MỞ ĐẦU
1.
Tính cấp thiết của đề tài
Vấn đề xử thế của con người, vấn đề trị nước của con người luôn là vấn
đề được sự quan tâm của mọi thời đại. Xã hội loài người từ khi hình thành
đến nay đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển, mỗi giai đoạn, mỗi chế độ xã
hội con người lại có cách xử thế, trị nước khác nhau. Phần lớn các quan niệm
đều đưa ra những chính sách, chủ trương hành động nhằm điều chỉnh hành vi,
thái độ con người. Không đi theo một lối mòn nào, trong tác phẩm “Đạo Đức
Kinh” Lão Tử đã xây dựng nên học thuyết “vô vi” để dạy con người cách xử
thế, dưỡng sinh và trị nước.
Nếu như trong triết lý của Khổng, Mặc chủ yếu dựa trên lễ, giáo, để
dạy người và trị nước, đề cao hành vi đạo đức, lễ giáo của con người, chủ
trương “hữu vi” thì Lão Tử chủ yếu đi vào lý giải những giá trị tiềm ẩn sâu
bên trong con người, thuộc về nguyên lý, bản chất chung của toàn bộ vũ trụ,
ông chủ trương “vô vi”. “Đạo Đức Kinh” chứa đựng nhiều tư tưởng tiến bộ,
tuy nhiên, nhìn một cách tổng quát các học thuyết được trình bày trong tác
phẩm đều thấm đượm tư tưởng “vô vi” đây là học thuyết rất sâu sắc và có giá
trị, được đánh giá là học thuyết “độc nhất vô nhị” trong lịch sử triết học Trung
Hoa trong xử thế, dưỡng sinh và trị nước.
Đặc biệt, học thuyết “vô vi” rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay, khi
khoa học, kỹ thuật ngày càng phát triển, con người vì những nhu cầu cá nhân,
lợi ích trước mắt của mình mà làm trái quy luật tự nhiên, gây tổn hại cho tự
nhiên. Xã hội ngày càng phát triển, trong đó một số người quan hệ với nhau
chỉ vì lợi ích trước mắt không thật đúng với bản tính con người. Việt Nam
đang trong thời kỳ quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội, thực hiện hội nhập quốc tế,
một bộ phận người Việt Nam có xu hướng thay đổi, chạy theo thực dụng,
cạnh tranh, gian dối, tính toán, vị kỷ nhiều hơn,..làm cho mối quan hệ giữa
con người với con người bị tha hoá. Nhiều người đặt lợi ích cá nhân, quyền
lợi cá nhân lên trên hết, không giữ được truyền thống “thương người như thể
1
thương thân”, “lá lành đùm lá rách” vốn là truyền thống tốt đẹp của người
Việt. Học thuyết “vô vi” ở một góc độ nhất định dạy cho con người biết cách
đối xử với tự nhiên, đối xử giữa người và người với nhau trong cuộc sống.
Ngay từ rất sớm Đảng ta đã xác định vai trò của các học thuyết triết học
trong việc giữ gìn, phát huy những di sản truyền thống do ông cha để lại, và
vai trò của nó trong thời kì đổi mới của đất nước ta. Trong Nghị quyết số
01/NQ-TW của Bộ chính trị Đảng cộng sản Việt Nam ngày 28/3/1992, về “Công
tác lý luận trong giai đoạn hiện nay” đã khẳng định “...cần phải nghiên cứu mối
quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, giữa phát huy bản sắc văn hoá dân tộc với
tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới...Đối với những học thuyết xã hội ngoài chủ
nghĩa Mác – Lênin,...Nếu biết gạn lọc, biết hấp thụ một cách có phê phán sẽ làm
giàu thêm cho bản thân chủ nghĩa Mác – Lênin và là những lý luận hết sức có ý
nghĩa cho chúng ta trong giai đoạn đổi mới đất nước” [1;tr.7].
Qua quá trình nghiên cứu tác giả nhận thấy học thuyết “vô vi” mặc dù
là một học thuyết của người Trung Hoa, xuất hiện từ thời cổ Đại, tuy nhiên
không vì vậy mà những quan niệm trong học thuyết “vô vi” khác biệt với
những quan niệm của người Việt Nam . Vượt qua cả khoảng cách về thời gian
và không gian đến nay học thuyết “vô vi” trong tác phẩm “Đạo Đức Kinh”
của Lão Tử vẫn còn giá trị nhất định và cần thiết trong cuộc sống người Việt
Nam, cụ thể là trong xử thế, dưỡng sinh và trị nước của người Việt Nam.
Với mong mốn củng cố tri thức triết học cho bản thân, góp phần tìm
hiểu thêm triết học Trung Hoa, đồng thời làm phong phú hơn nguồn tư liệu về
triết học phương Đông, được sự động viên, khuyến khích và giúp đở tận tình
của các thầy cô giáo trong khoa, đặc biệt là giáo viên hướng dẫn, em mạnh
dạn chọn đề tài khoá luận tốt nghiệp: “Tìm hiểu học thuyết “vô vi” trong tác
phẩm “Đạo Đức Kinh” của Lão Tử ”.
2. Tình hình nghiên cứu
“Đạo Đức Kinh” là tác phẩm nhận được sự quan tâm của khá nhiều tác
giả trong và ngoài nước. Có nhiều nghiên cứu về tác phẩm này, nhưng phần
lớn viết thành sách, chủ yếu đi giải thích bình luận tác phẩm. Trong khả năng
2
nghiên cứu còn hạn chế và giới hạn về thời gian, cho nên đến thời điểm này
bản thân tác giả vẫn chưa tiếp cận được một công trình lớn nào (luận văn thạc
sĩ hay luận án tiến sĩ...) về tác phẩm “Đạo Đức Kinh”, chủ yếu tác giả tiếp cận
được dưới dạng sách, các bài viết, bình luận, trao đổi ý kiến về các vấn đề
trong tác phẩm nói chung và về học thuyết “vô vi” nói riêng như: “Quan niệm
Biện chứng của Lão Tử về thế giới”, “Về học thuyết “vô vi” của Lão Tử”,
“Bàn thêm về “Vô” và mối quan hệ giữa “Hữu” và “Vô” trong Đạo Đức
Kinh ” , Nguyễn Thị Hồng – Thạc sĩ Triết học, Trường Đại học Giao thông
Vận tải Hà Nội; “Triết lý Vô của Lão Tử”, Nguyễn Hùng Hậu – Phó Tiến sĩ,
Trưởng phòng Triết học Phương Đông, Viện Triết học; “Lão Tử và Chân –
Thiện - My”, Vũ Minh Tâm – Phó Giáo sư, Tiến sĩ Triết học, Trường Đại học
Sư phạm Hà Nội.
3. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi một khoá luận tốt nghiệp Đại học, khoá luận chỉ khái
quát một số vấn đề trong tác phẩm “Đạo Đức Kinh” về vũ trụ quan, nhận thức
luận. Qua đó tập trung tìm hiểu về học thuyết “vô vi” trong tác phẩm.
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu của khoá luận
Tìm hiểu các quan niệm của Lão Tử về vũ trụ và nhận thức làm cơ sở
cho việc tìm hiểu, lý giải học thuyết “vô vi”. Nhằm thấy được giá trị của học
thuyết, đặc biệt có sự liên hệ với tình hình Việt Nam để làm rõ giá trị của học
thuyết “vô vi” đối với quá trình đổi mới của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Nhiệm vụ của khoá luận
- Phân tích, đánh giá vũ trụ quan và nhận thức luận trong tác phẩm
“Đạo Đức Kinh”. Làm rõ nội dung học thuyết “vô vi” trong tác phẩm.
- Phân tích, đánh giá học thuyết “vô vi” của Lão Tử về xử thế, dưỡng
sinh và trị nước. Nhằm thấy được những giá trị cần kế thừa trong học thuyết
và những hạn chế trong học thuyết.
- Liên hệ học thuyết “vô vi” của Lão Tử với quá trình đổi mới nước ta
hiện nay.
