Những nét đặc trưng trong văn hoá Nhật Bản
1. Khái niệm văn hoá
Văn hoá được hiểu là hệ thống những tri thức, truyền thống, phong tục
tập quán, định hướng giá trị, chuẩn mực đạo đức và pháp luật, niềm tin, cách
tổ chức không gian sống.... cùng một hệ thống những dấu hiệu, ký hiệu có ý
nghĩa đối với nhóm.
2. Sơ lược về đất nước Nhật Bản
2.1 Vì sao có tên gọi Nhật Bản?
Nhật = Mặt trời, Bản = Gốc. Nhật bản là đất nước của gốc mặt trời,
nơi mặt trời mọc lên, xứ sở của mặt trời. Tên gọi này có nguồn gốc từ một
truyện thuyết. Chuyện kể rằng...
Ngày xửa ngày xưa, khi đã có trời và đất, chỉ có một dải phù sa tách
làm đôi. Phần trên là nơi ở của các thần linh. Phần dưới là nước mênh mông,
có hai vị thần dúng giáo khuấy đại dương phù sa cho đến khi sủi bọt lên
thành nơi trú chân. Vị thần nam tên là Izanagi, vị thần nữ là Izanami. Hai
bên nam nữ nhìn nhau, cảm xúc dạt dào. Thần nữ thốt lên: " Em cảm thấy
trong người thiêu thiếu cái gì ấy!". Thần nam đáp: " Anh lại cảm thấy trong
người thừa thừa cái gì ấy!".
Thế là cặp nam nữ vào cuộc mây mưa, một cuộc mây mưa không
mang lại kết quả gì vì bên nữ đã đi bước trước. Cuộc mây mưa thứ hai theo
đúng quy tắc hơn, do đó thần nữ sinh ra mọi thứ, mọi loài trong vũ trụ. Khi
sinh ra Thần Lửa, nữ thần Izanami chết bỏng. Nam thần xuống Âm phủ tìm
vợ, và cũng phạm phải điều cấm kỵ khi lê đường trở về dương thế đã ngoảnh
lại nhìn vợ. Chàng kinh khiếp quá khi thấy thân xác vợ thối rữa, lúc nhúc
giòi bọ, chàng vội vã tháo lui. Âm dương cách trở, hai vợ chồng thành kẻ
thù địch. Nàng bảo: "Đã vậy mỗi ngày ta sẽ bóp chết một nghìn thứ mà anh
tạo ra". Chàng bảo: "Đã vậy, ta sẽ tạo ra một nghìn năm trăm thứ".
Về đến trần gian, Izanagi vội tắm rửa tẩy uế ở một dòng suối. Tất cả
những chất trong người mà thần tống ra, tất cả quần áo thần cởi ra, đều tạo
thành những vị thần.
Trong các vị thần ấy, vị thần bậc nhất phải dành cho thần Mặt trời là
Amateraxu. Nữ thần được sinh ra từ một giọt nước mắt bên trái của thần
Izanagi. Nữ thần Mặt trời đúng đầu tám trăm vạn thần của vũ trụ, bị anh là
thần Bão Xuxano Ô hành hạ, bà trốn vào một cái động, khiến cho thế giới tối
tắm. Các thần khác đến tìm, bà không chịu ra. Các thần liền cất tiếng cười
vang và nhảy múa khêu gợi sự tò mò của bà. Bà vừa ra khỏi động thì họ đưa
cho bà xem một cái gương, một chuỗi hạt đeo cổ và vải màu trắng, màu
xanh da trời. Trong khi bà mê mấy vật làm đỏm, các thần đóng cửa động lại,
bà không vào được nữa. Và thế giới lại được chiếu sáng.
2.2 Vị trí địa lí, địa hình
Nhật Bản là một đảo quốc ở Đông Bắc Á. Các đảo Nhật Bản là một
phần của dải núi ngầm trải dài từ Đông Nam Á tới Alaska. Nhật Bản có bờ
biển dài 37.000 km, có đá lớn và nhiều vịnh nhỏ. Đồi núi chiếm 73% diện
tích tự nhiên cả nước, trong đó không ít núi núi lửa, có một số đỉnh núi cao
trên 3000 mét, hơn 532 ngọn núi cao hơn 2000 mét. Ngọn núi cao nhất là
núi Phú Sĩ cao 3776 mét. Giữa các núi là các cao nguyên và bồn địa. Nhật
Bản có nhiều thác nước, suối, sông và hồ. Đặc biệt, ở Nhật Bản có rất nhiều
suối nước nóng, là nơi hàng triệu người Nhật thường tới để nghỉ ngơi và
chữa bệnh.
Vì nằm ở tiếp xúc của rìa lục địa, nên Nhật Bản hay có động đất gây
nhiều thiệt hại. Động đất ngoài khơi đôi khi gây ra những cơn sóng thần.
Vùng Hokkaido và các cao nguyên có khí hậu á hàn đới, các quần đảo ở
phương Nam có khí hậu cận nhiệt đới, các nơi khác có khí hậu ôn đới. Mùa
đông, áp cao lục địa từ Siberi thổi tới khiến cho nhiệt độ không khí xuống
thấp,vùng Thái Bình Dương có gió khô và mạnh. Mùa hè, đôi khi nhiệt độ
lên đến trên 30 độ C, các khu vực đô thị có thể lên đến gần 40 độ C. Không
khí mùa hè ở các bồn địa nóng và ẩm. Vùng ven Thái Bình Dương hàng năm
chịu một số cơn bão lớn
Vì là một đảo quốc, nên xung quanh Nhật Bản toàn là biển. Nhật Bản
không tiếp giáp quốc gia hãy lãnh thổ nào trên đất liền. Trên biển, Nhật Bản
có vùng đặc quyền kinh tế với đường viền danh nghĩa cách bờ biển 200 hải
lý, song trên thực tế ở các vùng biển Nhật Bản và biển Đông Hải thì phạm vi
hẹp hơn nhiều do đây là các biển chung. Tương tự, vùng lãnh hải của Nhật
Bản không phải hoàn toàn có đường viền cách bờ biển 12 hải lý. Đường bờ
biển của Nhật Bản có tổng chiều dài là 33.889 km.
