LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bài đề tài nghiên cứu: “Tìm hiểu về di tích Ngã Ba
Đồng Lộc ở xã Đồng Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh” là do tôi thu thập
thông tin, tư liệu và tự viết.Mọi thông tin,số liệu được đề cập trong bài nghiên
cứu đều đã được kiểm chứng và đúng sự thật.
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài nghiên cứu này,tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới giảng
viên-TS.Lê Thị Hiền-Giảng viên Trường Đại học Nội vụ Hà Nội; các đồng chí
cán bộ của xã Đồng Lộc, Ban quản lý Di tích Ngã ba Đồng Lộc đã quan tâm
giúp đỡ trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành đề tài.
Do thời gian có hạn cũng như kinh nghiệm của tôi còn hạn chế nên trong
quá trình nghiên cứu đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót.Vì vậy,tôi rất
mong nhận được những nhận xét,đóng góp ý kiến đề bài nghiên cứu ngày càng
hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.........................................................................................1
2. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu............................................2
3. Mục tiêu và nhiệm vụnghiên cứu................................................................2
4. Lịch sử nghiên cứu......................................................................................3
5. Giả thiết nghiên cứu....................................................................................3
6.Phương pháp nghiên cứu..............................................................................4
8.Cấu trúc của đề tài........................................................................................4
Chương 1: NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ DI TÍCH VÀ GIÁ TRỊ CỦA
DI TÍCH...............................................................................................................5
1.1.Một số khái niệm.......................................................................................5
1.1.1.Khái niệm di tích....................................................................................5
1.1.2.Khái niệm giá trị di tích.........................................................................6
1.1.3. Khái niệm bảo tồn di tích......................................................................6
1.2. Đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về bảo tồn di tích................6
1.2.1. Các nghị quyết của Đảng về bảo tồn di tích.........................................6
1.2.2. Các văn bản quản lý, bảo tồn di tích.....................................................7
1.3. Vai trò của di tích.....................................................................................7
1.3.1. Vai trò của di tích trong phát triển du lịch.............................................7
1.3.2. Vai trò của di tích đối với phát triển kinh tế và đời sống xã hội...........8
1.3.3. Vai trò của di tích đối với sự phát triển kinh tế.....................................9
Tiểu kết............................................................................................................9
Chương 2: CÁC GIÁ TRỊ CỦA DI TÍCH......................................................10
2.1. Giá trị lịch sử..........................................................................................10
2.2. Giá trị kiến trúc......................................................................................14
2.3 Giá trị tâm linh........................................................................................18
2.4 Giá trị giáo dục........................................................................................19
2.5. Giá trị kinh tế,du lịch.............................................................................20
2.6 Giá trị cố kết cộng đồng..........................................................................22
Tiểu kết..........................................................................................................22
Chương 3: GIẢI PHÁP BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH
TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI HIỆN NAY......................................................23
3.1. Đánh giá thực trạng giá trị di tích Ngã Ba Đồng Lộc............................23
3.1.1. Ưu điểm...............................................................................................23
3.1.2. Nhược điểm.........................................................................................23
3.2. Giải pháp bảo tồn, trùng tu và phát huy giá trị di tích Ngã Ba Đồng Lộc...23
3.2.1. Giải pháp về cơ chế, chính sách..........................................................23
3.2.2. Biện pháp trùng tu tôn tạo di tích........................................................24
3.2.3. Bảo tồn và phát huy giá trị di tích gắn với phát triển du lịch..............24
3.2.4. Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động bảo tồn di tích..................................25
3.2.5. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm về di sản
văn hóa theo quy định của Luật di sản văn hóa............................................25
Tiểu kết..........................................................................................................26
KẾT LUẬN........................................................................................................27
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................29
PHỤ LỤC...........................................................................................................30
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TT
TỪ VIẾT TẮT
NỘI DUNG TỪ VIẾT TẮT
1
BCHTƯ
2
BQL
3
BVHTT
4
DSVH
Di sản văn hóa
5
NĐ-CP
Nghị định-Chính phủ
6
NXB
7
QĐ
Quyết định
8
QH
Quốc Hội
9
TNXP
Thanh niên xung phong
10
TNCS
Thanh niên cộng sản
11
UBND
Ủy ban nhân dân
Ban chấp hành trung ương
Ban quản lý
Bộ văn hóa thông tin
Nhà xuất bản
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Hà Tĩnh mảnh đất địa linh nhân kiệt,giàu truyền thống cách mạng và văn
hóa,nơi có nhiều tên đất,tên người đã gắn liền với những trang sử hào hùng của
dân tộc.Trong đó,Ngã Ba Đồng Lộc là địa danh đã trở thành huyền thoại trong
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc thống nhất đất nước.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,cứu nước vĩ đại của dân tộc ta, Ngã Ba
Đồng Lộc trở thành đường độc tuyến, điểm quyết chiến giữa ta và địch. Đồng
Lộc “Cái túi đựng bom khổng lồ”, đó là danh từ mà người dân cả nước nói về
Hà Tĩnh những năm đánh Mỹ. Cắt đứt được Hà Tĩnh có nghĩa là cắt đứt được
hoàn toàn sự chi viện của hậu phương lớn miền Bắc cho tuyền tuyến lớn ở miền
Nam. Nắm được điểm trọng yếu này đế quốc Mỹ điên cuồng ném các loại bom
với một cường độ vô cùng khốc liệt xuống những con đường.
Hiện nay, Ngã ba Đồng Lộc đã trở thành một địa chỉ đỏ,mảnh đất thiêng
liêng,là biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng.Ngã Ba Đồng Lộc đi vào
lịch sử như một bản anh hùng ca về quyết tâm sắt đá tất cả vì miền Nam ruột
thịt,vì độc lập tự do thống nhất Tổ Quốc,vì hòa bình.
Ngã Ba Đồng Lộc được xếp hạng khu di tích lịch sử cấp quốc gia vào
năm 1989,được Đảng,Nhà nước,Trung ương đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh,Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hà Tĩnh đầu tư xây dựng thành khu tưởng niệm
thanh niên xung phong toàn cấp.Ngày 9/12/2013,khu di tích Ngã Ba Đồng Lộc
được thủ tướng Chính phủ ký quyết định trở thành khu di tích lịch sử cấp quốc
gia đặc biệt trong hệ thống đường Hồ Chí Minh huyền thoại.
Bản thân tôi là một người con của quê hương Hà Tĩnh, nên hơn ai hết tôi
hiểu rõ và cảm nhận được những khó khăn mà vùng đất này đã trải qua.Hơn
nữa,tôi là người học tập về chuyên nghành quản lý văn hóa nên tôi nhận thấy
vấn đề nghiên cứu này sẽ giúp tôi có thêm kiến thức và kinh nghiệm trong quá
trình học tập cũng như góp phần nâng cao,bảo vệ và phát huy những giá trị tốt
đẹp của dân tộc.
Chính những thực tế đó,tôi đã chọn đề tài: “Tìm hiểu giá trị di tích Ngã
1
Ba Đồng Lộc ở xã Đồng Lộc,huyện Can Lộc,tỉnh Hà Tĩnh” làm đề tài cho bài
tiểu luận của mình nhằm mục đích phát huy được giá trị lịch sử đặc biệt của khu
di tích này.