3
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Trong nghiên cứu khoa học cần dựa vào những căn cứ khoa học có
như vậy mới đạt được mục tiêu khoa học đề ra. Với ý nghĩ là một bài
nghiên cứu khoa học khoá luận đã vận dụng lý luận khoa học của Chủ
nghĩa Mac – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để nghiên cứu. Trên lập
trường thế giới quan, nhận thức luận khoa học của chủ nghĩa duy vật biện
chứng để nhận thức, đánh giá quan niệm về vũ trụ và nhận thức trong tác
phẩm “Đạo Đức Kinh”, cùng với quan niệm về cách đối nhân, xử thế của
Hồ Chí Minh làm sở cho việc nhận thức các vấn đề về con người và xã hội
trong quan niệm của Lão Tử.
Phương pháp nghiên cứu
Khoá luận mang nội dung nghiên cứu về một vấn đề vừa có tính lịch
sử, vừa mang giá trị thời đại nên trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã sử
dụng kết hợp các phương pháp như phương pháp hệ thống, phương pháp
logic – lịch sử, phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, bình luận,...nhằm
mang lại hiệu quả nghiên cứu cao nhât.
6. Đóng góp của đề tài
Về mặt lý luận
Khái quát và làm rõ những giá trị cũng như những hạn chế trong vấn đề
về vũ trụ quan, nhân thức luận và học thuyết “vô vi” trong tác phẩm “Đạo
Đức Kinh”
Làm nổi bậc vai trò của học thuyết “vô vi” đối với các học thuyết khác.
Về mặt thực tiễn
Khoá luận giúp bản thân hiểu hơn về tác phẩm “Đạo Đức Kinh” của
Lão Tử nói chung và học thuyết “vô vi” nói riêng. Cũng như hiểu thêm về
Lịch sử Triết học phương Đông.
Khoá luận cho thấy sự cần thiết của học thuyết “vô vi” trong việc điều
chỉnh mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và con người với con người
trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt là đối với xã hội Việt Nam.
4
7. Kết cấu của đề tài
Khoá luận bao gồm:
Mở đầu:
Trình bày lý do chọn đề tài, tình hình nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu,
mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu, cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu,
đóng góp của đề tài, kết cấu của đề tài.
Nội dung:
Chương 1: Hoàn cảnh kinh tế, xã hội Trung Hoa thời Xuân thu, Chiến
quốc và tác phẩm “Đạo Đức Kinh” của Lão Tử.
Chương 2: Cơ sở triết học của học thuyết “vô vi” trong tác phẩm “Đạo
Đức Kinh”của Lão Tử.
Chương 3: Học thuyết “vô vi” trong tác phẩm “Đạo Đức Kinh” của
Lão Tử.
Kết luận
5
Chương I
HOÀN CẢNH KINH TẾ, XÃ HỘI TRUNG HOA THỜI XUÂN THU,
CHIẾN QUỐC VÀ TÁC PHẨM “ĐẠO ĐỨC KINH” CỦA LÃO TƯ
1.1. Một số nét về hoàn cảnh kinh tế, xã hội Trung Hoa thời Xuân thu,
Chiến quốc
1.1.1. Đặc điểm phát triển kinh tế Trung Hoa thời Xuân
thu, Chiến quốc
Thời kỳ chiếm hữu nô lệ ở Trung Hoa bắt đầu từ thế kỷ XXI (TCN) đến
thế kỷ thứ III (TCN). Thời cuối nhà Ân sản xuất, chăn nuôi phát triển và Quan
hệ sản xuất phong kiến đã bắt đầu xuất hiện. Bước sang thời kỳ Tây Chu, đã
thực hiện quốc hữu hoá tư liệu sản xuất, ruộng đất, phân biệt giữa thành thị và
nông thôn, kinh tế thị trường đã xuất hiện nhưng chưa độc lập, chưa có vai trò
lớn.
Thời kỳ Đông Chu (Xuân thu, Chiến quốc), xã hội Trung Hoa bước
sang thời kỳ biến động, nhà Chu suy yếu, các nước chư hầu nổi lên tiêu diệt
nhà Chu để xưng bá. Đặc biệt thời kỳ này người ta đã biết chế tạo công cụ
bằng sắt, những vũ khí bằng đồng. Cùng với sự phát triển của công cụ sản
xuất là sự phát triển trong sản xuất, nông nghiệp phát triển mạnh, xã hội có sự
phân công lao động giữa trồng trọt và chăn nuôi, giữa nông nghiệp và thủ
công nghiệp. Thương nghiệp cũng phát triển, giai đoạn này xuất hiện nhiều
trung tâm buôn bán, nhiều loại vật phẩm được đem ra làm hàng hoá như: tơ
lụa, đồ trang sức,... trình độ chế tác đã khá phát triển, điển hình các đồ trang
sức mức độ tinh xảo rất cao.
Thế kỷ thứ V-VI (TCN) xuất hiện nhiều trung tâm buôn bán, có những
nơi có cả người nước ngoài buôn bán. Thời kỳ này ruộng đất bị tư hữu hoá do
chiến tranh liên miên các nước thắng trận thu được nhiều ruộng đất, của cải;
một số thương nhân có nhiều tiền của dùng thủ đoạn để chiếm đất, biến thành
đất của mình. Thời kỳ này nghề luyện sắt rất phát triển, triều đình lập chức
6
“thiết quan” trông coi việc luyện sắt. Nhiều nước đã đúc tiền bằng kim loại,
đồng, vàng, trên tiền có ghi tên nước và ghi trọng lượng, giá trị tiền tệ. Từ đây
xuất hiện tầng lớp thương nhân chuyên cho vai nặng lãi, giàu có nhanh chóng,
bỏ tiền mua ruộng đất lập ra những trang trại có quân đội, quan lại địa phương
cũng bị mua chuộc, hoặc không làm gì được.
Nền kinh tế Trung Hoa lúc này có bước phát triển mạnh mẽ nhưng
chiến tranh liên miên làm phá hoại nền kinh tế. Trong thời kỳ này chỉ có một
số trở thành những người giàu có tạo thành một tầng lớp quý tộc gọi là hiển
tộc, phần lớn người lao động sống rất khổ cực. Viết về sự khốc liệt của thời kỳ
này có câu: “Đánh đề chiếm thành thây chết đầy thành, đánh để chiếm đồng
thây chết đầy đồng”. Sự phát triển kinh tế là tiền đề cực kỳ quan trọng cho
việc xuất hiện các học thuyết triết học, trong đó có học thuyết “vô vi” của Lão
Tử.
1.1.2. Đặc điểm xã hội, phát triển khoa học, văn hoá tư tưởng Trung
Hoa thời Xuân thu, Chiến quốc
Đặc điểm xã hội
Ở thời kỳ Tây Chu nhà Chu được tổ chức theo kiểu tông pháp bao gồm:
vua Chu được gọi là thiên tử và chư hầu bao gồm con, em, quý tộc nhà Chu
cầm quyền.
Tuy nhiên khi bước sang thời kỳ Đông Chu, quý tộc không chỉ có
người nhà Chu mà còn bao gồm những người làm ăn giàu có của những bộ
tộc khác. Cho nên quan hệ tông pháp không còn phù hợp. Những tầng lớp
khác không cam chịu sự bóc lột của nhà Chu, họ đấu tranh, các nước chư hầu
chiến tranh liên miên. Ngôi vị thiên tử của nhà Chu bị lung lay.
Thời kỳ này xã hội nhà Chu tồn tại nhiều mâu thuẫn:
Mâu thuẫn giữa tầng lớp có tài sản (hiển tộc) với giai cấp đại quý tộc
của nhà Chu đang cầm quyền.
Mâu thuẫn giữa tầng lớp quý tộc nhà Chu đang chuyển sang giai tầng
mới với một số quý tộc bảo thủ, lạc hậu nhà Chu .
7
Mâu thuẫn giữa quý tộc nhỏ, mới lên với giai cấp đại quý tộc.
Mâu thuẫn giữa tầng lớp sản xuất nhỏ, thợ thủ công với giai cấp quý
tộc, thị tộc nhà Chu và tầng lớp đại quý tộc mới lên.
Mâu thuẫn giữa nhân dân lao động với giai cấp đại quý tộc, thị tộc nhà
Chu và tầng lớp quý tộc mới lên.
Những mâu thuẫn này diễn ra ngày càng gay gắt đòi hỏi phải thay thế
chế độ chiếm hữu nô lệ tiến nhập vào chế độ phong kiến, giải tán nhà nước
của chế độ tông pháp, xây dựng nhà nước phong kiến, giải phóng lực lượng
lao động cho xã hội phát triển. Chính vì thế, thời kỳ này đã xuất hiện nhiều
trào lưu tư tưởng để đáp ứng nhu cầu đó của sự phát triển xã hội.
