Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

ĐẠO LÝ TRONG TIỂU THUYẾT HỒ BIỂU CHÁNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.24 KB, 18 trang )

ĐẠO LÍ TRONG TIỂU THUYẾT CỦA HỒ BIỂU CHÁNH
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tiểu thuyết bằng chữ Quốc ngữ ở Nam bộ cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX là bộ phận của nền văn học
hòa trong dòng chảy của văn học dân tộc. Nếu như Nguyễn TrọngQuản, Trương Duy Toản… là những người
mở đường thì Hồ Biểu Chánh là người góp phần bổ sung, phát triển hơn cho tiểu thuyết Nam Bộ.
Đạo lí là những lẽ phải hợp với khuộn phép đạo đức ở đời và là một trong những cảm hứng chủ đạo
trong văn xuôi tự sự quốc ngữ Nam bộ. Hồ Biểu Chánh chính là một trong những nhà văn thể hiện thiên chức
“Văn dĩ tải đạo” đó. Tiểu thuyết của ông không chỉ để thưởng ngoạn mà còn đóng góp đạo đức để xây dựng
xã hội. Ngày nay, ta tìm về Hồ Biểu Chánh cũng chính là ta đang tìm về những giá trị mà tác phẩm của ông đã
để lại. Thông qua đó, ta sẽ thấy được mối tương quan giữa tác giả, tác phẩm và công chúng thưởng thức theo
thời gian. Trong quá trình hiện đại hóa từng ngày của văn học, ta có dịp vươn mình để đón nhận những làn
gió mới. Thiết nghĩ, công việc nghiên cứu về các nền văn học đã qua đó là một công việc vô cùng thiết yếu để
ta có dịp khẳng định và hiểu hơn về vấn đề tiếp nhận văn học. Nghiên cứu đề tài “Sinh viên ngày nay nghĩ gì
về đạo lí trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh” chúng tôi muốn góp thêm tiếng nói của mình về sức sống của
đạo lí mà nhà văn đã gửi gấm từ hàng thế kỉ trước. Từ đó ta sẽ thấy rõ hơn sự đóng góp tích cực của nhà văn
trong nền văn học Việt Nam hiện đại, phục vụ cho viêc nghiên cứu và giảng dạy, thấu hiểu hơn tâm tư tình
cảm mà nhà văn muốn gửi đến cho hôm qua và cho hôm nay, đồng thời đó sẽ là những bài học rất bổ ích cho
nhận thức của con người. Nhưng theo thời gian thăng trầm của xã hội ngày một phát triển theo hướng hiện đại
thì những đạo lí đó của Hồ Biểu Chánh có còn giá trị hay không và suy nghĩ của con người hiện nay về những
đạo lí đó như thế nào, đặc biệt là suy nghĩ của sinh viên hiện nay. Đó là những vấn đề sẽ được làm sáng tỏ
thông qua bài viết “Sinh viên nghĩ gì về vấn đề đạo lí trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh”.
2. ĐẠO LÍ TRONG TIỂU THUYẾT HỒ BIỂU CHÁNH
Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh không chỉ mô tả thực trạng xã hội mà còn đề cập đến những phong tục làm nền
cho xã hội Việt Nam vào những năm đầu thế kỷ XX . Là một trí thức tân học nhưng thấm nhuần Nho giáo, Hồ
Biểu Chánh có tư tưởng dung hoà cũ và mới, trái với lập trường của Tự Lực Văn Đoàn là đoạn tuyệt với cái
cũ. Theo ông cái cũ và cái mới đều có hay dở riêng, điều cần thiết là phải biết chọn lọc những cái hay, cái đẹp
của cũ và mới để áp dụng trong cuộc sống cho hài hòa,
Trong hôn nhân, ông đã đề cập đến những khía cạnh tiêu cực của những hủ tục như cưỡng bách hôn nhân
(Ai làm được, Lời thề trước miểu), vụ lợi trong hôn nhân (Nhân tình ấm lạnh, Tỉnh mộng,Thầy thông ngôn),
tự do hôn nhân (Cười gượng), tiền dâm hậu thú, (Ai làm được, Chút phận linh đinh) môn đăng hộ đối (Sống
thác với tình), tục nôm vợ ( con nhà giàu lỡ chửa hoang thì thuê một chàng trai cưới để bảo vệ danh giá như


trong Tỉnh Mộng ), sinh con trai nối dõi (Nợ đời).
Ngoài ra, tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh còn đề cập đến hiện tượng tranh giành gia tài (Nhân tình ấm lạnh), mẹ
ghẻ cha ghẻ (Mẹ ghẻ con ghẻ, Ai làm được) mê tín dị đoan, cảnh cưỡng hiếp, ngoại tình (Chúa tàu Kim quy,

1


Thầy thông ngôn, Cha con nghĩa nặng). Ðặc biệt, án mạng thường xuất hiện trong tác phẩm của Hồ Biểu
Chánh (Khóc thầm, Thầy thông ngôn, Cha con nghĩa nặng.)
2.1 Nội dung đạo lí
Trong quyển “Chân dung Hồ Biểu Chánh” (Sài Gòn, Lửa Thiêng, 1974) Nguyễn Khuê viết: “Có thể
nói, tính chất luân lí bao trùm mọi tiểu thuyết của ông, ông viết tiểu thuyết phong tục cũng chỉ nhằm đạt chủ
đích luân lí. Thế nên, nếu cần phải xác định một ý hướng làm nền tảng cho sự sáng tác của Hồ Biểu Chánh thì
đó chính là ý hướng luân lí và ông là một nhà đạo lí”. Như vậy, đạo lí trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh đã
khẳng định vị trí của ông trên văn đàn của đầu thế kỉ XX.
2.1.1. Vấn đề đạo đức trong gia đình, ngoài xã hội
Đầu thế kỉ XX, tư tưởng phương Tây du nhập đã tác động đến xã hội Nam Bộ ở nhiều phương diện và
làm cho đời sống của con người có nhiều thay đổi. Trong đó đạo đức là phương diện bị tác động và thay đổi
nhiều nhất khiến cho nhiều người cảm thấy ngậm ngùi xót xa trước hiện thực đó. Hồ Biểu Chánh quả thực là
người thư kí trung thành của thời đại vì những vấn đề vốn có thuộc mọi góc cạnh của đạo đức đều được ông
phản ánh một cách chân thực. Trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, vấn đề đạo đức được tái hiện không chỉ trong
phạm vi gia đình mà còn ngoài xã hội.
Chúng ta nhận thấy một điều rõ ràng là trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh đạo đức đang biến chất một
cách trầm trọng, dường như con người đang bị cuốn vào cái vòng xoay bất tận của luồng tư tưởng mới. Trong
gia đình, những vấn đề đạo đức đã có những biểu hiện của sự tha hóa, con người đã quên đi những thứ gọi là
tam cương ngũ thường, quên mất đi những phẩm chất tốt đẹp: trung, hiếu, tiết, nghĩa và câu tam tòng tứ đức
của người phụ nữ Việt Nam. Trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, đạo đức của con người được thể hiện như nó
vốn có ở ngoài đời thật, con người trở nên bất hiếu, độc ác, bất nghĩa, tham lam, ích kỉ… Chúng ta khảo sát
tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh thì sẽ nhận ra điều đó rõ hơn.
Trong gia đình, sự cưỡng bách trong hôn nhân của những người làm cha làm mẹ là một biểu hiện của

suy thoái đạo đức. Những mối tình đẹp bị tan vỡ, những bi kịch cho con người mà nạn nhân đặc biệt là người
phụ nữ. Trong tiểu thuyết “Tiền bạc bạc tiền”, Đổ Thị đã ép gã Thanh Kiều cho bác sĩ Thái Thường vì tính
tham tiền, tình yêu thương dành cho con gái dường như không hề có, trong mắt bà chỉ có tiền mà thôi. Vì
khinh khi Hiếu Liêm nghèo mà bà không gã Thanh Kiều cho anh: “má thấy nghèo má sợ lắm”. Khi gia đình
bà sa sút, Thái Thường từ hôn, bà lại tiếp tục ép gả Thanh Kiều cho chệt tên Triệu, chỉ cố để lấy tiền mà
không hề suy nghĩ đến cảm giác của con gái.
Trong gia đình còn có sự vụ lợi trong hôn nhân, hạng phúc là một thứ gì đó thật tầm thường trong mắt
con người, họ chỉ hướng đến lợi ích mà không hề nghĩ đến hạnh phúc trong hôn nhân, chỉ có những cuộc hôn
nhân được toan tính vì đồng tiền. Trong tiểu thuyết “Thầy thông ngôn”, Thầy thông Phong đã phụ tình cô Hai
Liền vì gia đình cô chỉ thuộc dạng trung bình. Thầy thông Phong lấy Như Hoa vì cô này là con nhà giàu và
quyền thế để dễ dàng tiến thân trong sự nghiệp, dù cho Như Hoa khinh khi thầy Phong một cách thậm tệ.
Thầy thông Phong chỉ hướng đến người vợ quyền thế và giàu có nên: “Khi ông gia tôi muốn gả con cho tôi,
tôi thấy ông giàu lớn mà lại có một đứa con gái mà thôi, nên thiệt trong bụng tôi mừng lắm”. Ngoài thầy
thông Phong còn có tú tài Xương trong tiểu thuyết “Cười gượng”, Trường Xuân trong “Tỉnh mộng”, Bình
trong tiểu thuyết “Hai vợ”…
Những nhân vật nữ trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh còn có những hành động đi ngược lại với những
giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc: ngoại tình mà phản bội chồng, đánh rơi mất câu tam tòng tứ đức của
người phụ nữ. Thị Lựu trong tiểu thuyết “Cha con nghĩa nặng” phản bội chồng mà ngoại tình với Hương hào