2.3 Khí hậu
Khí hậu Nhật Bản cũng phân chia làm 4 mùa rõ rệt như như Việt
Nam: Xuân-Hạ-Thu-Đông. Mùa xuân bắt đầu vào đầu tháng 3, với thời tiết
mát mẻ dễ chịu. Mùa hè bắt đầu vào tháng 6, nhiệt độ dao động từ 30 – 35
độ C. Mùa thu bắt đầu từ tháng 9 và kết thúc vào tháng 11, là mùa đẹp nhất
tại Nhật Bản, đặc biệt cào cuối tháng 10 khi lá cây chuyển dần sang màu
vàng, đỏ. Mùa đông đến với người dân Nhật Bản từ đầu tháng 12 đến hết
tháng 2, Ngoại trừ vùng Okinawa do có khí hậu á nhiệt đới thì các vùng
khác đều có tuyết rơi vào mùa đông.
2.4 Kinh tế
Nhật Bản là nước rất nghèo về tài nguyên, phần lớn nguyên nhiên liệu
phải nhập khẩu. Là quốc gia có nền kinh tế đứng thứ 3 thế giới sau Mỹ và
Trung Quốc. Nhật Bản có nền công nghiệp rất phát triển và là nơi tập trung
của rất nhiều nhà sản xuất có công nghệ tiên tiến bậc nhất thế giới về các sản
phẩm xe hơi, thiết bị điện tử, công cụ, máy móc, công nghiệp tàu thủy, hóa
học, dệt may, nông nghiệp, chế biến. Cán cân thương mại và dự trữ ngoại tệ
đứng đầu thế giới. Nhật Bản có nhiều tập đoàn tài chính, ngân hàng đứng
đầu thế giới. Đơn vị tiền tệ: yên Nhật.
2.5 Thể chế chính trị
Nhật Bản là nhà nước Quân chủ lập hiến. Đứng đầu là nhà Vua ( Nhật
Hoàng) tượng trưng cho quyền lực của đất nước. Vua chỉ xuất hiện trước
công chúng trong các nghi lễ và các dịp trọng đại và chỉ tham gia các hoạt
động của nhà nước như công bố, tuyên bố theo quyết định của Thủ tướng và
Nội các. Hệ thống chính trị của Nhật Bản dựa trên nguyên tắc tam quyền
phân lập: Lập pháp – Hành pháp – Tư pháp.
2.6 Dân số
Dân số Nhật Bản khoảng 127 triệu người ( tính đến 01/11/2014). Là
một trong những nước có tuổi thọ dân số cao nhất thế giới, trung bình 84
tuổi ( Nữ giới : 86,6 tuổi, Nam giới 80,2 tuổi). Tuy nhiên, Nhật Bản đang
phải đối mặt với tình trạng già hóa dân số do tỷ lệ sinh ngày càng giảm, tuổi
thọ bình quân tăng.
2.7 Giao thông
Cuộc sống ở Nhật Bản không thể không kể đến tàu điện, phương tiện
thông dụng nhất của người dân bởi nó vừa rẻ lại tiện lợi. Tàu điện ở Nhật
gồm loại tàu thường và tàu cao tốc. Tàu thường hay còn gọi là tàu “Local”,
thường đỗ tại các ga mà nó chạy qua. Khoảng cách các ga trong thành phố
chỉ cách nhau khoảng 1km và ngoại ô là khoảng 2,3km. Tàu nhanh và tàu
cao tốc thường chỉ dừng lại ở các ga lớn, tiết kiệm thời gian cho những
người đi xa, đáp ứng tối đa nhu cầu đi lại của người dân Nhật Bản.
2.8 Quốc kỳ và quốc ca
Quốc kỳ của Nhật Bản là một lá cờ nền trắng với một hình tròn đỏ lớn
ở trung tâm, tượng trưng cho mặt trời.
Quốc ca của Nhật là Kimi Ga Yo.
3. Đặc trưng trong văn hoá Nhật Bản
Nhật Bản là một quốc đảo. Tính chất "đảo" là một yếu tố hết sức quan
trọng đổi với nước này. Người ta xem quần đảo Nhật Bản là "hạt kê ở xa tít
bên rìa vũ trụ". Do sinh hoạt trên các đảo tách biệt với lục địa nên các nhóm
chủng tộc ở Nhật có điều kiện thuận lợi trà trộn để sớm hình thành trong lịch
sử một dân tộc thống nhất với những nét riêng biệt và một sự thống nhất về
văn hoá. Vì tính chất "đảo" khiến cho tâm lý người Nhật có khuynh hướng
"hướng nội". Do giao thông giữa đảo và lục địa khó khăn, nên những yếu tố
văn hoá ngoại lai không thấm dần mà có những lúc nhập vào ồ ạt. Đã tạo
điều kiện cho một nền văn hoá Nhật Bản có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa
truyền thống và văn hoá hiện đại tạo nên các nét đặc trưng trong văn hoá của
Nhật Bản.
3.1 Ẩm thực
Không như ẩm thực Việt nam đặc trưng với tính chất phối trộn nguyên
liệu và gia vị một cách tổng hợp. Mà ẩm thực Nhật Bản không lạm dụng quá
nhiều gia vị mà chú trọng làm nổi bật hương vị tươi ngon, tinh khiết tự nhiên
của món ăn. Các món ăn Nhật Bản đều tuân theo quy tắc tam ngũ: ngũ vị,
ngũ sắc, ngũ pháp. Ngũ vị bao gồm: ngọt, chua, cay, đắng, mặn. Ngũ sắc có:
trắng, vàng, đỏ, xanh, đen. Ngũ pháp là: sống, ninh, nướng, chiên và hấp.
Hương vị món ăn Nhật thường thanh tao, nhẹ nhàng và phù hợp với thiên
nhiên từng mùa. Do vị trí địa lý bốn bề bao quanh đều là biển, hải sản và
rong biển chiếm phần lớn trong khẩu phần ăn của người Nhật. Lương thực
chính của người Nhật là gạo. Nhắc tới món ăn của người Nhật, ta sẽ nghĩ
ngay đến sushi, bánh washagi và rượu sake.
