Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

ÔN TẬP TÍN NGƯỠNG – TÔN GIÁO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.82 KB, 28 trang )

ÔN TẬP TÍN NGƯỠNG – TÔN GIÁO
1.

Phân tích ý nghĩa của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.
Trong các hình thái tín ngưỡng dân gian, thờ cúng tổ tiên là một
loại hình tín ngưỡng cổ truyền mang tính phổ quát của người Việt Nam.
Thờ cúng tổ tiên đã trở thành một tập tục truyền thống, có vị trí hết sức
đặc biệt trong đời sống tinh thần của dân tộc Việt Nam, là một trong các
thành tố tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên rất giản dị: tin rằng tổ tiên mình là
thiêng liêng, họ đi vào cõi vĩnh hằng nhưng vẫn sống cạnh con cháu, họ
phù hộ cho con cháu khi gặp tai ách, khó khăn; vui mừng khi con cháu
gặp may mắn, khuyến khích cho con cháu khi gặp điều lành và cũng quở
trách con cháu khi làm những điều tội lỗi...
Trải qua bao thăng trầm, biến cố của lịch sử, trong khi nhiều tôn
giáo, tín ngưỡng dân gian khác đã phải chịu cảnh long đong, bị kết tội
“mê tín dị đoan” nhưng tín ngưỡng thờ tổ tiên đã và vẫn chiếm được vị trí
thiêng liêng trong đời sống tinh thần của người Việt. Ý thức “con người
có tổ, có tông” được bảo tồn trong cõi tâm linh và lưu truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác, dù họ sống trên tổ quốc mình hay lưu vong nơi xứ
người. Đặc biệt đây là hình thức tín ngưỡng được các thể chế chính trị
(Nhà nước) từ xưa đến nay trân trọng thừa nhận, dù rằng với những mức
độ khác nhau. Cùng với tiến trình lịch sử của dân tộc, nó là sự bồi lắng,
kết tụ những giá trị đạo đức quý báu của con người Việt Nam. Tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên có một ý nghĩa hết sức quan trọng đối với mỗi
người dân VN. Thông qua việc thờ cúng tổ tiên nó thể hiện ý thức về cội
nguồn; dấy lên lòng hiếu thảo nhân nghĩa và nó còn có ý nghĩa về mặt
tâm linh.
Nói tới ý nghĩa của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là nói tới sự thể
hiện ý thức nhớ về cội nguồn của mỗi một người con đối với ông bà, tổ
tiên, đối với cội nguồn dân tộc. Tổ tiên theo quan niệm của người Việt


Nam, trước hết là những người cùng huyết thống, như cha, mẹ, ông, bà,
cụ, kỵ... là người đã sinh ra mình. Tổ tiên cũng là những người có công
tạo dựng nên cuộc sống hiện tại như các vị "Thành hoàng làng" các
"Nghệ tổ". Không chỉ thế, tổ tiên còn là những người có công bảo vệ làng
xóm, quê hương, đất nước khỏi nạn ngoại xâm như Trần Hưng Đạo đã
thành "Cha" được tổ chức cúng, giỗ vào tháng 8 âm lịch hàng năm.
"Tháng 8 giỗ cha" ở rất nhiều nơi trong cộng đồng người Việt. Ngay cả
"Thành hoàng" của nhiều làng cũng không phải là người đã có công tạo


dựng nên làng, mà có khi là người có công, có đức với nước được các cụ
xa xưa tôn thờ làm "thành hoàng". Tổ tiên trong tín ngưỡng của người
Việt Nam còn là "Mẹ Âu Cơ", còn là "Vua Hùng", là người sinh ra các
dân tộc trong đại gia đình Việt Nam. Nhân dân ta có câu:
“Dù ai đi ngược về xuôi,
Nhớ ngày giỗ tổ mùng 10 tháng 3”
Câu ca dao trên đã nói lên phần nào ý thức thức nhớ về cội nguồn
của dân tộc ta thông qua việc thờ cúng tổ tiên. Mỗi một con rồng cháu lạc
cứ đến ngày này thì lại tưởng nhớ tới các vua hùng những người đã có
công dựng nước và giữ nước. Như vậy có thể thấy rằng nhờ có tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên mà chúng ta đã không thể nào lãng quên đi
nguồn gốc, cội nguồn của mình, thông qua đó mỗi người dân VN dù có đi
đâu về đâu thì vẫn luôn ghi nhớ nguồn gốc của mình, luôn ý thức được
trách nhiệm của mình đối với quê hương đất nước sao cho xứng với ông
bà tổ tiên của mình.
Thờ cúng tổ tiên là hình thức tín ngưỡng mang ý nghĩa tâm linh,
thông qua nghi lễ thờ cúng nhằm xác lập "mối liên hệ" giữa người sống
với người chết, giữa người ở thế giới hiện tại và thế giới tâm linh. Là sự
thể hiện quan niệm về nhân sinh của người Việt Nam: "sự tử như sự sinh,
sự vong như sự tồn". Với người Việt Nam, chết chưa phải là hết, tổ tiên

lúc nào cũng ở bên cạnh người sống, "như tại" trên bàn thờ mỗi gia đình,
động viên, trợ giúp cho con cháu trong cuộc sống thường ngày. Nếu như
tôn giáo thường tuyệt đối hóa đời sống tinh thần, hướng con người về thế
giới siêu thoát, thì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tuy có hướng con người
về với quá khứ, song lại rất coi trọng hiện tại và tương lai.
Người việt quan niệm linh hồn tổ tiên luôn hiện diện bên con cháu,
chết không phải là hết, chết không có nghĩa là vĩnh viễn không tồn tại mà
vẫn còn mối liên hệ nào đó đối với người còn sống dường như vẫn vô
hình sống bên cạnh những người thân của mình. Giữa họ vẫn tồn tại mối
liên hệ thật gần gũi thân thiết mà thật khó lý giải.
Thời gian cúng giỗ là những ngày húy kỵ của tổ tiên, những ngày
lễ, tết trong năm. Ngoài ra, việc cúng giỗ tổ tiên cũng được tổ chức vào
những ngày trong gia đình có sự kiện quan trọng như lấy vợ, làm nhà, tậu
trâu, thi cử, đi xa, nhà có người ốm đau... nhằm mục đích trình báo với
gia tiên về những sự kiện quan trọng này.
Thông qua nghi lễ thờ cúng tổ tiên, người Việt Nam gửi gắm tình
cảm biết ơn đồng thời dấy lên lòng hiếu thảo nhân nghĩa đối với tổ tiên,
với những người đã khuất. Thờ cúng tổ tiên bắt nguồn từ lòng hiếu thảo,


2.

đạo ông bà chẳng qua là sự tiếp nối của đạo hiếu. Họ tin rằng sau khi mất,
ông bà tổ tiên không hoàn toàn biến mất mà vẫn còn mối liên hệ với con
cháu nên phận làm con phải lo trọn chữ hiếu, phải thực hiện những bổn
phận như ông bà, tổ tiên còn sống. Nhân dân ta có câu "Ăn quả nhớ kẻ
trồng cây" hay câu ca dao "Cây có gốc mới nở cành xanh ngọn, nước có
nguồn mới bể rộng sông sâu".
Trong mỗi gia đình tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên dần dần trở thành
đạo lý "uống nước nhớ nguồn", thành "đạo hiếu". Đạo hiếu là cái gốc của

mỗi con người. Công cha, nghĩa mẹ như núi cao, nước nguồn cho nên
phải hiếu thảo với cha, mẹ khi còn sống, thành kính, biết ơn, tiếc thương
khi cha, mẹ khuất núi về với tổ tiên. Lòng hiếu thảo là giá trị đạo đức quý
báu trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam.
Phân tích giá trị của đạo Mẫu.
Việc nhận thức đúng những giá trị của đạo Mẫu Việt Nam có ý
nghĩa quan trọng về lý luận và thực tiễn, từ đó xác định thái độ của các
tín hữu đạo Mẫu, của những người quản lý xã hội và người dân đối với di
sản văn hóa tinh thần này. Có thể nêu một số giá trị tiêu biểu:
a. Giá trị lịch sử truyền thống, giá trị đạo đức.
Đạo Mẫu, thông qua các ký ức, các truyền thuyết và huyền thoại,
qua các nghi lễ và lễ hội đã thể hiện rõ ý thức lịch sử và ý thức xã hội của
mình. Trong điện thần của đạo Mẫu, hầu hết các vị thánh đã được lịch sử
hóa, tức là đều hóa thân thành những con người có danh tiếng, có công
trạng trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc. Tất nhiên, trên
thực tế có không ít những vị thánh thần vốn thoát thai từ các nhân vật có
thật trong lịch sử, sau này được người đời tô vẽ, thần tượng lên thành các
vị thần thánh, tức là các vị thần thánh có “nguyên mẫu” trong lịch sử
(Trần Hưng Đạo → Đức Thánh Trần; Mẹ Âu Cơ → Mẫu Thượng Ngàn;
Lê Khôi hay Nguyễn Xí → Ông Hoàng Mười; Trạng nguyên Phùng Khắc
Khoan → Ông Hoàng Bơ; Bà Lê Chân → Thánh Mẫu Bát Nàn…).
Ngoài ra còn có nhiều các vị thần linh, vốn là các thiên thần hay
nhiên thần, nhưng lại được người đời “nhân thần hóa” hay “lịch sử hóa”,
gán cho họ có sự nghiệp, có công trạng với đất nước hay từng địa
phương. Bằng cách đó, đạo Mẫu gắn bó với cội nguồn và lịch sử dân tộc,
đã trở thành một biểu tượng của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, một thứ
chủ nghĩa yêu nước đã được tín ngưỡng hóa, tâm linh hóa, mà trong đó
người Mẹ - Mẫu là nhân vật trung tâm.
b) Chứa đựng những giá trị văn học dân gian.



