Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

HÌNH TƯỢNG NHÂN vật CHÍ PHÈO TRONG tác PHẨM CÙNG tên của NAM CAO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.91 KB, 12 trang )

HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT CHÍ PHÈO TRONG TÁC PHẨM CÙNG
TÊN CỦA NAM CAO
20/04/2013 | Văn học Việt Nam | Phân tích Văn học
HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT CHÍ PHÈO TRONG TÁC PHẨM CÙNG
TÊN CỦA NAM CAO
Hình tượng nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên
của Nam Cao
Nam Cao là một nhà văn của hiện thực. Ngòi bút của ông luôn
luôn viết để “vạch khổ”, để ca ngợi những con ngưoiừ khổ “cùng
đường” nhưng có thiên chất trong sáng. Mặc dù ngòi bút tả thực
ấy hoạt động trong thời gian mà người ta cho rằng là “cái mốc”
cuối của văn học hiện thực. Chí phèo đã ra đời trong hoàn cảnh
ấy. Như một hiện tượng đột xuất khiến ai cũng phải ngỡ ngàng,
kinh ngạc. Chí Phèo là một sự bứt phá, đỉnh cao chẳng những với
toàn bộ sự nghiệp văn học của Nam Cao mà còn cả đối với nền
văn xuôi hiện thực lại một lần nữa chói lòa trên đài văn chương,
đánh dấu thời kỳ sinh ra nó trở thành thời kỳ huy hoàng mới, đỉnh
cao hơn trước đây. Phải thừa nhận rằng, Nam Cao không thể xuất
sắc được thêm nữa mà ông viết, viết để xây dựng nên “Chí Phèo”
một chàng trai lương thiện đồng thời cũng là một con quỷ dữ.
Xây dựng nên hình tượng nhân vật Chí Phèo Nam Cao đã viết nên
một khúc nhạc buồn, một bài ca về một cuộc đời bi kịch cứ nối
tiếp bi kịch. Chí và cuộc đời Chí là đại diện của sự khổ đau đến tột
cùng.
Sự đau khổ ấy có lẽ đã được báo trước bởi số phận của một đứa
trẻ “tứ cố vô thân”. Ngay từ khi sinh ra, Chí đã bị vứt bỏ trong cái
lò gạch cũ, “một anh đi thả ống lương gần một cái lò gạch bỏ
hoang thấy hắn trần chuồng và xám ngắt trong một cái váy đẹp”.
Như vậy cha mẹ hắn đã ngoảnh mặt đi để tuổi thơ của hắn gắn
liền với cái danh không cha, không mẹ, một đứa con hoang tội
nghiệp. Đó cũng là một nỗi chua xót của đời người khi sống mà


không biết tổ tiên, gốc rễ. Một số kiếp bị ghẻ lạnh từ khi mới lọt
lòng.
Chí lớn lên trong sự đùm bọc, cưu mang của nhiều người tốt bụng.
Anh thả ống lương, bà góa mù, bác phó cối. Có lẽ nhờ sinh trưởng
trong môi trường nông dân thuần túy mà Chí được thừa hưởng
những phẩm chất tốt đẹp. Nếu biết trước được tương lai, thì có lẽ
Chí đã biết rằng hai mươi năm đầu đời là hai mươi năm hạnh
phúc.
Hai mươi năm đã là một anh trai hiền lành, chất phát có mơ ước
bình dị, giàu lòng tự trọng và vô cùng lương thiện. Cho tới khi chỗ


đựa cuối cùng là bác phó cối qua đời. Chí trở thành một kẻ không
nơi nương tựa, phải đi bán rẻ sức lao động cho nhà Bá Kiến. Chính
trong thời gian ấy, Chí đã bị Bà Ba “để ý”, bắt “bóp chân mà cứ
đòi bóp lên trên, lên trên nữa”. Khi phải làm việc sai trái ấy, chí “
vừa làm vừa run”, và anh thấy nhục nhã, ghê tởm hơn là thấy
thích. Điều này lại một lần nữa khẳng định tư chất ngay thẳng của
Chí.
Không may cho anh, Bá Kiến đã phát hiện ra và nổi cơn ghen, rồi
vô cớ đẩy Chí đi tù. Đó là mốc son quan trọng đánh dấu cuộc đời
Chí đã sang trang khác. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho bọn
thống trị phong kiến để dồn ép những người dân khốn khổ tới
“bước đường cùng”. Những hành hạ, đòn roi của nhà tù đã biến
một con người lương thiện thành một kẻ lưu manh, côn đồ, và hơn
thế là một con quỷ dữ” có hình hài “nửa người, nửa ngợm”.
Bằng ngòi bút sắc sảo, Nam Cao đã vẽ ra cho người đọc thấy chân
dung, mới của Anh Chí – Chí Phèo. “Hắn về lớp này trông khác
hẳn. Cái đầu trọc lốc, cái răng trắng hớn, cái mặt thì rất cơng
cơng… “ Có người cho rằng “mặt mà câng câng” thì còn là mặt

