiến hành là: “Dựa hẳn vào bần cố nông, đoàn kết chặt chẽ với trung nông, liên hiệp với phú nông, đánh đổ
giai cấp địa chủ, tiêu diệt chế độ phong kiến từng bước và có phân biệt, phát triển sản xuất, đẩy mạnh kháng
chiến”.
* Quá trình thực hiện và kết quả cải cách ruộng đất của Đảng từ 1954 – 1957
Tháng 12-1955, cải cách ruộng đất đợt 5 được triển khai ở 1.732 xã, với 6 triệu dân trong 20 tỉnh và 2
thành phố. Toàn đợt cải cách ruộng đất và giảm tô (từ tháng 9-1954 đến tháng 7-1956) đã đạt được kết quả
như sau:
+ Tiến hành 8 đợt giảm tô ở 1.777 xã với 1.106.995 ha ruộng đất; 5 đợt cải cách ruộng đất ở 3.653 xã
trên toàn vùng đồng bằng, trung du và 280 xã miền núi với 2.435.518 nhân khẩu, can thiệp vào 1,5 triệu
hécta; đã tịch thu, trưng thu, trưng mua: 810.000 ha ruộng đất chia cho 2,2 triệu hộ nông dân gồm 9,5 triệu
người (72,8% số hộ ở nông thôn được chia ruộng đất).
+ Hoàn thành việc xoá bỏ giai cấp địa chủ và quan hệ sản xuất phong kiến ở miền Bắc; nâng cao
quyền làm chủ cho nông dân ở nông thôn, giải phóng một bước sức sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn.
- 25 -