Đạo Mẫu và các hình thức Shaman giáo đều ẩn chứa những giá trị
văn hóa nghệ thuật rất phong phú. Đó là kho tàng truyền thuyết, thần tích,
huyền thoại về các thần linh, đó còn là các hình thức diễn xướng với âm
nhạc, ca hát, nhảy múa, các hình thức trang trí, kiến trúc,...
c) Diễn xướng đạo Mẫu.
Diễn xướng đạo Mẫu như là một hình thức sân khấu tâm linh hay
một văn hóa đạo Mẫu. Ở hình thức diễn xướng này chúng ta có thể thấy
được lối nghĩ, nếp sống, các quan niệm nhân sinh, thấy được nếp ăn (ẩm
thực), cách mặc, cách sinh hoạt, nghi lễ của cha ông xưa; được chiêm
ngưỡng sự hiện thân của các thần linh vốn là các nhân vật lịch sử hay
thần linh đã được “lịch sử hóa” với công trạng, tính cách, điệu bộ rất sinh
động.
Quả thực đó là một bộ sưu tập lịch sử và văn hóa vô cùng phong
phú và sinh động, một “bảo tàng sống” văn hóa Việt Nam như một học
giả nước ngoài nhận định. Chỉ riêng nghi lễ Hầu bóng - Lên đồng của đạo
Mẫu đã sản sinh ra loại hình âm nhạc - hát văn, mà theo ý kiến của nhiều
nhà nghiên cứu, đó là một trong những loại hình dân ca tiêu biểu nhất của
người Việt đóng góp vào kho tàng âm nhạc thế giới.
Chúng tôi tự nhận thấy và hy vọng rằng loại hình diễn xướng Lên
đồng này sớm muộn sẽ được UNESCO tôn vinh là di sản văn hóa phi vật
thể của nhân loại! Chính những giá trị nhận thức, giá trị lịch sử, truyền
thống, xã hội, văn hóa kể trên đã luôn đặt đạo Mẫu vào vị trí những tôn
giáo tín ngưỡng bản địa hàng đầu của các dân tộc Việt Nam.
d) Nghệ thuật tạo hình
các hình thức trang trí, kiến trúc đền phủ.. Đó còn là tranh tượng,
trang trí với những hình khối và màu sắc mang tính biểu tượng (ngũ sắc),
các kiến trúc đền phủ tạo nên không gian thiêng của các lễ hội “Tháng
Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ”.
e) Sinh hoạt cộng đồng

Lễ hội đạo Mẫu là môi trường sản sinh và bảo tồn nhiều giá trị văn
hóa của dân tộc (hầu bóng, lễ hội...). Đó là kho tàng truyền thuyết, thần
tích, huyền thoại về các thần linh, đó còn là các hình thức diễn xướng với
âm nhạc, ca hát, nhảy múa, các hình thức trang trí, kiến trúc,...
f) Hạn chế
- Bản thân đạo Mẫu là hệ thống các tín ngưỡng ở các trình độ phát
triển rất khác nhau, từ sơ khai, nguyên thủy như các hình thức thờ Nữ
Thần đến các hình thức phát triển cao hơn là thờ Mẫu Tam Phủ - Tứ Phủ.
Do vậy, nó rất phức tạp, chứa đựng nhiều tàn tích cổ xưa, mà trong xã hội
hiện tại không mấy phù hợp.


- Bản thân tôn giáo tín ngưỡng đều hướng về cái thiện, cái đẹp đẽ,
cao cả - Chân, Thiện, Mỹ. Tuy nhiên, mọi tôn giáo tín ngưỡng không phải
là tồn tại trong “chân không” mà là trong xã hội con người. Con người
trong xã hội không chỉ hướng về nó, tôn vinh nó, mà còn lợi dụng nó vì
các mục đích khác nhau, thậm chí phản lại tính nhân bản, tính văn hóa
vốn có của tôn giáo tín ngưỡng. Tình trạng thương mại hóa đạo Mẫu đang
là một thực tế nặng nề và nhức nhối, khiến cho tín ngưỡng này ngày càng
bị xói mòn những giá trị tốt đẹp như đã nêu ở trên. Nhiều chủ đền, các
ông đồng, bà đồng đã lợi dụng lòng tin, lợi dụng các di tích đền phủ, lợi
dụng các sinh hoạt nghi lễ và lễ hội không phải là để truyền bá những
điều tốt đẹp mà chủ yếu là để kiếm tiền.
- Sau nhiều năm do chiến tranh kéo dài, do tình trạng cấm đoán, do
ảnh hưởng của văn hóa ngoại lai, văn hóa hiện đại nên đã có sự đứt đoạn,
nhiễu loạn, biến tướng trong các nghi lễ của đạo Mẫu, đặc biệt là nghi lễ
Lên đồng. Tình trạng dùng đồ mã với số lượng vượt quá sự cần thiết và
đòi hỏi của nghi lễ cổ truyền… khiến cho nghi lễ dần mất đi tính thiêng,
tràn lan các hình thức trang trí rẻ tiền, mà điển hình là lễ hội Lên đồng ở
Lảnh Giang (Hà Nam), lên đồng theo kiểu càn quấy của các “đồng đua,

đồng đú” ở Hồ Tây (Hà Nội) khiến dư luận bức xúc. Các hình thức sân
khấu hóa nửa tâm linh, nửa trình diễn nghệ thuật cũng làm méo mó nghi
lễ này khiến dư luận phàn nàn.
- Tính phân tán, tản mạn, bị buông lỏng, thiếu sự quản lý cũng tạo
nên bộ mặt xô bồ, thậm chí là hỗn loạn của sinh hoạt tín ngưỡng ở các
đền phủ, gây mất trật tự công cộng, ô nhiễm môi trường, tạo điều kiện
cho các sinh hoạt mê tín, đi ngược lại các thuần phong mỹ tục dân tộc.
3. Trình bày những chính sách cụ thể của Đảng và Nhà nước đối với tôn
giáo ở Việt Nam hiện nay. Cho ví dụ cụ thể để chứng minh các chính sách này
được Đảng và Nhà nước ta áp dụng vào thực tiễn.

4. CM Chăm Bà ni là “ biến thể” của Hồi Giáo chính thống.
Người Chăm là dân tộc duy nhất ở Việt Nam theo Hồi giáo. Hồi
giáo thế giới có những luật lệ khắc khe nhưng khi du nhập vào cộng đồng
người Chăm nó đã bị biến đổi rất nhiều và mang đậm tính nhân văn tộc
người bởi sức sống mảnh liệt của truyền thống bản địa hay nói cách khác


Chăm Bà ni là một “biến thể” của Hồi giáo chính thống. Điều này được
thể hiện qua các mặt sau:
Thứ nhất, về giáo lý – giáo luật
Giáo lý và các quy định của đạo Hồi rất nghiêm ngặt cho toàn thể
tín đồ Hồi giáo trên thế giới. Đối với một tín đồ Hồi giáo thì “năm hành
vi tôn giáo” có tính bắt buộc để mỗi tín đồ chứng minh mình là người Hồi
giáo - người có niềm tin duy nhất vào thánh Alla. Năm hành vi tôn giáo
bắt buộc đó là: Lễ nguyện Salat (Mỗi tín đồ cầu nguyện 5 lần một ngày);
Tháng chay Ramanda; Zakah (Bố thí); Haji (Hành hương về thánh địa
Mecca); Jihad (Thánh chiến để bảo vệ Hồi giáo) Người Chăm Bàni do
ảnh hưởng truyền thống chuộng hoà bình của dân tộc và các chính sách
phù hợp đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước nên việc thực hiện năm

hành vi tôn giáo đã được cải biến:
- Tin tưởng Thượng đế Allah là tối cao duy nhất, và Muhammad là
sứ giả cuối cùng của Allah, là người khai sáng Islam.
- Mỗi ngày đêm phải cầu nguyện đủ 5 lần.
- Phải ăn chay trọn tháng Ramadan.
- Phải bố thí để giúp đỡ người khó khăn hơn mình.
- Nếu có khả năng thì ít nhất một lần trong đời hành hương về
thánh địa Mecca (Saudi Arabia) để làm lễ Haji.
Người Chăm Bàni tin vào Allah như một đấng tối cao nhưng
không phải là duy nhất. Họ vẫn tôn thờ các vị thần trong tín ngưỡng
truyền thống như Thần Mưa, Thần Núi, Thần biển... Họ vẫn thực hiện các
nghi lễ nông nghiệp theo tín ngưỡng dân gian như lễ cầu xin thần Mẹ Xứ
Sở (Rija Nưgar), lễ cầu mưa (Yor Yang), lễ cầu thần Sóng Biển (Plao
Pasah), lễ chặn dầu nguồn (Kap Hlâu Krong)... Người Chăm Bàni cầu
nguyện 3 lần/ ngày; không nhịn ăn ban ngày vào tháng Ramưwan mà chỉ
có giáo sĩ nhịn ăn ba ngày đầu tháng mà thôi. Họ cũng không hành hương
tới thánh địa La Mecque.Tính bản địa trong Hồi giáo của người Chăm ở
nước ta được xuất phát và gìn giữ bởi nền tảng văn hoá truyền thống
Chămpa cổ.
Thứ hai, về tổ chức, chức sắc, cơ sở thờ tự


Chăm Bà ni không có tổ chức giáo hội chung cho toàn đạo mà nó
hình thành tổ chức theo đơn vị Thánh đường trong các làng Chăm. Đứng
đầu mỗi thành đường Bà ni là một vị Thầy cả hay Sư cả. Về cơ cấu tổ
chức, đạo Hồi Chăm Bani có một đội ngũ các tu sĩ, chức sắc, họ am hiểu
và có kinh nghiệm về các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, vừa có uy tín
bên đạo và có uy tín bên đời. Chức sắc Chăm Bani là đội ngũ theo chế độ
cha truyền con nối, gồm có 4 cấp.
- Sư cả: là cấp cao nhất, là người quyết định hầu hết mọi vấn để đời

sống tôn giáo của tín đồ
- Mum: là cấp thứ hai, là người điều khiển các buổi lễ tại các đền
thờ, thông hiểu kinh Koran, có đạo đức tốt và có khả năng kinh tế
- Khotip: còn gọi là Tip, là cấp thứ ba, đảm nhận một số nghi lễ tại
các đền thờ hoặc tư gia mà không đảm nhiệm việc giảng giáo lý
- Chang: là cấp cuối cùng, là những người mới gia nhập tầng lớp tu