Tôi hy vọng công trình nghiên cứu của mình sẽ tạo ra những hiệu quả hữu
ích cho khu di tích Ngã Ba Đồng Lộc nói riêng và ngành du lịch của tỉnh Hà
Tĩnh nói chung.
2. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: Các giá trị di tích Ngã Ba Đồng Lộc.
- Phạm vi nghiên cứu: Di tích Ngã Ba Đồng Lộc ở xã Đồng Lộc,huyện
Can Lộc,tỉnh Hà Tĩnh.
3. Mục tiêu và nhiệm vụnghiên cứu.
- Mục tiêu: Tìm ra giải pháp của các giá trị di tích Ngã Ba Đồng Lộc.
Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của khu di tích những năm qua,
BQL đã phát huy tối đa nội lực,tranh thủ sự quan tâm tạo điều kiện của các
cấp,nghành,các nhà hảo tâm để tôn tạo,xây dựng khu di tích ngày càng khang
trang.
Để bảo tồn phát huy giá trị văn hóa di tích quốc gia đặc biệt,thời gia tới
BQL tiếp tục xây dựng đội ngũ hướng dẫn viên và nhân viên phục vụ ngày càng
chuyên nghiệp hơn,làm tốt công tác vệ sinh cảnh quan môi trường và an ninh
trật tự,phát triển hệ thống dịch vụ,quầy hàng lưu niệm,chỉnh trang tổng thể khu
di tích,huy động nguồn vốn nâng cấp nhà truyền thống,sắp xếp,trưng bày có hệ
thống hiện vật,nâng cấp sa bàn điện tử,đầu tư xây dựng hệ thống đường
tránh,cảnh quan,tiếp tục vận động xã hội hóa nguồn vốn,xây dựng các công trình
văn hóa tâm linh như đền thờ Ngã Ba Đồng Lộc,phục dựng các công trình vết
tích chiến tranh và nhiều công trình khác,kết nối các tour,chuyến du lịch với Ngã
Ba Đồng Lộc,tăng cường công tác xúc tiến,quảng bá hình ảnh, tiềm năng du lịch
của khu di tích trên các phương tiện thông tin đại chúng trong và ngoài nước.
-Nhiệm vụ:
+ Những vấn đề lý luận chung về giá trị di tích.
+ Thực trạng giá trị di tích Ngã Ba Đồng Lộc.
2
+ Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp để bảo tồn các giá trị của di
tích.
4. Lịch sử nghiên cứu.
Cuộc chiến đấu khốc liệt với bao mất mát hi sinh cũng như tinh thần chiến
đấu anh dũng kiên cường của quân và dân ta trên mảnh đất Đồng Lộc đó trở
thành chất liệu và cảm hứng sang tạo cho nhiều thế hệ cầm bút.Hàng loạt các tác
phẩm đó ra đời để ca ngợi con người và địa danh làm nên lịch sử này:
- Vầng trăng Đồng Lộc – tập thơ văn của nhiều tác giả
- Ngã Ba Đồng Lộc – Ngã ba anh hùng: tập sách giới thiệu khu di tích lịch
sử Ngã Ba Đồng Lộc và thanh niên xung phong toàn quốc.
- Con đường của những vở sao: Trường ca Đồng Lộc,Nguyễn Trọng
Tạo,Nxb Thanh niên,1981.
- Đài hoa tím: truyện ký, Nghiềm Văn Tân,Nxb Phụ Nữ,1978.
- Đồng Lộc xưa và nay
Những bài dự thi tìm hiểu “40 năm chiến thắng Ngã Ba Đồng Lộc” của
các chi đoàn trong tỉnh.
“Báo cáo điều chỉnh quy hoạch tổng thể du lịch Hà Tĩnh 2005-2020” của
Viện nghiên cứu phát triển du lịch: đánh giá khái quát về khu di tích lịch sử Ngã
Ba Đồng Lộc trong hoạt động du lịch Hà Tĩnh nói chung.
Ngoài ra cũng rất nhiều bài thơ,bút ký,truyện ngắn khác viết về địa danh
này.
Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về đặc điểm,vị
thế của khu di tích lịch sử Ngã Ba Đồng Lộc như là một tài nguyên du lịch nhân
vật trong mối tương quan với hoạt động du lịch Hà Tĩnh.
5. Giả thiết nghiên cứu.
Từ việc nghiên cứu đề tài này,tôi hiểu thêm về những giá trị của di tích
Ngã Ba Đồng Lộc.Từ đó đưa ra được những định hướng,giải pháp phù hợp để
bảo tồn và trùng tu di tích Ngã Ba Đồng Lộc.
3
6.Phương pháp nghiên cứu.
Để hoàn thành bài nghiên cứu này,tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên
cứu sau:
-Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
-Phương pháp phân tích thống kê.
-Phương pháp nghiên cứu thực địa.
7.Đóng góp đề tài.
Đề tài nghiên cứu giúp tôi tìm hiểu thêm về di tích và giá trị di tích Ngã
Ba Đồng Lộc.Hơn nữa,việc nghiên cứu còn giúp tôi hiểu rõ hơn về công tác bảo
tồn di tích trong nghành mà tôi đang được đào tạo tại trường.
Trở thành tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu về di tích Việt Nam nói
chung và di tích Ngã Ba Đồng Lộc nói riêng.
Các giải pháp được đề xuất có thể ứng dụng được vào thực tiễn góp phần
bảo tồn và phát huy giá trị di tích.
8.Cấu trúc của đề tài.
Ngoài phần mở đầu,kết luận,tài liệu tham khảo và phụ lục,bài tiểu luận có
cấu trúc gồm 3 chương:
Chương 1: Những lý luận chung về di tích và giá trị của di tích.
Chương 2: Các giá trị của di tích.
Chương 3: Bảo tồn và phát huy những giá trị của di tích Ngã Ba Đồng
Lộc.
4
Chương 1:
NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ DI TÍCH VÀ GIÁ TRỊ CỦA DI TÍCH.
1.1.Một số khái niệm.
1.1.1.Khái niệm di tích.
Di tích là “dấu vết của quá khứ còn lưu lại trong lòng đất hoặc trên mặt
đất có ý nghĩa về mặt văn hóa và lịch sử”. Ở Việt Nam, một di tích khi đủ các
điều kiện sẽ được công nhận theo thứ tự: di tích cấp tỉnh, di tích cấp quốc gia
và di tích quốc gia đặc biệt.
Di tích là những bằng chứng vật chất có ý nghĩa quan trọng, minh chứng
về lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc. Di tích giúp cho con
người biết được cội nguồn của dân tộc mình, hiểu về truyền thống lịch sử, đặc
trưng văn hoá của đất nước và do đó có tác động ngược trở lại tới việc hình
thành nhân cách con người Việt Nam hiện đại.
Di tích lịch sử - văn hoá là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ
vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn
hoá, khoa học. Di tích lịch sử - văn hóa phải có một trong các tiêu chí sau đây:
Công trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu trong quá
trình dựng nước và giữ nước. Các di tích tiêu biểu thuộc loại này như đền
Hùng, Cổ Loa, Cố đô Hoa Lư, Bãi cọc Bạch Đằng, Cột cờ...