Sự phát triển của khoa học, văn hoá tư tưởng.
Về khoa học: Người Trung Hoa trước đó đã biết làm lịch (lịch can chi), một năm có 365 ngày, 3 năm có một năm nhuận. Quan sát được mặt
trăng và các vì sao, xem thủy triều, xác định được chu kỳ sinh trưởng của cây
trồng, biết thời tiết chia làm hai mùa: mưa và nắng.
Về văn hoá tư tưởng: thời kỳ này còn được gọi là thời kỳ “Bách gia chư
tử”, bởi vì thời kỳ này xuất hiện rất nhiều triết gia và các trường phái. Có
nhiều nhà kinh doanh rất giàu có, họ bỏ tiền ra nuôi tầng lớp trí thức, những
người có tài. Một số triết gia đã có tư tưởng duy vật biện chứng như: Sử Ngân
“nghe dân thì quốc gia thịnh vượng, nghe thần thì quốc gia suy vong”, Thúc
Hưng “cái gì dân muốn thì trời phải theo”, Tôn Tử nghiên cứu binh pháp (36
phép dùng binh). Có thể nói đây là thời kỳ văn hóa tư tưởng phát triển mạnh
mẽ trong lịch sử Trung Hoa.
1.2. Khái quát lịch sử trường phái Đạo gia
Đạo gia là trường phái triết học lớn của Trung Quốc. Trong Bách gia thì
Đạo gia mang đậm tính chất triết học hơn cả.
Xuân thu – Chiến quốc là thời kỳ thiên hạ đại loạn kéo dài, rất nhiều
học thuyết xuất hiện giải thích xã hội và đưa ra cách chữa trị khác nhau từ
nhiều phương diện khác nhau. Nho gia đại biểu cho tư tưởng của giai cấp đại
8
quý tộc, thị tộc nhà Chu, giai cấp đang thống trị xã hội. Pháp gia đại biểu cho
giai cấp địa chủ phong kiến trong tương lai. Mặc gia đại biểu cho tầng lớp du
hiệp (võ sĩ quí tộc nhất thế), thợ thủ công, tiểu thương sản xuất nhỏ. Đạo gia
đại biểu cho tầng lớp tiểu quí tộc, quí tộc phá sản, kẻ sĩ bị chèn ép bởi hai thế
lực đại quý tộc cũ, mới, họ không đủ sức vươn lên, rơi vào bi quan, cho rằng
đời quá hư hỏng không gì cứu vản được, nên một mặt chủ trương trốn đời,
tránh họa, mặc khác tuyên truyền học thuyết “vô vi”, xử thế theo “vô vi”, trị
nước theo “vô vi”, dưỡng sinh theo “vô vi”. Đây là những học thuyết mang
những hạn chế nhưng cũng chứa đựng phương cách tư duy độc đáo và sâu sắc.
Đạo gia chia làm ba thời kỳ phát triển:
Thời kỳ Lão Tử: Với tác phẩm Đạo Đức Kinh, tác phẩm thể hiện tư tưởng
muốn tránh xa nơi thị phi, ông chủ trương sống lánh đời, thực hiện “vô vi”.
Thời kỳ Dương Chu: Thế kỷ IV TCN, chủ trương sống toàn sinh, bảo
toàn sinh mạng là quan trọng. Muốn vậy, phải hạn chế dục vọng, coi thường
danh lợi, không đụng chạm, tranh giành nhau, quan hệ giữa người và người
giữ hoà khí.
Sách Mạnh Tử viết: “Dương chu vị ngã. Nhổ một mảy lông mà lợi cho
thiên hạ cũng không chịu, cả thiên hạ phụng dưỡng không cần” [16; tr.80];
Sách Hàn Phi Tử viết: “Ấy vậy kẻ chủ trương chẳng vào trong thành đang bị
lâm nguy, chẳng ở trong quân lữ, chẳng đổi một sợi lông chân để lấy được cái
lợi lớn cho thiên hạ…Đó là kẻ sĩ khinh vật trọng sinh” [7; tr.81]. Quan điểm
của Dương Chu có thể khái quát là Tồn ngã – Trọng kỷ – Quý sinh – Khinh
vật. Tuy nhiên, như Phùng Hữu Lan viết “Điều đáng tiết là tư tưởng đích
thực của Dương Chu không được trình bày liên tục trong bất cứ nơi nào, ta
phải lượm lặt mỗi nơi một ít trong tác phẩm của các tác giả khác” [16;
tr.79]. Cho nên, trong các sách ít đề cập đến ông, mà chủ yếu nhắc đến Lão
Tử và Trang Tử.
Thời kỳ Trang Tử: Cuối thế kỷ IV TCN, với tác phẩm “Nam Hoa
Kinh”. Trang Tử là người kế thừa Lão Tử. Ông chủ trương yêu thiên nhiên,
9
thuận thiên nhiên mà sống, tiêu diệt thoát tục. Người, vật, tự nhiên là một, coi
sống chết như nhau. Không quan tâm phải trái, đúng sai, vinh nhục… Chủ
trương tiêu dao để đạt được sự tự do tuyệt đối.
Trong thời đại con người ham danh lợi, luôn tranh giành nhau, chém
giết nhau. Vậy, câu hỏi đặt ra, ý nghĩa cao nhất của cuộc sống là gì, làm thế
nào để đạt được là chủ đề các nhà tư tưởng Đạo giáo hướng vào lý giải.
Như vậy, Lão Tử là người sáng lập ra Đạo gia, sau đó hơn một trăm
năm, Liệt Tử và Trang Tử nối nhau phát huy cái Đạo học của ông và làm cho
nó chiếm được một địa vị ngang với các học phái khác trong khoảng tiên Tần.
Nhưng sau Trang Tử, hầu như không một nhà đại biểu nào nổi trội, phát huy
sức mạng của Đạo gia, làm cho học thuyết Đạo Lão rơi vào bóng tối. Các
tông giáo sau này đều tự xưng là gốc nơi Lão học mà ra đều xuất hiện từ thời
Tần Hán trở xuống. Có bốn phái chính: Phái Huyền lý, phái Thần Tiên Đan
Đỉnh, phái Phù Lục, phái Chiêm Nghiệm. Tuy nhiên, những tông phái này
không có những tư tưởng giống với Lão học. Thậm chí vị giáo chủ của các
tông phái này không còn là bậc “ẩn quân tử” nữa mà biến thành Đức Thái
Thượng Lão Quân với những pháp thuật vô biên và có dưới bộ hạ mình
không biết bao nhiêu là thần tiên, ma quái. Đó là sự biến thiên của Đạo gia
trong các thời kỳ sau.
1.3. Lão Tử và tác phẩm “Đạo Đức Kinh”
1.3.1. Khái lược về Lão Tử
“Hỗn độn mà thành. Trước trời đất. Lặng lẽ trống rỗng.
Một mình không đổi. Đi mà không mỏi. Làm mẹ thiên hạ.
Không biết tên gọi. Nên gọi là Đạo”
Những lời lẽ khó hiểu trên đây được trích ra từ bài thơ dài 5000 chữ nói
về Đạo, thường gọi là “Đạo Đức Kinh”, được viết cách đây gần 2500 năm và
theo truyền thuyết, tác giả của nó là Lão Tử. Những trực giác nhạy bén trong
những câu thơ súc tích của cuốn kinh huyền hoặc này tạo thành một nguồn
10
minh triết sống động, mang lại an ủi, sự khuyên giải và giác ngộ cho hàng
triệu người trên khắp thế giới.
Xoay quanh vấn đề thân thế của Lão Tử có nhiều ý kiến khác nhau. Lão
Tử (tiếng Trung Quốc, cũng được chuyển tự thành Lao Tzu, Lao Tse, Laotze,
và một số từ khác) Lão Tử họ Lý, tên Nhĩ, tự Bá Dương, thuỵ là Đam. Là một
trong những nhà tư tưởng lớn trong Triết học Trung Quốc. Sự tồn tại của ông
trong lịch sử hiện vẫn đang còn được tranh cãi. Theo truyền thuyết, ông sống
ở thế kỷ thứ VI TCN. Nhiều học giả hiện đại cho rằng ông sống ở thế kỷ thứ
IV TCN, Thời Bách gia chư tử và Thời Chiến Quốc. Lão Tử được coi là
người viết cuốn “Đạo Đức Kinh” rất có ảnh hưởng, và ông được công nhận là
Khai tổ của Đạo gia (Đạo tổ).