2


hội. Để chối cãi cho hành động lăng loàn của mình, Thị Lựu đã phản ứng dữ dội: “Mầy bắt được cái gì? Tiên
nhơn tổ đường thằng cha mầy, nửa đêm mầy về đây kiếm chuyện mà đánh tao phải hôn? Mầy giỏi mầy làm gì
tao đâu, mầy làm thử, coi họ còng đầu mầy hay không mà”. Cũng như Thị Lựu, Như Hoa trong tiểu thuyết

cũng là một người phụ nữ “…vợ một thầy thông ngôn, đã có chồng
có con rồi còn sanh tâm ngoại tình với xã Xù là con nhà giàu lớn”. Ngoài ra còn có
Thị Sen trong tiểu thuyết “Khóc thầm”… Đây là những người phụ nữ rất đáng bị
chê trách trong xã hội đương thời, họ đã làm những điều trái với đạo đức truyền

thống của dân tộc. Hồ Biểu Chánh đã đặt ống kính quan sát ở nhiều hướng, để nhận
thấy thật tường tận và thấu đáo các vấn đề về con người. Quan niệm người phụ nữ là
phải sống với chữ tiết. ai thất tiết là người xấu, là người hư hỏng nhưng nhà văn đã
xem xét hoàn cảnh , tình huống “phạm tội” rồi sau đó mới “luận tội” và “xử phạt”.
Đều là những người phụ nữ thất tiết nhưng cô Tư Lựu (Con nhà nghèo) lại có một
cái kết cục khác hẳn cái kết thúc của Như Hoa (Thầy thông ngôn) và Thị Lựu (Cha
con nghĩa nặng). Cách giải quyết đó của Hồ Biểu Chánh cho thấy một quan điểm
mang tính mềm dẻo, uyển chuyển, không bảo thủ, càng không hề áp đặt. Người cố
tình vi phạm đạo đức được đánh giá khác so với người bị buộc phải vi phạm, lại biết
ăn năn hối lổi. Nhìn chung, theo ông, tiết hạnh là thứ đáng giá ngàn vàng, người phụ
nữ tốt là người phụ nữ biết giữ gìn tiết hạnh. Tuy nhiên, phải đặt người phụ nữ vào
từng hoàn cảnh thích hợp thì tiết hạnh mới thực sự có ý nghĩa.
Trong gia đình, chữ hiếu là giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc, nhưng ta thấy
rằng trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh thì có những biểu hiện đi ngược lại những
giá trị đáng quý ấy, đó là sự bất hiếu của con cái đối với cha mẹ. Trong tiểu thuyết
“Cha con nghĩa nặng”, Ba Giai đã bất hiếu với bà Hương quản Tồn. Ba Giai đã
làm cho bà hương quản Tồn đau lòng đến mức không muốn nhìn mặt. Qua lời của
bà Hương quản Tồn nói với Quyên, chúng ta sẽ nhận ra sự bất hiếu của Ba Giai: “
Tao banh da xẻ thịt mà sanh nó ra. Chừng nó trộng rồi, tao biểu nó đi học, đặng
ngày sau nó hay chữ, khỏi bị người ta lường gạt hiếp đáp, chớ phải tao bắt nó làm
việc gì lợi ích cho tao hay sao….Té ra về nhà nó không chịu coi sóc việc gì hết rồi
lại ăn cắp mấy ngàn đồng bạc mà trốn nữa”. Là một người con lẽ ra phải yêu
thương mẹ của mình nhưng Ba Giai lại làm buồn lòng mẹ. Một hiện tượng tương tự
như thế trong tiểu thuyết “Thầy thông ngôn” là nhân vật Như Hoa, ỷ mình giàu mà
khinh khi cha mẹ chồng, không làm tròn chữ hiếu của một người con dâu: “ Cô Như
Hoa đã không nói một lời chi trìu mến hoặc cần cố đến cha mẹ chồng, mà cô lại
theo nói tiếng tây với ông cò tàu hoài”, “ Như Hoa ngủ tại giường cha mẹ chồng
“Thầy thông ngôn”

3



mà cô cứ cằn nhằn mùng cũ hôi mốc, chiếu cấn đau lưng, cô không ngủ được…”.
Cô Như Hoa không giữ được đạo dâu con đối với cha mẹ chồng nên ta thấy được
rằng biểu hiện đó thật vô cùng bất hiếu, và trong xã hội lúc bấy giờ không ít những
trường hợp như thế. Trong đạo làm con, chữ hiếu được đặt ở vị trí hàng đầu, nhưng
Hồ Biểu Chánh không có quan niệm như Nho giáo. Theo ông, chữ hiếu phải bắt
nguồn từ cả hai chiều. Cha mẹ có yêu thương và làm tròn bổn phận với con cái thì
mới có thể nhận được tình yêu thương, lòng kính trọng, hiếu thảo từ con cái. Xưa
nay văn chương thường đặc biệt dành sự ưu ái cho quan hệ mẫu tử, ngợi ca tình mẫu
tử, thông qua đó nói đến tấm lòng của người mẹ, đạo hiếu của con người. Nhưng ít
thấy trường hợp nào đi sâu vào tình phụ tử, thể hiện tấm lòng yêu thương con đến vô
bờ bến, hy sinh tất cả vì con của người cha, đặc biêt là người cha nuôi. Tiểu thuyết
của Hồ Biểu Chánh đã đi vào khai thác vùng đất chưa mấy ai chú ý tới này. Những
tiểu thuyết thể hiện mối quan hệ cha con ấy là: Cha con nghĩa nặng, Vì nghĩa vì
tình, Ngọn cỏ gió đùa, Tại tôi, Con nhà nghèo. Chính nhờ vào cách khai thác đề tài
và cách thể hiện có phần đặc biệt mà người đọc nhận thấy quan điểm của nhà văn về
con người đạo đức được bộc lộ rõ nét.
Theo quan niệm đạo đức truyền thống, trong gia đình thì anh chị em phải yêu
thương đùm bọc lẫn nhau, nhưng thực tế xã hội lúc bấy giờ thì đầy rẫy những trường
hợp anh chị em ăn ở bất nghĩa với nhau. Trong tiểu thuyết “Tại tôi”, Phụng là chị
ruột của Thạch mà lại không yêu thương em mình, chính vì thói tham lam, ích kỉ của
Phụng mà vợ chồng Thạch mới chết, Thanh Nguyên phải lưu lạc bà nội mình suốt
mười tám năm trời.
Chế độ đa thê trong gia đình đã khiến cho mối quan hệ giữa vợ cả và vợ lẽ trở
nên không tốt đẹp. Dẫu biết xưa nay mối quan hệ giữa vợ cả và vợ lẽ ít khi nào
được thuận hòa, nhưng đến với tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh thì ta thấy rõ một
thực trạng là vì chế độ đa thê mà con người trở nên đố kị, ghen ghét nhau mà biểu
hiện thường thấy là những người vợ lớn bị vợ lẽ của chồng hãm hại để giành gia tài.
Trong tiểu thuyết “Cay đắng mùi đời”, người vợ lẽ vì ghen ghét vợ cả và mong

muốn chiếm trọn gia tài nhà chồng nên đã nhẫn tâm mang một đứa bé còn đỏ hỏn
vứt đi chỉ vì nó là con của bà vợ cả. Còn trong tiểu thuyết “Nợ đời”, vợ lẽ của cai
tổng Luông đã đem tráo con gái của mình để lấy con trai của Phục để bà có được vị
trí trong đại gia đình của chồng.