Công trình xây dựng, địa điểm gắn với thân thế và sự nghiệp của anh
hùng dân tộc, danh nhân của đất nước. Các di tích tiêu biểu thuộc loại này
như Khu di tích lịch sử Kim Liên, Đền Kiếp Bạc, Quần thể di tích danh thắng
Yên Tử, Lam Kinh, đền Đồng Nhân...
Công trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu của các
thời kỳ cách mạng, kháng chiến. Các di tích tiêu biểu thuộc loại này như Khu di
tích chiến thắng Điện Biên Phủ, Địa đạo Củ Chi, Khu di tích lịch sử cách mạng
Pắc Bó, Phòng tuyến Tam Điệp, Hành cung Vũ Lâm, Khu rừng Trần Hưng
Đạo... Hệ thống di tích Việt Nam được phân thành 4 loại hình cơ bản là di tích
lịch sử, di tích kiến trúc - nghệ thuật, di tích khảo cổ và danh lam thắng cảnh.
Di tích lịch sử liên quan tới sự kiện hoặc nhân vật lịch sử có những đóng
5
góp, ảnh hưởng tới sự tiến bộ của lịch sử dân tộc.
1.1.2.Khái niệm giá trị di tích.
Di tích chứa đựng những giá trị kinh tế to lớn (trị giá nhiều ngàn tỷ đồng)
nếu bị mất đi không đơn thuần là mất tài sản vật chất, mà là mất đi những giá trị
tinh thần lớn lao không gì bù đắp nổi. Đồng thời, di tích còn mang ý nghĩa là
nguồn lực cho phát triển kinh tế, một nguồn lực rất lớn, sẵn có nếu được khai
thác, sử dụng tốt sẽ góp phần không nhỏ cho việc phát triển kinh tế đất nước và
nó càng có ý nghĩa to lớn khi đất nước đang rất cần phát huy tối đa nguồn nội
lực để phát triển.
Giá trị của di tích kiến trúc nghệ thuật thể hiện ở quy hoạch tổng thể và
bố cục kiến trúc, ở sự kết hợp hài hòa giữa kiến trúc với cảnh quan, ở những bức
chạm khắc trên kết cấu gỗ, ở vẻ đẹp thánh thiện của những pho tượng cổ, ở nét
chạm tinh xảo của những đồ thờ tự...
1.1.3. Khái niệm bảo tồn di tích.
Bảo tồn di tích với tư cách là một bộ môn khoa học, hoạt động với mục
đích cao cả là giữ gìn, bảo lưu các tài sản văn hóa có giá trị của những thời đại
đã lùi vào dĩ vãng. Song, bên cạnh đó, với cách nhìn nhận về sự lưu truyền giá
trị công năng của di tích, sự gìn giữ môi trường thiên nhiên được tạo hóa ban
cho nhất là đối với hệ thống “di tích sống” ở Việt Nam, hoạt động bảo tồn di tích
còn góp sức nuôi dưỡng cuộc sống đương đại, đặc biệt là trong lĩnh vực văn hóa
tinh thần, để rồi tiếp tục chuyển giao cho các giá trị ấy cho thế hệ mai sau. Rõ
ràng công tác bảo tồn di tích vừa mang tính khoa học vừa đậm chất nhân văn, là
một nhân tố hết sức quan trọng của sự phát triển bền vững.
1.2. Đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về bảo tồn di tích.
1.2.1. Các nghị quyết của Đảng về bảo tồn di tích.
Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010 của Chính phủ quy định chi
tiết một số điều của Luật Di sản Văn hóa và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Di sản Văn hóa.
Di sản quốc gia là những giá trị vật chất, phi vật chất… Nó là những bằng
chứng vật chất có ý nghĩa quan trọng minh chứng về lịch sử đấu tranh dựng
6
nước và giữ nước của dân tộc. Các giá trị này được Đảng Nhà Nước quan tâm
và đưa ra những chủ trương chính sách để bảo tồn.
Theo luật di sản văn hóa số 28/2001/QH10 được Quốc hội nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X kỳ họp thứ 9 thông qua khẳng định:
“Di sản văn hóa Việt Nam tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam và là một bộ phận di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự
nghiệp dựng nước và giữ nước của dân ta”.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm BCH TƯ Đảng khóa VII xác định 10
nhiệm vụ về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc. Trong đó nhiệm vụ thứ tư là bảo tồn và phát huycác di sản văn hóa.
Nghị quyết đã chỉ rõ nội dung của nhiệm vụ này như sau: “Di sản văn hóa là tài
sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để
sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế
thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống (bác học và dân gian), văn hóa
cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể.
Nghị định 70/2012/NĐ-CP ngày 18/9/2012 của Chính phủ quy định về
thẩm quyền, trình tự, thủ tục lập, phê duyệt quy hoạch, dự án bảo quản, tu bổ,
phục hồi di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh.
Quyết định số 1706/2001/QĐ-BVHTT ngày 24/7/2001 của Bộ Văn hóa
và Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) phê duyệt Quy hoạch
tổng thể bảo tồn, phát huy các di tích văn hóa-lịch sử và cảnh quan thiên nhiên
đến năm 2020.
1.2.2. Các văn bản quản lý, bảo tồn di tích.
Các văn bản quản lý, bảo tồn di tích được Nhà nước quy định thành các
văn bản quy phạm pháp luật tại Điều 54, Điều 55, Điều 56 Luật Di sản văn hóa
số 28/2001/QH10.
1.3. Vai trò của di tích.
1.3.1. Vai trò của di tích trong phát triển du lịch
Di tích là đối tượng nội dung chủ yếu của hoạt động du lịch. Hoạt động
của ditích là một khâu quan trọng trong dây chuyền hoạt động du lịch.
7
Trong những năm qua nhiều di tích đã được phát huy giá trị một cách tích
cực dưới các mức độ khác nhau. Các chương trình festival ở di tích Cố Đô Huế,
Đêm rằm Phố cổ Hội An. Hành trình du lịch về nguồn (các di tích cách mạng ở
miền Bắc, miền Trung) đã thu hút thêm nhiều khách tham quan và dần trở thành
những ngày hội văn hoá lớn của cả nước.
Du lịch văn hóa hiện đang là một trong những loại hình du lịch thu hút
nhiều khách nhất trong thời gian gần đây, và điểm hấp dẫn khách du lịch của
loại hình du lịch này là những nơi có bề dày lịch sử, có nhiều di vật có giá trị
văn hóa truyền thống lâu đời, hoặc là nơi sinh ra và phát triển các tín ngưỡng,
tôn giáo…Tài nguyên du lịch văn hóa được coi là một thế mạnh của ngành du
lịch Việt Nam bởi Việt Nam có bề dày lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và
giữ nước với những nét văn hóa đặc trưng của nền nông nghiệp lúa nước. Nét
văn hóa này được thể hiện dưới hình thái vật thể và phi vật thể khác nhau như
các công trình kiến trúc, các đình làng, các lễ hội, các tập tục tôn giáo…Trong
đó các hoạt động lễ hội, tôn giáo là một hình thức biểu hiện nhiều nhất các giá
trị văn hóa vật chất và tinh thần đang ngày càng thu hút được nhiều khách du
lịch.
Một trong những khu di tích được nhiề người dân cả nước và quốc tế biết
đến là di tích Ngã Ba Đồng Lộc.Sự phát triển của du lịch Ngã Ba Đồng Lộc đã
đóng góp rất nhiều vào sự phát triển kinh tế, văn hóa huyện Can Lộc.