Rất ít điều được biết về cuộc đời Lão Tử. Sự hiện diện của ông trong
lịch sử cũng như việc ông viết cuốn “Đạo Đức Kinh” đang bị tranh cãi rất
nhiều. Lão Tử đã trở thành một anh hùng văn hoá quan trọng đối với các thế
hệ người Trung Quốc tiếp sau. Về quê quán, truyền thuyết cho rằng ông sinh ra ở
huyện Khổ, nước Sở, hiện nay là Lộc Ấp thuộc tỉnh Hà Nam. Một số truyền
thuyết nói rằng khi sinh ra tóc ông đã bạc trắng, vì ông đã nằm trong bụng mẹ
tám hay tám mươi năm, điều này giải thích cho cái tên của ông, có thể được dịch
thành "bậc thầy già cả" và cũng có thể có ý nghĩa là "đứa trẻ già".
Theo truyền thuyết được ghi trong Sử ký Tư Mã Thiên, Lão Tử là
người cùng thời nhưng lớn tuổi hơn Khổng Tử và làm Thủ tạng thất (giữ kho
sách) trong thư viện triều đình nhà Chu. Khổng Tử có ý định hay đã tình cờ
gặp ông ở nước Chu (nơi Khổng Tử đến đọc các cuốn sách trong thư viện).
Theo những câu chuyện đó, Khổng Tử, đã tranh luận về lễ nghi và phép tắc,
vốn là nền tảng của Khổng giáo với Lão Tử. Truyền thuyết Đạo gia kể rằng
những cuộc tranh luận đó có ích cho Khổng Tử nhiều hơn so với những gì có
trong thư viện. Sử Ký Tư Mã Thiên có đoạn kể lại rằng “ Khổng Tử đến hỏi
Lão Tử về “lễ”, về học trò hỏi Khổng Tử, Lão Tử là người như thế nào,
Khổng Tử trả lời: Chim, ta biết nó bay như thế nào; cá, ta biết nó lội ra làm
11
sao; thú, ta biết nó chạy cách nào. Thú chạy, thì ta có lưới bắt nó; cá lội, thì ta
có dây câu ví nó; chim bay, thì ta có bẫy gài nó. Chí như con Rồng, thì ta
không biết nó theo mây theo gió mà bay liệng như thế nào. Nay ta thấy LãoTử như con Rồng !” [3;tr.8].
Sau này, Lão Tử thôi việc, có lẽ bởi vì quyền lực của triều đình nhà
Chu đã sụp đổ.
Tục truyền, Lão Tử thọ đến 160 tuổi, thậm chí lên 200 tuổi. Những
truyền thuyết đó đúng hay sai, thiết tưởng chẳng liên quan gì cho lắm đến
việc tìm hiểu tư tưởng, triết lý của Lão Tử. Sở dĩ Lão Tử trở thành một nhân
vật kỳ bí, sống mãi trong tâm hồn người Trung Quốc, nhất là trong tầng lớp
phi trí thức, phần lớn là do những truyền thuyết ảo huyền đó. Những truyền
thuyết về cuộc đời Lão Tử, điều nào thật, điều nào hư, chẳng ai nắm được. Vả
lại Lão Tử là một “ẩn giả”, nếu người ta biết rõ tận tường về đời tư của một
“ẩn giả”, thì đó mới là điều đáng ngạc nhiên.
Tư tưởng của Lão Tử được thể hiện trong tác phẩm “Đạo Đức Kinh,
mang nhiều triết lý sâu sắc. Người phương Tây đánh giá: “Lão Tử đâu phải
sống trong một nước Trung Hoa và cho thời kì của ông thôi đâu. Ông là một
trong những bậc thầy sâu sắc, thuần tuý nhất của loài người” [1;tr.1, 15;tr.17].
1.3.2. Khái lược tác phẩm “Đạo Đức Kinh”
Có nhiều ý kiến khác nhau về việc ra đời của tác phẩm “Đạo Đức
Kinh”. Sách sử ký kể lại rằng trên con đường đi về hưu khi đi đến ngọn đèo
cuối cùng – biên giới của vương quốc, người lính “hải quan” nhận ra nhà hiền
triết nổi tiếng, liền nài nỉ ông lưu lại một ít văn bản học thuyết của ông cho
hậu thế. Lưỡng lự một hồi, Lão Tử tạm quên cuộc viễn hành ông ngồi xuống,
lẹ làng sáng tác “Đạo Đức Kinh” trong 5.000 chữ. Nhiều cuốn sách ghi chép
và bức tranh về Lão Tử còn lại đến ngày nay, thường thể hiện ông là một
người già hói đầu với một chòm râu trắng hay đen và rất dài; ông thường cưỡi
trên lưng một con trâu nước. Có ý khiến cho rằng Lão Tử chỉ mới nói ra các
triết lý của ông mà thôi, giống như trường hợp của Giecsu, Phật, Khổng Tử.
12
Họ chỉ truyền lại bằng lời, còn tác phẩm thì mãi sau này do các đệ tử nhớ mà
chép lại thành sách.
Cũng có người tin rằng “Đạo Đức Kinh” được viết như một cuốn sách
hướng dẫn dành cho các Hoàng đế về việc họ phải cai trị đất nước như thế
nào theo một cách thức tự nhiên hơn: cai trị bằng cách không cai trị. Điều này
có thể thấy trong nhiều đoạn trong “Đạo Đức Kinh”, khi nói rằng: không tán
dương người quyền quý thì người dân không tranh tụng và không đề cao giá
trị đồ quý thì người dân không tranh cướp và dân chúng đói khổ là kết quả
của thuế nặng. Vì thế, không có nạn đói .
“Đạo” nghĩa là “Con đường”, “Đức” nghĩa là “Năng lực” và “Kinh”
nghĩa là “Sách cổ”. Vì thế cái tựa có thể chuyển dịch một cách đầy đủ là
“Cuốn cổ thư nói về Con đường và Năng lực của nó”. Trong tác phẩm “Đạo
Đức Kinh” Lão Tử đã tìm hiểu, lý giải về bản nguyên thế giới, nguyên lý của thế
giới để từ đó ông xây dựng học thuyết “vô vi” trong hiện thực cuộc sống, cụ thể
là “vô vi” trong xử thế, “vô vi” trong dưỡng sinh và “vô vi” trong trị nước.
Về kết cấu: “Đạo Đức kinh” gồm 2 quyển tổng cộng 81 chương chia
thành hai thiên. Thiên thượng từ chương 1 đến chương 37 mở đầu bằng câu
“Đạo khả đạo phi thường đạo”. Thượng kinh luận về chữ Đạo nên gọi là Đạo
kinh; Thiên hạ từ chương 38 đến chương 81 mở đầu bằng câu “Thượng Đức
bất Đức, thị dĩ hữu Đức”. Hạ kinh luận về chữ Đức nên gọi là Đức kinh.
Về hình thức: Các chương trong “Đạo Đức Kinh” không thống nhất
về hình thức, có câu rất ngắn, cũng có câu rất dài, số từ trong câu không thống
nhất với nhau.
Về nội dung: Nhiều chương trong tác phẩm có nội dung trùng lặp ý
với nhau, có những chương nội dung không nhất quán.
Đối với nhiều người, “Đạo Đức Kinh” là một tập hợp những câu châm
ngôn và tư tưởng không ăn khớp với nhau, đã được rất nhiều tác giả qua rất
nhiều thời viết ra. Đối với một số người khác “Đạo Đức Kinh” là một tập sách
rất đơn giản, trong sáng, có ý nghĩa mạch lạc thuần khiết nhất trong nội dung
13
và bố cục. Nó là một kiệt tác về triết lý và về Huyền học Trung Hoa. Mặc dù
có những yếu tố như cách ngôn, ca khúc hoặc cả những ẩn ý thần thoại được
thêm vào, “Đạo Đức Kinh” vẫn là một trước tác thuần nhất từ nguyên thuỷ.