Từ xưa, người Nhật đã biết cách ủ cá, tôm, hải sản vào nắm cơm để
giữ được mùi vị thơm ngon. Khi ủ, cơm thường được trộn với một chút giấm
cho chua chua ngọt ngọt. Mà cũng chính vì thế mà cá ủ trong cơm được
chuyển hóa thành sushi. Sushi chính là một kiệt tác thành công trong cách
chế biến ẩm thực của người Nhật Bản. Ngày nay, người ta xem món sushi là
quốc thực của Nhật Bản.
Món Sushi
Bên cạnh món sushi nổi tiếng, còn có washagi là tên bánh truyền
thống của Nhật được làm từ bột bếp, nhân đậu và hoa quả. Người ta luôn
dọn washagi vào bữa trà,dùng với một cây xiên nhỏ.Wagashi cũng là biểu
tượng của sự hiếu khách, người ta thường tặng nó trong các buổi lễ cưới, lễ
sinh nhật. Wagashi tượng trưng cho sự hài hòa với thiên nhiên. Người làm
wagashi luôn lấy cảm hứng từ thiên nhiên bốn mùa của trời đất, từ văn
chương, nghệ thuật, thơ ca. Tùy theo mỗi mùa, những nghệ nhân làm
wasaghi sẽ dùng những lọai nguyên liệu của từng mùa để cho ra đời những
chiếc bánh Wagashi độc đáo.
Bánh Washagi
Không như rượu gạo ở Việt Nam, Trung Quốc hay Hàn Quốc chỉ đơn
thuần là một thức uống. Rượu sakê không đơn thuần chỉ là một loại đồ uống
trong bữa ăn.Ý nghĩa văn hóa – tôn giáo đặc biệt của rượu sakê là ở chỗ nó
không chỉ là cầu nối giữa con người với con người mà còn là cầu nối giữa
con người với thần linh. Gạo là loại lương thực chủ yếu của người Nhật,
đồng thời gạo cũng là nguyên liệu chính để tạo nên rượu sake. Trong quan
niệm của người Nhật Bản, thần của rượu sake chính là thần mùa màng. Vì
thế, rượu sake giữ vai trò rất quan trọng trong nhiều lễ hội tôn giáo cũng như
trong các sự kiện quan trọng. Nét đặc sắc của rượu sake so với các loại rượu
danh tiếng khác trên thế giới bắt nguồn từ vị trí địa lý của Nhật Bản. Qua
nhiều thế kỷ, người Nhật vẫn giữ phương pháp làm rượu sake độc đáo của
mình như một nét văn hóa riêng không hề bị pha trộn. Đến thế kỷ 20, một số
kỹ thuật nấu rượu mới đã được áp dụng và đặc biệt người ta đã bắt đầu thêm
cồn nguyên chất vào rượu sake. Tuy kỹ thuật nấu rượu Sake có thể thay đổi
nhưng vai trò của nó trong văn hóa Nhật Bản chưa bao giờ thay đổi. Sake
luôn có chỗ đứng trong những bữa tiệc, những nghi lễ quan trọng của đất
nước: từ cưới xin cho tới lễ tết. Đến thế kỷ 20, một số kỹ thuật nấu rượu mới
đã được áp dụng và đặc biệt đến Thế chiến thứ 2, người ta đã bắt đầu thêm
cồn nguyên chất vào rượu sake. Sake có thể uống khi nguội, hoặc ấm nóng,
tùy theo mùa.
Rượu Sake
Ngoài thức ăn và đồ uống, trong ẩm thực người Nhật rất chú trọng tới
sự sắp đặt bàn ăn và nghi thức trong bữa ăn.
Người Nhật Bản theo truyền thống ngồi xếp bằng tròn trên các miếng
đệm quanh bàn ăn thấp. Các bữa ăn được dùng bằng đũa gỗ hoặc inox, và
một cái thìa. Người Nhật nói chung không bới cơm hoặc canh sang chén bát
riêng mà được đặt sẵn ở trên bàn cho từng người và ăn bằng đũa. Người
Nhật ít khi sử dụng thìa trong bữa ăn, kể cả súp đôi khi cũng dùng đũa. Cách
sắp đặt một bữa ăn cơ bản, bao gồm:
- Cơm cho mỗi người trong bát sâu bằng gốm, thép không gỉ hoặc gỗ sơn
mài, luôn có nắp đậy ở phía bên trái người ăn.
- Canh nóng cho mỗi người trong một cái bát nông hơn, đặt phía bên phải
chén cơm. Hoặc dùng chung trong bát canh to đặt giữa bàn.
- Đũa đặt ngang, ở phía gần người ăn.
Mặc dù không có trật tự định trước khi ăn nhiều món trong một bữa
ăn truyền thống, nhiều người Nhật Bản bắt đầu ăn một ít canh trước khi ăn
những món khác theo bất cứ trật tự nào họ thích. Người Nhật nói chung
không bới cơm hoặc canh sang chén bát riêng mà được đặt sẵn ở trên bàn
cho từng người và ăn bằng đũa. Khi ăn một số thức ăn có nước như ramen
hay udon có thể đưa cả bát lên miệng để húp nước dùng. Thìa thường được
sử dụng khi ăn một số món ăn nấu theo kiểu phương Tây, như món hầm có
sữa kurimu shichu, cơm với cà ri hay cơm trứng omelette. Một số loại bánh
ngọt truyền thống như wagashi thường được ăn cùng với nước trà, khi ăn
dùng một chiếc xiên nhỏ làm bằng tre hoặc gỗ để lấy bánh.