Các cơ sở thờ tự của đạo Bani gọi là chùa (thánh đường), đình
trong đó chùa là nơi các tu sĩ ở và tế lễ vào những ngày lễ, còn đình là nơi
tín đồ thường xuyên đến tễ lễ. Các chùa và đình được xây dựng đơn giản,
hình thức bên ngoài và cách bố trí bên trong có sắc thái riêng mang tính
địa phương không giống như các thánh đường Hồi giáo khác trên thế
giới. Chùa thường được mở vào tháng Ranuwan (là tháng Ramadan của
Hồi giáo nhưng đồng thời có thêm vào những tín ngưỡng địa phương của
người Chăm), hiện nay toàn đạo Bani có 17 chùa Tổ chức của đạo Bani
chủ yếu ở từng chùa, mỗi chùa ngoài Sư cả (Cả chùa) và các vị chức sắc
chăm lo việc đạo, đều có thêm ban cai quản chùa, ban cai quản chùa có
nhiệm vụ chăm lo đời sống tôn giáo cho tín đồ, Tổng sư cả là người được
các sư cả suy tôn, có uy tín lớn trong đạo. Chức sắc Chăm Bà ni có nhiều
quyền lợi vật chất và tinh thần, chi phối đến sinh hoạt tín ngưỡng và đời
sống xã hội của tín đồ. Do chịu ảnh hưởng của chế độ đẳng cấp
Balammon, vai trò của các chức sắc Chăm Bà ni đối với tín đồ rất lớn.
Thứ ba, đối với người phụ nữ
Giáo lý Hồi giáo có những quy định khắt khe đối với phụ nữ trong
hôn nhân và vai trò của họ trong gia đình và xã hội. Tuy nhiên, giáo lý


Hồi giáo trong cộng đồng người Chăm ở Việt Nam đối với người phụ nữ
khá dung hoà trong quan hệ giới và quan hệ xã hội.
Tùy theo luật pháp và phong tục tập quán của mỗi dân tộc, cũng

như do sự biến chuyển của lịch sử, số phận của phụ nữ Hồi Giáo cũng
thay đổi nhưng đạo Hồi vẫn quyết định phần lớn số phận của họ. Họ phải
che kín toàn thân khi ra đường, chỉ được hưởng ½ tài sản so với đàn ông,
giá trị phụ nữ trước pháp luật chỉ bằng ½ so với đàn ông, không được
ngoại tình …. Tuy nhiên phụ nữ Chăm Bà ni không bị những quy định
quá ngặt nghèo chi phối như phụ nữ ở các quốc gia Hồi giáo khác, kể cả
là những người Chăm ở Nam Bộ được coi là những người Chăm Hồi giáo
chính thống.
Trong gia đình, người phụ nữ lớn tuổi vẫn rất được coi trọng. Nó
thể hiện truyền thống mẫu hệ còn ảnh hưởng khá mạnh đến đời sống tộc
người. Ở đây, người phụ nữ không chỉ giữ vai trò chủ đạo trong quản lý
kinh tế và điều phối các hoạt động trong gia đình mà còn có vai trò trụ cột
trong đời sống tâm linh và tinh thần nói chung. Người phụ nữ Chăm Hồi
giáo ở thành phố Hồ Chí Minh không chỉ là người nội trợ mà còn là
người buôn bán rất giỏi, là công nhân, ca sĩ, giáo viên, giảng kinh Qur,an
ở thánh đường và nhà riêng. Họ không phải cấm cung, được học hành và
giao tiếp rộng rãi, không phải mang mạng che mặt, mặc áo dài tay hay có
người lớn đi kèm khi ra đường... như phụ nữ ở các quốc gia Hồi giáo
khác (7). Các quy định của giáo lý Hồi giáo trong người Chăm ở Việt
Nam đã bị bản địa hoá nhiều, có hướng mở cho phụ nữ Chăm trong quan
hệ gia đình và xã hội.
Thứ tư, về lễ nghi tôn giáo:
Một số nghi lễ tôn giáo Hồi giáo của người Chăm ở Việt Nam đã bị
bản địa hoá, giản lược và mang nhiều yếu tố tín ngưỡng cổ truyền:
+ Nghi lễ thành niên
Hồi giáo quy định nghi lễ thành niên đối với mọi thành viên trong
xã hội. Nghi lễ này nhằm chứng nhận một người đã đến tuổi trưởng thành
hay có quyền kết hôn. Đối với nam giới phải thực hiện nghi lễ làm cuộc
tiểu phẩu ở bộ phận sinh dục là cắt bao quy đầu bằng dao sắc (lễ Khotan),
đối với nữ giới cũng phải chịu lễ rạch màng trinh bằng dao sắc có sát

trùng (lễ Karơh). Tuy nhiên, khi đạo Hồi truyền bá vào người Chăm ở


Việt Nam nó đã bị giản lược đi nhiều, chỉ còn mang tính tượng trưng kể
cả với cộng đồng người Chăm Hồi giáo ở Nam Bộ gần gũi với Islam
chính thống.
Người Chăm theo Hồi giáo ở Việt Nam quy định con trai, con gái
đến 15 tuổi là coi như bước vào tuổi trưởng thành. Họ phải thực hiện nghi
lễ thành đinh. Khi thực hiện nghi lễ Khotan cho nam giới (Nghi lễ này đã
được dịch là Katat đối với người Chăm Bani ở Bình Thuận), nhiều chàng
trai thực hiện một lần. Họ phải dựng một chiếc lều đơn giản ở khu vực
khuất nẻo trong làng, trải chiếu trên đó bày một bộ đồ pha trà, một ít trà
khô và thuốc lá, một tô to đầy nước và trứng vịt để thày Achar làm lễ.
Đến giờ hành lễ, các chàng trai phải tập trung trước cửa lều, thầy Achar
gọi lần lượt từng người vào làm lễ. Ông cầu kinh, một tay cầm bao quy
đầu của chàng trai, một tay cầm thanh tre cật đã được chuốt mỏng hoặc
một con dao đưa qua đưa lại ở đầu dương vật của người chịu lễ. Sau đó,
thày Achar lấy một quả trứng vịt xoa vào chỗ vừa giả vờ cắt. Đây chỉ là
nghi lễ tượng trưng, mô phỏng động tác thực sự cắt bao quy đầu của
người chịu lễ Khotan truyền thống Hồi giáo. Qua nghi lễ này, có thể thấy
quá trình đạo Hồi chính thống bị pha loãng trong xã hội truyền thống của
người Chăm để trở thành Hồi giáo Bani, nghi lễ Khotan hà khắc của Hồi
giáo chính thống (cắt da bao quy đầu thật sự) đã thích nghi với xã hội
Chăm và trở thành một nghi thức mang tính tượng trưng.
Nữ giới cũng phải tham gia nghi lễ thành niên gọi là Karơh. Nghi
thức này đối với nữ giới cũng mang tính tượng trưng so với các quốc gia
Hồi giáo chính thống. Lễ này cũng được làm tập thể cho các cô gái trong
vùng. Họ phải làm hai cái rạp: Cái lớn thờ thánh Allah, cái nhỏ để các cô
gái chịu lễ thay quần áo và ở đó trong suốt thời kỳ làm lễ. Các thiếu nữ
không được ra ngoài với bất kỳ lý do gì. Người làm lễ này gồm có thầy

chính gọi là Po Grù, hai thầy phụ gọi là Imưn. Sau một đêm trôi qua, các
cô gái mặc quần áo chỉnh tề mới bước ra rạp nhỏ. Họ sang rạp lớn chờ
các thầy ban phép. Chỗ các thầy làm lễ ban phép có một cái bát lớn đựng
nước phép và một cành lá thơm, một cái kéo. Đến giờ làm lễ, các thầy
đọc kinh, rồi ra hiệu cho từng người một vào quỳ đối diện với thầy chính
(Pô-Grù). Thầy để vào lưỡi người thiếu nữ vài hạt muối, rồi lấy kéo cắt
một ít tóc trên đỉnh đầu và cho uống một ngụm nước phép. Sau đó người
nhà dâng lễ ăn sáng cho các thầy. Khi vào dâng lễ, người nhà và họ hàng


phải mặc toàn đồ trắng tượng trưng cho sự trinh bạch đến chào người
thiếu nữ vừa chịu lễ xong.
+ Tục thờ cúng tổ tiên
Người theo Hồi giáo chỉ có một niềm tin duy nhất là: “Tin tưởng
Thượng đế Allah là tối cao duy nhất, và Muhammad là sứ giả cuối cùng
của Allah, là người khai sáng Islam”. Tuy nhiên, người Chăm ở Việt Nam
(đặc biệt là người Chăm Bàni ở miền Trung Việt Nam) vẫn còn lữu giữ và
coi trọng tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Họ quan niệm những người trong
gia đình, khi mất đi vẫn có ảnh hưởng rất nhiều tới những người còn
sống. Trách nhiệm này người Chăm giao cho người đàn ông đã thành
niên (đã trải qua lễ Katat). Cùng với những người anh em trai của mình
và những người đàn ông là anh em ruột của mẹ mình, họ chịu trách nhiệm
chăm lo đời sống tâm linh và xử lý mọi công việc của gia đình cha mẹ và
gia đình những người chị gái ruột đã tách hộ ở riêng nhưng vẫn giữ việc
thờ cúng tổ tiên chung tại gia đình mẹ. Người đàn ông thành niên chịu
trách nhiệm trình báo, xin phép tổ tiên của gia đình mẹ mình khi có
những việc lớn trong nhà như làm nhà, dựng vợ gả chồng, ma chay hay
trong các dịp lễ tết cổ truyền. Cho dù sau này lập gia đình, sang ở nhà vợ
thì người đàn ông Chăm Hồi giáo Bani vẫn phải có trách nhiệm với việc
cúng tế tại gia đình mẹ và gia đình các chị em gái mình mỗi khi có việc