4


Vấn đề đạo đức không chỉ là được đề cập trong gia đình mà nó còn được biểu
hiện ra ngoài phạm vi xã hội. Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh cũng tái hiện lại những
biểu hiện của đạo đức một cách vô cùng chân thực như nó vốn có ngoài cuộc đời. Bị
tác động bởi luồng tư tưởng phương Tây mà những vấn đề đạo đức ngoài xã hội có
những biểu hiện như: âm mưu hãm hại người tốt, sự ỷ quyền cậy thế mà áp bức bóc
lột người nghéo khổ, cho vay nặng lãi, trộm cắp, nhận hối lộ,…
Trong tiểu thuyết “Chúa tàu Kim Quy”, Tấn Thân đã cưỡng hiếp Xuân:
“Lúc nó đi tới cây “táo một” thình lình Tấn Thân trong bụi nhảy ra chụp nó kéo riết
vào đám dâu. Nó la làng được ít tiếng, rồi bị Tấn Thân bóp họng nên nó la không
được nữa”. Trong tiểu thuyết “Con nhà nghèo”, Hai Nghĩa cưỡng hiếp Lựu và
những cô gái nghèo khác. Đó là những biểu hiện của những kẻ ỷ có quyền thế trong
xã hội đã có hành động cưỡng hiếp gái nhà lành.
Âm mưu hãm hại người tốt cũng là hành động dẫn đến bi kịch cho con người.
Tấn Thân trong tiểu thuyết “Chúa tàu Kim Quy” đã vu cáo Thủ Nghĩa theo đạo
thiên chúa để Thủ Nghĩa bị tù tội.
Nhân vật Tư Cu trong “Vì nghĩa vì tình” chuyên đi trộm cướp tài sản của
người khác, anh ta không làm ruộng cũng chẳng làm rẩy mà “ …thường nói với
người trong xóm rằng để đi làm mướn ăn khỏe hơn, nhưng mà ít thấy làm việc gì
cho ai trong làng, duy ban ngày thì be be đi xuống miệt Sài Gòn dọ đường rồi ban
đêm rình mò coi nhà nào ngủ mê thì đào hầm, khoét vách mà ăn trộm đồ”. Trong xã
hội đương thời có những con người không dựa vào sức lao động của mình mà kiếm
ăn, chỉ có những hành động gian trá, trộm cắp tài sản của người khác. Những biểu

hiện đó cho thấy sự xuống cấp đạo đức của con người trong xã hội đương thời.
Bên cạnh đó, cho vay nặng lãi cũng là một biểu hiện của sự suy thoái đạo đức
của con người. Trong tiểu thuyết “Nhân tình ấm lạnh” đã thể hiện được điều đó.
Phước Đằng là người chuyên cho vay nặng lãi, ông ta đã lôi kéo Duy Linh để anh
làm công việc đó giống như ông: “Cháu khờ quá! Chẳng hiểu họ cho vay thế nào,
chớ thuở nay chú cho vay có lợi luôn, đâu có hại mà sợ…..Mỗi người vay mình ăn
lời 15 đồng, tính ra 20 người số lời được 300 đồng mà số lời ấy là lời từ 3 đến 5
tháng thế thì một năm mình lời 600 đồng. Ví như vài chổ trốn mình mất vốn có trên
100 đồng thôi, có hại chổ nào đâu.” . Làm giàu trên xương máu của người khác, chỉ
ngồi không mà hưởng lợi là lối sống của những người cho vay nặng lãi.

5


Vấn đề đạo đức trong xã hội đương thời có lắm sự xù xì, có lắm góc cạnh
được Hồ Biểu Chánh phản ánh một cách chân thực trong tiểu thuyết của mình. Vấn
đề đạo lý đã chi phối mạnh mẽ nội dung tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Mục đích phản
ánh hiện thực xã hội cũng nhằm thể hiện quan niệm đạo đức của tác giả. Ông đã tái
hiện lại bộ mặt của xã hội Nam Bộ vào những năm đầu thế kỉ XX và phê phán
những mặt trái của xã hội trên lập trường đạo đức. Vì theo ông: “ Đời này là cái đời
từ cao xuống thấp, từ đông qua tây đều trọng vật chất, khinh đạo nghĩa, cái đời kẻ
dại làm người lanh ăn, cái đời lấy tốt làm xấu, lấy xấu làm tốt, nếu xây đắp đường
ngay nẻo thẳng e sợ không mấy người muồn để chơn, thà là chỉ vẽ nẻo hẹp đường
cong, cho thiên hạ vui mà xông vào, hoặc may có người chán ngán mà giật mình trở
bước.” .
2.1.2 Vấn đề đạo đức còn được thể hiện qua tính chất lý tưởng hóa trong
việc tái hiện cuộc sống trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh
Bên cạnh việc phản ánh chân thực hiện thực cuộc sống thì điều làm cho tiểu
thuyết của Hồ Biểu Chánh thu hút sự quan tâm và yêu thích của người đọc là tính
chất lý tưởng hóa trong việc tái hiện cuộc sống xã hội đương thời. Hồ Biểu Chánh

đã lý tưởng hóa giai cấp phong kiến thống trị trong xã hội đương thời, lý tưởng hóa
con người tiêu biểu cho tấm gương đạo đức ở đời và lý tưởng hóa cuộc sống hiện
tại: ở hiền gặp lành, gieo ác gặt dữ. Lý tưởng hóa cuộc sống đương thời, Hồ Biểu
Chánh nhằm thể hiện những ước mơ về một cuộc sống tốt đẹp hơn và mang lại hạnh
phúc cho con người.
Hồ Biểu Chánh mong muốn rằng dù cho xã hội đương thời có những xù xì,
góc cạnh, đạo đức xã hội có bị suy thoái thì trong xã hội vẫn còn những người tốt,
giàu phẩm chất, có thể, có thể mang lại hạnh phúc cho con người trong xã hội. Ông
hy vọng có thể dùng đạo đức để sửa chửa mọi hành vi xấu xa của con người, kể cả
giai cấp thống trị. Vì theo ông, không phải tất cả địa chủ đều gian ác, xấu xa. Bên
cạnh những ông địa chủ độc ác, tham lam, tìm mọi cách ức hiếp, bóc lột dân lành,
làm giàu trên xương máu của người nghèo…vẫn còn có những địa chủ tốt bụng,
giàu lòng nhân ái, sẳn sàng cưu mang giúp đỡ người nghèo như Hội đồng Chánh
trong “Khóc thầm” là người thuộc tầng lớp thống trị nhưng rất: “…nhơn đức ở
miệt Cái Sao, Cái Sắn. Cái danh ấy không phải là danh giả, bởi vì thầy Hội đồng
đứng bộ hơn năm trăm mẫu điền hạng nhất, mỗi năm thầy thâu huê lợi gần hai chục
ngàn giạ lúa, mà vợ chồng thầy ở rộng rãi, tá điền, tá thổ đứa nào túng tiền hoặc là

6


túng lúa thì thầy cho mượn chớ chẳng hề thầy chịu cho vay, còn trong làng xóm ai
gặp hoạn nạn thì thầy cứu giúp cho hết thẩy”. Ông Hội đồng Chánh không chỉ là
người có tấm lòng và nhân cách đáng quý, biết giúp đở những người có hoàn cảnh
đáng thương mà ông còn là người: “không chịu can dự đến quốc sự, nhưng mà thầy
tôn trọng quê hương, thầy trìu mến đồng chủng…”. Trong gia đình, Hội đồng
Chánh luôn là một trụ cột vững chắt, làm tốt nhiệm vụ của một người chồng. Điều
đó thể hiện qua nhận xét của các nhân vật khác: “Thầy Hội đồng ở tử tế lắm” . …
Màu sắc lý tưởng cũng được thể hiện qua nhân vật bà Hương quản Tồn trong “Cha
con nghĩa nặng”. Bà Hương quản là người có địa vị trong xã hội đương thời nhưng