1.3.2. Vai trò của di tích đối với phát triển kinh tế và đời sống xã hội
Để đẩy mạnh phát triển du lịch, Can Lộc đã tạo điều kiện cho các hộ dân
sống quanh khu di tích đầu tư nâng cấp khu dịch vụ phục vụ du khách; nhân cấy
các ngành nghề mới về địa phương để tận dụng số lao động nhàn rỗi, đặc biệt là
các nghề phục vụ du lịch như: Sản xuất bánh kẹo, hàng mây, giang đan, đồ lưu
niệm.
Bên cạnh đó một bộ phận cư dân địa phương tham gia kinh doanh dịch vụ
ăn theo như bán hàng lưu niệm, thuyết minh tham quan, bán giải khát…tại khu
tưởng niệm, những hoạt động này cũng mang lại nguồn thu nhập khá.Còn về
hướng dẫn viên du lịch, hầu hết là người địa phươngnên họ cũng phần nào nắm
8
được những truyền thuyết, những câu chuyện được các cụ truyền khẩu.
Di tích Ngã Ba Đồng Lộc không những tạo ra thu nhập cho người dân, mà
còn tạo ra mối quan hệ tốt đẹp, chặt chẽ giữa mọi người dân với nhau, đoàn kết
với nhau.
1.3.3. Vai trò của di tích đối với sự phát triển kinh tế
Nguồn nhân lực khá dồi dào với chi phí lao động thấp - Do quá trình phát
triển công nghiệp, quỹ đất nông nghiệp bị thu hẹp và yêu cầu chuyển đổi ngành
nghề cho lao động là điều tất yếu và du lịch sẽ nhận được những ưu tiên và có
điều kiện thuận lợi để chuyển đổi lao động khi các dự án du lịch đi vào hoạt
động.
Phát huy tiềm năng thế mạnh du lịch trên địa bàn, huyện Can Lộc đã tạo
điều kiện thông thoáng, minh bạch về đất đai, thủ tục hành chính nhằm khuyến
khích các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực này.
Tiểu kết
Chương 1 đề tài nghiên cứu mà tôi nghiên cứu đã giới thiệu chung về một
số khái niệm, đường lối chính sách của Đảng, nhà nước và vai trò của di tích.
Qua đó, tôi thấy được những giá trị to lớn để tôi tiếp tục nghiên cứu về di tích
Ngã Ba Đồng Lộc. Chương 1 cũng là cơ sở lý luận để tôi tìm hiểu thực trạng về
di tích Ngã Ba Đồng Lộc ở chương 2.
9
Chương 2: CÁC GIÁ TRỊ CỦA DI TÍCH
2.1. Giá trị lịch sử
Khu di tích Ngã Ba Đồng Lộc thuộc xã Đồng Lộc, Huyện Can Lộc, tỉnh
Hà Tĩnh. Làng Đồng Lộc trước năm 1945 thuộc hai làng Khiêm Ích,Điền Xá và
một phần làng Khố Nội nay là Đồng Nữ của xã Nga Khê tổng Nga Khê, huyên
Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Sau cách mạng tháng 8 năm 1945 thuộc xã Cẩm Trà,
Thượng Lộc. Sau tháng 7/1954 sau giảm tô kết thúc mới tách ra xã Đồng
Lộc.Đồng Lộc là xã miền núi ở ven phía tây núi Trà Sơn, phía Bắc giáp xã
Trung Lộc, phía Nam giáp xã Mĩ Lộc, phía Tây giáp xã Thượng Lộc, phía Đông
giáp xã Xuân Lộc, bên kia núi Trà Sơn là địa phận huyên Hương Khê, do đó
giữa Đồng Lộc và các xã lân cận trong huyện có mối giao lưu, tiếp cận khá
thuận lợi thông suốt bằng đường bộ.Với vị trí đó thì tạo điều kiện thuận lợi cho
Ngã Ba Đồng Lộc nói riêng và Đồng Lộc nói chung phát triển kinh tế và thu hút
khách du lịch đến với khu di tích.
Cách đây gần 50 năm, Mĩ đánh phá ác liệt ở miền Bắc và Hà Tĩnh, Ngã
Ba Đồng Lộc trở thành đường độc tuyến, điểm quyết chiến giữa ta và địch, nhất
là khoảng từ Ngã ba Chợ Đình qua Cầu Tối đến Ngã ba Trường Thành dài
khoảng 800m. Ngã Ba Đồng Lộc có vị trí rất quan trọng trong mạng lưới giao
thông Bắc – Nam qua địa bàn Hà Tĩnh, là giao điểm của đường 15 và các đường
liên tỉnh. Từ đây có thể mở rộng ra các hướng phục tốt cho nhu cầu giao thông
vận tải khi các tuyến giao thông ở đồng bằng đã bị cắt đứt. Đây cũng là nơi có
địa hình phức tạp và hiểm yếu. Toàn bộ khu vực xã Đồng Lộc nằm trên một khu
đồi hẹp, thuộc phạm vi 4 xã: Đồng Lộc, Trung Lộc, Mĩ Lộc, và Thượng Lộc của
huyện Can Lộc. Địa hình trống trải, một bên là đồi trọc, một bên là ruộng nước
sình lầy,mùa khô đường bụi đỏ,mùa mưa nước đọng. Nếu bị địch phá thì khắc
phục rất khó khăn.
Đầu tháng 4/1968, địch tập trung đánh phá tuyến đường số 1 đoạn từ cầu
Thượng Gia đến Cổ Ngựa thuộc xã Tiến Lộc (Can Lộc). Ngày 20/4/1968, đường
số 1 bị cắt đứt tại đây, ta vận chuyển hướng vận tải sang tuyến đường 15 trên
vùng rừng núi phía Tây của tỉnh. Lúc đó, Ngã Ba Đồng Lộc là nơi duy nhất cho
10
con đường vận tải đi qua. Nhận rõ vị trí quan trọng của Đồng Lộc, địch tập trung
đánh phá ác liệt khu vực này ngay từ đầu.
Đồng Lộc “Cái túi đựng bom khổng lồ”, đó là danh từ mà người dân cả
nước nói về Hà Tĩnh những năm đánh Mĩ. Cắt đứt được Hà Tĩnh có nghĩa là cắt
đứt được hoàn toàn sự chi viện của hậu phương lớn miền Bắc cho tuyền tuyến
lớn ở miền Nam. Nắm được điểm trọng yếu này đế quốc Mĩ điên cuồng ném các
loại bom với một cường độ vô cùng khốc liệt xuống những con đường. Những
vết thương dọc ngang trên thân mình quê hương, những con đường toả về bao
xóm nhỏ có khói lam chiều chập chờn mái rạ đã bị băm nát không còn hình
dạng, thay vào đó là những hố bom chồng chất, đen ngòm như những cái miệng
của hàng ngàn quỹ dữ. Đồng Lộc thông reo trở thành tử địa, thành bãi bom đêm
ngày không một bóng người qua. Cầu Rác, Thượng Gia, Cổ Ngựa, Linh Cảm,
Địa Lợi, Bến Thuỷ...thường ngày nhộn nhịp những chuyến xe qua bổng trở
thành những điểm đen trong toạ độ của máy bay Mĩ.