Những hành vi bất lịch sự trong bữa ăn: dùng đũa đang ăn gắp đồ ăn
cho người khác, cầm đũa hay thìa trước khi người cao tuổi nhất bắt đầu ăn,
vừa mở miệng vừa nhai, nói chuyện khi đồ ăn vẫn còn trong miệng, cắm đũa
hay thìa thẳng đứng trong bát, chọc thức ăn bằng đũa, bốc thức ăn (cũng có
ngoại lệ), phát ra tiếng khi nhai hoặc gõ lách cách bằng thìa hay đũa, khuấy
những món ăn phụ để tìm thứ bạn muốn ăn, tự ý gắp bỏ vài thành phần ra
khỏi đồ ăn chung, hỉ mũi, ho và hắt xì hơi bất cẩn (bạn phải quay sang chỗ
không người và đặt tay lên miệng), không che miệng khi xỉa răng. Khi húp
canh húp bằng từng chút một, không được húp soàm soạp gây khó chịu cho
người khác. Không cần phải ăn hết các món dùng chung, nhưng theo phong
tục phải ăn hết phần cơm của mình. Các bát đựng thức ăn ăn kèm thường
hay ăn hết trong bữa ăn và sẽ được dọn thêm nếu chúng đã được dùng hết.
Việc yêu cầu dọn thêm món ăn phụ cũng có thể chấp nhận được.
3.2 Văn hoá trà đạo ở Nhật Bản
Trà đạo được biết đến như một loại nghệ thuật thưởng thức trà trong
văn hóa Nhật Bản. Từ việc đơn giản uống trà, chuyển sang cách pha và uống
trà, rồi nghi thức thưởng thức trà cho đến khi đúc kết thành trà đạo, đây là
một tiến trình không ngừng nghỉ mà cái đích cuối cùng người Nhật muốn
hướng tới đó là cải biến tục uống trà du nhập từ ngoại quốc trở thành một
tôn giáo trong nghệ thuật sống của chính dân tộc mình, một đạo lý với ý
nghĩa đích thực của từ này. Hiển nhiên ở đây trà đạo không đơn thuần là con
đường, là phép tắc uống trà mà trên hết là một phương tiện hữu hiệu nhằm
làm trong sạch tâm hồn bằng cách: trước tiên, hòa mình với thiên nhiên, để
từ đây tu sửa tâm, nuôi dưỡng tính và đạt tới giác ngộ.
Tinh thần của trà đạo được biết đến qua bốn chữ Hòa, Kính, Thanh,
Tịch.
“Hòa” có nghĩa hài hòa, hòa hợp, giao hòa. Đó là sự hài hòa giữa trà
nhân với trà thất, sự hòa hợp giữa các trà nhân với nhau, sự hài hòa giữa trà
nhân với các dụng cụ pha trà.
“Kính” là lòng kính trọng, sự tôn kính của trà nhân với mọi sự vật và
con người, là sự tri ân cuộc sống. Lòng kính trọng được nảy sinh khi tinh
thần của trà nhân vươn tới sự hài hòa hoàn toàn.
Khi lòng tôn kính với vạn vật đạt tới sự không phân biệt thì tấm lòng
trở nên thanh thản, yên tĩnh. Đó là ý nghĩa của chữ “Thanh”.
Khi lòng thanh thản, yên tĩnh hoàn toàn thì toàn bộ thế giới trở nên
tịch lặng, dù sống giữa muôn người cũng như sống giữa nơi am thất vắng vẻ
tịch liêu. Lúc đó, thế giới với con người không còn là hai, mà cả hai đều
vắng bặt. Đó là ý nghĩa của chữ “Tịch”.
Bốn chữ “Hòa, Kính, Thanh, Tịch” như một thước đo bản thân vị trà
nhân đang ở vị trí nào trên con đường Trà đạo.
Người Nhật có hẳn một căn phòng nhỏ dành riêng để uống trà, gọi là
trà thất hay còn gọi là "nhà không". Đó là một căn nhà mỏng manh với một
mái tranh đơn sơ ẩn sau một khu vườn. Cảnh sắc trong vườn không loè loẹt
mà chỉ có màu nhạt, gợi lên sự tĩnh lặng. Đó là một căn nhà mỏng manh với
một mái tranh đơn sơ ẩn sau một khu vườn. Cảnh sắc trong vườn không loè
loẹt mà chỉ có màu nhạt, gợi lên sự tĩnh lặng.Ngay trong phòng trà cũng ngự
trị một bầu không khí lặng lẽ cô tịch, không có màu sắc rực rỡ, chỉ có màu
vàng nhạt của tấm thảm rơm và màu tro nhạt của những bức vách bằng giấy.
Trà thất
Để chuẩn bị cho buổi tiệc trà gồm hai thứ cơ bản phải chuẩn vị bao
gồm nước và dụng cụ pha trà. Nước pha trà là quy chuẩn đầu tiên được đề
cập đến trong trà đạo Nhật Bản. Người Nhật tuyệt đối không bao giờ dùng
nước đang sôi để pha trà đối với tất cả các loại trà Nhật Bản, trà xanh, hay
trà bột dùng trong lễ dâng trà. Nước pha trà luôn phải được giữ trong một
bình thủy hay được nấu trong một ấm kim khí không đậy nắp được đun trên
bồn than rất yếu để giữ nước luôn ở khoảng 80 – 90 độ C. Bộ dụng cụ dùng
cho pha trà cũng rất đặc biệt, tinh xảo và có thay đổi theo từng thời đại.
Thông thường bao gồm: ấm pha trà, tách uống trà, bát sứ, dụng cụ nhỏ bằng
tre.
Dụng cụ pha trà
Quy trình thưởng thức trà của người Nhật rất công phu. Một buổi tiệc
trà thường kéo dài hơn bốn tiếng đồng hồ bao gồm cả việc pha và uống trà.
Trước tiên người pha trà cần phải làm ấm dụng cụ (tráng bằng nước sôi
trong bình thủy để làm ấm dụng cụ), sau đó dùng khăn lau khô trước khi sử
dụng. Việc cho trà vào ấm pha trà cũng không thể tùy tiện, với loại trà ngon
cỡ trung bình, người ta thường tính cho một người khách khoảng một muỗng
cà phê trà xanh nhưng nếu dưới 3 người khách thì lượng trà sẽ được cho
nhiều hơn một chút để tránh quá nhạt. Đối với loại trà xanh bình thường,
công đoạn “pha trà” được chia thành 3 lần:
- Lần thứ nhất: Trà được pha với nước nóng ở khoảng 60 độ C rồi ngấm trà
khoảng 2 phút trước khi rót cho khách. Nước pha trà lần đầu luôn được coi
là đậm đà nhất, mùi vị trà thấm vào vị giác nhiều nhất.
