Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

hoat dong xuat khau than khoang san viet nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 67 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA KINH TẾ & KINH DOANH QUỐC TẾ
BỘ MÔN KINH TẾ QUỐC TẾ

CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
Đề tài: Hoạt động xuất khẩu than khoáng sản của Việt Nam
trong giai đoạn 2001 đến nay

Giáo viên hướng dẫn
Sinh viên thực hiện
Lớp
Khóa
Hệ

:
:
:
:
:

Hà nội 4/2008

1

ThS Nguyễn Thị Thúy Hồng
Phạm Quang Giang
Kinh tế quốc tế
46
Chính Quy



MỤC LỤC
Chương 1. Tổng quan chung về than khoáng sản Việt Nam.........................4
1.1. Đặc điểm và lịch sử ngành than khoáng sản Việt Nam...............................4
1.1.1. Đặc điểm của than khoáng sản..........................................................4
1.2. Tầm quan trọng của ngành than khoáng sản Việt Nam.............................13
1.2.1. Tầm quan trọng của ngành than khoáng sản trong nền kinh tế.......13
1.2.1. Than khoáng sản trong ngành năng lượng......................................18
1.3. Những yếu tố kinh tế xã hội tác động đến ngành than khoáng sản Việt
Nam...................................................................................................................20
1.3.1. Vấn đề phân bố vùng mỏ và địa phương khai thác.........................20
1.3.2. Vấn đề thuộc nội bộ ngành than......................................................21
1.3.3. Tác động chung của nền kinh tế......................................................22
Chương 2. Thực trạng hoạt động xuất khẩu Than khoáng sản Việt Nam
trong giai đoạn từ 2001 đến nay.....................................................................24
2.1. Thị trường tiêu thụ than khoáng sản thế giới trong giai đoạn hiện nay.....24
2.1.1. Phân bố trữ lượng than khoáng sản trên thế giới............................24
2.1.2. Xu hướng và tình hình cung – cầu than khoáng sản trên thị trường
thế giới........................................................................................................26
2.2. Tình hình sản xuất than khoáng sản xuất khẩu Việt Nam.........................33
2.2.1. Phân loại Than xuất khẩu Việt Nam................................................33
2.2.2. Kim ngạch xuất khẩu khoáng sản Than..........................................36
2.2.3. Thị trường xuất khẩu của khoáng sản Than....................................40
2.3. Tồn tại và nguyên nhân trong hoạt động xuất khẩu than khoáng sản.......45
2.3.1. Trong quản lý nội bộ ngành than Việt Nam....................................45
2.3.2. Thị trường tiêu thụ và sản phẩm than..............................................47
Chương 3. Kinh nghiệm quốc tế, triển vọng và giải pháp đối với hoạt động
xuất khẩu Than khoáng sản Việt Nam trong thời gian từ nay đến 2015. . .49

2



3.1. Các quy định của Chính phủ Việt Nam trong hoạt động khai thác, chế biến
và xuất khẩu khoáng sản Than..........................................................................49
3.2. Kinh nghiệm quốc tế về xuất khẩu than....................................................51
3.3. Thách thức và khó khăn đối với hoạt động xuất khẩu than khoáng sản Việt
Nam ..................................................................................................................53
3.3.1. Thách thức.......................................................................................53
3.3.2. Mục tiêu & chiến lược phát triển của ngành than khoáng sản Việt
Nam 55
3.4. Giải pháp cho hoạt động xuất khẩu Than khoáng sản của Việt Nam........56