con người của bà thì: “Bà Hương quản Tồn giàu có, mà không khổ khắc, tuy bà
không tín ngưỡng đạo nào, song bà biết thương kẻ nghèo hèn, bà hay giúp người
hoạn nạn” . Bà biết yêu thương và giúp đở kẻ khó khăn, đó là tấm lòng đáng quý
trọng. Bà đã giúp đỡ anh em của Tý và Quyên, hai hoàn cảnh đáng thương. Không
những thế, bà còn là người hết sức công bằng, khi Ba Giai là con của bà phạm phải
sai lầm nhưng bà vẫn không thiên vị: “thứ đồ du côn, ăn cướp, nhắc tới nó tao ghét
quá”. Thế nhưng khi Ba Giai biết ăn năn hối lỗi thì bà đã sẳn lòng tha thứ: “ …về
nhà thì phải lo làm ăn, chớ không được chơi bời nữa”. Mặc dù thuộc giai cấp thống
trị nhưng bà Hương quản Tồn thật đáng quý bởi tấm lòng nhân ái, nhân hậu, vị tha
và trọng lẽ phải, không cậy quyền ỷ thế mà bà đối xử với những người nghèo khó
bằng cả tấm lòng. Ngoài ra cón có các nhân vật khác được Hồ Biểu Chánh lý tưởng
như: quan Kinh lí La Co trong tiểu thuyết “Mẹ ghẻ con ghẻ”…
Xây dựng hình tượng các nhân vật mang tính chất lý tưởng thuộc gai cấp
thống trị, Hồ Biểu Chánh đã thể hiện ước mơ và niềm tin vào cuộc sống của ông.
Ông tin rằng, trong xã hội đương thời vẫn có những con người giáu lòng nhân ái,
biết cưu mang giúp đở người khó khăn. Tất cả những việc làm tốt đẹp của các nhân
vật trên hết sức có ý nghĩa và có giá trị sâu sắc.
Không chỉ dừng lại ở việc lý tưởng hóa giai cấp thống trị đương thời mà ông
còn lý tưởng những con người tiêu biểu cho tấm gương đạo đức ở đời. Trong tiểu
thuyết Hồ Biểu Chánh, những con người tiêu biểu cho tấm gương đạo đức xuất hiện
như là mang trong đó ước mơ, niềm tin của ông về một xã hội tốt đẹp, đồng thời ông
còn muốn người đời nhìn vào đó mà tự đánh giá hành vi lối sống của mình. Khắc
họa những nhân vật giàu phẩm chất đạo đức thì Hồ Biểu Chánh đã chú ý đến việc
miêu tả họ đẹp một cách toàn diện, mang vẻ đẹp hoàn hảo. Với Hồ Biểu Chánh,

7


sống theo đạo đức là bổn phận và chức năng của con người. Đó là bổn phận của
mình với phong hóa của xã hội. Con người trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh sống

theo đạo đức và vì đạo đức. Nhân vật chính diện trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh là
những nhân vật sống vì chữ trung, hiếu, tiết, nghĩa. Ngược lại, nhân vật phản diện,
người xấu là những kẻ bất nhân phi nghĩa.
Hồ Biểu Chánh là một nhà văn đề cao đạo lý, đạo lý nhân nghĩa ở đời. Đó là
một kiểu đạo lý rất Nam Bộ: “Kiến nghĩa bất vi vô dõng dã”. Trong tác phẩm của
Hồ Biểu Chánh phổ biến kiểu nhân vật “trọng nghĩa khinh tài”. Họ là những con
người “giữa đường thấy chuyện bất bằng chẳng tha”. Dù nghèo khó quanh năm,
đói rách, miếng ăn chẳng đủ no, manh áo mặt không đủ ấm nhưng họ vẫn sẵn sàng
giúp đỡ những người khốn khổ hơn.
Lê Văn Đó trong “Ngọn cỏ gió đùa” là một người giàu phẩm chất đạo đức.
Sau khi giác ngộ được tư tưởng Phật giáo, anh đã làm lại cuộc đời và làm những
việc hết sức có ích để giúp ích cho đời. Với cái tên Trần Chánh Tâm đã giúp anh
thực hiện ước mơ giúp đời ấy. Chánh Tâm đã giúp đở những người nghèo khó từng
miếng cơm manh áo : “…còn những dân nghèo bất luận già trẻ, hễ đến than nghèo
thì Chánh Tâm làm cho no cơm ấm áo hết thảy”. Chánh Tâm còn giúp ích cho nước
nhà: “Có một mình Chánh Tâm chịu lúa cho mấy ngàn binh triều ngót ba năm trời”.
Từ một Lê Văn Đó nghèo khổ trở thành một Thiên Hộ giàu phẩm chất đạo đức: yêu
thương con người, giúp đở người nghèo khó, sống giản dị, chăm chỉ làm ăn,…Hồ
Biểu Chánh đã lý tưởng hó nhân vật này để thể hiện niềm tin ở con người giàu phẩm
chất đạo đức để giúp ích cho xã hội đương thời.
Ngoài ra còn có các nhân vật như: Hương sư Cu trong “Con nhà nghèo” là
một thanh niên nghèo mà biết sống vì nghĩa, đã dang tay che chở cho cuộc đời cô
Tư Lựu… Bà Ba Thời trong “Cay đắng mùi đời” đã mang một đứa trẻ bị bỏ rơi về
nuôi trong khi hoàn cảnh gia đình túng thiếu, chồng bỏ đi biền biệt, bởi vì bà không
thể nào làm ngơ trước một đứa trẻ vô tội bị vứt bỏ như thế. Hay bà lão nông dân,
người giúp Thủ Nghĩa thoát đói và cho chổ tá túc lúc anh mới vượt ngục trong
“Chúa tàu Kim Quy” đã “lật đật chạy vô buồng bưng rá cơm nguội ra thì còn
được vài chén…Trở vô móc ít con mắm lóc nhỏ ra cho Thủ Nghĩa ăn”…Tất cả họ
đều là những người làm việc nghĩa một cách tự nguyện, tự giác, không đòi hỏi được
trả công cũng chẳng cần lợi lộc. Họ yêu thương, đùm bọc nhau, do phải ra đi tìm đất

sống trong muôn vàn cái chết, cho nên họ rất chuộng nghĩa khí, quý trọng tình bạn

8


bè, tình huynh đệ, giang hồ nghĩa hiệp, coi khinh tiền tài. Người nông dân Nam Bộ
thường lấy “đạo nghĩa” làm phương châm sống và hành động. Đạo ở đây được hiểu
là ăn ở cho phải đạo, hợp lẽ phải ở đời. Còn nghĩa là nghĩa khí, là ăn ở thủy chung,
dám xả thân vì việc lớn, không ức hiếp người thế cô, không phân biệt sang hèn trong
cách ứng xử. Nhân vật người nông dân trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh không
chỉ hành động theo nghĩa mà còn vì nghĩa. Khi cần phải ra tay để trừng trị gian ác,
người vì nghĩa mà không biết sợ là gì cả. Đối với họ, cái nghĩa phải làm là trên hết.
Đối với người nông dân Nam Bộ, chữ nghĩa không khô cứng như của Nho giáo, nó
được giải thích một cách cụ thể, gần gũi.
Hồ Biểu Chánh đã khắc họa những nhân vật mang màu sắc lý tưởng nhưng họ
có ngoại hình và hành động không hề xa lạ, không mang tính ước lệ tượng trưng…
mà những nhân vật đó hết sức gần gũi, chân thật với những phẩm chất đạo đức vốn
có của trong truyền thống dân tộc.
Ngoài ra, Hồ Biểu Chánh còn xây dựng trong tiểu thuyết của ông một hệ
thống nhân vật gồm hai loại người khác nhau. Một bên là đại diện cho cái thiện, một
bên đại diện cho cái ác. Cái thiện bao giờ cũng chiến thắng và cái ác luôn bị trừng trị
nghiêm khắc. Khi xã hội đầy rẫy những mặt tiêu cực, con người mất đi những phẩm
chất tốt đẹp của mình, những thế lục tàn bạo đè nén con người một cách hết sức
nặng nề thì ông có ý định dùng đạo lý của dân gian “Thiện ác đáo đầu chung hữu
báo” để giáo dục con người như ông từng nói trong “Đời của tôi về văn nghệ”: “Viết
tiểu thuyết để cảm hóa đặng lần lần dắt quần chúng trở về đường chánh đại quang minh”. Và ông đã thể
hiện quan điểm đó trong tiểu thuyế của mình một cách hết sức công bằng và hợp lý,
ông đã lý tưởng hóa cuộc đời đó theo luật nhân quả một cách rõ nét và thiết thực.
Theo ông thì những giá trị truyền thống tốt đẹp sẽ mãi trường tồn và sẽ là những giá
trị đạo đức muôn đời đối với con người. Qua cái quy luật nhân quả đó, chúng ta thấy

được một điều rằng Hồ Biểu Chánh đã để những con người ở hiền, sống theo đúng
những giá trị truyền thống đạo đức thì sẽ có được hạnh phúc, dù cho có đến muộn
thì cũng mĩ mãn, còn như những người sống ngược lại với những giá trị đạo đức,
sống độc ác thì sẽ chịu hậu quả nặng nề. Trong những tiểu thuyết của Hồ Biểu
Chánh ta bắt gặp quy luật nhân quả : “ở hiền gặp lành, gieo ác gặt dữ” , ông đã lý
tưởng hóa cuộc đời thực tại theo quy luật nhân quả để con người có niềm tin vào sự
công bằng. Với mong muốn đó, nhiều khi Hồ Biểu Chánh đã không ngần ngại đưa
vào cả những lời giảng giải luân lý của mình vào trong tác phẩm.

