TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM
KHOA NGỮ VĂN
MÔN: VĂN HỌC VIỆT NAM CUỐI
TỪ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẾN NĂM 1930
ĐỀ TÀI: TƯ TƯỞNG YÊU NƯỚC TRONG THƠ VĂN TẢN
ĐÀ
GVHD: Lê Văn Lực
TP.HCM, ngày 16 tháng 12 năm 2015
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM
KHOA NGỮ VĂN
MÔN: VĂN HỌC VIỆT NAM CUỐI
TỪ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẾN NĂM 1930
ĐỀ TÀI: TƯ TƯỞNG YÊU NƯỚC TRONG THƠ VĂN TẢN
ĐÀ
GVHD: Lê Văn Lực
DANH SÁCH SINH VIÊN THỰC HIỆN
1. Lê Thị Tố Huyên
K39.606.009
2. Phạm Thành Lâm
K39.606.012
3. Vũ Minh Quân
K39.606.026
4. Nguyễn Văn Thịnh
K39.606.034
5. Phạm Thị Thương (NT) K39.606.037
6. Lê Dương Thành Trí
K39.606.042
7. Nguyễn Phan Hồng Ý
K39.606.048
1
TP.HCM, ngày 16 tháng 12 năm 2015
MỤC LỤC
MỤC LỤC....................................................................................................- 2 NỘI DUNG...................................................................................................- 3 I/ Vài nét về Tản Đà......................................................................................- 3 II/ Tư tưởng yêu nước trong thơ văn Tản Đà...............................................- 4 1. Tình yêu quê hương, yêu thiên nhiên mọi miền đất nước.....................- 4 2. Niềm tự hào về truyền thống văn hóa – lịch sử của dân tộc.................- 6 3. Khâm phục, ngưỡng mộ những sĩ phu yêu nước và phê phán những kẻ
bán nước, hại dân......................................................................................- 8 4. Xót thương, lo lắng trước cảnh nước mất, nhân dân lầm than............- 11 5. Nỗi bất lực, cô đơn trước tình cảnh đất nước......................................- 13 6. Thề nguyền, khẳng định tình cảm với nước non.................................- 15 7. Kêu gọi nhân dân đoàn kết, lạc quan về tương lai đất nước...............- 19 8. Ước mong cải cách xã hội...................................................................- 20 III/ Nghệ thuật............................................................................................- 23 1. Ngôn ngữ.............................................................................................- 23 2. Hình ảnh..............................................................................................- 23 3. Thể loại................................................................................................- 23 4. Chất ca dao dân ca...............................................................................- 24 TỔNG KẾT................................................................................................- 26 TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................- 28 -
2
NỘI DUNG
I/ Vài nét về Tản Đà
Tản Đà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, sinh ngày 8 tháng 5 năm 1889 ở
làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây. Ông sinh trưởng trong một
gia đình dòng dõi khoa bảng đời Lê. Khi nhà Lê mất ngôi, tổ tiên ông đã thề
không ra phục vụ triều đình khác. Bố ông là Nguyễn Danh Kế đã bỏ lời thề, đi
thi đỗ và làm quan đến Án sát, Ngự sử. Anh cả là Nguyễn Tái Tích đỗ phó
bảng, làm đốc học, sau tham gia ban Tu thư, làm hiệu trưởng trường Quy thức
là những tổ chức do Pháp lập ra để đối phó với phong trào Đông Kinh nghĩa
thục. Mẹ ông là một người cô đầu có sắc đẹp, lấy lẽ Nguyễn Danh Kế lúc ông
làm tri phủ Lý Nhân, nên thường gọi là bà Phủ Ba. Bà là người hát hay và có
tài làm thơ Nôm. Gia đình Nguyễn Khắc Hiếu là một gia đình nhà nho tiêu
biểu cho một thái độ chính trị lúc đó. Từ lúc nhỏ Nguyễn Khắc hiếu đã theo
cha rồi anh, sống nơi họ làm quan ở Nam Định, Sơn Tây, Vĩnh Yên. Ông cũng
là người học trò đầu tiên của trường Quy Thức.
Từ năm 1913 Tản Đà bắt đầu viết văn, và đến năm 1915 thì ông bắt đầu
công bố tác phẩm trên Đông Dương tạp chí.
Từ năm 1916 đến năm 1920, Tản Đà lần lượt cho xuất bản Khối tình con
I (1916), Khối tình con II (1918), Giấc mộng con I (1917), Khối tình bản
chính, Khối tình bản phụ (1918), Đài gương, Đàn bà Tàu, Thần tiền, Lên sáu
(1919), Lên sáu (1919), Lên tám (1920). Cũng trong thời gian đó Tản Đà có
xuống Hải phòng viết tuồng cho rạp Nguyễn Đình Kao, rồi lại lên Hà Nội viết
cho rạp Thắng Ý, Sán Nhiên Đài. Những vở tuồng ông soạn lúc đó là Tây Thi,
Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai.
Năm 1920, Tản Đà đi với nhà tư sản Bùi Huy Tín vào chơi Huế, Đà
Nẵng. Lúc về ông viết Thề non nước (đến năm 1922 được xuất bản trong Tản
Đà tùng văn).
Năm 1921, Bắc kì Công thương ái hữu Hội thành lập, ra báo Hữu thanh
để làm cơ quan ngôn luận. Tản Đà được mời làm chủ bút. Báo ra được 12 số
thì ông xin từ chức về quê ở Sơn Tây. Năm 1922 ông ra Hà Nội lập Tản Đà
thư điếm, sau hợp với Nghiêm hàm ấn quán thành Tản Đà tu thư cục. Từ 1921
đến 1925 Tản Đà cho xuất bản: Còn chơi (1921), Tản Đà tùng văn (1922),
Truyện thế gian I và II (1923), Trần gian tri kỷ, Quốc sử huấn mông (1924),
nhuận sắc Truyện tỳ bà (tuồng) của Đoàn Tự Thuật và dịch sách Đại học
(1922), Kinh thi (1924).
3
Ở giữa quãng 1925 – 1926 có một biến chuyển lớn trong tư tưởng Tản
Đà. Sau phong trào đòi thả Phan Bội Châu và để tang Phan Châu Trinh,
phong trào chính trị yêu nước lại phát triển rầm rộ khắp nước. Tản Đà chuyển
sang viết báo, muốn lập một sự nghiệp văn học “có bóng mây hơi nước đến
dân xã”. Từ 1926 đến 1933, tất cả hoạt động của Tản Đà gửi gắm vào việc
xuất bản, tái bản An Nam tạp chí. Số phận tờ báo rất long đong: nhiều lần vì
thiếu tiền, nó phải tự đình bản. Từ Hà Nội, báo phải chuyển xuống Nam Định,
vào Vinh, nhưng cúng không sống nổi, phải tái bản, đình bản nhiều lần cho
đến năm 1933 thì đình bản hẳn. Trong thời gian đó, năm 1928, Tản Đà có ý
cho xuất bản An Nam tạp chí ở Sài Gòn. Ông vào Nam Kì nhưng lại không
xin được giấy phép. Tản Đà ở lại cùng Ngô Tất Tố viết phụ trương văn
chương cho Đông Pháp thời báo một thời gian ngắn.