người, nhưng “cái mặt mà cơng cơng” thì không rõ đó là bộ mặt
của con vật gì. Như vậy , Chí đã mất hẳn “nhân tính”, đâu còn là
anh Chí khỏe mạnh, đẹp trai của ngày xưa. Cái mặt ấy đầy rẫy
ngang dọc những vết sẹo, dấu tích của những lần ăn vạ, chém
giết. Đời hắn là một cơn say dài vô tận, hắn ăn trong lúc say, ngủ
trong lúc say, chửi nhau, chém giết, cướp bóc cũng trong lúc say.
Tới đây, Chí đã thực sự là một kẻ lưu manh, côn đồ, sẵn sàng
nhúng tay vào tội ác. Đau xót hơn, nhiều kẻ đã lợi dụng sự u mê
của Chí, sai khiến hắn làm những việc sai trái, kể cả giết người.
bàn tay hắn đã từng “đập nát bao cảnh yên vui, làm đổ máu và
nước mắt của bao nhiêu người lương thiện”.
Chí đã bán linh hồn mình cho quỹ dữ, chỉ để lại cái thân xác khật
khưỡng vì say rượu và hung hăng như con thú say máu. Chí mất
hết cả nhân tính lẫn nhân tính.
Nhưng Nam Cao chưa dừng ở đó, cái đặc biệt đưa Chí Phèo lên
hàng “kiệt tác” là ở đó, Nam Cao đã chú ý đào sâu vào nội tâm
của Chí, đào sâu tới chỗ le lói ánh sáng trong sâu thẳm của tăm
tối và u mê.
Chí là một con người lương thiện, giá mà con người ấy không bị bỏ
rơi, giá mà Chí không bị đẩy đi tù, thì có lẽ, giờ đây Chí đã là một
con người khác hoàn toàn. Chai ôi!


Có thể dễ dàng thấy được ấn tượng mạnh mẽ mà người đọc cảm
nhận được đó là “tiếng chửi” mở đầu cho thiên truyện. Khó mà nói
lên hết sự tài tình của Nam Cao khi cố ý dẫn dắt cho “tiếng chửi”
mở đầu cả một tác phẩm lớn như thế. Nhưng đó cùng là một thủ
pháp nghệ thuật trong cách nét của Nam Cao. Nhà văn để nhân
vật xuất hiện trong tâm trạng điển hình nhất. Vừa gây sự tò mò
cho người đọc, vừa làm nổi bật tư tưởng của tác phẩm.

“Chí phèo vừa đi vừa chửi, cứ rượu xong là hắn chửi, bắt đầu hắn
chửi trời, có hề gì trời có của riêng nhà nào, rồi hắn chửi đời, đời là
tất cả nhưng chẳng là riêng ai, rồi hắn chửi ngay tất cả làng Vũ
Đại, nhưng mọi người ai cũng như rằng chắc nó trừ mình ra, tức
mình hắn chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn, nhưng cũng
không ai đáp lại, thế có khổ cho hắn không. Cuối cùng hắn chửi
đứa chết mẹ nào để ra thân hắn. Phải chăng đó chỉ là những câu
chửi bâng quơ. Không, không phải vậy! làm sao những câu chửi
bâng quơ lại văn vẻ, thứ tự như thế.
Tiếng chửi chính là phản ứng của y trước cuộc đời, thể hiện tâm
trạng đầy bức bối, bi kịch của Chí. Chửi là để giải thoát sự tan nát,
đau đớn. Đó là tâm trạng bất mãn cao độ của một con người đã bị
làng xóm, xã hội gạt ra khỏi cộng đồng. Trong cơn say, hắn vẫn
cảm thấy tuy mơ hồ mà thấm thía “nông nổi” khốn khổ của thân
phận. Đó là “nông nỗi” không có người nào chịu chửi lại hắn. Có
nghĩa là tất cả mọi người đã dứt khoát không coi hắn là người.
Hoặc cũng có thể là bởi họ không chấp hay không muốn dây với
một thằng say rượu, một kẻ lưu mạnh, mọt thằng cốcùng liều
thân như Chí. Chửi lại hắn nghĩa là còn thừa nhận hắn là người là
còn bằng lòng giao tiếp, đối thoại với hắn. Chí Phèo chửi cả làng
là lũ vọng có ai đó chửi lại. Tiếng chửi là khao khát liên tục được
phát đi nhưng chỉ gặp sự im lặng đáng sợ. Sự lạnh lùng đến nhẫn
tâm của xã hội loài người đã khiến cho tâm hồn hóa đá của Chí
Phèo cũng phải bật khóc. Chưa nói đến giao tiếp bình thường, chỉ
chửi thôi, cách giao tiếp thô bỉ, hạ đẳng nhất người ta cũng không
bằng lòng với chí. Họ đâu còn coi chí là người, trong mắt họ, Chí
chỉ là một con vật ghê tởm, đáng sợ, cần phải tránh xa, với họ Chí
không xứng đáng được nghe một câu chửi. Chỉ còn lại một mình
Chí trong sa mạc cô đơn: “Hắn chửi rồi lại nghe”, “chỉ có ba con
chó dữ với một thằng say rượu”. Tiếng chửi bộc lộ sự bế tắc, cô