cần.
Lễ Tảo mộ là một trong 5 nghi thức của chuỗi lễ hội Ramưwan, nó
giống như tiết thanh minh của người Việt. Lễ hội tảo mộ diễn ra trước
tháng ăn chay Ramưwan 3 ngày, bắt đầu từ ngày mùng Một tháng Chín
của lịch Hồi giáo. Tảo mộ là nghi thức cúng viếng ông bà, tổ tiên. Trước
đó từ ngày 25 tháng 8 lịch Islam, các làng Chăm Bani bắt đầu đi rãy mả
(tảo mộ), rước vong linh ông bà tổ tiên về nhà, lập bàn thờ tạm, tổ chức lễ
cúng ông bà trước khi đưa lên Chùa (Thánh đường Hồi giáo). Tháng
Ramưwan kết thúc bằng lễ ra chùa, còn gọi là lễ xả chay. Từ nghi lễ
tưởng nhớ trong đạo Hồi, đến với cộng đồng người Chăm, nó trở thành
nghi lễ tưởng nhớ và thờ cúng tổ tiên mạng đậm văn hoá truyền thống
bản địa Đông Nam Á.
5. Chứng minh Bà La Môn giáo ở Việt Nam là một tôn giáo hỗn dung
giữa yếu tố ngoại sinh (truyền thống BLM) với nội sinh (truyền thống bản
địa).


Người Chăm Bàlamôn (BLM) tự gọi mình là "Chăm Jat", Jat có
nghĩa là gốc, sự thật. Người Chăm còn gọi là Bà Chăm (để phân biệt với
Bàni). Các nhà nghiên cứu về Chăm cũng tập trung nghiên cứu về người
Chăm Jat, bởi lẽ tôn giáo Bàlamôn du nhập vào Chăm Pa sớm hơn, tồn tại
lâu hơn và tiếp biến nhiều yếu tố truyền thống văn hóa bản địa Chăm nên
còn giữ được nhiều yếu tố văn hóa gốc. Trong quan niệm "nhất thể lưỡng
hợp" của hai nhóm cộng đồng tôn giáo, người Chăm Bàlamôn được gọi là
Ahier thuộc âm và tín ngưỡng đa thần của Ấn Độ giáo.
a. Hệ thống chức sắc
Cơ cấu và thiết chế xã hội Chăm trước đây đã chi phối 4 tầng lớp
xã hội. Theo lời văn bia Mỹ Sơn thì dưới đời vua Jaya Indravarman
(1088) xã hội Chăm có 4 đẳng cấp: Brahman (Tu sĩ, tăng lữ Bàlamôn);
Kryttriya (Quý tộc, vương phái, võ sỹ); Vaicya (Bình dân); Cudra (Cùng

đinh, nô lệ). Ngày nay, trong xã hội Chăm vẫn còn phân biệt các đẳng cấp
như trên nhưng tên gọi có khác: Tu sỹ Bàlamôn (Halơw jănưng); Quý tộc
(Takai gai); Bình dân (Bal liwa pănliua, kulit); Nô lệ, tôi tớ (Halun halăk,
halun klor).
Trong hệ thống chức sắc Bàlamôn có hai tầng lớp: các chức sắc tu
sỹ pà xế (passeh) và các chức sắc dân gian (các nghệ nhân sử dụng nhạc
lễ, trang trí, thầy cúng, thầy pháp). Tu sĩ pà xế là những chức sắc tôn giáo
Bàlamôn, có địa vị cao nhất trong xã hội, thậm chí cao hơn cả vua chúa.
Pà xế được coi là những người trí thức, họ biết chữ Chăm, lưu giữ các
sách cổ Chăm qui định về các nghi thức hành lễ, hiểu biết tập tục, truyền
bá và thực hiện các nghi thức tôn giáo.Về mặt xã hội, họ thuộc tầng lớp
quí tộc cũ và trước đây là tầng lớp trung nông. Tu sĩ pà xếđược duy trì
trong xã hội Chăm theo cha truyền con nối. Những người không thuộc
dòng dõi chức sắc thì dù có giỏi mấy cũng không được vào hàng ngũ này.
Hệ thống pà xếđược sắp xếp từ thấp đến cao: Cấp thấp nhất là thầy
passeh Đung a kok. Đây là chức sắc mới nhập môn, phải học chữ Chăm,
học các giáo lý, giáo luật và bắt đầu để tóc dài, búi tó. Cấp thứ hai là thầy
passeh Liah,được làm lễ phong chức từ passeh Đung a kok lên. Cấp thứ
ba là passeh pwah (pa huăk), được làm lễ phong chức từ passeh liah lên,
phải là người có thâm niên, và là người duy nhất được làm "lễ cho ăn"
trong tang ma. Cấp thứ tư là thầy passeh Tapah. Đây là những tu sĩđã đạt
đến độ thoát tục, phải qua những điều kiện rất khắt khe mới được phong
chức và phải trải qua ba giai đoạn: Tapahkatat, Tapahkađa và Tapahkađôi.


Đây là chức danh phó cả sư. Khi chọn người để phong chức cả sư, trước
hết phải chọn Tapahkađôi. Để nhập vào hàng ngũ pà xế và lên đến chức
cả sư, phải thực hiện đủ các lễ tôn chức như sau: Lễ nhập đạo
(dungakau), gọi là lễ xông miệng học chữ Chăm; Lễ lên cấp pà xế liah,
giai đoạn học kinh kệ và học các nghi thức hành lễ; Lễ tôn chức tu sĩ

chính thức (puah); Lễ tôn chức cả sư hoặc phó cả sư (popaik hoặc
podhia). Cao nhất là chức cả sư (Podhia - Pô xà. Pô: ngài, thần, vị, đấng,
từđiển Chăm-Việt viết là Ppo). Đây là người có quyền tối cao trong tôn
giáo Bàlamôn. Ở tỉnh Ninh Thuận chia làm ba khu vực tôn giáo Bàlamôn
nên bao giờ cũng có 3 thầy Pô xà. Đến các làng Chăm Bàlamôn có thể
nhận biết được đội ngũ chức sắc pà xế bởi vì họ luôn phải mang trang
phục chức sắc của mình. Từ thầy passeh pa huăk trở lên, đi đâu họ cũng
mang theo cây gậy thần theo quy định (Thầy pà xế có hai loại gậy, gậy
dài gọi là gậy cài môn và gậy ngắn là gậy xừ. Gậy ngắn thường dùng đi
chơi,đi thăm hỏi, đi làm lễ tang nhỏ như lễ "một thầy". Gậy dài để dùng
làm lễ tang lớn...). Trang phục và đồ trang sức của các thầy khác nhau
theo từng cấp pà xế. Nhưng có những điểm chung là tóc dài búi tó, không
được để râu. Trên đầu các thầy pà xế luôn đội khăn vải màu trắng, không
bao giờđi giày, chỉđi dép nhựa hoặc đi chân đất. Ngày xưa các thầy đi loại
dép làm bằng da trâu hoặc đi chân đất. Tu sỹ pà xế Bàlamônđược quyền
lấy vợ, sinh con nhưng phải tuân thủ theo những quy tắc rất khắt khe,
phải kiêng cữ rất nhiều thứ: Không được ăn thịt những con vật đẻ ra con.
Có thể vì lý do quan niệm lễ tang là làm lễ tái sinh ra người hoặc con vật
sinh con đẻ cái; Không ăn thịt những con vật gắn với truyền thuyết,
chuyện cổ Chăm và tín ngưỡng thờ súc vật như lươn, ếch, giông, cá trê,
thỏ, hoẵng, những con vật chết yểu, chết do bị thương, những loại hoa
quả như chuối hột, đu đủ, đậu hạt, quả sung, bí đao, rau sam, rau dền;
Không uống các loại nước có chất lên men, khi đang hành lễ cũng
chỉđược uống rượu tượng trưng; Không được đến dự các nghi lễ thuộc
"cõi sống" như lễ cưới, lễ Rija prwong (Chà và lớn); Khi tiểu tiện phải
ngồi xổm (bởi các thầy là đàn bà, thuộc âm), khi đi đại tiện phải cởi áo
trùm đầu; Đi tắm phải xem ngày. Ngày rằm, mồng một theo âm lịch, ngày
thứ hai, thứ sáu trong tuần không được ngủ với vợ. Trước khi ăn, ngủđều
phải đọc kinh; Khi ngủ không được quay đầu hướng nam vì người Chăm
Bàlamôn coi hướng nam là hướng chết (khi có người chết phải đặt quay