3


LỜI MỞ ĐẦU
Tính tất yếu của đề tài: Than khoáng sản là một trong những nguồn tài
nguyên khoáng sản quý giá của quốc gia, đấy là nguồn lợi thiên nhiên ban tặng
cho các quốc gia. Đối với Việt Nam thì than khoáng sản có một vai trò hết sức
quan trọng trong việc khai thác, sử dụng và tiến hành xuất khẩu; Hằng năm,
hoạt động xuất khẩu than khoáng sản của Việt Nam đã thu về một nguồn lợi
lớn cho quốc gia, là một trong những ngành có tỉ trọng đóng góp trong GDP
của đất nước thuộc nhóm các ngành có đóng góp trong GDP đất nước lớn nhất.
Ngành than khoáng sản được coi là ngành công nghiệp hạ tầng của các ngành
công nghiệp quan trọng khác khi mà cung cấo đầu vào cho các ngành về hóa
chất, xi măng, điện và phân bón… trong suốt thời gian qua. Và sự phát triển
của ngành than khoáng sản của Việt Nam gắn liền với sự phát triển của các
ngành nghề khác trong tổng thể nền kinh tế.
Hoạt động xuất khẩu than khoáng sản vẫn đang được tiến hành đều đặn
trong thời gian qua, nhưng có những vấn đề được đặt ra bên cạnh hoạt động
xuất khẩu đó như chất lượng hàng hóa, giá thành hàng hóa trên thị trường, thị

trường xuất khẩu và quan trọng là phải đặt hoạt động xuất khẩu đó trong chiến
lược phát triển kinh tế và an ninh năng lượng của quốc gia, với những mục tiêu
cụ thể là thu được giá trị lớn nhất từ hoạt động xuất khẩu đấy. Với tầm quan
trọng và tính thời sự đó, tác giả đưa nghiên cứu đề tài “Hoạt động xuất khẩu
than khoáng sản Việt Nam trong giai đoạn 2001 đến nay”
Đối tượng nghiên cứu của đề tài chính là hoạt động xuất khẩu than
khoáng sản của Việt Nam trong thời gian qua, thông qua sự kiểm soát của các
cơ quan liên quan đến hoạt động xuất khẩu than khoáng sản.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài được xác định trên hai phương diện là
không gian và thời gian. Về mặt không gian là hoạt động xuất khẩu than
khoáng sản của Việt Nam, về mặt thời gian trong giai đoạn từ năm 2001 đến
nay.

4


Mục đích nghiên cứu đề tài về hoạt động xuất khẩu than khoáng sản
của Việt Nam là để có cái nhìn tổng quan về ngành than khoáng sản Việt Nam,
thực trạng hoạt động xuất khẩu từ đấy có được những giải pháp hợp lý nhằm
thu được ngoại tệ lớn phát triển nền kinh tế nước nhà.
Phương pháp nghiên cứu trong đề tài là dựa vào báo cáo tổng hợp của
ngành than khoáng sản trong thời gian quan để phân tích và đánh giá về hoạt
động xuất khẩu trong thời gian nghiên cứu.
Kết cấu đề tài gồm 3 phần:
Phần đầu tiên là tổng quan chung về ngành than khoáng sản Việt Nam
Phần tiếp theo là thực trạng hoạt động xuất khẩu than khoáng sản của Việt
Nam trong giai đoạn 2001 đến nay
Phần cuối cùng là các kinh nghiệm quốc tế, triển vọng và giải pháp đối với
hoạt động xuất khẩu than khoáng sản Việt Nam từ nay đến năm 2015.