đơn tột cùng của chí, đồng thời thể hiện đỉnh cao của tấn bi kịch,
bị từ chối quyền làm người của Chí.
“Vạch khổ” cho ngưoiừ nông dân, Nam Cao không chọn những đề
tài đã xưa cũ, mà chọn cho mình một con đường riêng, mọt


phương diện riêng. Người nông dân bị xã hội tàn phá về tâm hồn,
hủy diệt cả nhân tính, do đó bị phủ nhận giá trị, tư cách làm
người. Nỗi thống khổ ghê gớm của Chí Phèo không phải là ở chỗ,
tất cả cuộc đời người nông dân cố cùng này chỉ là một con số
không tròn trĩnh. Không cha không mẹ, không họ hàng, thân
thích, không tấc đất, cắm dùi, cả đời chưa từng được chăm sóc bởi
bàn tay người đàn bà… mà chính là ở chỗ anh đã bị xã hội rách
nát bộ mặt người, cướp đi linh hồn người, để bị loại ra khỏi xã hội
loài người, phỉa sống kiếp sống tối tăm, thú vật. Phát hiện mới
mẻ, độc đáo của Nam Cao còn cho chúng ta hiểu rằng: Cướp đi
người khác bất cứ thứ gì cũng là tội ác, nhưng cướp đi con người
hạnh phúc, ước mơ, bản chất lương thiện là tội ác dã man nhất,
dã man hơn cả tội giết người. Với chí Phèo, Nam Cao thực sự đã
vượt trội hơn so với “Đàn anh Tắt Đèn – Ngô Tất Tố; “Bước đường
cùng” của Nguyễn Công Hoan cũng khó mà so bì được với “Chí
Phèo”, Bởi chăng, nếu Chị Dậu chỉ mất chó, mất con, thì Chí mất
cả nhân hình lẫn nhân tính. Nếu chị Dậu chỉ chật vật, bôn ba vì
sưu thuế, thì Chí mất cả quyền làm người. Nếu Chị Dậu tuy khổ
cực nhưng vẫn còn được hàm xóm, láng giềng yêu quý, giúp đỡ
thì Chí mãi mãi cô đơn vì bị hắt hủi. Chỉ vậy thôi, ta đã thấy “Chí
Phèo” quả là “đứa con tinh thần” đắt giá, một hình tượng trên cả
ngàn hình tượng. Nam cao là một thiên tài!
Nhân Vật Chí Phèo được ví như một con sông. Khô cạn. Cả cụoc
đời con người ấy cũng trống rỗng, khô cạn như con sông ấy.

Nhưng Nam Cao đã đem mưa đến, tưới mát cho tâm hồn Chí,
dòng sông kia lại tràn đầy và Chí hồi sinh như những hạt giống
nảy mầm. Đó là cuộc hội ngộ của Chí Phèo với Thị Nở. Thị Nở là
một người đàn bà xấu đến ma chê quỷ hờn, mãi đến ba mươi tuổi
vẫn ế chồng, tính cách thì dở hơi, lại có dòng dõi ma hủi. Ở người
đàn bà này, hội tụ mọi sự bất hạnh của người phụ nữ. Vậy mà khi
họ ăn nằm với nhau, mọi sự đã thay đổi. Đây là mốc son thứ hai
thay đổi cuộc đời Chí.
Sau cuộc gặp gỡ, Chí Phèo bị ốm rồi được thị Nở chăm sóc. Lần
đầu tiên, từ những ngày ở tù về, Chí thấy mình hoàn toàn tỉnh táo
và cũng là lần đầu tiên anh nghe và nhận ra những âm thanh
quen thuộc của cuộc sống đời thường : “Tiếng anh chài gò thuyền
đuổi cá”, “tiếng chim hót trong lành”, “tiếng người nói xôn xao”..
và “lòng hắn mơ hồ buồn”. Chí như vừa mới được sinh ra, tâm hồn
Chí còn non nớt như một đứa trẻ, lần đầu biết nghe, lần đầu biết
cảm nhận và bộc lộ xúc cảm. Đây là một tâm trạng rất lạ của Chí,
đã nhiều năm trôi qua, hắn lần đầu tỉnh táo để nghĩ về cuộc đời
mình, rồi chua xót nhận ra, đã có một thời xa xăm; hắn đã từng


mơ ước “chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải, có tiền thì mua
con lợn, khá giả thì tậu dăm ba sào ruộng….”. Người ta mơ ước
được giàu sang, phú quý, Chí chỉ có một mơ ước thật bình dị, giản
đơn là được làm một ngưoiừ lương thiện, có một mái ấm đơn xơ
nhưng đó cũng là mơ ước không thển ào trở thành hiện thực. Hắn
căm ghét quá khứ, căm ghét vợ chồng Bá Kiến, căm ghét thành
kiến xã hội. Chí xót xa vì hối hận cho quãng đường đầy bất hạnh
và gây nhiều tội ác của mình.
Từ trong sâu thẳm ý thức, Chí vẫn không ngừng hi vọng. Và sự
xuất hiện của Thị Nở như ánh sáng của ngọn đèn, chiếu vào cuộc