đầu hướng nam), ngược lại với chức sắc Hồi giáo Bàni kiêng quay đầu
hướng bắc. Các thầy pà xế còn phải kiêng cữ rất nhiều ở những lĩnh vực


khác. Trong nhà các thầy luôn có chiếtđựng rất nhiều sách viết bằng chữ
Chăm cổ hướng dẫn các qui trình hành lễ, các bài văn khấn, hình vẽ các
bùa, các câu thần chú v.v... Mỗi lần hành lễ, phải có nghi thức hạ chiết
sách. Tu sỹ pà xế mặc sắc phục riêng màu trắng, búi tóc ởđỉnh đầu. Sự
phân biệt các cấp pà xế dựa vào hoa văn thổ cẩm đính trên váy và khăn.
Hiện nay, có 37 vị tu sỹ pà xế, trong đó có 3 vị cả sư Pô xà cai quản tín đồ
và đảm trách các nghi lễ của ba khu vực đền tháp. Khu vực tháp Pôrômê
do cả sư Hán Bằng (người làng Mỹ Nghiệp) phụ trách, khu vực tháp
Pôklongirai do cả sư Vạn Tạ (người làng Phú Nhuận, mới tạ thế tháng 5
năm 2004) phụ trách, khu vực đền Pô Inư Nưgar do cả sư Hải Quí (người
làng Vĩnh Thuận) phụ trách. Nếu một cả sưở khu vực nào qua đời thì
chọn một phó cả sư lên thay thế, nhưng phải được sựđồng tình của cộng
đồng người Chăm khu vực đó.
b. Hệ thống giáo lý, giáo luật
Từ xa xưa, người Chăm Bàlamôn không liên hệ với cộng đồng ấn
Độ giáo trên thế giới. Vì vậy, tôn giáo Bàlamôn của người Chăm không
có hệ thống giáo lý, giáo luật rõ ràng. Ngày nay, đại đa số người Chăm
Bàlamôn không biết đến giáo lý, giáo luật của Bàlamôn. Chúng chỉ tồn
tại trong hàng ngũ chức sắc pà xế, với tên gọi đã bị Chăm hóa nhưng vẫn
bắt nguồn từ gốc ấn Độ. Đó là những bộ kinh VệĐà được Hindu giáo kế
thừa và bổ sung qua bộ kinh Upanishad (áo nghĩa thư) như Rigvêđa (độc
tung vệđà), Samavada (ca vịnh vệđà), Yajurvada (tế tự vệ đà) và
Athrvamda (gồm bùa chú và khấn trừ tà ma) và một số kinh luật khác
được các tăng lữ pà xế Chăm Bàlamôn từ xa xưa phiên dịch ra tiếng
Chăm, ghi lại bằng chữ Chăm trong các thư tịch cổ Chăm, được truyền lại
từđời này qua đời khác và được thay đổi trong quá trình vận dụng vào

cho phù hợp với thức tiễn tín ngưỡng và đời sống xã hội Chăm qua các
thời kỳ. Hệ thống kinh luật thể hiện bằng văn bản chữ Chăm và được các
thầy pà xế sử dụng hiện nay không còn nhiều, chủ yếu là các kinh tụng
trong lễ nghi cúng tế. Kinh tụng lễ rửa tội trừ tà (Pakblih),được dùng
trong lễ rửa tội cho các tu sỹ; Kinh tấn phong chức sắc thầy cả sư pô xà
(Gal pak tangun); Kinh dựng và nhập kút (mưtayang); Kinh tụng nằm
thiếp và tấn phong (Gal pak Pakaup); Kinh hiến tế trên tháp và cầu đảo
(Băk kap); Kinh tống ôn thôn xóm (Băk kap play); Kinh trong nghi lễ
cúng đền tháp, lễ chặn nguồn nước (Băk kaphay danak). Ngoài những bộ
kinh chính nói trên, các chức sắc pà xế còn lưu giữ những bài tang ca, các


truyện thơ (Ariya), sách lịch (Sakawi)để phục vụ cúng lễ. Các bộ kinh
luật trên được chép tay trên lá buông hoặc giấy vở bao xi măng. Nó được
giữ gìn cẩn thận và được coi là rất linh thiêng, thường để trong các chiết
sách treo trong nhà, mỗi lần hạ chiết phải làm nghi thức cúng lễ. Những
bộ kinh này ít được truyền bá, chủ yếu cha truyền con nối trong tầng lớp
tu sỹ. Từ lâu, hai bộ kinh cầu đảo và tống ôn trong làng ít khi dùng đến.
Kinh hiến tế trên đền tháp được sử dụng định kỳ hàng năm vào dịp lễ hội
Katê. Kinh được dùng thường xuyên nhất là kinh rửa tội trừ tà.
c. Hệ thống thần linh
Tôn giáo Bàlamôn vốn là tín ngưỡng đa thần. Hầu như mọi yếu tố
vật chất trong tự nhiên đều có thần linh ngự trị. Thần ở trên trời như thần
mặt trời, thần gió, thần mưa, thần sấm sét. Thần ở trên mặt đất như thần
núi, thần sông, thần cây, thần rừng, thần ở các động vật, ở các công cụ lao
động, ởđền tháp.v.v... Tuy nhiên, hệ thống thần linh của người Chăm
Bàlamôn không theo một hệ thống rạch ròi như Bàlamôn nguyên thủy mà
đã được bồi đắp nhiều lớp đời này qua đời khác thông qua sự cúng tế, cầu
nguyện. Đền tháp theo tôn giáo ấn Độ là để thờ các đấng thần linh của
Bàlamôn giáo, nhưng người Chăm đã biến thành thờ các nhân thần, có

tên tuổi cụ thể như Pôrômê, Pôklongirai. Trong các nghi lễ, được thỉnh
mời đầu tiên là 3 vị thần: Pô Ginuor mơtri (thần Shiva); Yang Pô, Yang
Amư (Giang pô là thần trời. Giang A mư là thần cha), đây là hai vị thần
tối cao thuộc dương, luôn được thỉnh mời đầu tiên trong các lễ tục Chăm;
Yang Pô Inư Nưgar (Thần Mẹ xứ sở) thuộc âm (ở Ninh Thuận có nhiều
thần Mẹ xứ sở, đó là những thần con gái của Pô Inư Nưgar như Pô Inư
Nưgar Thu Ram ở Hữu Đức, Pô Inư Nưgar Hamukút ở Bĩnh Nghĩa, Pô
Inư Nưgar Taha, Barau.v.v..., có những đền thờ Mẹ xứ sởđược coi nhưđền
thờ thành hoàng làng). Ngoài ra còn vô số vị thần được thỉnh mời trong
các nghi lễ như: Bò thần Kapil, Thần mặt trời Pô Atlitiak, Thần hủy diệt
Pô Sapalai, Thần sáng tạo Pô Sapa Jươn, Thánh mẫu Pô Yang Inư Nưgar
taha, Thần lửa Pô Yang patah apui, Thần tứ phương Pô Yang Akien, Dâm
thần Pô Yang Sari, Thần bầu trời Pô ligik, Thần biển: Pô Yang atau tathik,
Thần núi: Pô Yang Atau Chơk, Thần nước: Pô patah ia, Thần gò mối Pô
Yang angin, Thần mưa Pô Yang Chan, Thần hộ mệnh bên tả bên hữu Pô
nưbi, Pô bihanuk.v.v...


d. Hệ thống nghi lễ
Người Chăm Bàlamôn có hệ thống nghi lễ phong phú, đa dạng và
diễn ra quanh năm. Có thể chia ra các nhóm hệ thống nghi lễ nông
nghiệp, hệ thống nghi lễ vòng đời và hệ thống nghi lễ mang tính cộng
đồng tôn giáo. Hệ thống lễ nghi nông nghiệp gồm một số lễ nghi tiêu biểu
như:
- Lễ chuyển mùa, đón năm mới, tống ôn đầu năm (tháng 1 lịch
Chăm): RiJa nưgar;
- Lễ cầu mưa: Yang palau Risah; Lễ cúng Pô nai (cầu mưa): Yang
Pônai;
- Lễ cúng Pô riyak (cầu mưa); Lễ cúng chặn nguồn nước: Yang
pakap halau kron;

- Lễ khai mương đắp đập: Yang trun limưn tăm; Lễ tế trâu (7 năm
một lần) tại núi Đá trắng;
- Lễ cúng thần ruộng: Yang ey pô bhum hamu; Lễ cúng đầu lúa:
Yang tac patai dok tian;
- Lễ cúng ruộng tục: Yang hamu tacam tadak;
- Lễ mừng lúa mới sau khi thu hoạch: Yang ba patai takok ditan.
* Hệ thống nghi lễ cộng đồng tôn giáo gồm:
- Lễ Ka tê là lễ hội lớn nhất của người Chăm Bàlamôn. Trong lễ Ka
tê có các lễ thức: Lễ mở cửa tháp, lễ tắm tượng. Lễ Ka tê là lễ cúng cha
(thuộc dương), vì vậy nên được tổ chức vào ngày mùng 1 tháng 7 Chăm
lịch (giữa năm), vì theo quan niệm của người Chăm "nam thất, nữ cửu"
nên lễ cúng cha luôn vào tháng 7, và lễ Chabul (cúng mẹ, thuộc âm) được
tổ chức vào tháng 9;
- Lễ Chabul (lễ cúng mẹ, thuộc âm); Lễ Yỗn yang (cầu đảo). Nghi
lễ tôn chức các chức sắc tôn giáo gồm các nghi lễ tôn chức hàng pà xế từ
thấp đến cao. Lễ Rija rwong có mục đích tôn chức thầy vỗ (mưtuồn), tôn
chức bà bóng khu vực (Muk pajau) và bà bóng dòng họ (Muk rija), tôn
chức nghệ nhân đánh trống ghi năng và nghệ nhân thổi kèn Saranai (On
ataun Ginăn, On yuk Saranai), lễ tôn chức ông Kathành - người kéo đàn


kanhi (kadhar) và bà đơm (mupuh) trong lễ tang. Nghi lễ vòng đời của
người Chăm Bàlamôn vừa mang dấu ấn văn hóa bản địa, vừa mang
những truyền thống Bàlamôn giáo, tập trung chủ yếu ở giai đoạn sinh,
cưới và tang. Trong đó, với quan niệm luân hồi giải thoát, nghi lễ tang ma
luôn được coi trọng hàng đầu.
- Lễ nhập kút trong nghi lễ tang ma là một hiện tượng phái sinh của
Bàlamôn giáo. Các nghi lễ vòng đời của người Chăm Bàlamôn bao gồm:
Nghi lễ sinh đẻ (lễ cúng khi sinh nở; lễ tắm rửa cho hài nhi, lễ tra còng,
đeo dây thiêng, đặt tên), Nghi lễ cưới (Lễ dạm hỏi, lễ hỏi, lễ cưới); Nghi