Từ năm 1926 đến 1933, Tản Đà cho xuất bản Giấc mộng con II (1932),
Giấc mộng lớn II (1932), Khối tình con III (1933) và in lại những tác phẩm cũ
dưới những tên mới. Chính Tản Đà tự nói: “Một tập thơ ca riêng từ đây
(1925) không có”.
Sau khi An Nam tạp chí đình bản, Tản Đà phải xoay sang làm trợ bút cho
Văn học tạp chí. Ít lâu sau ông về quê ở Sơn Tây rồi ra Quảng Yên, chẳng
được bao lâu lại về ở Hà Đông.
Cả giai đoạn cuối đời này Tản Đà không viết được bao nhiêu. Năm 1934,
ông cho in Tản Đà xuân sắc, nhưng không được độc giả chú ý như trước. Vì
sinh kế ông phải quảng cáo chữa văn, dạy quốc văn, xem số Hà Lạc… Cũng
trong thời gian này ông dịch thơ Đường cho báo Ngày nay, dịch Liêu trai chí
dị, chú bản Truyện Kiều…
Tản Đà mất ngày 7 tháng 6 năm 1939 ở ngã tư sở trong cảnh nghèo nàn.
II/ Tư tưởng yêu nước trong thơ văn Tản Đà
1. Tình yêu quê hương, yêu thiên nhiên mọi miền đất nước
Từ xa xưa, làng quê đã trở thành dấu ấn sâu đậm về đất nước, về dân tộc.
Không gian làng quê là một không gian gần gũi thân thuộc, nơi đó có hoa sen,
bóng hạc, cánh diều, có tiếng chim hót vào lúc ban mai, có ruộng lúa, nương
dâu, con đò, có dòng sông bến nước, và ở đó còn có hội hè, lễ tết và các
phong tục tập quán thuần chất Việt Nam. Trong thơ Tản Đà, làng quê Việt
Nam vẫn được cảm nhận từ những dáng vẻ cổ truyền của nó. Nhưng đôi khi,
cảnh sắc quê hương được cảm nhận trong dáng vẻ thi vị hóa bằng tượng
4
trưng, ước lệ. Kí ức về dòng sông, ngọn núi quê hương cũng trở đi trở lại
trong thơ Tản Đà:
Con sông xuân nước chảy lờ đờ
Thuyền trôi lững đững trăng tờ mờ soi
(Đò đưa)
Từ bao đời nay, “núi sông” hay “non nước” đã trở thành biểu tượng
thiêng liêng về quê hương, về tổ quốc. Trong thơ Tản Đà, hình ảnh “non
nước” cứ trở đi trở lại, xuất hiện dày đặc, trùng điệp tầng tầng lớp lớp, tạo
thành hình tượng “non nước”, biểu trưng cho đất nước, ý thức tinh thần dân
tộc.
Trong thơ của ông, mỗi miền quê là một phần của Tổ quốc:
Ai xui ta nhớ Hàm Rồng
Muốn trông chẳng thấy cho lòng khôn khuây
Từ ta trở lại Sơn Tây
Con đường Nam, Bắc ít ngày vãng lai
Sông cầu còn đó chưa phai
Non xanh còn đổi, sông dài còn sâu.
(Nhớ cảnh cầu Hàm Rồng)
Thi sĩ say đắm thưởng thức những sản vật của những làng quê mà ông đã
từng đi qua. Với Tản Đà, ăn uống đã trở thành một thứ nghệ thuật:
Hà tươi cửa biển Tu – Ran
Long Xuyên chén mắm, Nghệ An chấm cà
Sài Gòn nhớ vị cá tra
Cái xe song mã, chén trà nhất liên
Đa tình con mắt Phú Yên
Hữu tình rau bí ông quyền Thuận An
(Thú ăn chơi)
Tình quê ở Tản Đà nồng nàn cả hương vị đất nước, nó bốc lên từ cảnh
vật, từ con người mà nhà thơ mô tả. Từ ngọn rau bí Thuận An, đến ngọn rau
sắn chùa Hương, từ chén cà xứ Nghệ đến đọi mắm Long Xuyên, cái bánh
chưng xanh Mán Sừng, từ con sò huyết, con lợn rừng, từ “nắm nem thanh
đóm”, từ chị làng chài, ông hát xẩm,… đều tỏa đượm những màu sắc tình ý
thực đậm đà quyến rũ trong văn thơ ông. Nhưng không gì mơn man đẹp đẽ
cho bằng cảnh quê nhà của thi sĩ, phát ra từ con cá nhảy và ngọn sóng gợn
sông Đà man mác, từ cái diều bay và áng mây trùm non Tản xa xa. Cái nỗi
5
mê luyến mãnh liệt ấy, đã khiến cho nhà thơ đã lấy sông kia non nọ làm tên
hiệu của mình trong những lời vọng gửi muôn phương:
Ta nhớ ai mà mãi đứng đây
Nước dợn sông Đà con cá nhảy
Mây trùm non Tản cái diều bay
Nỗi trìu mến gắn bó cùng đất nước quê hương này trong thơ ông thường vẫn
nghe như những lời yêu thương tha thiết của một người tình quân cũ nhớ
nhung:
Năm xưa chơi ở Dương Quỳ,
Trắng phau ngựa trắng, xanh rì rừng xanh.
Hàm Rồng nay lại qua Thanh,
Dưới cầu nước biếc in hình thi nhân.
Người đâu sương tuyết phong trần,
Non xanh nước biết bao lần vãng lai.
(Qua cầu Hàm Rồng cảm tác)
2. Niềm tự hào về truyền thống văn hóa – lịch sử của dân tộc
Trong thơ Tản Đà in đậm dấu ấn những truyền thuyết lịch sử của dân tộc
như Lạc Long Quân – Âu Cơ, Mỵ Châu – Trọng Thủy:
Một đôi kẻ Việt người Tần
Nửa phần ân ái, nửa phần oán thương
Vuốt rùa chàng đổi móng
Lông ngỗng thiếp đưa đường
Thề nguyền phu phụ
Lòng nhi nữ
Việc quân vương
Duyên nọ tình kia dở dở dang
Nệm gấm vó câu
Trăm năm giọt lệ
Ngọc trai nước giếng
Ngàn thu khói nhang
(Mỵ Châu – Trọng Thủy)
Ông tự hào về nguồn gốc cao quý và truyền thống anh hùng của dân tộc:
Dân số hai nhăm triệu, về giống da vàng
Chi Hồng Bàng, họ dòng Hùng Vương
Học cho trường, truyện nhà làm gương
6
Xưa Văn Lang trường trị sau trước Chu, Đường
Ấy là đầu về đời hồng hoang
Nhiều truyện còn phi thường, mặt anh hường, anh hường
…
Trương thị quần hoa
Mê Linh tướng tài
Đời Đông Hán, Hán quan vô loài
Riêng thù chị, lận bận lòng ai
Núi sông thề nguyền
Yên ngựa cành mai;
Cơ đồ bá vương, gái tài trai
Sông Bạch Đằng giang
Giồng cọc đứng là Ngô Quyền
Hoằng Thao chìm thuyền…
(Nói về liệt đại anh hùng nước ta)
Những giá trị của Truyện Kiều cũng phảng phất trong thơ Nguyễn Khắc
Hiếu:
Tiếng sấm ân tình bốn mặt ran
Tướng quân chi tiếc cánh hoa tàn
Đôi hàng nước mắt, đôi làn sóng
Nửa đám ma chồng, nửa tiệc quan
Tổng đốc ví thương người bạc phận
Tiền Đường chưa chắc mả hồng nhan
Trơ trơ nắm đất bờ sông nọ
Hồn có nghe chăng mấy giọng đàn?