đời tối tăm, giằng giặc của CHí. Thị như cây cầu nối, như bàn tay
đưa ra cứu vớt cuộc đời anh. Thị nở mở dường cho anh men theo
bờ vực thẳm dể trở lại làm người. Tiếng gọi của tình yêu cũng là
tiếng gọi của đời lương thiện. Chí mong ngóng Thị Nở và khao
khát cùng thị xây dựng một gia đình.
Hình ảnh “bát cháo hành” là thuốc giải độc cho cuộc đời Chí, và
hiện thân của tình yêu thương, là hương vị của tình yêu, tình
người và tình đời. Chí ngạc nhiên, rồi cảm động (thấy mắt hình
như ươn ướt), nỗi bâng khuâng vui buồn lẫn lộn, và nhất là anh
thấy ăn năn “Bởi đầy là lần đầu tiên trong đời, hắn được người ta
cho…”. Hắn cảm nhận được sự quan tâm chăm sóc của Thị Nở,
một sự chăm sóc tuy còn vụng về nhưng rất đỗi yêu thương, chân
thành. Hương thơm bát cháo hành đã tẩy rửa những ô nhục, đã
bóc trần sạch sẽ cái mặt nạ quỷ dữ và đưa Chí trở lại làm người.
Bát Cháo hành đã đánh thức phần người tốt đẹp còn sót lại trong
Chí và con quỷ dữ đã chấp nhận từ bỏ bóng tối để bước ra và
vươn lên trong anh sáng. Chí bỗng khao khát, khao khát mãnh liệt
cuộc đời lương thiện. Đó cũng là chi tiết thể hiện tình cảm chứa
chan, nhân đạo của nhà văn, đối với nhân vật của mình. Cái biệt
tài của Nam Cao là ở chỗ Cách xử lý tình huồng, co dãn dung
lượng truyện, để từng câu, từng chữ, không thừa, không thiếu,
biến hóa khéo léo, linh hoạt. Đây cũng chính là lời giải thích cho
việc ông cân bằng câu văn ra sao. Nam Cao chỉ dành hai mươi
năm đầu đời của Chí vẻn vẹn vài ba câu văn ngắn ngủi, trong khi
ông dành nửa tác phẩm để viết về năm ngày cuối đời của Chí.
Năm ngày hạnh phúc ngắn ngủi và mong manh.
Dù sao thì Chí cũng đã có năm ngày để hạnh phúc, năm ngày để
sống thực sự lương thiện. Không say, không chửi, không cần quấy,
không cướp bóc, không ăn vạ..



Nhưng chỉ biết làm gì đây trước thành kiến xã hội? Liệu những con
người trước đây vốn sợ hắn và xa lánh hắn có chấp nhận hắn trở
về?
Tác giả đã chú ý tới nhân vật bà cô Thị Nở, đại diện cho định kiến
xã hội tàn ác đã phủ nhận sự tồn tại của Chí và quyết liệt ngăn
cản hạnh phúc của cô cháu gái. Điều đó đã khiến Chí suy nghĩ rất
nhiều, hiểu ra rất nhiều và cõi lòng anh tan nát. Anh đã cố gắng
níu kéo, nhưng tình yêu đã ngoảnh mặt đi, cự tuyệt, từ chối anh.
Tất cả đã sụp đổ, Chí Phèo nơi vào tình thế tuyệt vọng, đau đớn,
vật vã trong bi kịch tinh thần của một con người sinh ra là người
mà không được làm người.
Nhà văn đã miêu tả một lần uống rượu đặc biệt nhất trong cuộc
đời Chí. Chí lại lôi rượu ra uống, hắn lại càng thấy tỉnh, hơi rượu
không sặc sụa, hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành”. Đó là
hương vị khó phai mờ nhất trong cuộc đời anh. Chính vì thế, nó lại
càng gợi nhắc đến nỗi đau bị cự tuyệt những lời lẽ chua chát, cay
đắng của Bà cô Thị Nở. Hắn bưng mặt khóc rưng rức, một kẻ sẵn
sàng rạch mặt ăn vạ, đâm chém người khác mà lại biết khóc. Có
thể nói khi tỉnh rượu Chí Phép đồng thời ngộ ra hai sự thật: Một là
anh muốn làm người lương thiện, hai là anh không thể trở thành
người lương thiện được nữa, và cách giải quyết cuối cùng chỉ có
thể là cái chết. Đúng là một sự thật nghiệt ngã, phũ phàng. Đau
xót thay Chí càng muốn vươn lên sống thì cái chết lại càng tới
gần.
Chí quyết định xách dao đi trả thủ. Hình tượng của Chí ngày càng
trở nên to lớn, to lớn trước hết về khao khát, và to lớn sau cùng là
sự quyết liệt trong hành động trả thù Bá Kiến – cụ tiên chi của
làng Vũ Đại. Nếu soi sét kỹ tác phẩm, ta sẽ thấy rằng giữa Chí
Phèo và Bá Kiến có một sợi dây giằng buộc vô hình. Đâu phải tình

cờ mà vừa ra tù hôm trước, hôm sau Chí đã xách vỏ chai “tới nhà
Bá Kiến.”, “gọi tận tên tục ra mà chửi” . Cũng đâu phải ngẫu
nhiên khi mỗi lần uống say, Chí lại lảm nhảm tới nhà cụ Bá để
“đòi nợ”. Càng không phải ngẫu nhiên khi Chí lăm lăm cây dao
định tới nhà Thị Nở “để đâm chết nhà nó” thì lại xông vào nhà Bá
Kiến. Rõ ràng, khi ở tù về, mặc dù đã biến chất, và hoàn toàn bại
liệt về ý thức, trở thành công cụ của bọn cường hào. Nhưng trong
đáy khối óc dày đặc u tối ấy, vẫn âm ỉ mối thù giai cấp với kẻ đã
cướp đi của hắn quyền làm người và phẩm giá người. Giữa Chí
Phèo và Bá Kiến vẫn còn nguyên “món nợ” chưa thanh toán. Vì
vậy trong mối quan hệ này vẫn chất chứa những mối nguy hiểm
khó lường Chí Phèo đứng trước mặt Bá Kiến nói rõ ràng “Tao