Trái với các loại văn chương thường rất ưa chuộng màu sắc và cụ thể, ngược
lại, “Đạo Đức Kinh” rất cô đọng, kín đáo mà lại rất gợi ý sâu xa. Không tên
người, tên vật, địa danh; Không nhắc nhở tới vũ, nhạc, lễ nghi, đình đám,
chiến tranh, thiên nhiên cũng trở nên vô hình; Công việc con người lại được
diễn đạt bằng “vô vi”, tôn giáo cũng không được nhắc đến, lại càng không hề
có những dấu vết về các nghi thức Lão giáo, bùa chú, bói toán..”Đạo Đức
Kinh” quả là hạt ngọc trân châu, một viên ngọc quý của trí tuệ Trung Hoa.
Cho tới nay, “Đạo Đức Kinh” là tác phẩm có lượng phát hành bằng
tiếng nước ngoài lớn nhất [17;tr.12], “Đạo Đức Kinh” là một trong tứ đại kỳ
thư Đông Phương đó là: Kinh Dịch, Mai Hoa Dịch, Hoàng Đế Nội Kinh, Đạo
Đức Kinh [21].
Có tới cả trăm bản dịch ra các thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha,
v.v. Riêng trong tiếng Việt có các bản dịch của Nguyễn Duy Cần, Nghiêm
Toản, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Tôn Nhan, Giáp Văn Cường, Phan Ngọc...
Hiện giờ bản dịch “Đạo Đức Kinh” gây ảnh hưởng nhất tại phương Tây là bản
tiếng Anh của nhà Hán học Anh đương đại Waley, có tiêu đề “Đạo và sức
mạnh của nó”. Ban đầu người phương Tây dịch ba chữ Đạo Đức Kinh lần
lượt là "Con đường" (The-way), "Đức tính" (Virtue) và "Kinh điển" (Classic).
Mãi đến thập kỷ 90 thế kỷ XX, vẫn có người phân “Đạo Đức Kinh” thành
"Đạo Kinh" và "Đức Kinh". Song hiện giờ cách dịch tên thông thường là dịch
âm tiếng Hán "Dao De Jing" hoặc "Dao Te Ching".
Có thể nói trong kinh điển Trung Hoa, “Đạo Đức Kinh” là tác phẩm có
tầm triết lí cao sâu, chứa đựng nhiều quan điểm tiến bộ, sâu sắc, nên đã có
người đánh giá “Vài dòng chữ hợp thành quyển sách ấy, chứa đựng tất cả sự
khôn ngoan của quả đất này” [13; tr.29].
Qua khảo cứu, toàn bộ Thượng Kinh và Hạ Kinh của “Đạo Đức Kinh”
có các nội dung nổi bật sau: Học thuyết về Đạo, học thuyết về Đức, học
14
thuyết “vô vi”. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể giá trị tác phẩm “Đạo Đức
Kinh” là học thuyết “vô vi”.
Chương II
CƠ SỞ TRIẾT HỌC CỦA HỌC THUYẾT “VÔ VI” TRONG TÁC
PHẨM “ĐẠO ĐỨC KINH” CỦA LÃO TƯ
Cơ sở triết học của học thuyết “vô vi” là học thuyết về Đạo, chính là
quan niệm của Lão Tử về thế giới, ông cho rằng bản thể của vũ trụ là “vô vi”
cho nên mọi hoạt động của con người phải theo nguyên lý đó của bản thể.
Theo Lão Tử những cái biểu hiện bên ngoài - “hữu vi” – sẽ bị thay đổi theo
từng giai đoạn cho nên hành động của con người tuân theo “hữu vi” chỉ phù hợp
với từng giai đoạn nhất định. Vì thế, con người phải hành động theo “vô vi” tức
là hành động theo cái bản chất vốn có của thế giới là hành động theo Đạo.
Thực chất tác phẩm “Đạo Đức Kinh” là bàn về vấn đề xử thế của con
người; cách rèn luyện cơ thể của con người và cách chọn con đường trị nước.
Thế nhưng, để thực hiện được “vô vi” trong xử thế, dưỡng sinh và trị nước thì
Lão Tử nghiên cứu về Đạo, về bản thể của vũ trụ, nghiên cứu cái cốt lõi của
mọi hành vi, của mọi sự vật, để làm cơ sở lý luận cho việc trình bày học
thuyết “vô vi” .
Với ý nghĩa đó cho nên, vấn đề thế giới quan và nhận thức luận được
đánh giá là cơ sở triết hoc cho học thuyết “vô vi” của Lão Tử.
2.1. Thế giới quan của Lão Tử trong tác phẩm “Đạo Đức Kinh”
Lão Tử không phải là người duy nhất có quan niệm về thế giới. Khi tư
duy con người đạt đến trình độ nhất định - có tư duy lý luận - con người có
nhu cầu tìm hiểu về thế giới xung quanh mình. Thế giới này do đâu mà có,
con người do đâu mà có, thế giới này tồn tại như thế nào,…hầu hết các triết
gia cổ đại cả phương Đông và phương Tây đều đi tìm hiểu, lý giải, quan niệm
khác nhau về thế giới.
15
Các triết gia Hy lạp cổ đại, thường bàn đến vấn đề bản nguyên của thế
giới, thế giới sinh ra như thế nào, bản chất là gì… Talet (640 – 546 TCN) cho
rằng nước là bản nguyên của vũ trụ, mọi vật trên thế giới đều được sinh ra từ
nước; Theo Anaximen (540 – 480 TCN), không khí là nguyên tố của vạn vật;
Anaximăngdrơ (610 – 547 TCN) cho rằng, bão vũ trụ hồi đầu là một khối lữa
bao bọc hết thảy, trời là những vùng hơi nước, con người từ đất bùn sinh ra;
Quan niệm của Heraclic (576 – 480 TCN) lại khác, theo ông bản nguyên của
thế giới là lữa. Phát triển nhất của các triết gia duy vật thời kỳ này là
Đêmocric, ông quan niệm nguyên tử là bản nguyên của vũ trụ. Như vậy, do sự
hạn chế về mặt khoa học nên các triết gia Hy Lạp cổ đại quy bản nguyên của
thế giới về một sự vật cụ thể (nước, lữa, không khí,…) nhìn thế giới bằng con
mắt trực quan. Điều này đã tạo nên tính mộc mạc, chất phác, thô sơ trong triết
học Hy Lạp.
Một số quan niệm khác lại cho rằng, thế giới không phải do một vật
nào đó trong thế giới sinh ra, mà do một lực lượng siêu nhiên, một vị thần
thánh nào đó, có quyền lực tối cao sinh ra và quy định thế giới. Platôn cho
rằng, bản nguyên của thế giới là ý niệm; Hegel lại cho ý niệm tuyệt đối là cái
sinh ra thế giới này; Thiên chúa giáo quan niệm thế giới do Chúa sinh ra trong
sáu ngày và chúa chi phối mọi hoạt động của con người và tự nhiên; Hồi giáo
cho rằng thế giới này chịu sự chi phối, điều hành của Thánh A La.
Đó là quan niệm của người phương Tây, còn ở phương Đông, các triết
gia ít bàn về khởi thuỷ của thế giới. Nhưng họ vẫn nói đến vấn đề thế giới này
bị chi phối bởi cái gì? Người Ấn Độ quan niệm Brahman sinh ra và chi phối
mọi hoạt động của trần thế. Trung Hoa thời Xuân Thu chiến quốc (trừ Lão
Tử) ít bàn đến vấn đề khởi thuỷ của thế giới. Dân tộc Trung Hoa cũng như
mọi dân tộc khác, tin có trời và thờ trời. Họ cho trời là “gốc” của vạn vật, là
chúa tể của vạn vật, có tai mắt, ý chí, tri thức, có tình cảm như người. Trong
kinh Thi có nhiều câu diễn tả lòng tin tưởng với trời:
Thiên giám tại hạ (trời soi xuống dưới – Đại minh)
16
Thượng đế…giám quan tứ phương, cầu dân chi mịch (Thượng đế xem
xét bốn phương; tìm sự khốn khổ của dân để cứu giúp – Hoàng nhĩ)
Kính thiên chi nộ, vô cảm kí dự (phải sợ sự giận ghét của trời, không
dám đùa vui – Tiệt nam sơn) [12;tr.55]
Nhưng đó chỉ là tính ngưỡng chung của nhân loại thời bán khai, không
bàn gì tới sự sinh thành của vũ trụ.