(Thúy Kiều hầu rượu Hồ Tôn Hiến)
Tản Đà tự hào về truyền thống vẻ vang của dân tộc mà ông đã nhiều lần
nhắc tới và tính thống nhất của đất nước là dựa trên cơ sở truyền thống ấy:
Ngã Việt tự thiên niên cố quốc
Bức dư đồ tự Bắc mở vào Nam
Quê hương Sơn Tây và Ba Vì của Tản Đà là đất có truyền thống chống
xâm lược, chống áp bức dân tộc từ lâu đời và tới khi thực dân Pháp xâm lược
nước ta, truyền thống ấy đã được phát huy để viêt lên những trang sử bất
khuất quật cường góp vào lịch sử chống xâm lược của dân tộc.
Sông dài, sóng cả, con thuyền ngược,
Vua tôi theo trót với sơn hà,
7
Nghìn thu thơm để nước Nam Việt,
Mười ba năm nối vận Đông A.
(Đời hậu Trần)
Ngày xuân chúc nước mừng dân,
Ba kỳ Nam, Bắc mười phân phú cường.
…
Hồng Lạc nhi tôn thiên vị tuyệt,
Việt Thường hoa thảo nhất câu tân.
(Ngày xuân chúc quốc dân)
Hồng Lạc nhi tôn kim hưu chủng,
Bất tri thử hậu cánh hà như.
(Bài hát chúc báo “sống”)
3. Khâm phục, ngưỡng mộ những sĩ phu yêu nước và phê phán những kẻ
bán nước, hại dân
Cùng trong thế hệ Tản Đà, sinh trước hoặc sau một vài thập niên, có
những trang anh hùng kiệt sĩ, như Phan Bội Châu (1867), Nguyễn Thượng
Hiền (1868), Phan Chu Trinh (1872), Huỳnh Thúc Kháng (1875), Nguyễn
Đình Chiểu (1898),… Tấm lòng yêu nước thương dân của các nhà chí sĩ đó
như một chất xúc tác ngấm ngầm nhưng cực kỳ mạnh mẽ lan tràn trong tâm
hồn người dân Việt vong quốc thời bấy giờ. Tản Đà chia người yêu nước ra
làm ba hạng: “ái quốc bằng đạo đức”, “ái quốc bằng nhiệt thành” và “lấy
khách khí ái quốc”. Những người yêu nước bằng đạo đức “thấy nước đáng
yêu thì đem lòng thành thật mà yêu”. Họ “ung dung trầm nghị, không sốt sắng
không ngã lòng” “không lấy quá khích là đáng quý”. Người yêu bằng nhiệt
thành do có phong trào được kích thích mà “sốt sắng hô hào, bôn tẩu, không
hồ nghi thoái chí”, “ không vì khuất chiết mà thay lòng đổi dạ”. Họ không coi
ung dung là đáng quý, nói cách khác đây là những nhà hoạt động cứu nước,
không tán thưởng những kẻ yêu nước bằng đạo đức, bằng tấm lòng. Hạng lấy
khách khí mà yêu nước chỉ theo phong trào “khi vui thì vỗ tay vào”. Tản Đà
kính trọng cả hai hạng người trên. Hạng người thứ ba “tuy so với hai hạng
trên thì kém xa,nhưng cũng đáng quý”. Tuy vậy ông cho rằng “hai hạng trên ở
nước ta có, nhưng ít”. Chắc chắn Tản Đà tự coi mình là người yêu nước, yêu
nước ở hạng cao nhất: yêu nước bằng đạo đức. Nhưng những người yêu nước
lúc đó, nhất là hạng người yêu nước bằng nhiệt thành, hình như có ai đó có lời
chê trách bàn tán. Nhà thơ viết bài Ếch mà để trả lời. Trong bài thơ, mặt đối
8
mặt với những người xuất dương cứu nước, không biết ông xếp vào loại đạo
đức hay nhiệt thành, nhà thơ rất ngưỡng mộ:
Phượng kêu trái núi bên tê,
Hồng bay bốn bể, nhạn về nơi nao?
Cánh bằng đập ngọn phù dao,
Đầm xa tiếng hạc lên cao vọng trời.
(Ếch mà)
Mừng cho ai nấy có tư cách,
Trước biết ái quốc, sau hợp quần.
(Thơ mừng tết)
Nhưng đối với người chỉ “hô hào”, “bôn tẩu” hay “phiến động”, “dã
man” thì ếch nói một cách khinh bạc: không chỉ “Chàng ve khóc đói ăn
sương” mà cả “cô oanh học nói”, “chú khướu nỏ mồm” cũng đều làm những
việc vô ích. Ngay cả đến con cuốc, thường được dùng làm biểu tượng cho
lòng đau thương của người mất nước, ếch cũng nói với giọng khinh miệt
“Tiếc xuân cuốc đã gọi hè ai thương?”. Về con cuốc, trong bài Mắng con
cuốc tiếc xuân, Tản Đà còn nói cay độc:
Sao cứ lo co trong bụi rậm,
Lại còn eo óc với trời cao?
…
Đen đủi chẳng nên năn nỉ phận,
Mặc cơn mây sớm, hạt mưa chiều.
Tản Đà đã từng than thở: “buồn cho ai vô trạng với quốc dân chỉ đoái
trông con cháu Rồng Tiên trên mặt nước…” (Giấc mộng lớn)
Bên cạnh tiếng ve, tiếng oanh, tiếng cuốc còn có cả tiếng “cú cầm canh”
tiếng “vạc ăn đêm” và cả những tiếng:
To mồm xơi cắp là anh quạ đùng
Diều hâu rít lưỡi giữa đồng,
Tắc kè nghiến lợi, thạch sùng chép môi.
Gáy đâu? Gà mái nhà ai,
Mèo gào, gió hú, trên trời lợn kêu.
Trong cái hòa âm xô bồ đến điếc tai nhức óc đó chắc có tiếng những con
đã chê ếch “từ khi ra với đời chỉ ăn cho no lòi tù và, rồi phi nhảy hão vô ích
thì cứ ngồi giương mắt ra” (Lời tiểu dẫn của bài Ếch mà). Đáp lại lời chê
trách, ếch ung dung tự tin:
9
Ép mình rén bước ếch lui vào mà,
Ngồi mà ngắn bạn ao ta,
Bèo xưa nước cũ vẫn là có nhau.