Về sự khốc liệt của chiến trường Đồng Lộc lúc ấy không giấy bút nào tả
nổi. Bom đạn địch ném xuống như vãi Trấu,như mưa đá. Không! Phải nói rằng
như rây bột, những hạt bột khổng lồ có sức công phá ghê gớm. Chỉ tính riêng 7
tháng ném bom hạn chế, chúng đã đánh Đồng Lộc 1.864 lần với 49.000 quả
bom, trong đó 12.000 quả bom TN (chưa kể bom bi, rốc két). Cung đường ngắn,
điểm đánh hẹp nên lượng bom dồn lại nhiều. Số lần đánh trọng điểm xấp xỉ số
lần đánh toàn tỉnh năm 1965. trung bình chúng đánh 20 ngày/ tháng, tháng 10
suốt 30 ngày. Riêng ngày 12/6/1968, chúng đánh tàn bạo nhất: 16 tốp, 45 chiếc
ném 600 quả bom các loại xuống Đồng Lộc. Trời đất Đồng Lộc đen đặc, anh
Nguyễn Thế Linh, C trưởng C552 khi hồi tưởng lại đã bất giác thốt lên: “trời ơi”
lúc đó không một phút nào ngớt bom vào ban ngày. Bom bi, bom các loại, pháo
sáng dội suốt đem... lúc chúng tôi nhận nhiệm vụ về, cả khu vực Đồng Lộc tan
hoang, dân làng sơ tán cả, bom từ trường, bom nổ chậm đan kít không có chỗ
cho quân vào”. Anh Thanh Bính – trưởng bộ phận kế hoạch của công ty giao
thông kể: “trước lúc ra đi để làm nhiệm vụ, chúng tôi viết vào tờ giấytên, tuổi,tài
sản có những gì, gửi cho ai, nợ ai, ai nợ, khi cần báo tin cho ai, kí vào giấp đưa
11
cho lao động tiền lương sẽ được phát một gói lương khô và ra đi. Đó là tờ giấy
cuối cùng, có thể mai không về nữa”.
Bom đạn như thế, sống chết chỉ trong gang tấc như thế nhưng suốt những
năm chiến tranh chống Mĩ và thời kì cao điểm tháng 5/1968 Đồng Lộc vẫn sống,
trái tim Đồng Lộc vẫn đập mạnh mẽ hào hùng. TNXP, bộ đội, công nhân giao
thông, lái xe, dân quân du kích đã dồn sức lực, ý chí, và lòng quả cảm để giữ
vững mạch máu giao thông theo khẩu hiệu “thông tuyến, thông xe nhanh nhất”.
Tỉnh uỷ, uỷ ban hành chính tỉnh tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các ngành, các
địa phương, huy động lực lượng dồn sức cho Đồng Lộc để giải toả cho điểm
chết, giữ vững mạch máu giao thông. Lực lượng chiến đấu gồm: trung đoàn
pháo cao xạ 210 và tiểu đoàn 8 pháo cao xạ của tỉnh, một bộ phận của tiểu đoàn
30 công binh quân khu.
Tháng 5/1965 ban đảm bảo giao thông tỉnh được thành lập do đồng chí
Trần Quang Đạt, nguyên uỷ viên thường vụ tỉnh uỷ, phó chủ tịch UBHC tỉnh
làm trưởng ban. Khi địch tập trung đánh phá Đồng Lộc, ban đảm bảo giao thông
tỉnh trực tiếp chỉ đạo giải toả điểm Đồng Lộc. Các tổ quan sát, đếm bom, cắm
tiêu, tổ rà phá bom, bộ phận ứng cứu đường cùng với mạng lưới thông tin liên
lạc, lực lượng điều hành,phương tiện giao thông giữ gìn trật tự an ninh khu vực
Ngã Ba Đồng Lộc được hình thành. 7/8 đại đội thuộc tổng đội TNXP P18 do
tỉnh đoàn điều động và ngành giao thông vận tải gồm có: Tổ cơ giới giao thông
do Uông Xuân Lý làm tổ trưởng, 1/2 đại đội chủ lực giao thông (trong đó có anh
hùng La Thị Tám), 3 đội công trình II,III và IV, tổ máy gạt I cục công trình I.
Quá trình chiến đấu, đảm bảo giao thông vận tải ở Ngã Ba Đồng Lộc còn
có sự đóng góp rất to lớn của nhân dân và lực lượng dân quân du kích của Phú
Lộc, Sơn Lộc...Hàng vạn người đã huy động ra mặt đường làm nhiệm vụ giải
toả giao thông, tiếp tế lương thực, đạn dược, chăm sóc thương binh. Nhiều gia
đình đã nhường nhà, nhường vườn để làm khi mở đường tránh, đường xá, làm
nơi cứu thương. Nhiều gia đình đã sẵn sàng giở nhà, đưa ván lát đường, chống
lầy cho xe qua.
Chỉ trong 5 tháng, chúng ta đã bắn rơi 14 máy bay Mĩ, trong 7 tháng năm
12
1968 ta đã phá 1780 quả bom, góp 974240 ngày công để thông tuyến, làm
đường mới từ Khiêm Ích, Truông Kén, Bãi Dịa 6km. Quân và dân các xã đã góp
185.400 ngày công với 42.620 người phục vụ chiến đấu, đắp 95.209m3 đất đá,
vận chuyển 45m3 gỗ, cung cấp 22.448 cọc tre, 24000 gánh bối chống lầy. Tổng
quân số toàn bộ mặt trận lúc cao điểm nhất là 16000 người. Tại mảnh đất này đã
lấy lòng dũng cảm, trí thông minh để chiến thắng vũ khí giết người tối tân, đã
lấy ngọn lửa tình yêu tổ quốc để đốt cháy máy bay kẻ thù, làm phát nổ những
quả bom từ trường. Đại đội trưởng C552 điều một tổ về phá bom, giải phóng
mặt bằng vào tháng 5/1968. Anh Võ Xuân Tài hy sinh, xác tan cùng mảnh bom
và đất đá. Cả tổ vẫn không nản lòng. Theo dõi cách đánh của địch, ta theo dõi
từng quả bom một. Lực lượng TNXP và tổ phá bom cắm tiêu để thành đường đi,
tránh những quả chưa nổ ( nếu hết cọc tiêu thì các cô TNXP mặc áo trắng làm
cọc). Chỗ nào có hố bom, TNXP cào cuốc, lấp đường. Nếu hố bom nhiều không
thể chờ lấp phải tạo ra đường đi quanh mép hố bom. Mỗi cô TNXP phải bám
bên Ca bin mỗi xe để dẫn đường, khi có đường cắm cong cọc tiêu thì thôi. Tối
nay đường đi chỗ này, tối mai đường đi chỗ khác.
Giờ đây chiến tranh đã lùi xa, cuộc sống hồi sinh ngay trên “toạ độ chết”
năm xưa. Tuy vậy chiến thắng Ngã Ba Đồng Lộc vẫn còn vang mãi. Hình ảnh
Đồng Lộc quật khởi vươn lên vẫn còn ghi đậm mãi trong tâm khảm của người
dân Hà Tĩnh là niềm tự hào của nhân dân cả nước, nhân dân yêu chuộng hoà
bình thế giới.