không cần tiền!” Tao muốn làm người lương thiện… Ai cho tao
lương thiện… Làm sao để mất các dấu sẹo trên mặt này?…”
Những câu hỏi dồn dập, như chất chứa bao cùng quẫn, căm phẫn,
tuyệt vọng, bế tắc. Đồng thời thể hiện khát khao cháy bỏng của
người dân cùng khốn khổ được sống lương thiện. Bi kịch của người
dân cùng khốn khổ được sống lương thiện. Bi kịch của Chí Phèo đã
lên đến đỉnh điểm và đòi hỏi phải được giải quyết. Lưỡi dao rung
lên sáng loáng là hành động cương quyết lấy máu rửa thù. Lão
cáo già lọc lõi Bá Kiến phải chết, để đền tội cho những tội ác dã
man mà hắn đã gây ra.
Nhưng ngay sau đó, Chính nhân vật đáng thương của Nam Cao lại
tự sát. Để Chí Phèo chết, Nam Cao đã xây dựng nên một tình
huống thật hợp lí. Khi mà ý thức nhân phẩm trở lại, Chí đã nhất
quyết không bằng lòng tiếp tục sống cuộc sống thú vật. Nên anh
đã chọn cách giải quyết là cái chết để bảo toàn phẩm giá và thiên
lương. Chí Phèo chết ngay trên ngưỡng cửa trở về với cuộc đời

lương thiện. Cái chết của Chí Phèo biểu nhiên không làm xúc động
những người dân làng Vũ Đại, nhưng nó lại để lại trong lòng chúng
ta, những ai biết yêu thương và trân trọng con ngưoiừ một nỗi
buồn thật ghê gớm. Cái chết ấy đã kết thúc một cuộc đời, đặt dấu
chấm hết cho một bi kịch số phận và là âm hưởng cứ dư mãi trong
lòng bạn đọc.
Thực ra, khi viết về Chí Phèo, Nam Cao còn muốn bao quát hóa
hình tượng nhân vật này thành cả một tầng lớp nhân dân lao
động bị dồn ép, đè nén bởi các thế lực, thống trị tàn ác. Chí Phèo
là nhân vật tiêu biểu, là hình tượng điển hình cho người nông dân
trước cách mạng tháng tám. Những xung độ giai cấp, những mâu
thuẫn trong lòng xã hội ở Chí Phèo tuy không sôi sục như ở Tắt
Đèn, nhưng đó là bầu không khí u ám có tính tia chớp lóe lên báo
hiệu trước cơn bão đang về. Các kết cục của Chí cũng cho thấy
khi người nông dân khốn khổ bị đẩy tới chỗ cùng thì có thể trở
nên đáng sợ như thế nào. Từ hình tượng nhân vật Chí Phèo, nhà
văn đã cảm thấy tính khốc liệt của mối xung đột giai cấp ở nông
thôn, không có gì có thể xoa dịu. Càng nén xuống thì càng dễ
bùng nổ, và khi nó nổ bùng thì thật đáng sợ cho bọn thống trị.
Tính điển hình của hình tượng nhân vật Chí Phèo còn ở điểm “từ
sự bóc lột của Bá Kiến với Chí Phèo mở rộng ra là sự tước đọat, tra
tấn của bè lũ thống trị lên những con người thấp cổ, bé họng “kêu
trời không thấu, kêu đất không thương”. Nam Cao đã sắp đặt tất
cả để một khi một người vùng lên thì tất cả sẽ cùng lên theo đó.


Tác phẩm “Chí Phèo” đã trở thành “đệ nhất kiệt tác”, “bó đuốc” đi
đầu của làng văn học hiện thực không chỉ nhờ nội dung, tư tưởng
nhân sinh của nó mà còn nhờ các đóng góp của nghệ thuật.
Nam Cao đã thành công về mặt xây dựng nhân vật, đặc biệt là