Trung Hoa cũng có thuyết ngũ hành: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ vào
khoảng thế kỷ thứ V TCN, nhưng không cho một hành nào đầu tiên, thuyết
này ban đầu được áp dụng vào lịch sử, sau áp dụng trong khoa học, y học, lí
số học, chứ không dùng để giảng sự tạo thành vũ trụ. Ngoài ra còn có thuyết
Âm, Dương nhưng cái gì là động lực sinh ra hai khí đó thì người ta cho đó là
Thái cực. Khi đó sự biến hoá của vũ trụ được lý giải “Thái cực sinh Lưỡng
nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát quái” [12;tr.56]. Tuy
nhiên, xoai quanh vấn đề này vẫn còn nhiều bàn cãi.
Khi khoa học chưa phát triển, với những hiện tượng tự nhiên như:
mưa, nắng, động đất, bảo lũ,…những bất công trong xã hội không giải
thích được, loài ngươi khi ấy chỉ tìm cách giải thích bằng thần linh, những
quan niệm trực quan, truyền thuyết và thần thoại đầy tính huyền bí. Người
duy nhất không thừa nhận cách giải thích đó là Lão Tử. Ông cho rằng vũ
trụ và vạn vật đều có nguồn gốc. Như vậy, có thể nói, Lão Tử là người đầu
tiên trong triết học Trung Hoa bàn về nguồn gốc của vũ trụ. Trong tác
phẩm “Đạo Đức Kinh” Lão Tử đã lý giải về bản nguyên của vũ trụ, theo
ông bản nguyên của vũ trụ là Đạo.
Có thể nói, trong lịch sử triết học Trung Hoa cổ trung đại, trường phái
Đạo gia nói chung, tác phẩm “Đạo Đức Kinh” của Lão Tử nói riêng thể hiện
tính triết học đậm nét nhất. Chỉ có “Đạo Đức Kinh” của Lão Tử bàn nhiều về
vấn đề thế giới quan nói chung, bản thể luận nói riêng, sau đó vận dụng vào
trong lĩnh vực đời sống xã hội.
17
2.1.1. Quan niệm về Đạo của Lão Tử trong tác phẩm
“Đạo Đức Kinh”
Trong hệ thống triết học của Lão Tử, học thuyết về Đạo có một vị trí
quan trọng. Nó chi phối tất cả các vấn đề khác trong triết học của ông. Xuất
phát từ Đạo Lão Tử xây dựng hệ thống vũ trụ quan, và nhận thức luận tạo cơ
sở lý luận cho học thuyết “vô vi” của mình.
Nếu các triết gia Hy Lạp cổ đại quan niệm về bản nguyên của vũ trụ
bằng con mắt trực quan, quy bản nguyên của vũ trụ về một sự vật cụ thể nào
đó, một lực lượng siêu nhiên nào đó thì Lão Tử lại đi xa hơn, theo ông bản
nguyên vũ trụ là Đạo.
Thuật ngữ Đạo đã được sử dụng trước thời Lão Tử. Các văn bản cổ của
Trung Hoa như: Thượng thư, Kinh thi… thường nói đến Đạo với nhiều ý
nghĩa khác nhau như “thiên Đạo”, Đạo là đạo đức của con người - “nhân
Đạo”, Đạo là con đường, cách thức trị nước – “đạo trị nước”.Tuy nhiên đến
Lão Tử Đạo mới trở thành một nội dung sâu sắc và có hệ thống hơn mang ý
nghĩa là bản nguyên của vũ trụ. Nó được coi là phạm trù học cơ bản trong hệ
thống triết học của ông. Trong “Đạo Đức kinh” có tới gần 40 chương nhắc
đến Đạo. Xét về mặt bản thể luận, Đạo được Lão Tử trình bày theo ba mặt, đó
là thể, tướng và dụng.
Mặt thể của Đạo
Mặt thể của Đạo được Lão Tử dùng để chỉ nguồn gốc tối sơ, nguyên
thủy của vạn vật. Đạo chính là bản nguyên của vũ trụ, tổ tông của muôn loài.
ông gọi là “Đạo thường”, “Đạo vô”, ông viết: “Đạo khả Đạo phi thường Đạo,
danh khả danh phi thường danh” [12; tr.161]. “Đạo thường” là Đạo bản thể
vĩnh cữu, bất biến, không giống cái gì cả, nó không phải là cái này hay cái kia
cụ thể. Do đó, khó có thể nói rõ được về nó, ông viết “…đón nó thì không
thấy đầu, theo nó thì không thấy đuôi” [12;tr.185] con người chỉ có thể dùng
trực giác lĩnh hội được phần nào thôi. Đạo đó là vô thuỷ, vô chung nên
Đạo là cái tổng nguyên lý chi phối sự hình thành và biến hoá của trời
18
đất, là cái cực diệu, cực huyền cho vạn vật noi theo. Vì thế, Lão Tử viết: “ Có
vật gì hổn độn mà nên, sinh ra trước trời đất, vừa trống không, vừa lặng yên,
đứng một mình mà không thay đổi, lưu hành khắp mọi nơi mà không mỏi là
mẹ cả thiên hạ” [12; tr.137]
Có ý kiến cho rằng “Đạo của Lão Tử là một thứ rất huyền bí, thoát trần,
không thể dùng ngôn ngữ, khái niệm để nói và nhận thức về nó, là một thứ
siêu tự nhiên, thần bí, khó hiểu, một thực thể tinh thần tuyệt đối” [4; tr.27].
Thực ra theo Lão Tử, Đạo – cái bản nguyên của vũ trụ, vẫn có tính vật chất,
vẫn có thực chứ không phải cái siêu nhiên. Ông viết: “Đạo là cái gì thâm viễn,
tối tăm, mà bên trong có cái tinh tuý, tinh tuý đó rất xác thực và rất đáng tin”
[12;tr.109-110]; “có thể coi nó là mẹ của vạn vật trong thiên hạ” [12; tr.202]. Như
vậy, Đạo theo Lão Tử là “Đạo vô”, “vô thuỷ”, “vô chung” là cái Đạo tự nhiên,
không có gì huyền bí cả.
Cho nên, “Đạo thường” chính là cái danh dùng để chỉ nguồn gốc sâu xa
của thế giới vật chất, cũng như triết học Mác-Lênin dùng phạm trù vật chất
nói lên bản nguyên của thế giới, vật chất không phải cái gì cụ thể mà là khái
niệm do sự khái quát các thuộc tính của các sự vật trong thế giới. Theo Lão
Tử, Đạo là cái không có tên, là cái “vô danh”. Những cái có tên tức là cái cụ
thể rồi, thì không còn là nguồn gốc của vũ trụ nữa, mà biểu hiện, là hình thức
của Đạo. Có thể nói rằng bằng trực giác thiên tài Lão Tử đã phỏng đoán đúng
rằng không thể quy nguồn gốc của vũ trụ vào một cái gì cụ thể, cũng như
chúng ta cho rằng không thể đồng nhất vật chất với vật thể cụ thể vì… “điện
tử cũng vô cùng vô tận như nguyên tử, giới tự nhiên là vô tận” [4; tr.28]. Đến
đây ta thấy Lão Tử đã tiến xa các tư tưởng cùng thời. Nếu như các triết gia
khác quy bản thể của thế giới vào những sự vật hữu hình, cụ thể, còn các nhà
duy tâm cho rằng thế giới do một lực lượng siêu nhiên nào đó tạo ra, thì Lão
Tử với tư duy tầm khái quát cao hơn cho nên theo ông bản nguyên của thế
giới không phải là cái gì và cũng không phải là vị thần nào cả mà là Đạo.
19
Nói về mặt thể của Đạo, Lão Tử dùng nhiều thuật ngữ để diễn đạt, các
thuật ngữ này đều thống nhất với Đạo, song chỉ những tính chất khác nhau
của Đạo. Trước hết là tính chất khách quan, tự nhiên, thuần phác của Đạo.
Những tính chất này về sau là cơ sở cho ông xây dựng học thuyết “vô vi” yêu
cầu con người trong mối quan hệ với tự nhiên và xã hội phải tôn trọng những
tính chất đó của Đạo, cũng là tôn trọng bản chất vốn có của thế giới, quy luật
vốn có của thế giới.