5


Chương 1. Tổng quan chung về than khoáng sản Việt Nam
Đặc điểm và lịch sử ngành than khoáng sản Việt Nam
1.1.1. Đặc điểm của than khoáng sản
Than khoáng sản là một trong những tài nguyên khoáng sản trong lòng
đất của quốc gia, cùng với các loại khoáng sản khác như: Đồng, chì, kẽm,
thiếc…đã tạo thành một nguồn tài nguyên khoáng sản đa dạng phong phú và
có giá trị của Việt Nam.
Than khoáng sản là một trong những loại nhiên liệu hóa thạch được hình
thành ở các hệ sinh thái đầm lầy, các xác cây cối thực vật được nước và bùn
lưu giữ khỏi bị oxi hóa và phân hủy bởi sinh vật mà hình thành nên than đá
ngày nay. Thành phần chính của than khoáng sản là chất Cacbon, ngoài ra còn
có các chất khác như lưu huỳnh, nên than có tính năng là đốt cháy tốt và sinh
ra lượng nhiệt lớn, vì vậy than khoáng sản là nguồn nguyên liệu sản xuất điện
năng lớn nhất thế giới. Hiện nay, lượng than được khai thác trên thế giới và
Việt Nam được sử dụng trong các ngành năng lượng, phục vụ sản xuất nhà
máy nhiệt điện và các ngành công nghiệp sử dụng chất đốt… Than đang được
khai thác từ các mỏ than lộ thiên hay nằm sâu dưới lòng đất.
Ngày nay, với trình độ công nghệ hiện đại, công tác thăm dò và khai thác
đã giúp con người phát hiện ra nhiều tài nguyên khoáng sản có giá trị đồng thời
khai thác có hiệu quả hơn đối với nguồn tài sản quốc gia này. Việt Nam được
đánh giá là có nguồn dự trữ than đá đáng kể và có giá trị về mặt kinh tế, trong
tài nguyên về khoáng sản thì than đá là nguồn tài nguyên có trữ lượng và hiệu
quả kinh tế lớn nhất. Theo Cơ quan Năng lượng quốc tế thì trữ lượng than hiện
nay trên thế giới rất lớn, khoảng 910 tỷ tấn, đủ cho sản xuất trong 155 năm với
tốc độ như hiện nay và nếu như không có sự đột biến nào thì nhu cầu sử dụng
than trên thế giới sẽ tăng gấp 3 lần từ nay đến năm 2050. Theo các cuộc thăm
dò và khai thác thì than hiện diện ở khắp nơi trên thế giới và được sử dụng chủ

yếu trong các nhà máy nhiệt điện, sản xuất xi măng, phục vụ các ngành công
6


nghiệp và nhu cầu sinh hoạt của người dân, nhưng được sử dụng lớn nhất là
trong các nhà máy nhiệt điện, do đó 40% lượng điện được sản xuất trên toàn
cầu là từ các nhà máy nhiệt điện dùng than.
1.1.2. Lịch sử phát triển của ngành than khoáng sản Việt Nam
Ngành than Việt Nam đã có lịch sử khai thác hơn 100 năm, trải qua 72
năm truyền thống vẻ vang, từ cuộc tổng bãi công ngày 12/11/1936 của hơn 3
vạn thợ mỏ đã giành được thắng lợi rực rõ, đánh dấu mốc son chói lói trong
trang sử hào hùng đấu tranh cách mạng vì sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải
phóng vùng mỏ góp phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, giành lại
độc lập tự do cho Tổ quốc. Trải qua quá trình hình thành, hoạt động và phát
triển của ngành, dù trong bất kỳ hoàn cảnh khó khăn gian khổ nào, người thợ
mỏ Việt Nam vẫn phát huy bản lĩnh sáng tạo và tinh thần đoàn kết, dũng cảm,
luôn tiên phong đi đầu, tạo nên nhiều chiến công xuất sắc trong chiến đấu
chống giặc ngoại xâm cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong chặng đường đã đi qua, ngành than Việt Nam đã gặp không ít
những khó khăn và thăng trầm trong lịch sử phát triển, đặc biệt là thời kỳ bước
vào công cuộc đổi mới của đất nước và những năm đầu của thập niên 90, nạn
khai thác than trái phép phát triển tràn lan đã dần đến nhiều hậu quả đối với
ngành than và xã hội, tình trạng tài nguyên môi trường vùng mỏ than bị hủy
hoại, trật tự xã hội phức tạp, công nhân thiếu việc làm, ngành than đã phải cắt
giảm sản xuất… với những khó khăn đó đã đẩy ngành than của Việt Nam vào
tình trạng khủng hoảng và suy thoái nghiêm trọng trong một thời gian.
Cho đến những năm 1988, nhờ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự
giúp đỡ từ Liên Xô nên ngành than đã đầu tư vào cơ sở hạ tầng, các mỏ lộ
thiên lớn cùng các hầm lò được xây dựng, cải tạo và mở rộng. Trong thời gian

này, ngành than hoạt động theo cơ chế bao cấp, nhận kế hoạch sản xuất từ nhà
nước và giao nộp sản phẩm cho nhà nước. Nhờ có được sự quan tâm đúng lúc