Biết bao di sản văn hoá từ xa xưa cũng như trong cuộc chiến tranh giữ
nước được bảo tồn để khắc đậm dấu ấn của một vùng đất với sự tích đã đi vào
lòng người bằng sự tôn kính, ngưỡng mộ. Có những kì tích do thiên nhiên tạo ra,
có những di tích văn hoá do các thế hệ để lại...Tất cả đều ẩn chứa ý nguyện của
đất trời, của lòng người, ấp ủ trong nó những giá trị lịch sử tiêu biểu, độc đáo
của một vùng đất,một dân tộc. Ngã Ba Đồng Lộc là một di tích lịch sử văn hoá
đặc biệt quan trọng, chứa đựng trong đó những giá trị lịch sử văn hoá hết sức to
lớn,vĩ đại.
Trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, lực lượng
13
TNXP là biểu tượng rực rỡ của chũ nghĩa anh hùng cách mạng và tinh thần yêu
nước của lớp lớp thanh niên, chẳng những Đảng ta, nhân dân ta vô cùng tự hào
mà cả Thanh niên tiến bộ trên thế giới cũng hết sức khâm phục. Tổ quốc ta,
nhân dân ta đời đời biết ơn công lao của hơn 5000 liệt sỹ TNXP đã hiến trọn tuổi
xuân, vĩnh viễn nằm lại trên các cung đường, các trọng điểm. Hơn 1000 TNXP
là thương binh, bệnh binh đã góp phần xương máu của mình trong cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc. Chiến tranh đã lùi xa, thế hệ trẻ hôm nay kính phục và
tự hào những chiến công oanh liệt của lực lượng TNXP, xin chia sẻ những hy
sinh mất mát lớn lao, những nỗi niềm trăn trở của các anh, các chị. Ôn lại truyền
thống TNXP, tuổi trẻ chúng ta hôm nay rút ra những bài học kinh nghiệm, có
thêm hành trang về bản lĩnh chính trị , ý chí và nghị lực, quyết tâm rửa nhục đói
nghèo, lạc hậu, đem tất cả trí tuệ, sức lực, nhiệt tình của mình góp phần xây
dựng quê hương đất nước. Trong hy sinh mất mát đau thương, trong cống hiến
và trưởng thành của lực lượng TNXP thời chống Mỹ - Ngã Ba Đồng Lộc là biểu
tượng của chũ nghĩa anh hùng cách mạng, là đỉnh cao của cuộc chiến tranh toàn
dân, toàn diện, là biểu tượng của lòng dũng cảm vô song, trí thông minh anh
hùng tuyệt vời của tuổi trẻ mà tiêu biểu là sự hy sinh anh dũng của 10 nữ anh
hùng liệt sỹ Ngã Ba Đồng Lộc.
Năm 1989 Ngã Ba Đồng Lộc được xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia
và trung ương đoàn chọn làm nơi tưởng niệm liệt sỹ TNXP toàn quốc. Năm
1994 thể theo nguyện vọng của thế hệ trẻ Hà Tĩnh, nguyện vọng của các cựu
TNXP Ban thường vụ tỉnh đoàn Hà Tĩnh nhận thức rằng cần thiết phải xây dựng
khu di tích Ngã Ba Đồng Lộc. Ban thường vụ tỉnh đoàn đã lập tờ trình và dự án
xây dựng Khu di tích, năm 1995 được Trung ương đoàn phê duyệt. Ngày
15/7/1995, lễ động thổ xây dựng tượng đài, nhà bia, nhà trưng bày tương đối
hoàn chỉnh, năm 2000 bắt đầu đưa vào sử dụng.
2.2. Giá trị kiến trúc
Trong hy sinh, mất mát đau thương, trong sự cống hiến và trưởng thành
của lực lượng TNXP thời chống Mỹ - Ngã ba Đồng Lộc là biểu tượng của chủ
nghĩa anh hùng cách mạng, là đỉnh cao của cuộc chiến tranh toàn dân toàn diện,
14
là biểu tượng của lòng dũng cảm vô song, trí thông minh anh dũng tuyệt vời của
tuổi trẻ mà tiêu biểu là sự hy sinh anh dũng của 10 nữ anh hùng liệt sỹ TNXP
Ngã ba Đồng Lộc.
Năm 1989, Ngã ba Đồng Lộc được xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia
và Trung ương Đoàn chọn làm nơi tưởng niệm liệt sỹ TNXP toàn quốc. Bắt đầu
từ năm 1995 Trung ương Đoàn đã đầu tư xây dựng khu di tích Ngã ba Đồng
Lộc, trong đó có một số hạng mục công trình nổi bật sau:
- Tượng đài chiến thắng: Nằm dưới thung lũng trong khuôn viên của khu
di tích, nơi đây ngày xưa chi chít hố bom. Phía trước mặt Tượng đài là Ngã ba
nơi giao nhau của ba huyết mạch giao thông, sau lưng Tượng đài là dãy núi Mũi
Mác. Tượng đài chiến thắng Đồng Lộc là biểu tưởng bất hủ của sức mạnh, ý chí
quyết chiến, quyết thắng, tinh thần vươn lên đạp bằng mọi gian nan, nguy hiểm
của lực lượng TNXP, bộ đội, công nhân giao thông, công an, dân quân, nhân dân
… xung quanh chân Tượng đài là biểu tượng của khói lửa, đạn bom và các áng
mây biểu trưng cho hoà bình, hy vọng và màu xanh bất diệt của bầu trời Đồng
Lộc, dưới chân Tượng đài là Lư hương, Bệ đá, xung quanh chân Tượng đài xếp
hình cánh cung đó là những Bức phù điêu miêu tả không khí sôi nổi, khẩn
trương của TNXP, công nhân giao thông, bộ đội, dân quân, lái xe, nhân dân
Đồng Lộc và các xã lân cận san, lấp hố bom, làm đường, rà phá bom mìn, bắn
máy bay địch, … dẫn đường cho xe qua. Tường đài chiến thắng do nhóm kỹ sư
thiết kế – hoạ sỹ Lê Đình Quỳ, Quốc Lập sáng tác. Tượng đài được khởi công
vào ngày 15 tháng 7 năm 1995 và khánh thành vào dịp kỷ niệm 30 năm chiến
thắng Đồng Lộc 15/7/1998. Để chuẩn bị kỷ niệm 40 năm chiến thắng Đồng Lộc
và tưởng niệm 40 năm ngày hy sinh của 10 nữ anh hùng liệt sỹ TNXP, Trung
ương Đoàn đã đầu tư nâng cấp toàn bộ khu vực tượng đài như ốp đá phần chân
tượng, làm lại sân hành lễ, trồng cây cảnh, tạo nên khu tượng đài hoành tráng,
uy nghiêm.
- Biểu tượng lưu niệm của ngành giao thông vận tải: Cột biểu tượng lưu
niệm của ngành giao thông vận tải nằm ngay chính Ngã Ba là nơi giao nhau của
3 tuyến đường: Khe Giao - Đồng Lộc, Lạc Thiện - Đồng Lộc, Ba Giang - Đồng
15
Lộc. Công trình được khởi công vào tháng 12/ 1991 và khánh thành vào ngày
26/03/1992.
- Nhà bia tưởng niệm TNXP toàn quốc: Nhà bia được Trung ương Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh đầu tư xây dựng năm 1998 khắc tên 1950 anh hùng liệt sỹ
TNXP toàn quốc và các anh hùng liệt sỹ hy sinh tại Ngã ba Đồng Lộc, hai bên là
danh sách các anh hùng liệt sỹ TNXP hy sinh trên mọi miền Tổ quốc.