Tản Đà còn cực lực công kích “những kẻ mượn hai chữ ái quốc để lừa
dối thiên hạ”. Trong những người đó có những kẻ phản bội “có tài trí đủ
đánh lừa thiên hạ”, “có sự tích đủ đánh lừa thiên hạ”. Ai cũng biết ông muốn
nói đến Phạm Quỳnh và Nguyễn Bá Trác khi ông kết luận bài viết “Tội ác xã
hội ngày nay không gì lớn hơn lợi dụng sự ái quốc”
Trong An Nam tạp chí Tản Đà lên tiếng công kích những “hạng người
vô ích cho xã hội”. Trước hết là những người “đương đồ” (quan lại, công
chức) hoặc là xuất thân khoa mục hoặc là học qua các trường Pháp. Bọn nó
chỉ biết lo cho bản thân và vợ con sung sướng, rồi cũng “biệt thự, sinh phần
lắm trò dơ dáng”. Thứ đến bọn “hưu phu, hưu tẩu” quan lại về hưu đội lốp ẩn
dật thanh cao “no cỗ rồi mới lầm khách”. Rồi đến “bọn khốn nạn kiếm ăn
theo bọn đương đồ, kiếm ăn quanh báo giới”, bọn “tự túc” (bàn quan, yên
thân), “trông vào tháng lương, chuyện ưu thời cũng có nghe, nghe để ngoài
tai, chuyện ái quốc cũng có nói, nói để đầu lưỡi”. Chưa kể bọn quái ác làm
hại đến xã hội ghê gớm (Mấy lời cảnh báo bạn thanh niên ANTC số 8). Tất cả
mấy hạng điều là những nhân vật thượng lưu của xã hội lúc đó. Trong An
Nam tạp chí số 9, dưới đầu đề Một cụ Phan mới, Tản Đà lên án tên tri phủ
Anh Sơn ăn hối lộ. Tên tri phủ ấy cũng họ Phan. Tản Đà viết “Nào cụ Phan
Bội Châu thì một lòng ưu ái, yêu nước thương dân, cụ Phan Tây Hồ thì hy
sinh thanh thế vì vận mệnh giang sơn chủng tộc”. Còn cụ Phan mới?
Thái Bình chưa dứt tiếng kêu oan,
Lại tiếng “kêu trời” ở Nghệ An.
Một phủ Anh Sơn trong mấy tháng,
Mà tay Phan tử lấy ba ngàn.
Cũng phường dối nước, quân ăn cắp,
Cũng lũ tàn dân, giống hại đàn.
Lạnh lẽo hơi sương tòa Tạp chí,
Lệ ai giàn giụa với giang san.
(Cảm đề)
Ông ướm hỏi Đào Trọng Vận, tên tuần vũ Vĩnh Yên vì ăn hối lộ ở Thái
Bình, nến bị đổi lên đó:
Đào mà đào được lên đào mãi
Mềm cứng bây giờ đất Vĩnh An?
10
Với Từ Đạm, một ông nghè, tham nhũng nhưng lại làm bộ cao nhã, khắc
thơ rồi lại đục đấu chân trên Non Nước, Tản Đà mỉa mai:
Quan lớn năm nay đục mấy vần,
Năm nay quan lớn đục hai chân.
Khen cho đá cũng già gan nhỉ,
Đứng mãi cho quan đục mấy lần.
(Ngàn năm non Thúy, ông Từ Đạm, ANTC số 1)
Thật có hay là mắc tiếng oan?
Kém năm trăm nữa đủ ba ngàn,
Hơi đồng đã sạch mồm ông lớn,
Mặt sắt còn bia miệng thế gian.
(Xem tiểu thuyết “Tờ chúc thư” cảm đề)
4. Xót thương, lo lắng trước cảnh nước mất, nhân dân lầm than
Non xanh xanh,
Nước xanh xanh, nước non như vẽ bức tranh tình!
Non nước tan tành,
Giọt lụy tràn năm canh!
Đêm năm canh,
Lụy năm canh,
Nỗi niềm non nước,
Đố ai quên cho đành!
(Bài hát của Tây Thi)
Biết bao lúc mới công vờn vẽ,
Sao đến bây giờ rách tả tơi?
Ấy trước ông cha mua để lại,
Mà sau con cháu lấy làm chơi!
(Vịnh bức dư đồ rách)
Ở vào khởi điểm của cuộc mất nước, toàn dân cúi đầu nhận chịu ách nô
lệ, bài thơ trên đây của Tản Đà, nghĩa đen mộc mạc chỉ là nỗi lòng cảm động
khi đứng nhìn tấm bản đồ bị rách nát, nhưng ý tại ngôn ngoại, cái tâm sự ẩn
dụ trong thơ lồ lộ quá rõ rệt, từng câu, từng chữ, là tiếng thở than vong quốc
thật não nùng ai oán, là lời thống thiết nhắn gọi lớp sĩ phư hãy đứng lên cứu
11
nguy Tổ quốc, hãy ra tay tài bồi mảnh giang sơn gấm vóc của Tổ tiên đang bị
nạn ngoại xâm.
Luân thường đổ nát, phong hóa suy,
Tiết nghĩa rẻ rúng, ân tình ly.
Vợ chồng kết tóc chưa khăng khít,
Nhân tình, nhân ngãi còn kể chi.
(Đề truyện Trần ai tri kỷ)
Trăm năm cuộc thế còn man mác,
Bốn bể thương ai luống lạnh lùng.
(Hủ nho lo mùa đông)
Lo vì tin nước đã lưng sông,
Đâu đó đê điều có vững không?
Con cháu Rồng Tiên đương đói dở,
Không hay Hà bá có thương cùng?
Lo vì xã hội thiếu tiền tiêu,
Một kẻ phong lưu chín kẻ nghèo.
Cái nỗi sinh nhai mà khốn khổ,
Con đường tiến hóa cố mà theo.
Lo vì phong hóa mỗi ngày suy,
Thánh giáo không ai kẻ độ trì.
Hằng sản đã không, tâm cũng mất,
Sĩ còn chưa trách, trách dân chi!
(Hủ nho lo việc đời)
Nghĩ thương ôi! Ai những người,
Trời làm tai vạ biết kêu ai.
Đói thời chịu đói, rét chịu rét,
Đầy vơi mặt nước, lệ đầy vơi.
…
Con bồ côi, tình thương ôi!
Trời làm tai vạ phải chia phôi.
Sinh con ai nỡ đang lòng bán,
Thương con nào biết lấy gì nuôi.
12
Lấy gì nuôi, lúc thiên tai.
Chẳng có ngô mà chẳng có khoai,
Miếng ăn chẳng có, con nhìn bố.
Nông nỗi như kia, đáng ngậm ngùi.
(Khuyên người giúp dân lụt)
Lo nước thương đời đêm chẳng ngủ
Vừng đông trông đã ngọn sào cao.
(Tháng ba không mưa)
Giang sơn còn nặng gánh tình,
Trời chưa cho nghỉ thời mình cứ đi.
Bao giờ trời bảo thôi đi,
Giang sơn cất cánh, ta thì nghỉ ngơi.
Nợ đời là thế ai ơi!
Khách tình nhắn nhủ cho đời biết qua.
Có ai là kẻ cùng nghe?
(Cảm tưởng về sự sống chết)
Ơn nhà nợ nước hai vai,
Nước nhà ai để riêng ai nặng nề.
(Trách người tình nhân không quen biết)
5. Nỗi bất lực, cô đơn trước tình cảnh đất nước
Một đặc điểm trong thơ văn Tản Đà là trạng thái tâm hồn cô độc khác
thường của ông. Chính cái trạng thái đặc biệt này đã tạo nên sắc thái bi quan u
uất trong thơ ca Tản Đà. Ấy là một cái sầu của một nhà nho thời tàn cuộc, gặp
nhiều thất bại éo le, của tầng lớp thị dân lưng chừng cầu an và bất lực dưới
chế độ Tây thuộc tham tàn trước đây. Trong đời hoạt động của mình, Tản Đà
đã cảm thấy hoàn toàn trơ trọi:
Chốn ba đào phong vũ giận cười reo,
Thuyền một lá một chèo ai với nước...