9


2.2. Những giá trị của đạo lí

2.2.1. Giá trị giáo dục
Như chúng ta đã biết thì Hồ Biểu Chánh là một ông quan phủ của chính quyền thực dân Pháp.
Nhưng ông quan phủ đó là Hồ Văn Trung chứ không phải Hồ Biểu Chánh – nhà tiểu thuyết. Khi là một nhà

Hồ Biểu Chánh rất có ý thức về tính độc lập tự do của đạo đức. Ông cho
rằng dù người ta có theo chủ nghĩa này hay chủ nghĩa nọ thì vẫn cần phải giữ cho
được đạo đức truyền thống, tức đạo lí làm người của dân tộc.
Trong bức thư gởi cho Ban trị sự Khổng Tử tế tự hội tỉnh Gò Công để xin từ
chức hội trưởng, ông viết: “Đã biết luồng gió Âu hoá thổi vào xứ ta lâu rồi. Nhưng
trước kia tôi cùng nhiều bạn đồng chí không cần lo ngại cho lắm, nghĩ vì luân lí bao
giờ cũng là luân lí, đồng bào dù có tấn bộ văn minh đến bậc nào, dù có cảm diễn
phong tục Âu Mĩ nhiều hay ít, dân tộc ta cũng không thể vày đạp lên luân lí tổ phụ
của ta được” (Nguyễn Khuê). Vâng chính vì thế mà ngay cả khi ông đang làm việc
cho Pháp mà lòng vẫn hướng vào nhân dân, ông luôn trăn trở cho nền luân lí nên ra
sức gìn giữ và tin tưởng vào sự trường tồn của văn hóa cổ truyền dân tộc. Cũng có
lúc ông băn khoăn tự hỏi: “Ta có nên cặm cụi giữ mãi cái luân lí nhân nghĩa, giữa

lúc chung quanh ta thiên hạ đua nhau kẻ thờ kim ngân, người đòi quyền đồng đẳng
không? Kêu gọi đồng bào duy trì luân lí nhân nghĩa, ta có tội với đời, là tội ôm trói
đồng bào cho người lật lưng lấy tiền, hoặc vày bừa chà sát chăng?”
Nhưng rồi ông vẫn tiếp tục viết, tuyên truyền đạo lí nhân nghĩa. Vâng, nhân
nghĩa chứ không phải là quan điểm chính trị của mình. Đó là cái may cho ông mà
cũng là cái ông còn lại với đời sau. Cái luân lí nhân nghĩa theo Hồ Biểu Chánh chính
là phải biết cư xử đúng mực trong quan hệ giữa con người với nhau, quan hệ vợ
chồng, quan hệ cha con, bè bạn. Đó chính là giá trị giáo dục được truyền tải trong
tác phẩm của ông. Đây là giai đoạn văn hóa tây Âu tràn vào và có ảnh hưởng mạnh
mẽ thì bắt đầu xuất hiện những tiêu cực cuộc sống, con người với nhịp sống hối hả,
chung đụng, bon chen trên con đường tư sản hóa, tâm lí con người luôn bị biến thiên
bởi đồng tiền, quyền lực…. Nhận ra được điều đó, bằng tâm huyết của mình, Hồ
Biểu Chánh thẳng thắn vạch trần hiện trạng một góc xã hội đang quay cuồng theo
đồng tiền một cách tài tình, chân xác, những tác phẩm của ông như một quảng bá
đắt giá cho tác hại ghê gớm của nó và với mục đích giáo dục con người biết được
thực trạng xã hội để tránh xa những tác hại. Với Tiền bạc, bạc tiền và Tỉnh mộng là
những tác phẩm xuất sắc của Hồ Biểu Chánh trong việc phản ánh, tố cáo hạng người
tiểu thuyết

10


thực dụng của xã hội đương thời. Đào Thị, Trường Xuân là minh chứng. Vì những
mưu lợi của cải và quyền lực mà những con người ấy sẵn sàng giẫm đạp lên nhân
cách của chính mình và cả của người khác. Khi lối sống thực dụng phương Tây ùa vào thì lấy
nhau vì tiền đã góp phần không nhỏ vào việc làm băng hoại đạo đức truyền thống. Không ít người tham giàu,
ham làm giàu mà trở nên mất cả tình nghĩa chấp nhận đánh đổi hạnh phúc cả đời mình ngay cả việc đổi trắng
thay đen, thay vợ đổi chồng. Như nhân vật Trường Xuân trong tác phẩm Tỉnh mộng vì đuối lòng trước sự
giàu sang nên đã nhận lời về ở rể nhà ông Cai Tường, sau đó tuy giàu sang mà cuộc sống không hạnh phúc vì
sự giàu đó không dựa vào bản lĩnh, tài năng của mình mà dựa vào bằng cấp do đó Hai Hảo không tôn trọng

chồng mà còn tỏ ra khinh khi. Mỗi khi cải vã thì thường mắng chồng là kẻ “ ăn cơm chực" đến đây thì ta thấy
được sức mạnh của đồng tiền không có tiền thì không có yêu thương không có vợ chồng gì cả, không có tiền
thì giá trị con người trở nên thấp hèn. Bị coi khinh cũng là điều tất nhiên đối với Trường Xuân, vì lẽ hôn nhân
của anh ta cũng không phải vì tình yêu. Hôn nhân dựa trên nền tảng bằng cấp và tiền tài thì không thể có kết
cục hạnh phúc được đây là bài học có giá trị giáo dục cao đối với con người. Khi đồng tiền và tình nghĩa đã bị
đổi ngôi thì tình nghĩa trở thành thứ yếu muốn chống lại sức mạnh của đồng tiền con người phải có lập trường
vững vàng, mục tiêu sống đúng đắn. Lý Kỳ Tâm trong tác phẩm Tỉnh mộng tuy nghèo nhưng giàu lòng nghĩa
hiệp giúp bạn mà không vì mục đích vụ lợi. Đây là phẩm chất tốt đẹp mà con người nên noi theo. Kỳ Tâm là
đại diện cho những người nghèo lặng lẽ sống, lặng lẽ hành thiện, họ sống chỉ mong có dịp hành xử để người
đời biết "bọn nghèo hèn chẳng phải là quân khốn nạn hết thảy đâu, mà có nhiều lúc làm lợi cho xã hội lắm".
Hồ Biểu Chánh đã lên tiếng giành quyền lợi và đề cao con người nghèo khổ, họ nghèo khổ, thấp cổ bé họng
thì họ làm việc thiện trong lặng lẽ nó có ý nghĩa gấp trăm nghìn lần so với những việc xấu mà rình rang.
Những giá trị đạo lí có tác dụng giáo dục còn được thể hiện ở khía cạnh khác như việc hôn nhân xuất phát từ
tình yêu tự do. Con người sống thì phải biết dung hòa cũ và mới, Hồ Biểu Chánh không gò bó, lạc hậu hay
gập khuôn mà ông biết dung hòa những giá trị truyền thống tốt đẹp và những cái mới có ý nghĩa tích cực.
Nhận thấy được hậu quả của hôn nhân xuất phát vì tiền bạc vì danh vọng sẽ không đem lại hạnh phúc và hôn
nhân do cha mẹ sắp đặt đa phần cũng đem lại đau khổ. Hồ Biểu Chánh đã chủ trương chấp nhận cái mới là
hôn nhân xuất phát từ tình yêu tự do.