Thể theo nguyện vọng của các cựu TNXP, cựu chiến binh, ngày
26/3/2007 Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đầu tư, Tổng công ty cao su
Việt Nam tài trợ đã xây dựng, nâng cấp toàn bộ khu vực nhà bia, hệ thống
đường đi lối lại phù hợp, tạo điều kiện cho mọi đối tượng nhất là những thương
binh nặng, những người khuyết tật có thể dễ dàng lên thăm viếng. Nhà Bia được
cải tạo lại dựa trên phần thiết kế cũ vừa mang tính truyền thống dân gian, vừa
mang tính hiện đại. Hiện nay đã có gần 4000 liệt sỹ TNXP toàn quốc, liệt sỹ hy
sinh tại Ngã ba Đồng Lộc lưu danh tại nhà bia.
Nhà bia tưởng niệm TNXP toàn quốc chính là trang sử hào hùng và bi
tráng của lịch sử, là hiện thân của lực lượng “vai trăm cân, chân vạn dặm”
không tiếc tuổi xuân và xương máu vì nền độc lập tự do của dân tộc. Tên tuổi
của các anh hùng liệt sỹ TNXP sẽ được lưu danh muôn đời, để lớp con cháu
ngưỡng vọng, tôn kính, tự hào.
- Khu mộ 10 nữ anh hùng liệt sỹ TNXP: Cách nhà bia tưởng niệm TNXP
chừng 100m, cùng nằm ở dãy đồi Trọ Voi cao vút thông xanh là khu mộ của 10
cô gái TNXP thuộc Tiểu đội 4 - Đại đội 552 - Tổng đội 55. Các cô đã dũng cảm
kiên cường giữa làn mưa bom bão đạn của quân thù và hy sinh cùng một lúc khi
tuổi đời mới 18, đôi mươi (vào hồi 16h ngày 24 tháng 7 năm 1968 (tức 26/6/
Mậu Thân). Thi hài của các cô được mai táng tại nơi các cô đóng quân (đồi Bãi
Dịa xóm Mai Long, xã Xuân Lộc) cách đồi Trọ Voi khoảng 2km. Năm 1976
phần mộ của các cô được chuyển về nghĩa trang liệt sỹ huyện Can Lộc, năm
1990 sau khi Khu di tích được đầu tư xây dựng phần mộ của các cô được đưa
về đúng nơi các cô hy sinh. Khu mộ 10 cô được mở rộng và tôn tạo năm 2000,
năm 2005 Tổng công ty Tư vấn Giao thông thuộc Bộ Giao thông Vận tải đã đầu
16
tư nâng cấp cho khu mộ khang trang hơn
Khu mộ 10 nữ anh hùng liệt sỹ TNXP trở thành điểm đến của du khách
trong và ngoài nước. Tên tuổi của 10 cô gái mãi mãi trường tồn cùng non sông
đất nước, mãi mãi là thiên anh hùng ca của dân tộc Việt Nam anh hùng.
- Nhà truyền thống TNXP toàn quốc: Nhà trưng bày truyền thống TNXP
toàn quốc là nơi mà lịch sử TNXP hiện lên tráng liệt, rõ nét và sống động nhất.
Gian chính diện có nhóm tượng Bác Hồ, cụm tượng bộ đội, TNXP. Những câu
khẩu hiệu đã từng là lý tưởng cháy bỏng của thanh niên được đóng dày cả ba
gian trong phòng lớn, 100 hiện vật gốc, 12 ảnh gốc và 145 hiện vật được phục
chế cho người xem thấy cuộc sống lao động, chiến đấu của TNXP trên mọi ngã
đường với tinh thần: “tất cả cho tiền tuyến” “Địch phá một, ta làm mười” một
cuộc sống sôi động đầy chất thép nhưng cũng đầy lãng mạn. Hiện vật gồm đồ
đạc sinh hoạt, dụng cụ lao động, chiến đấu của TNXP: xe bò, xe cút kít, ống
nhòm, xắc cốt; Bộ đội với nòng pháo cao xạ; Công nhân giao thông với máy
xúc, máy ủi; Những bức ảnh chụp trong giờ chiến đấu, cảnh đời thường và cảnh
ca hát của TNXP. Hiện nay nhà bia vừa được bổ sung thêm cụm tượng TNXP
thể hiện sinh động không khí sinh hoạt và tinh thần lạc quan của thế hệ TNXP.
- Phòng trưng bày truyền thống Ngã ba Đồng Lộc: Phòng truyền thống
Ngã ba Đồng Lộc nằm kề nhà truyền thống TNXP toàn quốc thành một khối liên
hoàn. Tại đây có một hệ thống sa bàn lập trình bằng điện tử được thiết kế khá
hiện đại, tái hiện lại chiến trường Đồng Lộc trong những năm tháng chiến tranh.
Nhà trưng bày có những hiện vật rất đáng quý như bức thư chị Võ Thị Tần gửi
mẹ, bộ quần áo của chị Xuân, dây điện và thỏi nam châm phá bom của anh
Vương Đình Nhỏ, bát ăn cơm của các cô, sổ lý lịch, sổ ghi bài hát của chị
Hường và các ảnh tư liệu của các phóng viên chiến trường như Văn Sắc, Phan
Thoan, Nguyên ái…Ngoài những hạng mục phục chế di tích chiến tranh, Trung
ương Đoàn còn đầu tư thêm một số hạng mục phụ trợ cho khách tham quan như:
Nhà nghỉ, hội trường, nhà làm việc của Ban quản lý, sân bãi đậu xe…
-Bên cạnh việc đầu tư xây dựng các hạng mục công trình để làm khang
trang đẹp đẽ hơn toàn cảnh của khu di tích, điều mà chúng ta không thể không
17
nói đến đó là trong nhiều năm qua Ngã ba Đồng Lộc luôn là đề tài là nguồn cảm
hứng phong phú cho các nhà thơ, nhà văn, nhà biên kịch, các đạo diễn sáng tác
và thể hiện các chương trình ở Đồng Lộc. Về phim truyện có “ Vầng trăng trinh
nữ ” của Lưu Trọng Ninh, phim tài liệu có “Hương bồ kết ” của Trần Minh Đại,
“ Người chị cả của tiểu đội nữ anh hùng ” của Phan Trung Thành, về truyện ký
có “Trái tim Đồng Lộc” của Bùi Minh Huệ, “Mười cô gái Ngã ba Đồng Lộc”
của Nghiêm Văn Tân “Trường ca Đồng Lộc” của Nguyễn Ngọc Phú; tuyển tập
thơ văn của Hội văn học nghệ thuật Hà Tĩnh và rất nhiều bài thơ đã đi vào lòng
người như “Ngã ba Đồng Lộc” của Cù Huy Cận, “Cúc ơi” của Yến Thanh, “Lời
thỉnh cầu ở nghĩa trang Đồng Lộc” của Vương Trọng, nhiều bài được các nhạc
sỹ phổ nhạc thành những ca khúc nổ tiếng như bài “Tình yêu của mẹ” thơ của
Hồng ánh nhạc của Phan Huỳnh Điểu, “Cúc ơi” thơ Yến Thanh nhạc Bùi Hăng
Ry và hàng trăm ngàn tác phẩm với nhiều thể loại phong phú đã làm nên một
Đồng Lộc vĩnh hằng mãi mãi khắc sâu vào tâm khảm của người dân Việt Nam.