7


khó khăn nên ngành than đã có được một số kết quả ban đầu trong quá trình
sản xuất và kinh doanh than sản phầm.
Bảng 1.1: Sản xuất và kinh doanh than trong giai đoạn 1985 – 1994
(Đơn vị: 1000 tấn)

1985

1986 1987

1988

1989

1990

1991

1992

1993

1994

nguyên


6295

6855 7690

7605

4221

5198

4895

5226

5835

7575

khai
Tiêu thụ
Xuất

5689

6120 6340

5657

3873


4091

4128

4852

5351

6000

640

620

314

528

676

920

132

182

215

5049


5500 6139

5343

3345

3415

3208

3528

3526

3850

Than

khẩu
Tiêu thụ
nội địa

201

(Nguồn: Số liệu lịch sử ngành than – Bộ Năng lượng)
Trong giai đoạn 1985 – 1988, ngành than đã đạt được nhiều kết quả cao
trong việc khai thác và tiêu thụ than, đỉnh điểm của giai đoạn này là hai năm
1987 và năm 1988, riêng trong năm 1987 đã công ty khai thác được 7690
nghìn tần than, tăng hơn 20% so với lượng than khai thác được trong năm 1985

và tăng 835 nghìn tấn so với năm trước 1986. Với lượng than khai thác tăng
lên qua các năm nên lượng than tiêu thụ trong nước và xuất khẩu cũng không
ngừng tăng lên hằng năm trong giai đoạn, lượng than sử dụng cho các nhà máy
nhiệt điện trong nước chiếm 34% - 50% trong tổng số than được tiêu thụ nội
địa. Trong năm 2008, toàn ngành than đã bốc 29,2 triệu m3 đất và đã khai thác
được 7605 nghìn tấn than nguyên khai, sàng tuyển được 6304 nghìn tấn than
sạch để đưa đi tiêu thụ trên thị trường.
Nhưng từ năm 1989, tổ điện của nhà máy thủy điện Hòa Bình lần lượt
được đưa vào vận hành sử dụng và nền kinh tế Việt Nam bị khủng hoảng thì
nhu cầu sử dụng than bị suy giảm, lượng than khai thác từ lòng đất cũng giảm
sút so với các năm trước đó dẫn đến tình trạng giảm sút trong kinh doanh và

8


tiêu thụ của ngành than Việt Nam. Có thể nói trong giai đoạn 1991-1994 là giai
đoạn khủng hoảng nhất của ngành than, khi mà nạn khai thác than trái phép lại
phát triển, cùng với tình hình thị trường tiêu thụ lũng đoạn nên đã đẩy các mỏ
than chính thống phải cắt giảm sản xuất, hạn chế bóc đất, giảm đào lò, cắt giảm
tiền lương công nhân viên để cân đối tài chính theo nguyên tắc tự trang trải,
công nhân thiếu việc làm…
Trong bối cảnh đấy, ngày 10/10/1994, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết
định 563/1994/QĐ-TTg về việc thành lập Tổng công ty than Việt Nam. Sự ra
đời của Tổng công ty than như một cuộc cách mạng trong ngành than khoáng
sản của Việt Nam, tạo cơ hội để ngành than phát triển trở lại, phục hồi và phát
triển công việc khai thác và kinh doanh than. Nhiệm vụ chính mà Đảng và
Chính phủ giao cho Tổng công ty than là:
● Lập lại trật tự trong khai thác. Kinh doanh than
● Thõa mãn các nhu cầu về than của nền kinh tế, phát triển các ngành
nghề khác trên nền công nghiệp than một cách có hiệu quả để giải quyết việc