Bên cạnh đó nhà văn còn xây dựng những nhân vật nghĩa hiệp, giàu lòng
thương người, những người phụ nữ trọng đạo nghĩa và sự trung trinh. Cái tinh thần
"gặp sự bất bình chẳng tha" trong Lục Vân Tiên và cũng như ý nguyện "Gặp việc
phải làm, dù nát thân con cũng làm, gặp việc chẳng nên làm dẫu làm được bạc ức,
bạc triệu con cũng chẳng thèm" (Cay đắng mùi đời) là cái cốt cách của dân Miền
Nam. Như ông Bạch Khiếu Nhàn trong tác phẩm đầu tay Ai làm được đã ra ra tay
giúp đỡ cho Phan Chí Đại tìm được chỗ làm ổn định. Và rất nhiều những người giàu
lòng nhân ái khác, phải chăng khi xây dựng những nhân vật này tác giả đã gửi gắm
tình yêu thương của mình đối với họ, ông muốn những người nghèo khổ sẽ được
một bàn tay nhân ái nào đó cưu mang để rồi họ sẽ thoát khỏi kiếp sống lầm than, họ
sẽ được hưởng cuộc sống đầy đủ, hạnh phúc như bao người. Và mọi người sẽ sống

có tình nghĩa hơn, giàu lòng nhân ái hơn dù cho nghèo vật chất, tiền bạc nhưng tình
nghĩa không nghèo. Đó mới là thứ quý giá nhất mà con người nên theo đuổi và giữ
11


gìn. Ngòi bút của của Hồ Biểu Chánh chủ yếu xoáy sâu vào tầng lớp dưới của xã
hội, ông viết về họ bằng thứ ngôn ngữ của họ để họ biết được cuộc sống của họ,
những nỗi khổ mà họ đang phải hứng chịu vì một cái tội "nghèo". Qua đó ông
hướng mọi người đến cái thiện, đến cái chuẩn mực trong cách ứng xử hằng ngày,
ông hướng con người cư xư đúng không chỉ trong quan hệ giữa những con người xa
lạ. Cái cốt cách ấy, tinh thần trọng nghĩa khinh tài ấy hòa với ước mơ đạo lí của
người bình dân về cái thiện thắng cái ác, lòng tốt được đền bù còn tội ác thì bị trừng
phạt làm cho tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh có sức thuyết phục trong việc giáo dục
con người.
2.2.2. Giá trị nhận thức
Văn học là nhân học. Từ xưa đến nay văn chương đều lấy con người làm đối tượng miêu tả, phản ánh.
Trở lại, văn chương cũng phục vụ con người. Con người trong văn chương thể hiện ý thức về con người và
cuộc đời của nhà văn. Quan niệm con người trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh thể hiện tầm quan sát, sự nhận
thức về con người của nhà văn, tạo cho tác phẩm có được chiều sâu triết lí nhất định.
Con người trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh không phải là con người cá nhân tồn tại độc lập mà là
con người của cộng đồng và có mối quan hệ mật thiết với nhau và có một bổn phận. Hồ Biểu Chánh không
đặt con người trước vấn đề to tát, lớn lao, mà đưa con người vào cuộc sống đời thường để xem xét. Con người
trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh là con người sống cho bổn phận, luôn ý thức làm tròn chức năng của một
thành viên trong gia đình, một cá nhân trong cộng đồng. Anh Lê Văn Đó (Ngọn cỏ gió đùa) vốn là một nông
dân, lúc nghèo đói, túng quẫn nhất vẫn biết sống cho người thân là chính, sống với ý thức bổn phận làm con,
làm chú, quên cả bản thân, nên đánh liều, ăn trộm trã cháo heo. Đến lúc giàu có, hạnh phúc đối với Lê Văn
Đó là được cứu giúp, cưu mang người nghèo khó. Như có một sợi dây ràng buộc cuộc đời anh vào sự sống
của ngàn người nghèo. Anh ý thức rõ về mối quan hệ giữa mình với cộng đồng và cũng xác định vị trí của
mình trong cộng đồng. Anh không chỉ sống cho riêng anh. Có những nhân vật trong tiểu thuyết Hồ Biểu
Chánh có ý thức rất cao về bổn phận, trách nhiệm với những người xung quanh, trong gia đình và cả ngoài xã

hội như cô Vân (Đoạn tình), cô Hai Tân (Tân Phong nữ sĩ), thầy giáo Tự Cường (Tại tôi), Lê Văn Đó (Ngọn
cỏ gió đùa), Ba Cam (Con nhà nghèo). Ở họ, dường như hạnh phúc tìm thấy từ việc làm tốt bổn phận. Họ có
thể quên cả chính mình để làm tròn bổn phận. Lê Văn Đó từng vượt ngục để trở về làm tròn bổn phận cha
nuôi. Ba Cam bất chấp nguy hiểm để được thực hiện bổn phận làm anh phải rửa nhục cho em. Tất cả đều
muốn làm việc có ích cho đời, đó là việc chấn hưng phong hoá xã hội. Qua những nhân vật đó tác giả muốn
cho người đọc nhận thức được ngoài cách chỉ sống cho bản thân thì con người ta còn vô vàng bổn phận.
Không phải viễn vông xa vời mà đối với những người ở bên cạnh ta.
Bên cạnh đó, con người trong tác phẩm của Hồ Biểu Chánh là những con người bị biến chất do xã
hội. Con người trong thời đại mới mãi lo chạy theo những giá trị vật chất kim tiền mà quên đi bổn phận của
mình. Như nhân

vật thầy Thông Ngôn trong tác phẩm cùng tên do không nhận rõ được
sức mạnh của kim tiền do đó bị lôi cuốn bởi những đam mê và ham muốn thấp hèn,
bị lừa gạt, mãi khi đến bước đường cùng thầy Phong mới nhận ra những gì mình
đang theo đuổi chỉ là phù phiếm nên cuối cùng phải trả giá bằng cái chết. Nhân vật
Đào Thị trong tác phẩm Tiền bạc, bạc tiền chạy theo những đua đòi, danh vọng xem
12


thường nhân nghĩa cho nên hai đứa con của bà là Thanh Kiều và Bá Kỳ không nghe
lời mẹ, vì tiền mà những người thân trong gia đình bất đồng quan điểm. Bá Kỳ và
Thanh Kiều nhận ra được mẹ mình là người thực dụng nên cho dù bị đánh đập hay
phải chịu khổ cực cũng quyết không đi theo những lầm lạc của mẹ. Chính vì thế mà
Bá Kỳ và Thanh Kiều đã có được một cuộc sống đúng nghĩa. Trong cuộc sống đôi
lúc cái ác lấn át cái thiện, con người muốn thắng cái ác thì con người phải nhận ra
được như thế nào là ác để từ đó tránh xa những biểu hiện khiến mình biến chất và
con người phải luôn hướng thiện, tự lớn lên để chống chọi lại những chông gai.
Muốn được như thế đòi hỏi con người phải có bản lĩnh thật vững vàng. Như Nhân
vật Yến Tuyết trong tác phẩm Tỉnh Mộng lần đầu do bị những lời ngon tiếng ngọt
của Trường Xuân nên để cho gương trong hóa đục. Xây dựng nhân vật này tác giả

muốn cho ta thấy được nếu chúng ta không nhận ra được cái ti tiện thì chúng ta sẽ bị
chính cái ti tiện ấy làm hại cho nên Yến Tuyết phải ngậm đắng nuốt cay. Sau khi bị
lạc đường thì con người ta sẽ trở nên mạnh mẽ và có nhận thức đúng đắn hơn chính
vì thế mà Yến Tuyết đã mạnh dạn vứt đi cái nhơ nhớt cũ mà hướng đến cuộc sống
hạnh phúc với Kỳ Tâm. Và trong tác phẩm khác của Hồ Biểu Chánh còn xuất hiện
những nhân vật chính nghĩa và giàu từ tâm, những người phụ nữ trọng đạo nghĩa và sự trung trinh. Để
cho mọi người thấy xã hội thay đổi nhưng con người không phải ai cũng thay đổi mà vẫn còn những con
người giữ được đạo lí truyền thống của dân tộc.

Hồ Biểu Chánh còn xây dựng nên những nhân vật lầm lạc và những nhân vật
nhận thức nhằm mục đích cho con người có sự cảm thông hoặc phê phán và rút ra
được cách sống đúng cho bản thân. Để có được sự nhận thức đâu là đúng đâu là sai
và có được bản lĩnh để vượt qua nó quả thật không dễ dàng, Hồ Biểu Chánh đã giữ
vai trò là nhà truyền thụ đạo lí đến mọi người trong suốt cuộc đời sang tác của mình
để nhằm một mục đích là giúp con người nhận ra những điều đó và ông đã làm
được. Tác phẩm của ông không chỉ có người dân Nam Bộ yêu thích mà còn có
những người vùng ngoài cũng rất chuộng.
2.2.3. Giá trị thẩm mĩ
Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, khi đọc xong ta sẽ thấy mình phải trăn trở suy
tư về chính ta và thời đại mà ta đang sống. Dưới thời đại của nhà văn và bây giờ,
đạo lí của ông vẫn tồn tại một sức sống mãnh liệt. Không quá cao siêu trừu tượng
mà rất đỗi đời thường từ gia đình đến ngoài xã hội, từ hiện thực cuộc sống đến hiện