Ngã ba Đồng Lộc với hàng triệu lượt khách mỗi năm đã thực sự trở thành địa
chỉ đỏ, nơi giáo dục truyền thống cách mạng cho đồng bào và thế hệ trẻ hôm nay
và mai sau.
Đây là những công trình trong phức hợp di tích Ngã ba đồng Lộc để các
thế hệ sau hiểu sâu sắc hơn về những mất mát, hy sinh, đau thương cũng như sự
anh dũng, kiên cường của người dân Hà Tĩnh nói chung và người dân Đồng Lộc
nói riêng. Mảnh đất ấy, con người ấy mãi mãi được lưu danh trong sử sách.
Đồng thời, những hạng mục công trình ấy thể hiện nghệ thuật kiến trúc khá độc
đáo của Việt Nam, vừa mang tính chân thực, vừamang tính hình tượng trong một
chỉnh thể giúp người tham quan cảm nhận và hiểu rõ giá trị lịch sử của mảnh đất
địa linh nhân kiệt này.
2.3 Giá trị tâm linh
Mỗi ngày có hàng trăm lượt người tới Đồng Lộc thắp hương, thăm viếng.
Vào những ngày lễ Tết có tới hàng ngàn lượt người. Ngã ba Đồng Lộc ngã ba
huyền thoại trở thành một điểm hành hương tâm linh, một không gian tưởng
niệm linh thiêng!.Cứ mỗi năm ngày Thương binh - Liệt sỹ, xin được thắp nén
18
tâm nhang tỏ lòng nhớ ơn những người con gái, con trai, mãi mãi tuổi thanh
xuân, trong đó có 10 nữ Anh hùng TNXP. Ngã ba Đồng Lộc rồi đây sẽ ngân
vọng tiếng chuông mỗi sớm mỗi chiều để nhớ về một thời máu lửa, hào hùng
của dân tộc.
2.4 Giá trị giáo dục
Chiến tranh ác liệt như thế, bom đạn ném xuống Đồng Lộc như vãi trấu,
như mưa đá nhưng trái tim Đồng Lộc vẫn đập mạnh mẽ hào hùng. Trong 7 tháng
năm 1968 ta phá 1780 quả bom, góp 974.240 ngày công để thông tuyến, làm
đường mới từ Khiêm Ích, Truông kén, Bãi Dịa 6km. Quân và dân các xã đã góp
184.400 ngày công với 42.620 lượt phục vụ chiến đấu, đào đắp 95.209m3 đất
đá, vận chuyển 45m3 gỗ, cung cấp 22.448 cọc tre, 24.000 gánh bổi chống lầy…
nhưng đấy không phải là những đấy không phải là những con số cơ học thô
cứng như bây giờ người ta vẫn tính toán về khối lượng công trình mà là những
con số của máu và nước mắt. Để có được công trình huyền thoại đó, quân dân
Hà Tĩnh phải trả bằng máu, bằng trái tim của con người nơi đây. Những con
đường của Đồng Lộc lúc bấy giờ là con đường của máu xương Dương – Tài,
cùng 160 liệt sĩ của lực lượng TNXP, 122 liệt sĩ của trung đoàn pháo cao xạ 210,
43 liệt sĩ của ngành giao thông và tại con đường này 10 đoá hoa bất tử của tiểu
đội 4 – C552 đã ngã xuống, mãi mãi nằm im dưới lòng đất mẹ. Năm tháng qua
đi vì cuộc sống mới nhiều nỗi đau có thể phải quên đi nhưng không điều gì có
thể lãng quên trong trí nhớ của đất. Thế hệ trẻ hôm nay và mai sau cũng không
được phép quên đi những nỗi đau thương mất mát to lớn của cha ông mình.
Đối với Ngã Ba Đồng Lộc hôm nay chúng ta thêm tự hào về truyền thống
cách mạng tốt đẹp của quê hương, của dân tộc ta. Tự hào bởi trong hoàn cảnh
khắc nghiệt như thế, thiếu thốn, khó khăn chồng chất là thế nhưng quân và dân
ta vẫn làm nên một kì tích vĩ đại, những con đường huyền thoại dưới những bàn
tay có phép lạ xẻ đất, đất, đẩy xe,…những con đường di động vẫn luôn hiện ra
trước đoàn xe.
Chiến tranh đã lùi xa gần 50 năm, nhưng Ngã Ba Đồng Lộc vẫn còn đó
như một huyền thoại ngày ngày truyền lại niềm tin, ý chí cho thế hệ trẻ hôm nay
19
và mai sau về sau sức mạnh nội lực của dân tộc Việt Nam. Từ đây tất thảy bạn
bè, kể cả những người đã từng ở bên kia giới tuyến đều phải thừa nhận sự thần
kì của một dân tộc, một đất nước mà sự tồn tại và chiến thắng của nó là tất yếu.
Ngã Ba Đồng Lộc khiến thế hệ trẻ hôm nay phải kính phục, tự hào. Tự
hào trước sức mạnh đoàn kết, gắn bó máu thịt, đồng cam cộng khổ của cha ông
ta để làm nên “những con đường di động” trong hoàn cảnh ác liệt và thiếu thốn
mọi đường. Chính tình yêu quê hương đất nước nồng nàn đã biến thành sức
mạnh giúp quân dân đạp bằng mọi hiểm nguy, bất chấp gian khổ hi sinh, chỉ với
cuốc thuổng trong tay họ đã làm nên những công trình có một không hai. Để rồi
hôm nay những ai đã bước chân trên những con đường đều không khỏi kinh
ngạc và thán phục con người và mảnh đất nơi đây. Thế hệ trẻ Việt Nam thêm tự
hào vì được sinh ra trong một mảnh đất anh hùng như thế. Tự hào để thêm yêu
quê hương, đất nước mình, biến tình yêu ấy thành trách nhiệm, thành hành động
của bản thân khi được sống trong một đất nước anh hùng như thế. Phải làm gì để
xứng đáng với gian khổ hi sinh của cha ông, xứng đáng là con người Việt Nam
thời đại.
2.5. Giá trị kinh tế,du lịch
Trong những năm qua, khu di tích Ngã ba Đồng Lộc đã đón hàng triệu
lượt khách đến tham quan, góp phần đáng kể vào phát triển kinh tế của địa
phương. Đồng thời, được sự quan tâm của Trung ương, tỉnh Hà Tĩnh, xã Đồng
Lộc nói riêng và huyện Can Lộc nói chung đã được đầu tư với nâng cấp cơ sở hạ
tầng như hệ thống đường giao thông, các nhà nghỉ, tôn tạo các hạng mục trong
khu di tích Ngã ba Đồng Lộc, phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp
phục vụ du lịch… Chính vì vậy đời sống kinh tế của người dân nơi đây ngày
càng được nâng cao.
Nhà thơ Huy Cận lúc sinh thời đã viết bài thơ:
“Trong đời mỗi người cũng có những ngã ba đường
Trong đời mỗi dân tộc cũng có những ngã ba quyết định
Những ngã ba vận mệnh
Những cái nút trên dặm dài lịch sử
20