nhân vật mang tính điển hình, sắc nét, vừa có ý nghĩa tiêu biểu
vừa có cả tính độc đáo, gây ấn tượng mạnh. Đặc biệt thành công
ở nghệ thuật miêu tả và phân tích tâm lí nhân vật. Một phong
cách nghệ thuật rất riêng của Nam Cao đó là chủ tâm tự nhưng
vẫn rất logic, chặt chẽ. Kết cấu vòng tròn thể hiện tính quy luật về
hiện tượng Chí Phèo, khiến ý nghĩa của tác phẩm thêm sâu sắc,
hấp dẫn, nhiều tình tiết bất ngờ gay cấn, kịch tính. Ngôn ngữ sống
động, gần gũi. Giọng điệu, cách trần thuật biến hóa có sự đan xen
lẫn nhau. Cả hai mặt nội dung và nghệ thuật đều rất hoàn hảo,
điều này tạo nên một tác phẩm có một không hai trong kho tàng
văn học Việt Nam. Nam Cao xứng đáng là một trong năm tác giả
đã bước đi trên đài danh vọng được mọi người yêu kính và ghi
nhớ. Cho tới tận bây giờ, câu nói “Ai cho tao lương thiện” vẫn ám
ảnh người đọc bởi lẽ thống thiết, bi ai, đầy day dứt và chua xót.
Có lẽ nếu ai đã từng đọc “Chí Phèo” vẫn suốt đời sẽ không bao giờ
quên một anh Chí Phèo say khướt vừa đi, vừa chửi cũng như sẽ
không thể quên một hình tượng nhân vật làm chấn động cả giới
văn học một thời.
Khi nhắc tới lối văn chương luôn khát khao hướng tới chân-thiện-mĩ,
người ta thường nhắc tới Nguyễn Tuân- một nghệ sĩ suốt đời đi tìm
cái đẹp. Ông được đánh giá là một trong những cây bút tài hoa nhất
của nền văn học Việt Nam hiện đại.
Khi nhắc tới lối văn chương luôn khát khao hướng tới chân-thiện-mĩ, người ta
thường nhắc tới Nguyễn Tuân- một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông được
đánh giá là một trong những cây bút tài hoa nhất của nền văn học Việt Nam
hiện đại. Trong các sáng tác của Nguyễn Tuân, các nhân vật thường được
miêu tả, nhìn nhận như một nghệ sĩ. Và tác phẩm “Chữ người tử tù” cũng
được xây dựng bằng cách nhìn nhận như vậy. Bên cạnh đó, nhà văn đã khéo
léo sáng tạo lên một tình huống truyện vô cùng độc đáo. Đó là cảnh cho chữ
trong nhà giam- là phần đặc sắc nhất của thiên truyện này “một cảnh tượng

xưa nay chưa từng có”.
Đoạn cho chữ nằm ở phần cuối tác phẩm ở vị trí này tình huống truyện được
đẩy lên đến đỉnh điểm vì viên quản ngục bỗng nhận được công văn về việc
xử tử những tên phản loạn, trong đó có Huấn Cao. Do vậy cảnh cho chữ có ý
nghĩa cởi nút, giải tỏa những băn khoăn, chờ đợi nơi người đọc, từ đó toát lên
những giá trị lớn lao của tác phẩm.
Sau khi nhận được công văn, viên quản ngục đã giãi bày tâm sự của mình với
thầy thơ lại. Nghe xong truyện, thầy thơ lại đã chạy xuống buồng giam Huấn
Cao để kể rõ nỗi lòng viên quản ngục. Và đêm hôm đó, trong một buồng tối


chật hẹp với ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu, “ một cảnh tượng
xưa nay chưa từng có” đang diễn ra. Thông thường để sáng tạo nghệ thuật
người ta thường tìm đến những nơi có không gian đẹp, thoáng đãng, yên
tĩnh. Nhưng trong một không gian chứa đầy bóng tối, nhơ bẩn chốn ngục tù
thì việc sáng tạo nghệ thuật vẫn xảy ra. Thời gian ở đây cũng gợi cho ta tình
cảnh của người tử tù. Đây có lẽ là đêm cuối của người tử tù-người cho chữ và
cũng chính là giờ phút cuối cùng của Huấn Cao. Và trong hoàn cảnh ấy thì “
một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng” vẫn ung dung, đĩnh đạc “dậm
tô nét chữ trên tấm lụa trăng tinh”. Trong khi ấy, viên quản ngục và thầy thơ
lại thì khúm lúm chuyển động.ở đây cho thấy dường như trật tự xã hội đang
bị đảo lộn. Viên quản ngục đáng nhẽ phải hô hào , răn đe kẻ tù tội. Thế
nhưng trong cảnh tượng này thì tù nhân lại trở thành người răn dạy, ban phát
cái đẹp.
Đây quả thực là một cuộc gặp gỡ xưa nay chưa từng có giữa Huấn Cao-người
có tài viết chữ nhanh , đẹp và viên quản ngục, thầy thơ lại-những người thích
chơi chữ. Họ đã gặp nhau trong hoàn cảnh thật đặc biệt: một bên là kẻ phản
nghịch phải lĩnh án tử hình( Huấn Cao) và một bên là những người thực thi
pháp luật. Trên bình diện xã hội, họ ở hai phía đối lập nhau nhưng xét trên
bình diện nghệ thuật họ lại là tri âm, tri kỉ của nhau. Vì thế mà thật là chua