- Lần thứ hai: Trà được pha với nước nóng khoảng 80 độ C trong khoảng 3040 giây. Nước trà thứ hai tuy đã mất đi chút ít vị trà nhưng vẫn dậy hương
trà thơm ngon tạo nên nét độc đáo của trà xanh Nhật Bản.
- Lần thứ ba: Nước pha ở nhiệt độ khoảng 90 độ C, cũng khoảng 30- 40
giây.
Đối với những loại trà ngon đặc biệt, người ta có thể pha trà lần thứ 4
hay lần thứ 5 (cách thức pha như lần thứ 3) mà nước trà vẫn xanh và còn
mùi vị. Khi pha trà còn cần phải chú ý đến lượng nước pha trà sao cho vừa
đủ để mỗi lần rót trà cho khách phải hết trọn vẹn nước trong bình pha trà.
Nếu còn sót lại sẽ làm giảm chất lượng của lần uống trà kế tiếp vì sai nhiệt
độ và làm mất màu xanh của trà.
Pha trà
Cách thức uống trà của khách cũng được quy định nghiêm ngặt. Trước
khi uống, khách để hai tay xuống sàn nhà, cúi đầu chào mọi người, rồi cung
kính nâng chén trà lên, xoay bát ba lần theo hướng kim đồng hồ, sau đó từ từ
uống. Khi uống xong, khách xoay bát theo hướng ngược lại về chỗ cũ, rồi lại
nhẹ nhàng đặt bát xuống. Khi tất cả đã uống xong, mọi người lại cúi mình
chào nhau một cách kính cẩn rồi mới lần lượt ra về. Nếu là lần đầu tham dự
buổi trà đạo, chắc chắn bạn sẽ có cảm giác như chính bản thân mình đang
tham gia đóng một vở kịch với nhiều thao tác phức tạp và những tình tiết
nhỏ song vô cùng tinh tế.
Trong nghệ thuật trà đạo Nhật Bản, điều “cấm kị” khi rót trà là không
bao giờ rót trà cho khách một lần đầy tách rồi rót tiếp cho người khách kế
tiếp bởi điều này sẽ dẫn tới sự khác biệt về độ đậm nhạt của nước trà trong
mỗi tách. Do đó, tất cả các tách của khách đều được đặt trong khay trà rồi rót
theo thứ tự 1, 2, 3, 4… rót lần đầu khoảng 30ml (cho mỗi tách, cỡ lớn 70
ml), sau đó rót lần thứ hai với thứ tự ngược lại 4, 3, 2,1 mỗi lần khoảng 20ml
(sao cho mỗi tách có tổng cộng 50ml nước trà) nếu còn dư chút ít trong bình,
nên phân đều cho các tách. Sau đó mới đưa mời khách.
Người Nhật thường ăn kèm một vài loại bánh ngọt khi thưởng trà để
làm gia tăng hương vị của trà, loại bánh được sử dụng nhất là wagashi, vị
ngọt thanh của wagashi hòa quyện cùng vị đắng của trà xanh tạo nên một vị
khó tả, nhẹ nhàng lâng lâng. Một lưu ý nữa là phải ăn hết bánh trong miệng
rồi mới uống trà, không nên vừa ăn vừa uống, có thể mới cảm nhận hết được
hương vị độc đáo khi thưởng thức trà đạo Nhật Bản.
Trà và bánh ngọt
3.3 Kimono - Trang phục truyền thống của người Nhật
Cũng như Áo dài, Hanbok, Sườn xám là trang phục truyền thống của
người Việt, người Hàn, người Trung. Tại Nhật Bản, Kimono là y phục
truyền thống, là nét văn hoá độc đáo của con người nơi đây.
Người Nhật đã sử dụng Kimono trong vài trăm năm nay. Ngày nay,
Kimono thường được sử dụng vào các dịp lễ tết. Phụ nữ Nhật mặc Kimono
phổ biến hơn nam giới, thường có màu và hoa văn nổi bật. Kimono dành cho
nam giới thường không có hoa văn, màu tối hơn và thường được sử dụng
trong lễ cưới và các buổi trà đạo.
“Kimono” trong tiếng Nhật mang nghĩa là “quần áo”. Thế nhưng trải
qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử; ngày nay Kimono đã trở thành cái
tên quen thuộc khi nhắc đến trang phục của xứ sở hoa anh đào. Khác với các
trang phục truyền thống của các quốc gia khác; Kimono không giống nhau
mà có sự phân chia khác biệt. Tùy theo lứa tuổi, tầng lớp xã hội hay tùy theo
từng mùa cụ thể trong năm, mà ta có những loại màu áo và kiểu dáng
Kimono rất riêng. Áo Kimono cho phụ nữ thường có các hoạ tiết hoa,lá và
các biểu tượng thiên nhiên khác, phản ánh tình yêu thiên nhiên của người
Nhật Bản. Đối với màu sắc; những màu có gốc sáng, đặc biệt là màu
đỏ,được dùng cho trẻ em và phụ nữ trẻ chưa chồng. Đối với người dân
thường, khi mặc kimono vào các dịp lễ tết, họ phải đeo một mảnh vải nhỏ có
trang trí con dấu riêng của gia đình ở tay áo.
Kimono Nhật Bản được tạo thành từ một miếng vải dài 12-13m, rộng
36 – 40cm được cắt thành 8 mảnh. Những mảnh này được khâu lại với nhau
để tạo ra hình dáng cơ bản của Kimono. Tất cả vải đều phải được dung và
không có phần nào vứt đi. Áo Kimono thường được may bằng bằng các loại
nguyên liệu như vải bông, vải lanh, vải lụa. Riêng Kimono mùa hè thường
được may bằng vải cotton.