Đánh đuốc đố ai tìm khắp nước,
Kiếm đâu cho thấy mặt anh hùng?
(Đêm tối)
13
Một tâm hồn nặng lòng với quê cha đất tổ, một bút thơ tài hoa như Tản
Đà, mà thoạt sinh ra đã là dân mất nước, ông chào đời với tiếng khóc quê
hương, nỗi niềm sầu muộn ấy đeo đẳng suốt cả cuộc đời thì việc đem tâm sự
gởi vào thơ, ắt là chuyện đương nhiên. Lại nữa chúng ta biết, Tản Đà sinh
nhằm buổi giao thời, cuối thế kỷ XIX, qua thế kỷ XX, lúc mà ách nô lệ ngoại
bang vừa chụp xuống đầu dân tộc ta, lại cũng là lúc nền phong hóa cũ của dân
ta tiếp cận với nền văn minh Tây phương, chữ Quốc ngữ được dùng cấp kỳ
thay thế chữ Nôm và chữ Nho. Sự kiện tống cự nghinh tân, thay cũ đổi mới,
thuở ấy cũng tác động không ít vào nỗi sầu vọng cổ hoài hương của Tản Đà.
Ông không thấy ai, thấy lực lượng nào có thể cùng ông gánh vác việc đời:
Suối tuôn róc rách ngang đèo,
Gió thu bay lá, bóng chiều về tây.
Chung quanh những lá cùng cây,
Biết người tri kỷ đâu đây mà tìm.
Hỏi thăm những cá cùng chim
Chim bay xa bóng cá chìm mất tăm
Bây giờ vắng mặt tri âm,
Lấy ai là kể đồng tâm với mình.
Nước non vắng khách hữu tình,
Non xanh nước biếc cho mình nhớ ai!
(Vô đề)
Mối đâu bối rối tơ tằm,
Lấy ai là kẻ đồng tâm gỡ cùng…
Có lẽ nét tiêu cực, trạng thái tâm hồn cô đơn u uất trong thơ ca Tản Đà
chủ yếu là xuất phát từ tư tưởng tình cảm của một nho sĩ phong kiến, trung
thành với đạo học Khổng – Mạnh và yêu nước thiết tha, nhưng đã nhận biết
được sự bất lực và tan rã của giai cấp mình, đồng thời lại cũng không nhìn
thấy một lực lượng xã hội nào có thể tin tưởng và dựa vào.
Ngồi buồn nhớ lại sự tích cũ:
Đô đóng Thăng Long xưa mấy nhà!
Ở đây hoặc có lâu, đài, các,
Hay chỉ ít nhiều cây, cỏ, hoa?
(Chơi trại hàng hoa)
Văn chương quẩn mãi cùng thân thế,
14
Sự nghiệp mong gì với núi sông.
(Tiễn ông Công lên chầu trời)
Mưa xuân Hồng Lạc tươi màu,
Bức tranh mưa gió riêng sầu lòng ai.
Năm châu xa lắc đường dài,
Nước non biết có ai người “đầu binh”.
(Xuân sầu)
Sầu vong quốc phải chăng là mối sầu vạn cổ? Tản Đà cho rằng mình
sinh bất phùng thời, nỗi buồn vì thân thế quẫn bách, cô đơn cộng với niềm
đau nhục của quê hương đất nước, ông bi phẫn thốt lên:
Biết bao ra Bắc vào Nam,
Bức dư đồ rách đã cam khó lòng.
Văn chương chút nghĩa đèo bòng,
Thuyền không tay lái vẫy vùng được sao?
(Xuân tứ)
Hủ nho vô ích nước nhà,
Rượu thơ còn vẫn la cà trăm năm.
(Cười bác Mai Lâm)
Đáng nực cười cho bác Hủ nho!
Việc đời ai khiến gánh mà lo,
Lo to, lo nhỏ, lo nào xiết,
Lo thế mà ai có biết cho.
….
Đáng nực cười cho cái sự lo,
Lo quanh lo quẩn chẳng ra trò.
Việc đời ai có lo chăng tá?
Ai có lo cùng bác Hủ nho?
…
Lo vì thế cục nát như tương,
Cái ruột tằm ai rối vấn vương.
Nhọn chẳng ăn ai, ngòi bút sắt,
Cùng ai lo tính lúc đêm trường.
(Hủ nho lo việc đời)
15
6. Thề nguyền, khẳng định tình cảm với nước non
Lòng yêu nước ở Tản Đà trừu tượng, mộng ảo, thanh nghị nhưng lại có
nét đặc sắc. Điều đó biểu hiện trong một loại thơ mà ta tạm gọi là “thơ non
nước”. Gọi thế không chỉ vì hai chữ “non nước” được nhắc đi nhắc lại đặc
biết nhiều mà còn vì hai chữ đó “điểm nhỡn” cho bài thơ và nói tư tương yêu
nước của Tản Đà đầy đủ nhất:
Này vẫn bác Tản Đà ngày trước,
Thuở xuân xanh thề ước non sông
Trải bao xuân, hạ, thu, đông,
Càng phơ tóc bạc cho lòng càng son.
(Xuân Cảm năm Ất Hợi)
Lời thề nguyền chắc là khá trang trọng. Người thề giữa lời hứa, biểu hiện
thành một hành động tượng trưng: ra Bắc vào Nam, đi đâu Tản Đà cũng mang
theo bên mình một bức địa đồ đất nước, tất nhiên với thời gian càng ngày
càng nhem nhuốc, rách nát. Nhà thơ luôn luôn nhắc nhở:
Dư đồ còn đó chưa phai,
Còn non còn nước, còn người nước non
(Qua cầu Hàm Rồng cảm tác)
Đối với ông bức dư đồ là người làm chứng, kẻ được ủy quyền giám sát.
Trong thơ ông, nó thành một biểu tượng, một nhân vật. Giữa nhà thơ, bức dư
đồ và đất nước mà với con mắt thi nhân Tản Đà nhìn ra bao nhiêu cảnh đẹp,
được nghe bao nhiêu lời nhắn nhủ, gửi gắm tâm tình, nhận được bao nhiêu
tình cảm, ý tứ, hình thành một bộ ba gắn bó. Hai nhân vật kia là câm nhưng
qua lời nhà thơ lại trở thành hiện diện. Tản Đà lo lắng, sốt ruột, khi thì hăm
hở hào hứng, khi thì đau xót thẹn thùng, mái tóc từ còn xanh đến bạc phơ.
Nhứng đất nước mà ông miêu tả hết sức đẹp đẽ duyên dáng đối với ông lại
như thờ ơ, lạnh lùn. Hờn giận? Khinh miệt hay trách móc? Nhà thơ cứ phải
thề thốt lại:
Ruột tằm dù héo chưa mòn,
Tơ lòng một mối xin còn vấn vương.