Tính chất khách quan, tự nhiên của Đạo được hiểu nó vốn như thế,
hoàn toàn độc lập với ý muốn, nguyện vọng của con người. Nó sinh ra vạn vật
nhưng không có ý chí, không có dục vọng và mục đích. Nó cứ thản nhiên,
lạnh lùng, “Không vì kẻ rét mướt mà dẹp bỏ mùa động” [12; tr.170 - 171].
Đạo sinh ra vạn vật nhưng không coi vạn vật là của mình, để cho chúng vận
hành theo quy luật riêng, theo bản năng của chúng, chứ không can thiệp vào.
Nó vô tình coi vạn vật như là “chó rơm”. Chính tính khách quan đó mà trời
đất phó mặc tự nhiên, không can thiệp, chẳng có lòng nhân, còn vạn vật cứ tự
nhiên sinh sinh, hoá hoá, chẳng cậy chẳng khoe. Tính tự nhiên trong Đạo với
bản tính tự nhiên chứa đựng và viên hồng hết thảy cả cái tồn tại, cả cái tĩnh
lặng và biến đổi, cả cái siêu hình và hữu hình. Vì thế, không thể nói Lão Tử
đứng trên quan điểm duy vật hay duy tâm để bàn về Đạo. Đạo được thể hiện
trong cả hai và cả hai được thể hiện ra trong quá trình vận hành của nó. Theo
nghĩa đó, Đạo không do bất cứ cái gì sinh ra và không phụ thuộc vào bất cứ
cái gì, ngay cả con người. Thật vậy, khi quan niệm về bản nguyên của thế giới
các nhà Macxit cũng nêu ra thuộc tính của vật chất là “tồn tại khách quan”,
không phụ thuộc ý chí của con người nhằm phân biệt với những cái không
phải là vật chất.
Đề cao tính tự nhiên, thuần phác của Đạo, nên Lão Tử không thừa nhận
sự biến hoá của thế giới là tuân theo mục đích có sẵn của thế lực tự nhiên nào
đó. Ông phản đối việc lấy hành động tự giác và ý chí con người gán cho tự
nhiên cho nên trong hành động ông chủ trương “vô vi”, ông kêu gọi “dứt danh,
20
bỏ trí”, “Đạo pháp tự nhiên”, kịch liệt chống lại quan niệm “hữu vi” của các
trường phái Nho gia, Mặc gia. Quan niệm ấy chống lại mục đích luận của chủ
nghĩa duy tâm. Những nhà theo mục đích luận, cho rằng, mọi sự vật trong thế
giới này đều theo mục đích có từ trước rồi, như con người có mắt là để nhìn, có
mũi là đễ ngữi, tai để nghe,… cho nên con người mới có mắt, mũi, tai…
Chính thuộc tính tự nhiên thuần phác này của Đạo nên khi ông xây
dựng quan niệm về xử thế của con người cũng như về dưỡng sinh và trị nước
ông yêu cầu con người phải thuân theo thuộc tính của Đạo, điều đó cũng có
nghĩa là tôn trong thuộc tính tự nhiên của các sự vật hiện tượng và là hành
động một cách tự nhiên, chính là hành động theo Đạo, như ông nói là trở về
với Đạo.
Thuộc tính thứ hai của Đạo đựơc Lão Tử nói đến nhiều trong Đạo Đức
Kinh là tính chất lặng yên và trống không. Lão Tử thường dùng từ “cốc thần”
để chỉ tính trống rỗng, hư vô của Đạo. “Cốc thấn” chỉ “khoảng trống không
giữa lòng hang sâu, không hình, không ảnh, không trái, ở thấp không hèn,
không động, giữa lặng yên không suy…” [12;tr.173-174]. Sự lặng yên trống
rỗng của Đạo là một định tính của Đạo có tính chất căn bản. Sự trống rỗng
này vô cùng, vô tận, chứa đựng muôn vật vạn loài mà chẳng bao giờ đầy, biến
hoá không lường mà chẳng bao giờ kiệt. Quan niệm này thể hiện sự rộng lớn,
khoan dung, trầm tĩnh của Đạo. Cho nên trong hành động của con người cần
phải khoang dung, dữ Khiêm ái, luôn giữa mình ở thấp, ở sau thiên hạ.
Xét về mặt khái niệm Lão Tử không phải đi tìm những thuộc tính
chung của vạn vật mà thực chất ông đi tìm nguyên nhân đầu tiên, tối sơ, uyên
nguyên sinh ra vũ trụ, vạn vật để trả lời cho câu hỏi truyền thống của Triết
học Trung Hoa cổ đại, cái gì là cái đầu tiên sinh ra vũ trụ, vạn vật? Vì thế,
ông coi Đạo là mẹ của muôn loài, là chủ của trời đất, “Ta không biết Đạo cho
ai, hình hiện ra ngoài trước cả tiên đế” [12;tr.169]. Thế nhưng, cái đầu tiên,
uyên nguyên đó lại có trong tất cả các sự vật. Đạo lớn giàn giụa lan tràm khắp
nơi, không chổ nào không tới. Với quan điểm đó, mặt thể của Đạo cũng chính
21
là bản chất sâu kín, huyền nhiệm của vũ trụ, vạn vật. Đạo là cái bản thể của
vũ trụ nên trong tất cả mọi vật đều có Đạo. Điều này có phần giống triết học
Mác-Lênin, vật chất là bản nguyên của vũ trụ, nên trong tất cả các vật thể tồn
tại cụ thể đều có thuộc tính của vật chất là tồn tại khách quan, phương thức
tồn tại là vận động, không gian, thời gian.
Với quan niệm Đạo là bản nguyên của vũ trụ đã thể hiện tư tưởng biện
chứng của Lão Tử là tính thống nhất của thế giới ở Đạo. Khẳng định Đạo là
khởi thủy của vũ trụ Lão Tử bác bỏ thuyết trời, thượng đế sinh ra vạn vật, vì
vậy học thuyết của ông mang tính vô thần.
Mặt tướng của Đạo
Lão Tử dùng rất nhiều từ ngữ, hình ảnh để làm nổi bật hình dáng, trạng
thái của nó. Ông cho rằng: Đạo là cơ sở đầu tiên của vạn vật không phải một thể
đặc biệt cố định, mà là thực thể của khối hỗn độn, không có một tính quy định
nào, ngoài tính chất tự nhiên, khách quan, chất phác, trống rỗng, huyền diệu. Nó
là cái tồn tại tuyệt đối, sâu kính, mập mờ, thấp thoáng, là thể thống nhất hoà hợp
không phân chia giữa sáng và tối, vô và hữu. Nó không có hình trạng, “nhìn
không thấy, nghe không thấy, nắm không được, đón không thấy đầu mà theo
không thấy cuối, ở trên không sáng tỏ, ở dưới không mờ tối” [12; tr.184 - 185].
Nhưng đạo không bao giờ mất, nó tồn tại đầy vũ trụ, và là đầu của trời đất, là
“mẹ” của muôn vật. Các nhà Triết học Mác – Lênin quan niệm về vật chất cũng
vậy, vật chất là bản nguyên của vũ trụ, không phải cái gì cụ thể, không tồn tại
cảm tính mà chỉ là một khái niệm, là sản phẩm của tư duy, nên ta không thể
thấy được vật chất, không thể nghe được vật chất, không thể nắm được vật
chất và cũng không thể biết được hình dáng cụ thể của vật chất là gì. Đạo
cũng vậy, nó không phải như những vật tồn tại hiện hữu khác, mà con người
có thể nghe thấy, sờ vào nó được. Đây là một trong những quan điểm nổi bậc
của Lão Tử so với các triết gia thời kỳ đó. Vì thế, Đạo không diễn đạt bằng
lời, không thể gọi bằng các tên thường mà nếu đã gọi được tên thì không còn
là Đạo với tính chất là bản nguyên của vũ trụ nữa “Đạo khả Đạo phi thường
22
Đạo, danh khả danh phi thường danh” [12;tr.161]. Tức là, Đạo mà gọi được
tên thì nó không còn là Đạo vĩnh cữu bất biến nữa. Cho nên việc đặt tên cho
nó là Đạo cũng chỉ là sự gượng đặt, gọi là “Đạo vô danh”, “gượng cho nó là
vô biên, vô biên là bao biến, bao biến là tiêu tan, tiêu tan là quy hồi”
[12;tr.2022], “Đạo vô danh” nhưng nó vẩn tồn tại. Sự tồn tại của Đạo được
biểu hiện trong mỗi sự vật, hiện tượng đang tồn tại, biến hoá vô cùng vô tận.