xót vì đây là lần đầu tiên nhưng cũng là lần cuối cùng ba con người ấy gặp
nhau. Hơn thế nữa, họ gặp nhau với con người thật, ước muốn thật của mình.
Trong đoạn văn, nhà văn đã sử dụng sự tương phản giữa ánh sáng và bóng
tối làm câu chuyện cũng vận động theo sự vận động của ánh sáng và bóng
tối. Cái hỗn độn, xô bồ của nhà giam với cái thanh khiết của nền lụa trắng và
những nét chữ đẹp đẽ. Nhà văn đã làm nổi bật hình ảnh của Huấn Cao, tô
đậm sự vươn lên thắng thế của ánh sáng so với bóng tối, cái đẹp so với cái
xấu và cái thiện so với cái ác. Vào lúc ấy, từ một quan hệ đối nghịch kì lạ:
ngọn lửa của chính nghĩa bùng cháy ở chốn ngục tù tối tăm, cái đẹp được
sáng tạo giữa chốn hôi hám, nhơ bẩn… ở đây, Nguyễn Tuân đã nêu bật chủ
đề của tác phẩm: cái đẹp chiến thắng cái xấu xa, thiên lương chiến thắng tội
ác. Đó là sự tôn vinh cái đẹp, cái thiện đầy ấn tượng.
Sau khi cho chữ xong, Huấn Cao đã khuyên quản ngục từ bỏ chốn ngục tù
nhơ bẩn: “đổi chỗ ở” để có thể tiếp tục sở nguyện cao ý. Muốn chơi chữ phải
giữ được thiên lương. Trong môi trường của cái ác, cái đẹp khó có thể bền
vững. Cái đẹp có thể nảy sinh từ chốn tối tăm, nhơ bẩn, từ môi trường của cái
ác( cho chữ trong tù) nhưng không thể chung sống với cái ác. Nguyễn Tuân
nhắc đến thú chơi chữ là môn nghệ thuật đòi hỏi sự cảm nhận không chỉ
bằng thị giác mà còn cảm nhận bằng tâm hồn. Người ta thưởng thức chữ
không mấy ai thấy, cảm nhận mùi thơm của mực. Hãy biết tìm trong mực
trong chữ hương vị của thiên lương. Cái gốc của chữ chính là cái thiện và chơi
chữ chính là thể hiện cách sống có văn hóa.
Trước lời khuyên của người tử tù, viên quản nguc xúc động “ vái người tù một
vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng nghẹn ngào: kẻ
mê muội này xin bái lĩnh”. Bằng sức mạnh của một nhân cách cao cả và tài
năng xuất chúng, người tử tù đã hướng quản ngục đến một cuộc sống của cái
thiện. Và trên con đường đến với cái chết Huấn Cao gieo mầm cuộc sống cho
những người lầm đường. Trong khung cảnh đen tối của tù ngục, hình tượng
Huấn Cao bỗng trở lên cao lớn là thường, vượt lên trên những cái dung tục
thấp hèn của thế giới xung quanh. Đồng thời thể hiện một niềm tin vững



chắc của con người: trong bất kì hoàn cảnh nào con người vẫn luôn khao
khát hướng tới chân- thiện-mĩ.
Có ý kiến cho rằng: Nguyễn Tuân là nhà văn duy mĩ, tức là điều khiến ông
quan tâm chỉ là cái đẹp, là nghệ thuật. Nhưng qua truyện ngắn “ Chữ người
tử tù” mà đặc biệt là cảnh cho chữ ta càng thấy rằng nhận xét trên là hời hợt,
thiếu chính xác. Đúng là trong truyện ngắn này, Nguyễn Tuân ca ngợi cái đẹp
nhưng cái đẹp bao giờ cũng gắn với cái thiện, thiên lương con người. Quan
điểm này đã bác bỏ định kiến về nghệ thuật trước cách mạng, Nguyễn Tuân
là một nhà văn có tư tưởng duy mĩ, theo quan điểm nghệ thuật vị nghệ
thuật. Bên cạnh đó, truyện còn ca ngời viên quản ngục và thầy thơ lại là
những con người tuy sống trong môi trường độc ác xấu xa nhưng vẫn là
những “thanh âm trong trẻo” biết hướng tới cái thiện. Qua đó còn thể hiện
tấm lòng yêu nước, căm ghét bọn thống trị đương thời và thái độ trân trọng
đối với những người có “thiên lương” trên cơ sở đạo lí truyền thống của nhà
văn.
“Chữ người tử tù” là bài ca bi tráng, bất diệt về thiên lương, tài năng và nhân
cách cao cả của con người. Hành động cho chữ của Huấn Cao, những dong
chữ cuối cung của đời người có ý nghĩa truyền lại cái tài hoa trong sáng cho
kẻ tri âm, tri kỉ hôm nay và mai sau. Nếu không có sự truyền lại này cái đẹp
sẽ mai một. Đó cũng là tấm lòng muốn giữ gìn cái đẹp cho đời.
Bằng nhịp điệu chậm rãi, câu văn giàu hình ảnh gợi liên tưởng đến một đoạn
phim quay chậm. Từng hình ảnh, từng động tác dần hiện lên dưới ngòi bút
đậm chất điện ảnh của Nguyễn Tuân: một buồng tối chật hẹp…hình ảnh con
người “ba cái đầu đang chăm chú trên một tấm lụa trắng tinh”, hình ảnh
người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang viết chữ. Trình tự miêu tả cũng
thể hiện tư tưởng một cách rõ nét: từ bóng tối đến ánh sáng, từ hôi hám nhơ
bẩn đến cái đẹp. Ngôn ngữ, hình ảnh cổ kính cũng tạo không khí cho tác
phẩm. Ngôn ngữ sử dụng nhiều từ hán việt để miêu tả đối tượng là thú chơi

chữ. Tác giả đã “phục chế” cái cổ xưa bằng kĩ thuật hiện đại như bút pháp tả
thực, phân tích tâm lí nhân vật ( văn học cổ nói chung không tả thực và phân
tích tâm lí nhân vật)
Cảnh cho chữ trong “ Chữ người tử tù” đã kết tinh tài năng , sáng tạo và tư
tưởng độc đáo của Nguyễn Tuân. Tác phẩm đã nói lên lòng ngưỡng vọng và
tâm sự nuối tiếc đối với những con người có tài hoa, nghĩa khí và nhân cách
cao thượng. Đan xen vào đó tác giả cũng kín đao bày tỏ cái đau xót chung
cho cái đẹp chân chính, đích thực đang bị hủy hoại. Tác phẩm góp một tiếng
nói đầy tính nhân bản: dù cuộc đờicó đen tối vẫn còn có những tấm lòng tỏa
sáng.