Nước non muôn dặm đường trường
Hỡi ai rau sắng chùa Hương biết cùng
Trăm năm nặng gánh tang bồng
Lửa son càng đốt cho lòng càng son
Cảnh còn nước biếc xanh non
Đầu ai trắng tóc duyên càng thắm tơ
16
(Qua Hàm Rồng cảm tác)
Lời thề nguyền được biểu đạt lại bằng bức dư đồ đã rách. Việc đó có gì
là khó! Lúc trẻ nhà thơ nghĩ thế. Nhưng cho đến già “Bức dư đồ nhem xấu
vẫn còn nguyên” tố cáo sự thất bại, làm chứng lời thề bị phụ, trách nhiệm nhà
thơ không tròn. Lời thề với nước non ngày càng đè nặng lên cuộc đời. Những
chuyện “gánh nặng đường xa’, “sông cái thuyền nan”, cuộc đời chìm nổi mà
nhà thơ nói ra với hết nỗi cơ cực, tủi nhục điều không làm gánh nặng nhẹ đi
chút nào. Nhà thơ thấy mình lẻ loi, cô đơn, bất lực. Ông muốn có được một
người hữu tình, một người đồng tâm chia sẻ với mình gánh nặng ấy và trong
tám năm nhà thơ đã làm một việc ngông cuồng: gửi ba bức thư cho “người
tình nhân không quen biết”. Chờ đợi mãi mà biệt vô âm tín! Nhà thơ thở
than:
Ơn nhà nợ nước hai vai,
Nước nhà ai để riêng ai nặng nề.
Trông mây nước bốn bề lặng ngắt,
Nhìn non sông tám mặt sầu treo.
Đường xa gánh nặng chợ chiều,
Cơn giông biển lớn, mí chèo thuyền nan.
Trước cảnh “Bạn tri âm man mác trời mây”, nhà thơ băn khoăn. Không
có người tri kỷ? – người tri kỷ để cùng lo việc nước non – điều đó đã khổ.
Nhưng có mà kêu không đáp, gọi không thưa, điều đó lại càng khổ hơn.Trong
cảnh lẻ loi nhà thơ cứ phải thắc mắc:
Nước non còn nhớ người xưa?
Bạn tình còn nhớ bây giờ cố nhân?
(Ngày xuân nhớ cảnh, nhớ người xưa)
Luôn luôn ta gặp nhà thơ trong một cố gắng tuyệt vọng, một cảnh bỏ rơi
oan khuất. Giữa hai cảnh, một bên là nhà thơ, non nước và bức dư đồ và một
bên là nhà thơ nước non và “tình nhân”, nhà thơ mong muốn giành được sự
tin cậy của non nước và của người tri âm tri kỷ. Cả nội dung non nước mơ hồ,
cả tình cảm thiết tha và cả lăng kính yêu đương làm nên đặc sắc thơ yêu nước
của Tản Đà. Đọc thơ ông ta không thấy nổi lên lòng câm thù quân xâm lược,
lòng uất ức vì khổ nhục đất nước, mà thấm sâu một tình cảm tha thiết. Thơ
ông không thôi thúc chiến đấu, nhưng lòng thiết tha từ “ thấy nước đáng yêu
thì đem lòng mà yêu” vẫn làm xúc động những người dân mất nước, làm họ
thấy sâu hơn, phong phú hơn cảm giác bất lực xấu hổ với đất nước. Thơ Tản
17
Đà làm họ thấy đất nước đẹp đẽ, đáng yêu hơn và biết yêu đất nước thiết tha
hơn.
Tản Đà coi thơ chỉ là thứ văn chơi. Ông muốn giành những vấn đề
nghiêm chỉnh như yêu nước cứu đời cho tản văn. Nhưng Tản Đà là một thi sĩ,
chỉ trong thơ ta mới gặp đúng Tản Đà. Chính ở trong thơ chơi chứ không phải
trong văn vị đời, tư tưởng cải lương sai lầm của ông mới bị hạn chế, mà nghệ
thuật tài tình của ông mới phát huy sức lôi cuốn xúc động. Vấn đề yêu nước
của Tản Đà cũng chỉ thành công ở trong thơ.
Khi tiếp xúc với hình ảnh “non nước” trong bài thơ, người ta không thể
chỉ dừng lại ở chuyện bức tranh sơn thủy hay chuyện lứa đôi. Bởi vì trong bài
thơ, mọi thứ từ lời thơ cho đến hình ảnh, ý tình, âm hưởng chung đều thống
thiết, nghiêm trang, tầm vóc. Ấn tượng này càng trở nên rõ ràng hơn khi ta
đọc hai câu cuối bài:
Nghìn năm giao ước kết đôi
Non non nước nước không nguôi lời thề.
Hóa ra mối tình ở đây, lời thề ở đây không phải là tình cảm của những
con người bình thường “trăm năm trong cõi người ta”, mà là chuyện nghìn
năm. Mà “non nước” gắn liền với “nghìn năm” là để chỉ đất nước, giang sơn,
Tổ quốc. Chính với nội dung đó, Nguyễn Quyền đã viết trong bài “Chiêu hồn
nước”:
Trời Nam một dải non sông,
Ngàn năm cơ nghiệp cha ông hãy còn
Từ khi đá lở sóng cồn
Nước non trơ đó nào hồn ở đâu?
Trong bài Việt Bắc, Tố Hữu cũng viết:
Ngàn năm xưa nước non Hồng,
Còn đây ơn Đảng nối dòng dài lâu
Ngàn năm non nước mai sau,
Đời đời ơn Đảng càng sâu càng nồng.
Cho nên “Thề non nước” thực chất không phải là một bài thơ vịnh tranh
sơn thủy hay nói về tình duyên, mà là một bài thơ mang tâm sự của Tản Đà về
đất nước. Cái quý trong bài “Thề non nước” là Tản Đà một cách vừa bóng gió
vừa kín đáo, lại vừa rõ ràng, trực diện, nêu lên chủ đề đất nước, nhưng đồng
thời biết tự mình vượt lên nỗi đau buồn lớn lao ấy để hi vọng và làm cho
người khác hi vọng. Tất nhiên niềm hi vọng trong bài thơ chưa có gì thật cụ
thể, nhưng rõ ràng phải có một sức mạnh tâm hồn như thế nào đó, phải yêu
18
nước, tin ở ngày mai của đất nước, mới có được niềm hi vọng đó, mới nói
được những lời thiết tha, thủy chung, tin tưởng về đất nước như tác giả bài
thơ “Thề non nước”.
Ta nghĩ mà ai chẳng giống ta,
Lo nước, lo nhà, lo thế giới.
(Khai bút, II)
Trăm năm ghi nguyện cùng non nước,
Nước biếc non xanh một chữ tình!
(Lưu tình)
Lời thề non nước là lời thề trước bàn thờ Tổ quốc, mà trong tình huống
Tổ quốc lâm nguy thì thế hứa điều gì? Tiên sinh không nói ra, nhưng không
nói mà ai cũng đều biết cả. Bút thơ Tản Đà tuyệt diệu là ở chỗ đó. Trong bài
"Xuân Cảm", tiên sinh hạ bút:
Non sông thề với hai vai
Quyết đem bút sắt mà mài lòng son
(Xuân sầu)
Bút sắt mài lòng son mà viết câu thề, thì đó là "huyết thệ", thề bằng máu
và tất nhiên là lời thề sắt son, trung thành nguyện đem cả hai vai gánh vác sơn
hà. Nhưng tiếc rằng khi đất nước ở vào thế cùng vận bí nên cái chí cả, mộng
lớn của Tản Đà đã chẳng thành tựu được.