lễ tang ma (Lễ tắm rửa, khâm liệm, lễ hoả táng, lễ nhập kút, lễ dựng kút
và nhập kút, lễ mở cửa kút], tục thờ kút, lễ cúng giỗ 3 ngày, một tuần,
một tháng, một năm).
Điểm đáng chú ý trong nghi lễ vòng đời của người Chăm là những
quy định khắt khe về hôn nhân và liên quan đến các hình thức tang ma và
giải thoát linh hồn. Theo quy định, người Chăm duy trì hôn nhân đồng
tôn giáo và đồng dân tộc. Nếu người Chăm kết hôn với người khác dân
tộc, khác tôn giáo, đến khi chết không được làm lễ tang cho người chết
"trọn vẹn", không được nhập kút về với dòng họ mẹ và linh hồn không
được giải thoát. Quy định này đã khép cộng đồng người Chăm trong
những palei, được bao bọc bởi những hàng rào xương rồng gai góc.
6. “Một trong những đặc điểm của tôn giáo ở Việt Nam là một số tôn giáo
bị các thế lực phản động trong và ngoài nước lợi dụng vì mục đích chính
trị.” Dựa vào tình hình các tôn giáo Việt Nam hiện nay chứng minh nhận
định trên.
Lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo để xâm phạm an ninh quốc gia, phá
hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc là âm mưu cố hữu không bao giờ từ
bỏ của chủ nghĩa đế quốc. Chính sách đối với tôn giáo của chủ nghĩa đế
quốc là lợi dụng, chia rẽ và thống trị.
Âm mưu của chúng là chia rẽ giữa tôn giáo này với tôn giáo khác,
giữa tôn giáo với không tôn giáo, đặc biệt giữa đồng bào tôn giáo với
Đảng, Nhà nước và cách mạng.
Chúng đã dùng các thủ đoạn kích động, lừa mị và o ép, khoét sâu
mâu thuẫn về tư tưởng, kích động mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân để


lừa gạt, lôi kéo, giành giật đồng bào về phía chúng và đẩy dân ra đối đầu
với chính quyền, với Đảng.
Để lợi dụng vấn đề tôn giáo trong bối cảnh thế giới hiện nay, Mỹ
đã triệt để lợi dụng các xu hướng toàn cầu hoá, quốc tế hoá, đề ra khẩu

hiệu nhân quyền cao hơn chủ quyền, quyền cá nhân cao hơn quyền cộng
đồng. Mỹ lại nhân danh các công ước quốc tế và lợi dụng các cơ chế toàn
cầu để pháp lý hoá các pháp luật, các quy định đơn phương từ phía Mỹ
nhằm can thiệp vào công việc nội bộ của các tôn giáo và các quốc gia.
Mỹ triệt để khai thác các phương tiện thông tin hiện đại trong điều kiện
xã hội thông tin để lừa mị, lung lạc, sử dụng tay sai đội lốt chức sắc giáo
sĩ để hoạt động chính trị phản động; lợi dụng các mối quan hệ hải ngoại
và quốc tế để nuôi dưỡng, tác động, chỉ đạo các tổ chức tôn giáo nghe
theo chúng hoạt động “diễn biến hoà bình”. Thực tế tình hình tỏng những
năm qua, cho thấy cuộc đấu tranh chống các thế lực thù địch lợi dụng tôn
giáo để thực hịên “diễn biến hoà bình” tại nước ta đã diễn ra rất gay go,
quyết liệt.
Từ năm 1999 đến nay, các thế lực thù địch quyết tâm phối hợp lực
lượng, kết hợp vấn đề tôn giáo với vấn đề dân tộc nhằm thực hiện “diễn
biến hoà bình”, tập trung vào năm 2000 và các năm tiếp theo. Chúng móc
nối xây dựng tổ chức liên tôn giáo chống Đảng, chống Nhà nước, tìm mọi
cách để ra mắt tổ chức chống đối ngay trong nước. Chúng kích động
những người tin theo tôn giáo trong dân tộc đa số cũng như thiểu số, tìm
cách cho ra đời các “giáo hội độc lập”, các “tôn giáo ly khai” theo kiểu
“Tin hành Đềga”, nhanạ chỉ đạo trực tiếp từ nước ngoài, được các lực
lượng phản động nước ngoài công khai cổ vũ, ủng hộ và chi viện.
Các thế lực thù địch luôn luôn tìm cách khai thác mọi sơ hở của ta
để kích động quần chúng lạc hậu vi phạm pháp luật, làm rối loạn trật tự
xã hội, gây bạo loạn nhằm tạo cớ để nước ngoài can thiệp.
Một số tổ chức tôn giáo phản động ở hải ngoại như Phật giáo Việt
Nam thống nhất hải ngoại tán phát tài liệu trên mạng in-tơ-net với nội
dung xuyên tạc, vu khống chính quyền Việt Nam khủng bố, đàn áp, bắt
giam, ngăn cản hoạt động tôn giáo của các tín đồ Phật giáo Hoà Hảo; số
cầm đầu tổ chức người Thượng lưu vong ở Mỹ tổ chức biểu tình phản đối
chính quyền Việt Nam vi phạm nhân quyền đối với người dân tộc thiểu số

ở Tây Nguyên, tiếp tục chỉ đạo số trong nước thu thập tình hình có liên


quan đến dân chủ, nhân quyền và tìm cách gặp người nước ngoài để yêu
cầu họ giúp giải quyết vấn đề “Tin Lành Đề-ga”. Nhiều năm qua, đạo Tin
Lành bị bọn phản động Phun-rô triệt để lợi dụng để chống phá cách mạng
Việt Nam. Chúng núp dưới chiêu bài “Tin Lành Đề-ga” để kích động
quần chúng chống phá cách mạng.
Trong gần 30 năm qua, các thế lực phản động luôn thực hiện chiến
lược “diễn biến hòa bình”, lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc và nhân
quyền tạo ra xung đột, điểm nóng để can thiệp vào công việc nội bộ của
Việt Nam. Chúng tìm mọi cách lợi dụng triệt để vấn đề tôn giáo, gây
dựng lực lượng đối lập với Đảng và Nhà nước Việt Nam. Núp dưới ngọn
cờ dân chủ và tự do lương tâm, tự do tôn giáo, các thế lực thù địch và
phản động không ngừng cổ súy cho các nhân vật có tư tưởng chống đối
Đảng và Nhà nước trong các tổ chức tôn giáo. Mặt khác, chúng luôn tìm
kiếm sơ hở trong giải quyết vấn đề tôn giáo để cáo buộc Việt Nam vi
phạm nhân quyền và tự do. Trong bối cảnh đó, hầu hết các tôn giáo ở
nước ta gần đây đều bị các lực lượng thù địch và phản động trong nước
và ngoài nước lợi dụng vào những mưu đồ chính trị chống phá cách mạng
Việt Nam.
Với Phật giáo: Với Phật giáo Bắc tông/Phật giáo Đại thừa, ở trong
nước, đó là những hoạt động chống đối Nhà nước Việt Nam và Giáo hội
Phật giáo Việt Nam, đòi phục hoạt cái gọi là “Giáo hội Phật giáo Việt
Nam Thống nhất” của nhóm “Tăng đoàn Thừa Thiên-Huế” do Thích
Thiện Hạnh, Thích Thái Hòa lãnh đạo; của một số phần tử cực đoan đứng
đầu là Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ,v.v... Ở nước ngoài, đó là
những hoạt động trực tiếp chống đối Chính phủ Việt Nam của nhóm Võ
Văn Ái, Thích Hộ Giác. Ở ngoài nước và trong nước, đó còn là những
hoạt động thiếu thiện chí cả đạo lẫn đời của Phật giáo Làng Mai do Sư

ông Thích Nhất Hạnh lãnh đạo và điều hành, mà vụ việc Tu viện Bát Nhã
(Lâm Đồng) là một ví dụ điển hình,v.v...
Với Phật giáo Nam tông Khmer, đó là sự hoạt động tích cực của
Liên hội Sư sãi Khmer Campuchia Krôm tại Mỹ vu cáo tình trạng Phật
giáo Khmer ở Việt Nam bị đàn áp, đòi được thành lập giáo hội Phật giáo
riêng cho người Khmer độc lập với Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Các tổ
chức, hội nhóm Khmer Campuchia tiếp tục hoạt động liên kết, móc nối,
kích động tư tưởng “ly khai tự trị”, xây dựng cơ sở, phát triển lực lượng
vào sư sãi, chùa chiền Khmer ở Nam Bộ. Các hội nhóm người Khmer


Krôm lưu vong ở Mỹ, Campuchia tiếp tục đẩy mạnh hoạt động phát triển
tổ chức, thu thập tin tức, tài liệu về người Khmer để tuyên truyền chống
phá Nhà nước Việt Nam.
Đối với Phật giáo Hoà Hảo: Lê Quang Liêm tiếp tục chỉ đạo tay
chân ở Nam Bộ thu thập tài liệu về cái gọi là đàn áp Phật giáo Hoà Hảo
để gửi ra nước ngoài nhằm vu cáo Nhà nước Việt Nam vi phạm nhân
quyền; trả lời phỏng vấn các phóng viên nước ngoài vu cáo Nhà nước ta
đàn áp tôn giáo và xin tài trợ của các tổ chức phản động nước ngoài. Một
số phần tử cực đoan trong Phật giáo Hoà Hảo kích động tín đồ cực đoan
mắc bệnh nan y không thể chữa khỏi “phát nguyện tự thiêu” để vu cáo
chính quyền. Trần Hữu Duyên tiếp tục có những hoạt động tranh thủ sự
ủng hộ, tài trợ của nước ngoài để dự định phục hồi “Đảng Dân Xã” của
Phật giáo Hoà Hảo trước năm 1975.
Đối với Công giáo: Đó là những hoạt động của Linh mục Nguyễn
Văn Lý chống đối chính quyền, kêu gọi Mỹ và các nước Phương Tây can
thiệp vào vấn đề tự do tôn giáo ở Việt Nam. Giáo hội Công giáo tại một
số địa phương chỉ đạo các giáo dân tăng cường các hoạt động xây đựng
cơ sở thờ tự trái phép, đấu tranh đòi lại các cơ sở vật chất cũ. Một số đối
tượng cực đoan trong Công giáo như Chân Tín, Nguyễn Hữu Giải, Phan

Văn Lợi tiếp tục soạn thảo, phát tán các tài liệu có nội dung kích động
đấu tranh chống chế độ. Một số chức sắc của giáo xứ Thái Hà (Hà Nội),
đứng đầu là Vũ Khởi Phụng, Nguyễn Văn Khải thường xuyên có những
bài viết, bài thuyết giảng kêu gọi sự tham gia của các giáo dân và chức
sắc ở các khu vực khác ủng hộ cho những việc làm vi phạm pháp luật của
họ; kích động giáo dân đối đầu với chính quyền gây mất ổn định xã hội,
vu cáo chế độ, chia rẽ khối đoàn kết dân tộc.
Đối với đạo Tin Lành: Các phần tử và tổ chức phản động trong đạo
Tin Lành ở Tây Nguyên đã kích động một bộ phận đồng bào thiểu số gây
bạo loạn ở các tỉnh Gia Lai, Đắc Lắc vào năm 2001 và năm 2004, nhằm
đòi lại đất đai, đuổi người Kinh ra khỏi Xây Nguyên, đòi quyền độc lập,
tự do tôn giáo, kích động đồng bào di tản sang Campuchia, Mỹ. Các phần
tử phản động ở Tây Bắc tuyên truyền, kêu gọi thành lập nhà nước “Tam
Miêu tự trị” của ngươi Mông, lấy đạo Tin Lành làm quốc đạo.