Về kiểu dáng, Kimono rất đa dạng về chủng loại. Kimono có nhiều
loại: như furisode (dành cho thiếu nữ còn độc thân, ống tay áo rộng và dài;
màu sắc tươi tắn với nhiều hoa văn trang trí); tomesode (dành cho phụ nữ đã
có gia đình: đặc trưng bởi ống tay áo ngắn, màu chủ đạo truyền thống ở thân
áo là màu đen); homongi (thông dụng dành cho phụ nữ đã có gia đình; mặc
trong tiệc trà; họp mặt người thân hoặc các cuộc viếng thăm theo nghi thức);
tsukesage (được mặc trong các buổi tiệc, tiệc trà, cắm hoa và đám cưới của
bạn bè); komon (mặc trong dịp bình thường, họa tiết nhỏ, nhẹ nhàng);
tsumugi (cũng mặc trong những dịp bình thường nhưng các họa tiết sáng và
rõ ràng hơn); yukata (mặc trong mùa hè, làm bằng vải cotton với tay áo
ngắn); và shiromuku (lễ phục trắng cô dâu mặc trong đám cưới với phần
đuôi áo khá dài và toả tròn ra.
Ngày nay, người Nhật không mặc Kimono thường xuyên như trước
mà chỉ mặc trong những dịp lễ và sự kiện đặc biệt. Kimono chính là đặc
trưng văn hóa rất riêng của Nhật Bản mà bất cứ ai nếu có dip đều nên thử
khoác lên mình bộ quốc phục tinh túy này một lần trong đời.
3.4 Tôn giáo
Shinto hay còn gọi là Thần đạo, là tôn giáo bản địa của người Nhật.
Nó đã ra đời và phát triển rất lâu ở Nhật Bản và ăn sâu vào tiềm thức cũng
như trái tim của người dân. Thần đạo có mối quan hệ rất mật thiết với địa lý
và lịch sử của Nhật Bản, chính vì vậy nó có nhiều điểm tương đồng với tính
cách của người Nhật. Đây là tôn giáo đã định hình văn hóa Nhật Bản cũng
như được chính nền văn hóa Nhật Bản định hình.
Đền Thần Đạo Itsukushima
Không giống như các tôn giáo khác như Đạo Thiên Chúa, Đạo Hồi
hay Do Thái Giáo, những tôn giáo chỉ tin vào một vị thần tối cao, Thần đạo
theo lối “đa thần giáo” – nghĩa là có rất nhiều các vị thần. Thế giới trong
Thần đạo là một dòng chảy liên tục của sự sáng tạo, từ những linh hồn sống
cao tít trên Thiên đàng đến những linh hồn trú ngụ trong cây, đá, bụi và tất
cả những gì xung quanh. Tất cả mọi vật đều có linh hồn và có tiếng nói của
riêng mình. Con người chẳng qua cũng chỉ là một phần trong dòng chảy đó.
Kami, linh hồn, có ở mọi nơi và bất cứ cái gì hiện hữu đều có thể là
kami (Từ giờ xin gọi kami là thần để bạn đọc tiện theo dõi). Những vật tự
nhiên như đá, cây cối, núi sông, thác nước, động vật, sấm chớp… tất cả đều
có thể là kami, nhất là với những vật hoặc hiện tượng có phần kì lạ và nổi
bật. Không phải tất cả các vật tự nhiên đều là thần, nhưng Thần đạo khuyến
khích việc tô trọng những vật tự nhiên, vì ngay cả những vật bình thường
nhất cũng có thể có các linh hồn trú ngụ bên trong.
Không ai biết ai là người tạo ra Thần đạo và cũng không có những
hình tượng trung tâm như Muhammad, Đức Phật hay Chúa Jesus.
Một điểm khác nữa của Thần đạo so với các tôn giáo khác là nó không
có kinh thư hay Kinh thánh như Bible, Torah, Guru Granth Sahib hay Quran.
Nó chỉ có những câu cầu nguyện, những câu khấn cổ là norito hay norii, đã
được truyền miệng từ hàng thế kỉ trước khi được ghi lại lên giấy. Một trong
những đức tin của Thần đạo là những từ ngữ lời hay ý đẹp nếu được nói ra
đúng lúc đúng chỗ, thì sẽ có thể đem về những kết quả tốt.
Mặc dù không có những câu giáo điều, những điều buộc người theo
đạo phải trung thành làm theo, Thần đạo đem đến cho những theo đạo những
giá trị, chuẩn mực và cách nghĩ mà dần dần thấm sâu vào cuộc sống của
người Nhật. Thần đạo đề cao sự sạch sẽ và thanh tẩy. Những nơi đặt các
ngôi đền thờ Thần đạo thường có dòng nước chảy qua, như sông hay suối,
những người theo đạo sẽ dùng nước ở đó để rửa tay và rửa miệng trước khi
đến đền thờ. Lý tưởng của Thần đạo là hướng đến sự tinh khiết và thành
thật, những đức tính làm hài lòng các thần.
3.5 Ngôn ngữ
Cho đến nay, vẫn chưa có câu trả lời chắc chắn cho câu hỏi về nguồn
gốc của tiếng Nhật. Có rất nhiều ý kiến cho rằng tiếng Nhật thuộc hệ ngôn
ngữ Altaic, cùng họ với tiếng Mông Cổ, Triều Tiên và các ngôn ngữ vùng
Trung Á đến phía Tây Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy nhiên, đó là xét về đặc điểm ngữ
pháp của ngôn ngữ này, còn đứng trên bình diện văn hóa thì tiếng Nhật lại
có nhiều nét giống với các ngôn ngữ phía nam Trung Quốc. Mặt khác, dựa
trên đặc điểm cấu tạo từ vựng và hệ thống phát âm thì tiếng Nhật lại có vẻ
tương đồng với các ngôn ngữ Nam Á Dravidian và nhóm ngôn ngữ châu Úc.
Đó chính là cái khó để các nhà ngữ học đưa ra một kết luận chính thức về
nguồn gốc của tiếng Nhật.