7. Kêu gọi nhân dân đoàn kết, lạc quan về tương lai đất nước
Tản Đà muốn làm việc có ích cho dân cho nước nên thiết tha cất tiếng
“gọi đàn”, hô hào “hợp quần” “tử chiến”,…
Hai mươi nhăm triệu đồng thanh cả,
Hữu ái mong ai một chút tình.
(Đề báo “Hữu thanh”)
Tản Đà viết:
Trung Nam Bắc, chị cùng em,
Chị em trông đó con chim gọi đàn.
Chim kia còn biết gọi đàn,
Chút tình hữu ái chị bàn cùng em.
(Thơ tặng báo Phụ nữ tân văn)
19
Tiếng gọi đàn của Tản Đà trước hết nói lên tính thống nhất không thể
chia cắt được của đất nước; nhân dân ba kỳ là một tổ, một đàn. Tính thống
nhất ấy bao gồm cả ý nghĩa địa dư và dân tộc:
Ai rằng Nam Bắc cách đôi nơi,
Cùng một giang sơn một giống nòi
Hoa gấm cũ càng nguyên phẩm quý,
Phấn son tô điểm lại màu tươi.
(Thơ tặng báo Phụ nữ tân văn)
Tiếng gọi hợp quần tha thiết của Tản Đà mang đậm màu sắc dân tộc và
dân gian với những khái niệm cổ truyền “con Rồng cháu Tiên”, “dòng giống
Tiên Rồng”, “giống nhà Hồng Lạc”, mà ông hầu như nhắc đến trong tất cả
mọi trường hợp nói về thời cục:
Nhìn người hơn,
Ngẫm vào ta,
Chung lòng một dạ,
Sum họp giống nhà,
Giống Tiên Rồng may mà…
Những lời kêu gọi như thế rõ ràng mang một nội dung dân tộc sâu sắc
chứ không phải là tiếng nói đại biểu cho những quyền lợi cụ thể của giai cấp
tư sản dân tộc đang phải đối phó với tư bản Ấn kiều hay Hoa kiều. Cũng trên
cơ sở tình cảm dân tộc, Tản Đà đã kêu gọi “con Rồng cháu Tiên” phải dùm
bọc lấy nhau trong cảnh ngộ thương đau.
Lúc thủy tai, này ai ơi!
Quý tiếc yêu thương lấy giống nòi.
Con cháu Rồng Tiên khi đã bĩ,
Đừng nên rẻ rúng bỏ nhau hoài!
Hai chữ “đồng bào” ân nghĩa nặng,
Đùm nhau lành rách, hỡi ai ơi!
(Khuyên người giúp dân lụt)
Dư đồ rách, nước non tô lại,
Đồng bào xa, trai gái kêu lên,
Doanh hoàn là cuộc đua chen,
Rồng Tiên phải giống ngu hèn, mà cam!
(Xuân sầu)
20
Những ai mặt bể chân trời,
Nghe mưa ai có nhớ nhời nước non.
(Mưa thu đất khách)
8. Ước mong cải cách xã hội
Vào đầu những năm XX, Tản Đà bị choáng ngợp trước văn minh Âu
Mỹ. Cái đập vào mắt ông là con Rồng cháu Tiên nghèo nàn lạc hậu. Một thực
tế khác cũng làm Tản Đà choáng ngợp: sự phồn vinh ở các đô thị bước đầu
Âu hóa. Ông nói một cách hào hứng: “Trên có Đại Pháp bảo hộ, ngoài có
người Tàu, mgười Nhật, người Ấn Độ cũng đến đất ta để doanh sinh”, “Cuộc
cạnh tranh sinh tồn đã trào dâng gió táp mà dồn đến ta”, “Đồn điền, hội
buôn, hội hữu ái, hội nguyên trợ, trước cũng chưa có mà nay có; nghĩa bác ái
trước kia chưa biết mà nay thêm” (Hai nguyên chất sự sinh hoạt xã hội – Hữu
Thanh số 5). Văn minh Âu Mỹ có thể từ nhà nước Bảo hộ mà đến, ông kêu
gọi “thân đái nhà nước Bảo hộ”, tỏ lòng tin tưởng:
Một mai rồi văn minh
Trăm sự nhờ Bảo hộ
(Lên tám)
Cũng vì vậy ông tỏ ra bất bình, coi phong trào chống pháp là “dã man
biến động”, trách vì nó mà “bụng nhà nước Bảo hộ không được yên”, “sự
khai hóa chậm lại đôi ba phần” (Giấc mộng con). Sốt ruột về tình hình thua
kém người, trong nhiều bài báo đăng trên báo Hữu thanh và An Nam tạp chí,
Tản Đà kêu gọi chấn hưng công thương nghiệp, ca tụng khoa học kĩ thuật,
khuyến khích những sáng kiến kinh doanh, đề xướng dịch sách. Và trên số
báo An Nam tạp chí đầu xuân năm 1927, ông còn đề xướng cả “Một cuộc
chiến tranh người An Nam sẽ bắt đầu từ năm Đinh Mão”. Ai cũng có vị trí
chiến đấu trong cuộc chiến tranh đó, từ nhà nước Bảo hộ cho đến nhà bình
dân. Nhưng đây “không phải là cuộc chiến tranh bằng binh đao võ lực”,
“không phải chiến tranh với ai” mà là mọi người tử chiến “đánh nhau với
thời cuộc mà tranh sự sinh tồn”. Tản Đà yêu nước nhưng không cảm nhận sâu
sắc cái khổ nhục mất chủ quyền, và sống trong môi trường đô thị nên dễ
nhiễm tư tưởng cải lương, dễ theo chủ trương duy tân hợp pháp. Năm 1926,
ông có thay đổi. Từ chỗ coi mình là nhà triết học hoạt động lý luận, ông ngã
sang hoạt động xã hội. Trong Giấc mơ con II, ông để Nguyễn Khắc Hiếu lên
Thiên đình yết kiến Nguyễn Trãi, Khổng Tử và Lư Thoa. Nguyễn Trãi muốn
“tái sinh trần thế”. Khổng Tử giảng lại nghĩa chữ “tùy thời” là “dựa thep thời
21
thế mà làm nên việc của mình”. Đông Phương Sóc đưa Nguyễn Khắc Hiếu
đến thăm Chợ Giời, chỉ cho ông xem tình cảnh nhục nhã của bọn bán nước
như Nguyễn Văn Tường, Nguyễn Thân và còn mách cho biết “Nước An Nam
ông sẽ có mấy người xung vào số đó” (phu quét chợ ở Thiên đình). Ông nhận
thức ra “ tình hình nước An Nam còn nhiều việc cần thiết hơn diễn kịch, văn
sĩ, hạng tài hoa không phải có giá cao nhất.
Trên tờ An Nam tạp chí ông thôi ca ngợi nhà nước Bảo trợ như trước mà
viết một số bài bàn về trách nhiệm quốc dân với nước. Lấy quốc hiệu đặt tên
cho tạp chí, ông muốn nó làm trách nhiệm với “khắp thảy quốc dân” chứ
không chỉ “riêng những người có học”. Cho nên “ai là người có công về thế
đạo, nhân tâm thì nó tính biểu bằng ngòi bút, mà ai có tội với nhân quần thì
nó trừng trị bằng câu văn” (ANTC số 1)
Nhưng lý tưởng chính trị xã hội ông đưa ra lại mơ hồ: một mặt ông
muốn học theo văn minh Âu Mỹ, nhưng mặt khác lại muốn bảo vệ luân lý Á
Đông. Và trong Giấc mộng con II, lúc nói đến Chợ Giời, đến cõi đời mới, Tản
Đà còn vẻ ra cả một xã hội lý tưởng. Đó là một mảnh đất xã hội chủ nghĩa
không tưởng, cách ly với thế giới xung quanh, quay về thời thái cổ (nhưng lại
có nghiên cứu và ứng dụng khoa học kĩ thuật) tìm con người tiến hóa thiên
nhiên để có “tự do trong sạch” và “độc lập thanh nhàn”.