Trong đạo Tin Lành ờ người Việt nổi lên là hoạt động chống lại các cơ
quan chức năng, vu cáo công an đàn áp tôn giáo, thách thức, đối đầu với
chính quyền, phát tán các tải liệu có nội dung xuyên tạc chính sách của
Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam ra nước ngoài của nhóm
Tin Lành tư gia ở Thành phố Hồ Chí Minh và miền Đông Nam Bộ. Hiệp
hội Thông công Tin Lành Việt Nam kí tên vào bản kiến nghị đòi trả tự do
cho một số mục sư bị bắt giam.
Hiện nay và trong thời gian tới, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
thù địch đã, đang và sẽ tăng cường chỉ đạo, giúp đỡ mọi mặt để phát triển
đạo trong các vùng dân tộc ít người, bao gồm cả phát triển các đạo giáo
mới và cả số người theo đạo, biến các tổ chức và hoạt động tôn giáo
thành các tổ chức và hoạt động chính trị chống lại cách mạng Việt Nam.
Chúng ta phải thường xuyên nêu cao cảnh giác, đẩy mạnh hoạt động
tuyên truyền để nhân dân thấy rõ âm mưu thâm độc của chủ nghĩa đế

quốc và các thế lực thù địch.
7. Chứng minh các tôn giáo Việt Nam luôn đồng hành cùng dân tộc trong
2 cuôc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ.
Trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
xâm lược, các tôn giáo Việt Nam tiếp tục nêu cao ngọn cờ yêu nước, kề
vai sát cánh cùng toàn thể nhân dân cả nước đấu tranh giải phóng dân tộc.
* Phật Giáo
Trong kháng chiến chống Pháp, Phật giáo Việt Nam đã thành lập
các tổ chức “Tăng già cứu quốc”, “Đoàn Phật giáo cứu quốc”, “Bộ đội
Tăng già”, “Hội Phật giáo cứu quốc” các cấp để quy tụ, vận động và tổ
chức cho tăng ni, phật tử tham gia cách mạng, ủng hộ kháng chiến.
Đại đa số các ngôi chùa miền Bắc đã trở thành cơ sở cách mạng,
dự trữ quân lương, nuôi giấu cán bộ, như: chùa Quảng Bá, chùa Linh
Quang, chùa Ngọc Hồi, chùa Tự Khánh, chùa Thanh Trì, chùa Sùng Giáo
… ở Hà Nội; chùa Trại Sơn, chùa Trúc Động, chùa Vũ Lao… ở Hải
Phòng; chùa Ninh Cường, chùa Cổ Lễ, chùa Vọng Cung… ở Nam Định;
chùa Hoa Sơn, chùa Bích Động… ở Ninh Bình…
Nhiều tăng ni, phật tử đã hăng hái lên đường tòng quân đánh giặc,
cứu nước. Nói đến lịch sử dân tộc Việt Nam thời kỳ này không thể không
nói đến sự đóng góp to lớn của Phật giáo Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo và


những tấm gương yêu nước của các vị cao tăng, như: Hòa thượng Thích
Tâm Thi (1889 – 1959), Hòa thượng Thích Thanh Lộc (…), Hòa thượng
Thích Thanh Chân (1905 – 1989), Hòa thượng Thích Thế Long (1909 –
1985); Hòa thượng Thích Đôn Hậu (1904 – 1992); Hòa thượng Thích
Thiện Hào (1911 – 1997); Hòa thượng Thích Tâm Thông (1916 – 1999);
Hòa thượng Thích Thuận Đức (1918 – 2000)…
Các tăng ni, phật tử Phật giáo Việt Nam đã tích cực hưởng ứng lời
kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Bác Hồ, tiêu biểu là sự kiện 11 nhà sư

đã phát nguyện “cởi áo cà sa ra trận” tại chùa Cổ Lễ, huyện Trực Ninh,
tỉnh Nam Định vào ngày 27/02/1950, và họ đã trở thành những chiến sĩ
vệ quốc đoàn kiên trung, có người đã hy sinh thân mình cho Tổ quốc, có
người sau khi hoàn thành nghĩa vụ công dân cao cả lại tiếp tục quay trở
về tiếp tục cuộc sống tu hành; sự kiện 15 sư tăng thuộc tổ chức bộ đội
tăng già thuộc huyện Thủy Nguyên (Hải Phòng) tình nguyện nhập ngũ
lên đường bảo vệ Tổ quốc, và trong trận chiến đấu bảo vệ cho chính
nghĩa đó, 3 nhà sư đã anh dũng hy sinh. Và còn rất nhiều tấm gương của
các vị sư, cư sĩ Phật giáo yêu nước khác.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
thực hiện “Tiêu thổ kháng chiến”, Hội Phật giáo đã cho phá hủy nhà in
Đuốc Tuệ và nhiều cơ sở vật chất khác của Phật giáo để ủng hộ cách
mạng kháng Pháp.
Bên cạnh nhiệm vụ tham gia kháng chiến để bảo vệ Tổ quốc, Phật
giáo Việt Nam vẫn không quên lời dạy của Đức bổn sư: “Duy tuệ thị
nghiệp” (lấy trí tuệ làm sự nghiệp) và thực hiện lời dạy của Bác Hồ, đó là
muốn kiến thiết đất nước thì phải diệt được 3 loại giặc: “Giặc đói, giặc
dốt và giặc ngoại xâm”, các vị sư lại là những người thày, chùa của Phật
giáo lại trở thành các trường học dạy chữ cho bà con; bên cạnh đó tăng ni,
phật tử còn tích cực tăng gia sản xuất, ủng hộ cho kháng chiến chống
thực dân Pháp.
Không chỉ trực tiếp tham gia chiến đấu, Phật giáo Việt Nam còn
phát động phong trào chấn hưng Phật giáo. Đây không chỉ là việc đạo mà
còn với mục đích chấn hưng tư tưởng của một bộ phận tăng ni, phật tử
đặc biệt là lớp trẻ lúc bấy giờ, hướng họ không sa đà vào những hoạt
động mê tín dị đoan, sống cuộc sống vật chất, thực dụng, thiếu lý tưởng
do luồng tư tưởng của chủ nghĩa thực dân mang lại. Cuộc vận động chấn


hưng trong Phật giáo đã cảnh tỉnh nhiều nhà trí thức, làm dấy lên làn sóng

đề cao tinh thần, văn hóa dân tộc ở khắp các tỉnh miền Nam thời bấy giờ.
Đây cũng là một trong những yếu tố góp phần đẩy mạnh phong trào cách
mạng lên cao, sớm đi đến sự kết thúc địa vị của thực dân Pháp ở Việt
Nam.
Sau khi đánh đuổi được thực dân Pháp, đất nước ta lại phải đối đầu
với cuộc xâm lược của đế quốc Mỹ tại miền Nam. Đất nước bị chia cắt
làm 2 miền với 2 thể chế chính trị khác nhau. Phật giáo miền Bắc chung
vai cùng Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tập trung khắc phục hậu
quả chiến tranh, xây dựng đời sống mới, trở thành hậu phương vững chắc
chi viện sức người, sức của cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở miền
Nam.
Thời kỳ này Phật giáo ở miền Nam gặp nhiều khó khăn do chính
quyền Ngô Đình Diệm chèn ép mọi hoạt động của Phật giáo, vì cho rằng
Phật giáo là tôn giáo của dân tộc. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của các vị
sư đạo cao, đức trọng, nêu cao tinh thần yêu nước như: Hòa thượng Thích
Thế Long, Hòa thượng Thích Đôn Hậu, Hòa thượng Thích Thiện Hào,
Hòa thượng Thích Thiện Siêu, Ni trưởng Huỳnh Liên… số lượng người
theo Phật giáo ngày càng đông và ảnh hưởng của Phật giáo ngày càng
sâu, rộng trong đời sống xã hội. Phật giáo đã tổ chức nhiều hội đoàn trong
quần chúng, như: “Gia đình Phật tử”, “Thanh niên Phật tử”, “Xích lô Phật
tử” để tham gia các cuộc biểu tình, đấu tranh chống chính quyền Mỹ Ngụy.
Đỉnh cao của tinh thần yêu nước, vì dân tộc, vì hoạt động chính
đáng của Phật giáo là sự kiện Hòa thượng Thích Quảng Đức đã tự thiêu ở
ngã tư Lê Văn Duyệt – Phan Đình Phùng (nay là Cách mạng tháng Tám –
Nguyễn Đình Chiểu) vào ngày 10/6/1963 để tố cáo chế độ Ngô Đình
Diệm, phản đối cuộc chiến tranh phi nghĩa của đế quốc Mỹ tại Việt Nam.
Hòa thượng phát nguyện tự thiêu đòi bình đẳng tôn giáo, chống đàn áp
Phật giáo và đòi quyền dân sinh, dân chủ, độc lập dân tộc. Hành động cao
cả của Hòa thượng đã làm chấn động dư luận trong và ngoài nước, làm
dấy lên làn sóng biểu tình phản đối chế độ độc tài Ngô Đình Diệm ở khắp

các vùng, miền trong cả nước, và ở cả những quốc gia yêu chuộng hòa
bình trên thế giới, trong đó có một bộ phận nhân dân tiến bộ Mỹ.