Có thể nói, tiếng Nhật là một ngôn ngữ vô cùng phức tạp và có một hệ
thống chữ viết “kỳ dị” nhất thế giới. Tuy nhiên, cũng nhờ có điều trớ trêu
của lịch sử này mà người Nhật đã tạo ra hệ thống chữ viết độc đáo nhất, một
sản phẩm văn hóa kỳ lạ nhất của Nhật Bản. Hiện nay, người Nhật sử dụng
tới 4 loại chữ viết trong một văn bản: đó là chữ Hán được du nhập từ Trung
Quốc vào thế kỷ thứ III và IV, chữ Hiragana và Katakana được người Nhật
sáng tạo ra vào khoảng thế kỷ thứ VIII và IX và chữ Latin được các nhà
truyền giáo người Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha truyền vào Nhật Bản
khoảng thế kỷ thứ XVI và XVII.
Âm tiết trong tiếng Nhật giữ một vị trí rất quan trọng, nó vừa là đơn vị
ngữ âm nhỏ nhất và vừa là đơn vị phát âm cơ bản. Mỗi âm tiết được thể hiện
bằng một chữ Kana. Số lượng âm tiết trong tiếng Nhật không nhiều, có tất cả
112 dạng âm tiết. Trong số này, có 21 dạng âm tiết chỉ xuất hiện trong các từ
ngoại lai được vay mượn, do đó số lượng âm tiết sử dụng thường xuyên trên
thực tế còn ít hơn.
Khác với tiếng Việt, âm tiết trong tiếng Nhật hầu hết đều không mang
nghĩa. Nếu như trong tiếng Việt, có rất nhiều từ được cấu tạo bởi một âm
tiết, và mỗi âm tiết đều mang ý nghĩa nhất định, VD: cây, hoa,..., thì đối với
tiếng Nhật, phần lớn các từ phải được cấu tạo từ hai âm tiết trở lên.
Tiếng Nhật có tất cả 5 nguyên âm: /a, i, u, e, o/ và 12 phụ âm: /k, s, t,
g, z, d, n, m, h, b, p, r/. Ngoài ra còn có hai âm đặc biệt là âm mũi (N) và âm
ngắt (Q).
Có thể khẳng định rằng tiếng Nhật là một ngôn ngữ có một vốn từ
vựng rất lớn và vô cùng phong phú. Điều này thể hiện rõ nét khi so sánh
tiếng Nhật với tiếng Anh, tiếng Pháp và các thứ tiếng phổ biến khác. Nếu
trong tiếng Pháp, biết được khoảng 1000 từ thì khi hội thoại có thể hiểu
được 83,5%. Nhưng ở tiếng Nhật, nếu biết 1000 từ thì chỉ hiểu được 60%
hội thoại. Ngoài ra, trong tiếng Nhật còn có rất nhiều từ xuất hiện trong thơ
ca, tiểu thuyết và những từ này lại chưa được thống kê ngay cả trong cuốn
“Đại từ điển” tiếng Nhật, của nhà xuất bản Heibonsha được coi là lớn nhất
hiện nay có tới hơn 720.000 từ. Sự phong phú của từ vựng tiếng Nhật trước
hết được thể hiện ở tính nhiều tầng lớp của vốn từ vựng. Từ xa xưa, người
Nhật đã sớm có sự tiếp xúc và tiếp thu những ảnh hưởng của văn minh
Trung Hoa và điều này đã in dấu ấn ngay trong ngôn ngữ Nhật Bản. Lớp từ
gốc Hán (Kango) được vay mượn từ Trung Quốc từ những thế kỷ đầu công
nguyên vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay và chiếm tới hơn 60% vốn từ vựng
tiếng Nhật. Trong khi đó, lớp từ gốc Nhật (được gọi là Wago hay Yamato
kotoba) cùng với số lượng các từ ngoại lai vay mượn từ các ngôn ngữ khác
ngoài tiếng Trung Quốc chỉ chiếm khoảng 40%. Một yếu tố khác làm nên sự
phong phú của vốn từ vựng tiếng Nhật, đó là khả năng kết hợp các từ với
nhau để tạo ra từ mới là rất lớn. Ví dụ từ “xe” trong tiếng Nhật là “shya” (từ
gốc Hán), nếu ghép với các từ gốc Hán khác sẽ tạo ra được rất nhiều từ có
nghĩa khác nhau.
3.6 Con người
Người Nhật có tính hiếu kỳ và nhạy cảm với văn hóa nước ngoài.
Chúng ta có thể nói rằng không có dân tộc nào nhạy bén về văn hoá của
nước ngoài như người Nhật Bản. Họ không ngừng theo dõi những biến động
tình hình bên ngoài, đánh giá và cân nhắc những ảnh hưởng của các trào lưu
và xu hướng chính đang diễn ra đối với Nhật, và nếu như họ phát hiện ra
trào lưu nào đang thắng thế thì họ có xu hướng sẵn sàng học hỏi, nghiên cứu
để bắt kịp trào lưu đó. Và chính tinh thần thực dụng, tính hiếu kỳ và óc cầu
tiến của người Nhật là những động lực thúc đẩy họ bắt kịp với các nước tiên
tiến. Họ không đặt vấn đề phê phán hay chọn lọc khi học mà bằng mọi cách
học cho hết. Sau đó họ mới nghiền ngẫm tìm ra những yếu tố có thể cải biến.
Đến đây họ lại phát huy được thế mạnh của óc quan sát tỉ mỉ và sự tinh tế
vốn có của văn hoá dân tộc. Mặc dù người Nhật Bản rất nhạy cảm đối với
văn hoá nước ngoài, song người Nhật rất ý thức về tài sản văn hoá của họ.
Tư liệu lịch sử văn hoá, đền đài, chùa chiền… đại bộ phận vẫn còn được bảo
tồn cho đến ngày nay. Hơn thế, các ngành nghề truyền thống không những
không bị mai một đi mà còn được cải tiến kỹ thuật và càng trở nên tinh tế
hơn.
Ý thức tập thể của họ rất cao. Tập thể đóng một vai trò rất quan trọng
đối với con người Nhật Bản . Nó được thể hiện ngay từ trong cách xưng hô
với người ngoài khi nói chuyện. Trong công việc người Nhật thường gạt cái
tôi lại để đề cao cái chung, tìm sự hòa hợp giữa mình và những người xung
quanh. Các tập thể có thể cạnh tranh với nhau rất gay gắt song cũng có lúc
họ lại bắt tay với nhau để có thể đạt được mục đích chung như để đánh bại
đối thủ nước ngoài. Vì vậy mà điều tối kỵ là làm mất danh dự của tập thể.