Bước vào đời làm văn, làm báo, Tản Đà gặp giai cấp tư sản, đời sống đô
thị đưa ông đến chủ nghĩa cải lương. Từ cõi mộng bước vào cõi thực, Tản Đà
vừa hăm hở “hỏi thăm Âu Mỹ đâu bờ bến” vừa theo được nguyện ước “làm
học trò Khổng phu tử ở Á đông” truyền bá thiên lương, góp tiếng nói của
mình giải cứu nạn nước nạn dân.
“Chức trách của ngòi bút đại văn gia trước phải đối đáp với xã hội sao
cho nhân dân được thuần chính, dân trí tư tưởng được khai minh”
(Giấc mộng con)
“Văn chương không phải là sự chơi riêng trong ý thú, không phải là một
sự đùa vui trong phẩm bình, mà phải có bóng mây hơi nước đến dân xã”
(Thư Chu Kiều Oanh, Giấc mộng con)
Tản Đà tự cho mình có tài, ôm mộng lập nghiệp không nhỏ:
Phận nam nhi tang bồng là chí
Chữ trượng phu ý khí nhường ai
Non sông thề với hai vai,
Quyết đem bút sắt mà mài lòng son
Dư đồ rách nước non tô lại
22
Đồng bào xa trai gái kêu lên
Doanh hoàn là cuộc đua chen
Rồng tiên phải giống ngu hèn mãi ru
(Xuân sầu)
Vấn đề là ở chỗ: tuy có khuynh hướng cải lương tư sản nhưng nhà báo
Tản Đà vẫn là nhà nho Nguyễn Khắc Hiếu. Ý thức tư tưởng phong kiến của
giai cấp mình, phẩm chất đạo đức phong kiến và nhân sinh quan phong kiến
đã là những yếu tố ngăn cách Tản Đà với giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam.
Đó là một sự nghiệp vì dân vì nước, có đủ màu sắc yêu nước và duy tân,
nhưng là một sự nghiệp cá nhân và dựa vào tài văn chương. Dù có muốn đua
chen trong danh hoàn thì người trượng phu không chịu nhường ai cũng chỉ có
“quyết đem bút sắt mà mài lòng son”.
III/ Nghệ thuật
1. Ngôn ngữ
Ngôn ngữ thơ Tản Đà là ngôn ngữ của một tác giả có phong cách độc
đáo: không quá ước lệ, tượng trưng như văn học trung đại, cũng không quá
trau chuốt hoa mỹ như thơ Xuân Diệu, Huy Cận hay Hàn Mặc Tử,… Tản Đà
là người biết Hán học nhiều nhưng thơ ông ông không dùng chữ Hán, điển
tích. Nếu có thì rất hãn hữu và không đến mức khó hiểu. Nói chung, ngôn ngữ
Tản Đà là ngôn ngữ dân tộc đã đạt đến mức điêu luyện. Nó rất gần gũi với
ngôn ngữ của ca dao, gần với lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân lao
động, bình dị nhưng lại rất duyên dáng, giàu sức gợi cảm. Chất Việt Nam
thấm đẫm trong từng trang thơ, câu chữ. Tất cả là những từ thông dụng, là
khẩu ngữ, lời nói tự nhiên, những từ ngữ trong đời sống được đưa vào làm
cho câu thơ, lời hát có sắc thái ca dao, dân ca nôm na mộc mạc, trần trụi và rất
thực.
Tản Đà còn có biệt tài trong việc sử dụng các hư từ, điệp ngữ và các âm
điệu tiết tấu. Điều này được thể hiện rõ rệt trong bài thơ Thề non nước. Chỉ
trong hai mươi hai câu thơ lục bát, tác giả điệp đi điệp lại mười lăm lần từ
“non nước” mà nghe không nhàm tai, trái lại nó cứ gợi lên cái quyến luyến,
tha thiết của lời thề.
2. Hình ảnh
Nhìn chung, trong ngôn ngữ Tản Đà ít có những hình ảnh mới mẻ.
Những hình ảnh ông dùng thì trước kia trong văn học người ta cũng đã dùng
23
hoặc đương thời với ông cũng có nhiều người dùng. Hình ảnh “non nước” để
nói Tổ quốc, “tri âm” để chỉ bạn đồng tâm đồng chí, hình ảnh “đốt đuốc tìm
anh hùng”, “suốt đêm thức một mình”, “nghĩ đến bạc đầu”, “gia đình xã hội
gánh hai vai” tất cả hầu như đều là những hình ảnh cũ nhưng dưới ngòi bút
của Tản Đà nó đều có khả năng rung cảm.
3. Thể loại
Phong cách nghệ thuật của Tản Đà còn thể hiện ở mặt thể loại. Khoảng
hơn một nữa thi ca của ông làm theo thể loại dân tộc: lục bác, song thất lục
bác và những điệu dân ca. Ngay trong những bài đường luật, chúng ta cũng
thấy sự nhẹ nhàng, trong sáng của ngữ điệu dân tộc không có tình trạng nặng
nề của từ ngữ Hán-Việt và điển tích. Tản Đà tiếp thu và kế thừa đặc điểm
nghệ thuật của văn học dân gian và văn học viết. Ông thuộc rất nhiều dân ca
và từng sáng tác chèo.
4. Chất ca dao dân ca
Ca dao đã cùng nhân dân ta đi suốt chặng đường lịch sử chống giặc giặc
ngoại xâm của đất nước. Vì vậy ca dao luôn chứa đựng tình yêu nước nồng
nàn và đấu tranh giai cấp, lên án chế độ phong kiến, quan lại:
Con ơi nhớ lấy câu này,
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan
Ca dao Việt Nam không chỉ thể hiện lòng yêu nước của mình một cách
trực tiếp (lên án xã hội) mà còn thể hiện gián tiếp bằng cách ngợi ca quê
hương, đất nước qua cảnh đẹp của thiên nhiên và con người. Vì đất nước và
con người có mối quan hệ mật thiết với nhau nên ca dao dường như là những
lời dân dã, mộc mạc, là lời bộc bạch tình cảm của nhân dân :
Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ,
Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn.
Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn,
Hỏi ai xây dựng nên non nước này?
Tình yêu nước của Tản Đà gần gũi và phản phất nét tương đồng với tình
yêu quê hương, đất nước của nhân dân thể hiện trong các bài ca dao truyền
thống. Tình yêu ấy gắn liền với lòng yêu cảnh đẹp, lòng yêu tình nhân, người
tri âm, tri kỉ. Tình yêu quê hương, đất nước của Tản Đà được biểu hiện một
cách kín đáo, nhẹ nhàng trong bài thơ “Thề non nước". “Thề non nước" là bài
thơ nói lên sự thề hẹn, tình cảm yêu nhau của lứa đôi nhưng được Tản Đà
24