Cùng với sự kiện tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức là các
phong trào đấu tranh của những người công nhân, học sinh, sinh viên,
phụ nữ… phật tử với những khẩu hiệu gắn với phong trào cách mạng của
Việt Nam, thông qua các cuộc biểu tình, đình công, bãi khóa, rải truyền
đơn, biểu ngữ… và trong cuộc đấu tranh ấy, những người con Phật lại
tiếp tục dâng hiến cuộc đời mình cho Tổ quốc, tiêu biểu như: sự hy sinh
anh dũng của Hòa thượng Hữu Nhem; của nữ sinh Quách Thị Trang bị
trúng đạn kẻ thù và trút hơi thở cuối cùng khi cô còn đang ở độ tuổi 15;
… và rồi hàng loạt các vụ tự thiêu theo gương Hòa thượng Thích Quảng
Đức, như: vụ tự thiêu tập thể của 6 tín đồ Phật giáo vào mùa thu năm
1963; vụ Phật tử Nhất Chi Mai tự thiêu (năm 1967) với mục đích đòi hòa
bình, độc lập cho quê hương, đòi cuộc sống an lạc cho nhân dân và yêu
cầu chấm dứt sự tham gia của chính quyền Mỹ - Ngụy tại Việt Nam…
Với truyền thống yêu nước, đồng hành cùng dân tộc, Phật giáo Việt
Nam không chỉ đấu tranh trực diện với kẻ thù mà Phật giáo Việt Nam còn
là hậu phương vững chắc cho cách mạng. Đại bộ phận các ngôi chùa
miền Nam là cơ sở của kháng chiến, chở che, bao bọc những người chiến
sĩ cộng sản; là nơi cất giấu vũ khí, quân trang, lương thảo; là trạm quân y,
là trường học dạy chữ, dạy đạo đức làm người; là cơ sở từ thiện cho đồng
bào… tiêu biểu là tổ chức “Mặt trận nhân dân cứu đói” do nhà sư Thích
Hiển Pháp làm Chủ tịch, phát động phong trào nhường cơm xẻ áo cho
đồng bào thiếu đói. Có thể nói, phong trào đấu tranh của Phật giáo đóng
góp một phần không nhỏ trong công cuộc cách mạng đấu tranh giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Sự đóng góp của Phật giáo Việt
nam đã được lịch sử dân tộc Việt Nam ghi nhận.
* Công giáo

Công giáo thời pháp thuộc: Cùng sự vận động của ĐCSVN nhiều
phong trào yêu nước và tổ chức kháng chiến của người CGVN được
thành lập tự nguyện đứng trong hàng ngũ MTVM có những đóng góp
quan trọng tập hợp đồng bào công giáo cướp chính quyền tham gia khởi
nghĩa.
Trong các tổ chức công giáo cứu quốc trước ngày khởi nghĩa có tổ
chức đoàn công giáo cứu quốc việt Nam của Trần Công Chính (1944)
hoạt động ở Hà Nội giương cao cờ đỏ lật đổ chính phủ Trần Trọng Kim tổ
chức nằm trong MTVM, thu hút rất nhiều người CG tham gia chống


Nhật. Ngoài ra phải kể đến tổ chức CG cứu quốc khác ở Hà Tây, Ninh
Bình, Thái Bình Nam Định…linh mục Nguyễn Văn Luận đã biến họ đạo
Vĩnh Lạc (Hà Tây) thành họ đạo theo cách mạng. ông chỉ huy đánh chiếm
huyện Mĩ Đức trong TKNNT8 1945. Một nhóm CG khác đứng ra vũ
trang và tổ chức chiến khu tại Quỳnh Lưu (Ninh Bình) dùng chiến thuật
du kích tấn công các đồn bốt Nhật, một nhóm thanh niên CG
PhatsDieemj tổ chức kháng chiến dưới danh nghĩa Công giáo cứu quốc.
Ở miền Bắc dưới sự vận động của MTVM đồng bào CG đã nổi
dậy đấu tranh tiêu biểu cuộc đấu tranh của giáo dân ở các xứ Văn Hải,
Tân Khẩu, Cồn Thoi (1945) vùng lên tiến lên về Sở quản lý đòi giảm tô,
xóa nợ lãi đòi chia ruộng đất cho giáo dân.
Ở Nam Bộ người CG sớm có truyền thống yêu nước có quan hệ
với cách mạng. những năm 40 (XX) vùng CG thuộc các xứ An Đức ,Cái
Bè, Kiền Váng, …là những khu căn cứ ở Nam Kì. Trong số những người
tù chính trị tại Côn Đảo từ năm 1930 có rất nhiều đồng bào Công giáo
Việt Nam.
Linh mục Nguyễn Bá Luật và một số giáo hữu khác thành lập ra tổ
chức Việt Nam Quốc Gia Tiến Hành với mục đích cùng với toàn dân lật
đổ phát Nhật giành độc lập cho VN hoạt động trong suốt giai đoạn 19441945. Luật sư Thái Văn Lung lãnh đạo Đoàn Thanh Niên Tiền Phong tập

hợp nhiều người CG yêu nước đây là tổ chức quan trọng tiến tới sự thành
lập Đoàn CG cứu quốc ở Nam Bộ. Trước ngày cách mạng người CG ở
Sài Gòn, nhiều vùng nông thôn ở Nam Bộ đã hang hái đắp ứng những lời
kêu gọi của đồng bào Công Giáo Bắc Bộ trong pt CG cứu quốc.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, người Công giáo đã
thành lập ra các tổ chức đại diện cho phong trào yêu nước của mình, như
ở Nam Bộ có Hội Công giáo kháng chiến Nam Bộ; ở Bắc Bộ có Ủy ban
Liên lạc Công giáo khu Ba, Ủy ban Liên lạc Công giáo khu Tả Ngạn...
Năm 1955, khi phong trào Công giáo yêu nước phát triển rộng
khắp trên toàn quốc, một tổ chức đại diện chung cho đồng bào Công giáo
cả nước trong các hoạt động yêu nước được thành lập, đó là Ủy ban Liên
lạc Những người Công giáo Việt Nam yêu Tổ quốc, yêu hòa bình (nay là
Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam). Cùng năm đó, Báo Chính Nghĩa
ra đời làm cơ quan ngôn luận cho Ủy ban.


Ra đời từ phong trào Công giáo yêu nước, trong hoàn cảnh đất
nước đang bị chia cắt, Chính Nghĩa là tờ báo toàn quốc đầu tiên đại diện
cho phong trào Công giáo yêu nước Việt Nam.
Trong chặng đường 29 năm, Báo Chính Nghĩa đã thực hiện tốt
nhiệm vụ tuyên truyền, phát huy lòng yêu nước trong đồng bào Công
giáo, góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu
tranh thống nhất đất nước.
Phóng viên Báo Chính Nghĩa luôn có mặt tại những tuyến lửa như:
Quảng Bình, Vĩnh Linh, Thanh - Nghệ - Tĩnh... để kịp thời phản ánh tinh
thần chiến đấu chống Mỹ của quân và dân ta. Nhiều tấm gương người
Công giáo dũng cảm trong chiến đấu, sản xuất được Báo phản ánh. Nhiều
gương sáng trong đồng bào Công giáo do Báo phát hiện và tôn vinh đã
được Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng thưởng huy hiệu của Người.
Trong chống Mỹ cứu nước, hơn 5 vạn thanh niên Công giáo lên

đường bảo vệ Tổ quốc, nhiều người trở thành anh hùng lực lượng vũ
trang, dũng sĩ diệt Mỹ và biết bao tấm gương hy sinh anh dũng cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc. Nhiều bà mẹ Công giáo được phong tặng danh
hiệu “Mẹ Việt Nam anh hùng”. Đó mãi mãi là những nét son trong lịch sử
cứu nước vẻ vang của người Công giáo trong cộng đồng dân tộc Việt
Nam.
Đồng bào Công giáo Việt Nam đã có những đóng góp tích cực về
sức người, sức của cho các công việc chung của dân tộc, trong kháng
chiến cũng như trong hòa bình xây dựng và phát triển đất nước. Chẳng
hạn, nhà cải cách Nguyễn Trường Tộ (người Công giáo) đã dâng lên triều
đình nhà Nguyễn 58 bản điều trần mong muốn góp phần làm cho đất
nước giàu mạnh, đủ sức đánh thực dân Pháp. Không ít linh mục, giáo dân
ở giáo phận Vinh đã tham gia phong trào Duy tân của Phan Bội Châu, có
người bị thực dân Pháp bắt đày ra Côn Đảo và chết trong ngục tù đế
quốc. Có gia đình cả nhà là linh mục, tu sĩ nhưng đều theo kháng chiến
như gia đình linh mục liệt sĩ Nguyễn Bá Luật. Cách mạng Tháng Tám
thành công tiếp tục thổi bùng lên ngọn lửa yêu nước trong đồng bào Công
giáo. Một số cụ giám mục ngay năm 1945 đã gửi thư cho Tòa thánh và
Cộng đoàn Công giáo thế giới xin ủng hộ Chính phủ của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Hưởng ứng Lời kêu gọi của Bác trong "Tuần lễ vàng", ngày 6-11946, cụ giám mục Hồ Ngọc Cẩn đã hiến dây chuyền vàng cho Chính


×