làm cho người lao động.
Thực hiện nhiệm vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước giao phó, ngay
trong năm 1995, Tổng công ty than Việt Nam đã xây dựng đề án “Đổi mới tổ
chức, quản lý và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh”. Trên cơ sở tiềm năng
và nội lực sẵn có về vốn, lao động, các phương tiện sản xuất, cơ sở vật chất kỹ
thuật và điều kiện thực tế, Tổng công ty than Việt Nam đã lựa chọn phương
hướng xây dựng một tập đoàn kinh doanh đa ngành trong nền sản xuất than sản
phẩm. Từ mục tiêu chiến lược đã được đề ra, Tổng công ty đã cụ thể hóa
những mục tiêu đấy thành giải pháp và biện pháp thực hiện cụ thể hóa trong
ngành sản xuất than khoáng sản. Một trong những chiến lược quan trọng và
mang tính chất sống còn với ngành than trong những ngày mới thành lập Tổng
công ty đó là chiến lược quản lý tài nguyên và môi trường. Tổng công ty than
Việt Nam và cùng các doanh nghiệp thành viên đã triển khai và áp dụng đồng
bộ các biện pháp hành chính - kinh tế - kỹ thuật, sắp xếp lại tổ chức, lập lại trật

9


tự trong khai thác và kinh doanh than. Bên cạnh đấy, an ninh chính trị và trật tự
trong quá trình thăm dò, khai thác là vấn đề cấp bách được đặt ra, Tổng công ty
đã tiến hành thu thập, phân tích, đánh giá các tài liệu, báo cáo địa chất sẵn có,
tính toán trữ lượng; Tiếp tục điều tra, khảo sát, thăm dò bổ sung, thăm dò mới
tài nguyên.. Công tác cập nhật địa chất đã có một bước tiến rõ rệt so với trước
đây, nhờ có sự đổi mới trong tư duy và ứng dụng công nghệ mới theo kinh
nghiệm của các nước tiên tiến trên thế giới. Một số chiến lược cụ thể và mang
tính quyết định được ngành than cụ thể hóa như:
● Bảo vệ môi trường và giữ gìn cảnh quan là mục tiêu quan trọng trong
chiến lược phát triển bền vững của ngành than Việt Nam, để khắc phục hậu quả
suy thoái môi trường ở các vùng mỏ sau nhiều năm để lại, ngành than Việt
Nam đã có các cuộc khảo sát và đánh giá tác động của hoạt động khai thác than

đến môi trường của vùng mỏ rồi đưa ra các giải pháp và chương trình để cải
thiện môi trường. Tổng công ty đã quyết định thành lập Qũy môi trường Than
Việt Nam trên cơ sở sử dụng 1% chi phí tính thêm vào giá thành được Chính
phủ cho phép và các nguồn huy động khác, qua đấy đã đầu tư trồng mới và
chăm sóc được 1780 ha rừng trong ranh giới mỏ, tạo nguồn gỗ chống lò phục
vụ trong quá trình khai thác của các hầm lò. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp
thành viên đã có nhiều biện pháp để tăng cường cải tạo, nâng cấp đường sá,
giảm thiểu bụi trong công tác khoan nổ mìn, bốc xúc và sàng tuyển, vận
chuyển than, cải thiện điều kiện làm việc cho lao động.
● Đầu tư đổi mới công nghệ là chiến lược quan trọng hàng đầu được
Tổng công ty than đặc biệt quan tâm, nhằm khai thác tối đa cơ sở vật chất, tài
sản sẵn có, nâng cao mức độ đảm bảo an toàn trong sản xuất; Cải thiện điều
kiện làm việc cho lao động, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, nâng cao chất
lượng than trong nguyên khai, than sạch và tỷ lệ thu hồi than đồng thời tăng
năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất, đa dạng hóa sản phẩm theo nhu cầu
của thị trường. Tại các mỏ lộ thiên, công nghệ xuống sâu đã được áp dụng và
ngày càng hoàn thiện hơn đồng thời các mỏ được trang bị máy xúc thủy lực