Anh ( chị ) hãy viết một đoạn văn trình bày cảm nghĩ của
mình về nhân vật Huấn Cao trong truyện Chữ nguồ tử tù Ngữ văn 11 tập 1
Người đăng: Lê Hoà - Ngày: 16/10/2017
Đề bài:
Luyện tập: Trang 115 sgk ngữ văn 11 tập 1
Anh ( chị ) hãy viết một đoạn văn trình bày cảm nghĩ của mình về
nhân vật Huấn Cao trong truyện Chữ người tử tù

Hướng dẫn giải:
Khi nhắc tới lối văn chương luôn khát khao hướng tới chân-thiệnmĩ, người ta thường nhắc tới Nguyễn Tuân- một nghệ sĩ suốt đời đi
tìm cái đẹp. Ông được đánh giá là một trong những cây bút tài
hoa nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Trong các sáng tác
của Nguyễn Tuân, các nhân vật thường được miêu tả, nhìn nhận
như một nghệ sĩ . Và tác phẩm “Chữ người tử tù” cũng được xây
dựng bằng cách nhìn nhận như vậy. Có lẽ, ai đọc tác phẩm "Chữ
người tử tù" đều rung động cảm phục trước vẻ đẹp của người anh
hùng Huấn Cao.
Nhà văn Nguyễn Tuân đã lấy nguyên mẫu hình tượng Cao Bá

Quát làm nguồn cảm hứng sáng tạo nhân vật Huấn Cao. Họ Cao
là một lãnh tụ nông dân chống triều Nguyễn năm 1854. Huấn Cao
được lấy từ hình tượng này với tài năng, nhân cách sáng ngời và
rất đỗi tài hoa.Vì thế, trong truyện Huấn Cao một kẻ cầm đầu bọn
phản loạn dám đứng lên chống lại triều đình.Khi bị bắt giam ở nhà
tù tỉnh Sơn, vì cảm mến trước tấm lòng viên quản ngục ông đã
đồng ý cho chữ. Và đó là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã
xảy ra . Huấn Cao là người cho chữ nhưng lại là tử tù chờ ngày ra
pháp trường, viên quản ngục là người xin chữ nhưng đồng thời lại
là người quản lí trại giam nơi giam giữ Huấn Cao. Cuộc gặp gỡ đã
tạo nên tình thế vô cùng kịch tính, làm nổi bật lên vẻ đẹp rạng
ngời của nhân vật Huấn Cao.
Vẻ đẹp của Huấn Cao trước hết là vẻ đẹp của con người nghệ sĩ
tài hoa,Huấn Cao là nghệ sĩ trong nghệ thuật thư pháp. Ông nổi


tiếng khắp vùng tỉnh Sơn về tài viết chữ nhanh và đẹp, nó nói lên
cái hoài bão tung hoành của một đời con người. Chữ Huấn Cao trở
thành niềm đam mê, khao khát của quản ngục. Viên quản bất
chấp sự nguy hiểm đến tính mạng, kiên trì, công phu, dũng cảm
xin bằng được chữ của Huấn Cao. Những nét chữ vuông vắn, tươi
tắn mà Huấn Cao cho quản ngục trong nhà lao có thể đẩy lùi bóng
tối, chiến thắng sự tàn bạo, xấu xa.
Thứ hai, đó là vẻ đẹp thể hiện qua khí phách hiên ngang.Ở ngoài
đời, Huấn Cao là người đứng đầu bọn phản nghịch, dám hiên
ngang chống lại triều đình.Trong những ngày ở nhà lao, Huấn Cao
vẫn giữ được phong thái hiên ngang, chính trực, thản nhiên khi
nghe tin mình bị ra pháp trường và đường hoàng, lẫm liệt dậm tô
nét chữ trên phiến lụa óng.
Không những thế ông còn là một người có thiên lương trong sáng

bởi sinh thời, Huấn Cao không bao giờ ép mình cho chữ vì vàng
ngọc hay quyền thế. Khi hiểu ra tấm lòng biệt nhỡn liên tài của
quản ngục, Huấn Cao xúc động, vui lòng cho chữ và nói những lời
khuyên với quản ngục như một người tri âm, ông còn thấy suýt
nữa để mất tấm lòng trong thiên hạ.
Như vây, với cách giới thiệu gián tiếp, lối xây dựng nhân vật bằng
bút pháp lý tưởng hóa cảm hứng lãng mạn Nguyễn Tuân đã khắc
họa thành công vẻ đẹp của Huấn Cao.



×