13


thực trong tâm hồn người. Tất cả hình thành nên một giá trị thẩm mĩ riêng, độc đáo
và mang hơi thở của vùng đất Nam Bộ.
Nói đến thẩm mĩ là nói đến cái đẹp. Như vậy, Hồ Biểu Chánh đã biến những
câu chuyện thế sự để hướng con người đến một tình cảm thẩm mĩ vững bền. Trong

nhận thức, tư tưởng, tình cảm và thái độ. Mỗi bài học đạo lí là một tiếng chuông
vang lên để thức tỉnh lương tri của con người, phải sống phù hợp với lẻ phải ở đời
và hướng con người đến chân – thiện – mỹ. Cái nhìn thẩm mĩ của Hồ Biểu Chánh
không còn cứng nhắc, khuôn ép như xưa mà đã có sự linh hoạt, dung hòa và thiết
thực hơn, phù hợp với thời đại hơn, đáp ứng được nhu cầu thẩm mĩ của độc giả.
Đương nhiên, giá trị thẩm mĩ sẽ bao hàm cả giáo dục và nhận thức, ba yếu tố này
được thể hiện trong tiểu thuyết của ông như một thể thống nhất để tạo nên sức lan
tỏa mạnh mẻ đến công chúng thưởng thức. Sứ mệnh của văn chương là để cảm hóa
con người để ta hiểu hơn về chính ta và xã hội, thông qua đó ta sẽ có sự nhận thức
để hành động tốt hơn, từ gia đình đến ngoài xã hội. Nên ta không thể phủ nhận rằng,
màu sắc đạo lí của Hồ Biểu Chánh cũng có phần lí tưởng hóa là vì thế, nhưng cái lí
tưởng hóa ấy là xuất phát từ thiện tâm và lương tri của nghề văn.
Ngày hôm nay, biết bao hiện tượng biểu hiện sự suy thoái về đạo đức, nhân
cách, rồi những vấn đề về văn hóa. Người ta nói nhiều về điều đó nhưng thực tại thì
vẫn cứ diễn ra. Nó tồn tại ngấm ngầm trong tâm hồn ta mà nếu không có lí trí và bản
lĩnh vững vàng thì dể trôi theo nó. Có lúc, ta vô tình xem một tập phim Hồ Biểu
Chánh, được đọc lại tiểu thuyết của ông khi ấy ta lại thấy xót xa và đau nhói về
phong hóa của dân tộc. Ta thấy yêu hơn về ngôn ngữ mộc mạc bình dị của một thời
để rồi nghĩ suy về hôm nay. Và yêu những giá trị văn hóa và thấy mình phải làm gì
để gìn giữ cái quý giá ấy. “Nói đến dân tộc là nói đến văn hóa. Văn hóa là bộ mặt
của dân tộc. Một dân tộc mà đánh mất đi bản sắc dân tộc và những giá trị văn hóa
thì dân tộc ấy mất tất cả” (Hồ Sĩ Vịnh, Văn hóa văn học từ một góc nhìn).
Tôi nghĩ rằng, không phải dễ dàng thay đổi được những hiện tượng đau lòng
đang diễn ra, nhưng ít ra sáng tác của Hồ Biểu Chánh sẽ góp cho ta một niềm tin và
ta sẽ cố gắng để thực hiện niềm tin ấy. Niềm tin về chân – thiện – mỹ.
3. MẤY SUY NGHĨ VỀ ĐẠO LÍ TRONG TIỂU THUYẾT HỒ BIỂU CHÁNH
Đầu thế kỉ XX, xã hội ta bước vào một cuộc biến thiên dữ dội, tinh thần con người lung lay. Dân ta
đang tắm trên một dòng sông, mà dòng sông ấy mang trong mình văn hóa ta với văn hóa xứ người. Có người
muốn trôi theo cái guồng quay của thời đại mà phủ nhận nét đẹp của dân tộc. Có người vẫn cần mẫn, kiên trì
14



và nhẫn nại để góp nhặt những hương thơm của tâm hồn dân tộc, trấn an tinh thần cho nhiều lớp người. Hồ
Biểu Chánh cũng hòa trong dòng chảy của thời đại, nhưng con người ấy rất sáng suốt, biết gạn đục khơi
trong, miệt mài và cần mẫn để góp tiếng nói vào văn học, vào thời đại.
Ngày ấy, dân ta còn nghèo, trình độ dân trí chưa cao, tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh giống như người bạn
kể lên những câu chuyện về cuộc đời bằng tất cả ý thức và trách nhiệm. Có người xem vì giải trí, để quên đi
mệt nhọc, có người tìm đến tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh để thấy xót xa, tự hào và cũng cố cho mình một niềm
tin. Đó là niềm tin về những truyền thống đạo lí của dân tộc. Nhất là giữa một xã hội mà làn gió Âu hóa đang
ồ ạt dữ dội vào ta, kéo theo đó là cả những giá trị đạo đức và văn hóa cũng lung lay. Đằng sau những câu
chuyện về đạo lí ở đời ấy là những trăn trở, khắc khoải và sự đau đớn. Con người là mối tổng hòa của những
quan hệ xã hội (Mác), bức tranh đạo lí trong sáng tác của ông thật rộng lớn, từ hiện thực của cuộc sống đến
hiện thực trong tâm hồn người, từ các mối quan hệ trong gia đình đến ngoài xã hội với những mặt tốt và xấu,
thiện và ác, cao thượng và thấp hèn. Ông muốn mang làn gió đạo lí của mình để làm mát tâm hồn người dân,
để người ta bình tâm suy nghĩ lại mình, suy nghĩ về thế sự và thời đại mình đang sống. Tiểu thuyết của ông rất
dễ thấm sâu vào hồn người bởi nó toát lên từ hiện thực trần trụi của cuộc đời. Rồi, trong cái xô bồ, hối hả của
thời đại, tiểu thuyết của ông sẽ góp phần hướng thiện con người. Ta cũng phải nói thêm rằng, cái chân – thiện
– mĩ ấy không còn cứng nhắc như ngày trước nữa mà nó trở nên linh hoạt, dung hòa và thiết thực hơn rất
nhiều. Nhà văn là thư kí trung thành của thời đại, nhưng người thư kí ấy phải có bản lĩnh để nắm bắt khoảnh
khắc và đáp ứng thị hiếu của thời cuộc. Sau những hình tượng sinh động trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh
là những vấn đề đạo lí rất thực tiễn, rất đời. Đó cũng là khuynh hướng bình dân hóa trong đạo lí của ông.
Sự hòa quyện có chọn lọc giữa vắn hóa ta với văn hóa người đã mang đến cho tấm áo đạo lí của Hồ
Biểu Chánh một màu sắc mới, đó là màu sắc của truyền thống xưa còn lưu lại và màu sắc của văn hóa phương
Tây. Tất cả đã làm nên nét riêng mới lạ, mà khi mặc vào, ta cảm nhận được một hơi thở của thời đại đang
thấm sâu và làm ấm tâm hồn ta.
Ta biết rằng, thời đại của ông ngày xưa là một bước tiến, ngày nay trên con đường hội nhập với thế
giới, trải qua hàng thế kỉ lại là một cuộc tiến hóa mạnh mẽ hơn. Thế nhưng, sự phát triển của thời đại sẽ
không đồng nhất với sự phát triển của văn hóa và đạo đức. Ngày nay, đọc lại tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh
vẫn thấy đầy đủ cái dư vị của những tác phẩm có cốt cách, phẩm chất và nóng hổi một tình người. Những bài
học đạo lí mà ông để lại vẫn bền vững và mang sức sống của một giá trị. Nỗi niềm của ngày xưa đã qua rồi,

vậy mà giờ này vẫn nhức nhối, âm ĩ trong hiện tại. Những tác phẩm của ông giờ được phổ biến rộng rãi hơn,
có người tìm đọc trên trang sách, có người xem trên màng ảnh, nhưng rồi ta vẫn thấy cảm thương cho ngày
trước và thấy xót xa, đau nhói cho hiện tại. Chúng tôi ngĩ rằng, tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh đã thực hiện
trọn vẹn chức năng của văn học, đó là: Giáo dục, nhận thức và thẩm mĩ. Đạo lí của ông cũng là một Cái đẹp.
Như thế, nó sẽ góp phần định hướng được tình cảm thẩm mĩ của con người của ngày trước, ngày nay và cả
mai sau. Tôi tin là như thế. Thiết nghĩ, khi truyền bá đạo lí của mình, Hồ Biểu Chánh vẫn vững một niềm tin
như thế. Nói chung, xã hội luôn tồn tại hai mặt, những vấn đề về thế thái nhân tình sẽ không bao giờ tàn lụi,
khi ấy ta sẽ thấy cảm phục và trân trọng hơn ở cái tài và cái tâm của ông.
Tôi xin trích dẫn một đoạn trong quyển Chân dung văn học của Hoài Anh: “Điều kì lạ là cái đạo lí mà
Hồ Biểu Chánh rao giảng cho đến gần đây và cả mới đây vẫn được người bình dân đón nhận, vì nó bắt nguồn
từ đạo lí dân tộc, mang tính chất nhân dân, có cơ sở từ ngàn đời, người ta phải bám vào cái đạo lí truyền thống
đó mới thắng được làn sóng Âu hóa dồn dập tràn tới từ văn học thực dân cũ cho đến thực dân mới. Nó vừa là
sức đề kháng vừa là phép vệ sinh tinh thần của con người Việt Nam trước bầu không khí ô nhiễm của văn