Đạo vừa duy nhất vừa muôn hình vạn trạng, vừa bất biến, vừa biến hoá.
Theo Lão Tử, từ trời đến muôn vật và tất cả những gì có hình tượng,
màu sắc, âm thanh đều bắt đầu từ cái tự nhiên, sâu kín, không danh tính,
không hình thể, vô cùng, vô tận ấy, đó là Đạo vô danh. Vì thế, ông nói “Đạo
thường vô danh như gỗ chưa đẽo, khi làm ra mới có danh” [12;tr.231] và “mọi
vật trong thiên hạ sinh ra từ hữu, hữu sinh ra từ vô” [12;tr.226-227]. Đến đây
ta đã gặp triết lý “Vô”, “Hữu” của Lão Tử. Đạo - Vô - là khởi thuỷ sinh ra
hữu. Lão Tử viết: “Không tên là đầu của trời, có tên là mẹ của vạn vật, hai
cái đó đồng với nhau, cùng một gốc tên khác nhau” [12;tr.167]. Tư tưởng này
thể hiện rõ bản chất Đạo tự nhiên. “Hữu” (có) – “Vô” (không) là hai mặt đối
lập phổ biến nhất và đó chính là biểu hiện của Đạo trong vũ trụ. Đó còn là
nguồn gốc sinh ra vạn vật chứ không chỉ cái hữu mới liên quan đến sự sinh
thành. Tính chất hữu, vô trong Đạo có ý nghĩa trực tiếp cho việc xây dựng học
thuyết “vô vi” của Lão Tử.
Trong cuốn Nguyễn Hiến Lê có 98 chỗ nói về vô, còn cuốn Thu Giang,
Nguyễn Duy Cần có tới 97 chỗ. Khác với các học thuyết triết học trong lịch
sử chủ yếu bàn về hữu, còn triết lý Lão Tử chủ yếu bàn về vô.
Với triết lý hữu, vô cho thấy, vạn vật trong thiên hạ từ hữu mà sinh ra,
hữu lại từ không mà sinh ra. Tức Đạo là vô sinh ra vạn vật là hữu. Cho nên
trong cuộc sống con người cần phải thực hiện theo Đạo, nhận thức, phải nhận
thức theo Đạo, xử thế theo Đạo, trị nước phải thực hiện theo Đạo. Theo Lão
Tử, cái hữu là nguồn gốc trực tiếp còn cái vô là nguồn gốc sâu xa của vạn vật.
23
Tư tưởng này của Lão Tử trên thực tế có thể lý giải được về mặt khoa
học và trong thực tế. Như chúng ta biết, vạn vật đều có giống có nòi, con
người có cha me, tổ tiên, tất cả đều không phải tự nhiên mà có. Khoa học đã
chứng minh rằng, vũ trụ ban đầu chỉ là một khối khí mênh mông, lúc đó chưa
có con người nên không thể có một khái niệm, một cái tên nào, nên tất cả chỉ
là vô danh. Chỉ khi con người đã sáng tạo ra ngôn ngữ, khái niệm, thì mọi vật
được phát hiện ra, mới hữu danh, từ đó vạn vật sinh sôi nảy nở ngày một
nhiều và được gọi theo cái danh đã có. Đó là ý nghĩa câu vạn vật trong thiên
hạ từ hữu mà sinh ra. Còn hữu lại từ vô mà sinh ra, tức là. Khi chưa biết đến
một sự vật nào, chưa đạt được cái tên gọi thì sự vật thực sự chưa có đối với
con người, tức nó là “vô”, nhưng không hoàn toàn là không có gì, không hoàn
toàn là hư vô mà chỉ là không tên. Hiện nay, vật lý học hiện đại đã phát hiện
ra được giới hạn của mình ở mật độ vật chất tối đa là 10 93 gram/cm3. Ngoài
giới hạn đó, các quy luật vật lý không còn tác dụng được nữa. Nhưng sự phát
triển của điện động lực học lượng tử gần đây cho thấy có tồn tại một môi
trường vật chất đặc biệt gọi là chân không vật lý (Vacuum). Nếu đủ điều kiện
về năng lượng, chân không đó sẽ sản sinh ra những cặp hạt nhân – phản hạt,
đẻ ra mọi hạt vật lý đủ loại qua các pha thăng giáng. Vacuum này có mật độ
vật chất 1094 gram/cm3. Đây là một nghịch lý bởi lẽ cái gọi là chân không theo
quan niệm thông thường là không có cái gì cả (vô, không), nhưng như ta thấy,
nó lại có mật độ rất lớn và chính nơi này đã diễn ra những chuyển hoá dữ dội
nhất. Trong cuốn “Vật lý học các hạt cơ bản” L.Okur còn đi xa hơn nữa,
chứng minh có nhiều loại chân không và tồn tại một chân không cuối cùng –
chân không nguyên thuỷ. Chân không đó luôn có các năng lượng truyền qua
và những trường năng lượng này có thể được mô tả dưới dạng sống. Điều này
có thể được lý giải trong cuộc sống.
Trong “Đạo Đức Kinh” sự thống nhất giữa hữu và vô được Lão Tử
minh hoạ: “ba mươi hoa tai cùng quy vào một cái bầu, nhưng chính nhờ vào
cái khoảng không trong cái bầu xe mà xe mới dùng được. Nhồi đất sét để làm
24
chén bát, nhưng chính nhờ khoảng trống không đó mà chén bát mới dùng
được. Đục cửa và cửa sổ để làm nhà, chính nhờ cái trống không đó mà nhà
mới dùng được. Vậy ta tưởng cái có (bầu xe, chén, bát, nhà) mới có lợi cho ta,
mà thực ra cái không mới là cái có hữu dụng” [12;tr.180]. Như vậy, Đạo cũng
như vạn vật là sự thống nhất giữa hữu và vô, chính điều này là điều kiện tất
yếu cho sự vận động và tồn tại của mọi sự vật, hiện tượng trong hiện thực.
Điều này không mâu thuẫn với quan điểm triết học Mác – Lênin. Trên thực tế,
bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng đồng thời có hai trạng thái vận động và
đứng im, luôn là nó mà cũng không là nó vì chúng có sự đứng im tương đối,
và luôn luôn vận động trong không gian, thời gian cụ thể.
Trong mối quan hệ giữa hữu và vô Lão Tử còn thấy cái đối lập – cái
trạng thái hiện hữu tiềm tàng ngay trong cái hiện hữu. Nghĩa là, khi cái đối
lập xuất hiện thì không phải nó đột nhiên là hữu, không phải khi nó xuất hiện
rồi ta mới biết, mà nó vốn là cái vô đã có mầm mống từ trong hiện hữu. Bởi
vậy, đối với Lão Tử, hoạ không chỉ là hoạ mà có mầm mống phúc và ngược
lại, hoạ – phúc, thiện - ác, chính – tà điều có thể hàm chứa lẫn nhau, chuyển
hoá lẫn nhau. Theo ông, đó là lẽ tự nhiên của Đạo, cũng như “Cây lớn một ôm
khởi sinh từ cái mầm nhỏ, đài cao chín tầng khởi đầu từ một sọt đất, đi xa
ngàn dặm bắt đầu bằng một bước chân” [12; tr.39].
Triết học Mác – Lênin cũng có nội dung thể hiện mối quan hệ giữa hữu
và vô trong vũ trụ. Đó là mối quan hệ giữa “khả năng” và “hiện thực”. khả
năng là cái chưa có nhưng không phải hoàn toàn không có mà chỉ là chưa
hiện hữu rõ ràng. Hiện thực là cái có, cái đã tồn tại thực tế nhưng phải bắt
nguồn từ khả năng, nảy sinh trên cơ sở cái không tiềm tàng từ trước. Nghĩa là
không có khả năng thì cũng không có hiện thực.
Triết lý về hữu đến tột cùng sẽ bước sang triết lý vô. Cũng giống như
không nói (vô ngôn) lại là nói nhiều nhất. R.Gamzatov cho rằng người ta cần
hai năm để học nói nhưng phải cần đến sáu mươi năm để học yên lặng. Như
vậy, cái Đạo của Lão Tử, tức vô, không có hình dáng, nhưng chính cái vô đó
25