Một học giả nước ngoài nghiên cứu về Nhật Bản đã đối lập “văn hóa hổ
thẹn” của người Nhật với “văn hoá tội lỗi” của phương Tây.
Óc thẩm mỹ của người Nhật ở mức cao. Ấn tượng ban đầu của bất kỳ
ai lần đầu đến thăm đất nước Nhật Bản đó là ngạc nhiên và thán phục về óc
thẩm mỹ của người Nhật, từ cách trang trí nhà cửa sắp, xếp đồ đạc trong gia
đình hay cách bài trí bữa cơm đều khiến cho mọi người có cảm giác tiếp cận
một sự tinh tế, một óc thẩm mỹ cao. Nhưng óc thẩm mỹ của người Nhật
không chỉ biểu hiện qua các hiện tượng bên ngoài mà còn qua lối suy nghĩ
và cung cách làm việc của họ hàng ngày, hay nói rộng ra là nhân sinh quan
của họ. Một người đan quạt tre ngắm đi ngắm lại xem cái quạt của mình làm
đã cân đối chưa, có cần phải chau chuốt gì không, mặc dù khi làm như vậy
thì anh ta sẽ mất nhiều thời gian hơn, đồng nghĩa với việc lợi nhuận thu về
được ít hơn, song đối với người dân Nhật Bản ngoài mục đích lợi nhuận thì
họ còn muốn đạt được một mục tiêu khác không kém phần quan trọng – đó
là cảm giác thoải mái khi hoàn thành mỹ mãn một công việc dù là rất nhỏ.
Họ luôn tìm kiếm cái đẹp trong công việc của mình, người Nhật nổi tiếng là
người làm việc cần mẫn, xem công việc của công ty như là công việc của
mình, luôn tận tâm tận sức, nhiều khi họ làm việc không phải vì lợi ích cá
nhân của mình, họ xem công việc của họ không những là “hoạt động kinh
tế” mà còn là “hoạt động thẩm mỹ”.
Và ý thức tôn trọng thứ bậc có lẽ đã có từ lâu trong đời sống của con
người Nhật Bản. Thái độ nhún mình trước những người có địa vị, quyền
chức cũng có ở một số nước khác thời cận đại nhưng đặc biệt ở Nhật cho
đến ngày nay vẫn còn đậm nét. Tập quán này được nhấn mạnh trong hơn
250 năm dưới thời Tokugawa. Ngày nay ý thức tôn trọng thứ bậc vẫn được
thể hiện trong đời sống hàng ngày. Ví dụ trong phòng họp, người có chức vụ
thấp nhất sẽ ngồi gần cửa ra vào, người có chức vụ càng cao thì càng ngồi
gần phía bên trong. Hoặc trong các buổi tiệc tổ chức tại nhà hàng một cách
đột xuất thì mọi người đều biết vị trí của mình mà không cần có sự hướng
dẫn nào khác. Sắc thái tôn ti trật tự trong xã hội Nhật Bản thể hiện rất rõ
trong ngôn ngữ xưng hô và hình thức chào hỏi đối với từng đối tượng xã hội
cụ thể. Đối với người lớn tuổi hay người có địa vị thì phải dùng ngôn ngữ
kính trọng, khi nói về mình và những người trong gia đình mình thì dùng
ngôn ngữ khiêm nhường.
Đặc biệt trong giao tiếp, có những quy tắc, lễ nghi mà mọi người đều
phải tuân theo. Những biểu hiện đầu tiên trong quá trình giao tiếp của người
Nhật là thực hiện những nghi thức chào hỏi. Tất cả các lời chào của người
Nhật bao giờ cũng phải cúi mình và kiểu cúi chào như thế nào phụ thuộc vào
địa vị xã hội, từng mối quan hệ xã hội của mỗi người khi tham gia giao tiếp.
Một quy tắc bất thành văn là “người dưới” bao giờ cũng phải chào “người
trên” trước và theo quy định đó thì người lớn tuổi là người trên của người ít
tuổi, nam là người trên đối với nữ, thầy là người trên (không phụ thuộc vào
tuổi tác, hoàn cảnh), khách là người trên… Người Nhật sử dụng ba kiểu cúi
chào sau:
– Kiểu Saikeirei: cúi xuống từ từ và rất thấp là hình thức cao nhất, biểu hiện
sự kính trọng sâu sắc và thường sử dụng trước bàn thờ trong các đền của
Thần đạo, chùa của Phật giáo, trước Quốc kỳ, trước Thiên Hoàng.
– Kiểu cúi chào bình thường: thân mình cúi xuống 20-30 độ và giữ nguyên
2-3 giây. Nếu đang ngồi trên sàn nhà mà muốn chào thì đặt hai tay xuống
sàn, lòng bàn tay úp sấp cách nhau 10-20cm, đầu cúi thấp cách sàn nhà 1015cm.
– Kiểu khẽ cúi chào: thân mình và đầu chỉ hơi cúi khoảng một giây, hai tay
để bên hông. Người Nhật chào nhau vài lần trong ngày, nhưng chỉ lần đầu
thì phải chào thi lễ, những lần sau chỉ khẽ cúi chào.
Tóm lại, chúng ta không thể không thừa nhận rằng một số tính cách
truyền thống của người Nhật kể trên đã có những đóng góp tích cực vào văn
hoá con người nơi đây.Và những tích cách đó cũng chính là những giá trị
văn hóa truyền thống tốt đẹp, chắc chắn tiếp tục có ảnh hưởng của Nhật Bản
trong thế kỷ XXI này. Cho dù vẫn biết rằng trong xã hội Nhật Bản văn minh
đương đại, có thể có những giá trị văn hóa truyền thống nhất định nào đó
cũng cần có sự biến đổi theo hướng cách tân một cách khoa học, để phù hợp
với nhu cầu phát triển khách quan của nước Nhật.