15


minh vật chất từ trời Tây đưa lại (…). Có lẽ, đó là do sự hun đúc của tinh thần đạo nghĩa phương Đông”. Với
nhận định này, ta một lần nữa thấy được sức sống lâu bền của màu sắc đạo lí trong tiểu thuyết Hồ Biểu
Chánh. Người đi tìm giá trị văn hóa, tình người và tâm hồn dân tộc.
Nhiệm vụ của người thời nay là đi tìm và lưu giữ những tinh hoa của văn học dân tộc. Hồ Biểu Chánh
là đối tượng của nhiều nhà nghiên cứu tìm đến, đó không những là niềm đam mê, trách nhiệm mà đó còn là
mối tri ân và nghĩa tình của người làm công tác nghiên cứu khoa học. Bởi công việc ấy đòi hỏi cả ở cái tài lẫn
cái tâm. Thế nhưng vẫn có nhiều người rất e ngại và dè dặt khi đánh giá tác phẩm của ông. Có người cho nó
không còn phù hợp với thời đại, có người cho nó quá nôm na, dễ dãi, có người dựa vào quan điểm chính trị
mà phủ nhận đi những giá trị. Khi nhìn lại các nhân vật trong quá khứ, Lê-nin có đưa ra một nguyên tắc đánh
giá hết sức quan trọng: “Phải xét những đóng góp không phải căn cứ vào chỗ là những nhà hoạt động lịch sử
đã không làm được cái gì so với những yêu cầu hiện tại, mà phải căn cứ vào chỗ là họ đã làm được cái gì so
với những người đi trước họ”. Như vậy, khi vận dụng điều đó vào sáng tác của Hồ Biểu Chánh càng thấy rõ
những giá trị mà ông đã để lại. Chúng ta hãy bình tâm mà nghĩ rằng, những đều mà ông đề cập đến trong tiểu

thuyết của mình vẫn mang đậm chất sống của hiện thực, nếu so với các nhà văn miền Bắc thì không khác biệt.
Tuy vậy ta vẫn phải nhìn nhận vào sự thật là thủ pháp nghệ thuật của Hồ Biểu Chánh vẫn chưa được hoàn

Nhất là do việc đề cao đạo lí mà đôi khi ông đã xem nhẹ vai trò và vị
trí của người dân lúc bấy giờ. Đó là cái tất yếu của sự nhìn nhận, nhưng sự nhìn
nhận đó phải đa diện và thấu đáo. Không phải văn học nào cũng hướng đến đấu
tranh cánh mạng, văn chương còn có một thế giới riêng đó là đạo đức, cuộc đời và
con người. Hơn thế nữa, nỗi niềm yêu nước lại tràn đầy và đượm hồn dân tộc sau
những câu chuyện về đạo lí kia. Tôi không cho đó là sự sai lầm hoàn toàn của sự
nhìn nhận một thời, vì tình hình của đất nước phải đặt ra những yêu cầu bức thiết:
sự sống còn của dân tộc. Và ngày nay, độ lùi của thời gian sẽ cho ta những nhìn
nhận đúng đắn hơn, đâu là sự hẹp hòi, bảo thủ, đâu là chân lí, là công bằng. Đại hội
Đảng lần thứ VI năm 1986 đã cho ta một nhận thức và bài học sâu sắc về điều đó.
thiện và xuất sắc.

- Trong làng văn VN, có biết bao tên tuổi vĩ đại. Ngay cả tác phẩm về con người, về văn hóa Nam Bộ
xưa cũng vô cùng phong phú. Vì sao anh lại dành nhiều ưu ái cho tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh?
- Ban đầu, tôi làm phim về tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh từ sự đặt hàng của hãng phim. Thế nhưng, về
sau, tôi yêu tác phẩm của ông lúc nào không biết. Một phần có lẽ bởi tôi vốn là dân văn chương (đạo diễn Hồ
Ngọc Xum đã tốt nghiệp Đại học Văn khoa năm 1977). Song, phần khác là bởi tính nhân văn trong tác phẩm
của ông dường như chưa bao giờ lỗi thời. Cách đối nhân xử thế đó đã giúp tác phẩm của nhà văn Nam Bộ này
sống mãi. Ở tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh cách nay gần một thế kỷ, người ta có thể bắt gặp hiện tượng các cậu
ấm cô chiêu được gởi đi du học; cảnh các cô gái từ quê ra tỉnh bị cám dỗ để rồi đánh mất chính mình, hay như
chuyện đòi hỏi bình quyền giữa nam và nữ, cao hơn là lời kêu gọi giải phóng phụ nữ... thì ở xã hội chúng ta
đang sống vẫn không thiếu những hiện tượng đó.
(Theo Người Lao Ðộng)
Nguồn: />
16



Cuộc trò chuyện đã cho ta thấy được đâu là một tác phẩm chân chính, đâu là sự cần thiết của một tác
phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học.
4. KẾT LUẬN

Ai đã từng đọc qua tác phẩm của Hồ Biểu Chánh cũng khó lòng mà quên được
những bài học về cuộc đời, về con người và những quan niệm sống “lành mạnh”
của ông. Có lẽ, Hồ Biểu Chánh từng là một vị quan cho Pháp, nhưng không vì thế
mà tiểu thuyết của ông lại là công cụ phục vụ cho cuộc “khai hoá” của thực dân
Pháp, trái lại, tiểu thuyết của ông, không nói quá, mà đó là bức tranh phản ánh chân
thực cuộc sống cơ cực, khốn khổ của người dân Việt Nam lúc bấy giờ, mà nói đúng
hơn, nếu không có cái “tâm” cái “tầm” của một nhà trí thức yêu nước nhưng bất
lực trước cuộc sống lầm than của dân tộc, nhà văn khó có thể tái hiện lại bộ mặt,
thực trạng của xã hội Nam Bộ lúc bấy giờ. Đại thi hào Vônte đã từng viết: “Sự hoàn
hảo đạt được từng chút một, nó cần bàn tay của thời gian”. Và điều đó, phải chăng
cũng chính xác với những gì mà nhà văn Hồ Biểu Chánh đã cống hiến cho nền văn
học Việt Nam thời bấy giờ, khi ông chính là một trong những nhà văn có tay
“nghề” và đạt được khá nhiều thành tựu bên cạnh một ít hạn chế do tầm tư tưởng
của nhà văn và xu hướng tâm lí chung của thời đại. Những bài học đạo lí mà nhà
văn gửi gắm thông qua những tác phẩm của mình, qua cái nhìn hết sức tinh tế và đầy
cảm thông trước những nghịch cảnh éo le, và quan niệm nhân sinh, lòng nhân đạo
giữa con người với con người, với các mối quan hệ trong cuộc sống, luôn là những
tấm gương lớn của thời đại, phản chiếu và soi rọi cả một con đường cho những thế
hệ mai sau, đặc biệt là hiện nay, thế hệ trẻ, tầng lớp thanh niên, học sinh, sinh viên
trước những sự suy thoái về đạo đức, lối sống, cách ứng xử văn hoá trong cộng
đồng. Thiết nghĩ, tuy Hồ Biểu Chánh đã mất, nhưng những gì mà ông để lại vẫn
luôn chứa đựng những giá trị vượt thời gian, những giá trị tinh thần vô cùng đáng
quí, giống như tôn chỉ mà nhà văn đã xác định rõ trong cuộc đời cầm bút của mình:
“Viết tiểu thuyết để cảm hóa đặng lần lần dắt quần chúng trở về đường chánh đại
quang minh”. Và nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Y cũng từng viết về ông: “Phần lớn
tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh chưa bị người đọc chán bỏ chính vì tác phẩm của

ông còn đủ sức gây xúc động trong lòng người và đưa tâm hồn người ta hướng
thượng.” Hồ Biểu Chánh chính là người mang những giá trị truyền thống đến con
người hiện đại.

17


18



×