10


gần ngược và áp dụng công nghệ xúc chọn lọc nên giảm thiểu được hệ số bóc
đất ở một số mỏ. Công nghệ cột chống thủy lực đơn và giá thủy lực di động
cũng được đưa vào sử dụng tại một số hầm lò, giảm được tổn thất than từ 40%50% xuống còn 15%-20%, giảm tiêu hao gỗ chống lò, giảm tỷ lệ gỗ dăm trong
than và đảm bảo được an toàn cho người lao động. Bên cạnh việc đầu tư đổi
mới công nghệ cho khai thác than, các doanh nghiệp đã chú trọng trong đầu tư
cải tạo, thay đổi công nghệ sàng tuyển để phù hợp với yêu cầu của khách hàng,
tận thu than bùn và xử lý nước thải trước khi ra biển. Công tác đầu tư và hoàn
thiện các kho bãi cũng được đẩy mạnh, nâng cấp bến rót tiêu thụ, đầu tư luồng
lạch mở rộng cảng biển đảm bảo cho tàu thuyền giao nhận than thuận lợi và

nhanh chóng.
● Song song với việc đổi mới công nghệ, hiện đại hóa dây chuyền sản
xuất để nâng cao chất lượng sản phẩm, ngành than của Việt Nam đã đặc biệt
quan tâm đến chiến lược thị trường, bởi “có thị trường là có tất cả”. Tổng công
ty đã kiên trì xây dựng ngành than, trước hết là trật tự trong kinh doanh than,
đổi mới tổ chức, quản lý và phương pháp kinh doanh than của hệ thống các
công ty than trong nội địa, hoàn thiện và phát triển cách thức quản lý trong
công tác tiếp thị và giao dịch xuất nhập khẩu than. Bằng việc phát triển thị
trường sản phẩm chính là cách để tháo gỡ đầu ra cho sản phẩm và cân bằng
cung cầu than trên thị trường.
Than Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong giai đoạn đầu thành
lập Tổng công ty, ngành than Việt Nam đã mở rộng được thị trường tiêu thụ
sản phẩm trong và ngoài nước, xây dựng được các mối quan hệ bạn hàng tin
cậy trong và ngoài nước, đã ký hợp đồng dài hạn với các hộ lớn khoảng 30%
sản lượng than tiêu thụ hàng năm. Than Việt Nam đã có quan hệ với các bạn
hàng nước ngoài ở khắp các châu lục, năm 1997 đã xuất khẩu được 3,7 triệu
tấn than, mức cao nhất từ trước đến nay. Trong giai đoạn này, than Việt Nam đã
xuất sang các thị trường như: Nhật Bản, Trung Quốc, Canada, Hàn Quốc, Thái
Lan, Đài Loan… Bằng nhiều biện pháp kinh tế tổng hợp, phương châm nhất

11


quán “Cùng phát triển với bạn hàng”, Tổng công ty than Việt Nam đã phát huy
nội lực sẵn có để xây dựng một chiến lược phát triển thị trường tiêu thụ sản
phẩm. Việc mở rộng và giữ vững thị trường là yếu tố quyết định để ngành than
Việt Nam mở rộng tổ chức sản xuất mới cũng như tiếp cận các thị trường tài
chính, tín dụng, đảm bảo vốn cho kinh doanh, phục vụ các dự án khai thác, đầu
tư và phát triển. Bên cạnh những nỗ lực phát triển thị trường tiêu thụ, nâng cao
trình độ công nghệ thì ngành than còn chủ động tiếp xúc và tìm kiếm khách

hàng cho riêng mình, tiến hành đàm phán và kí kết các hợp đồng ngắn hạn, dài
hạn với cơ chế giá mềm dẻo, cạnh tranh để tăng cường khả năng kiểm soát và
mở rộng thị trường tiêu thụ than trong và ngoài nước, đưa than sản phẩm đến
tận nơi sử dụng và mở rộng mạng lưới bán than đến các tỉnh, thành phố trong
cả nước, bao gồm cả thị trường nông thôn, miền núi.
[

Bảng 1.2: Sản xuất và kinh doanh than trong giai đoạn 1995-2001
Than tiêu thụ
(1000 tấn)
- Xuất khẩu
- Trong nước
Doanh thu tiêu
thụ (tỷ Đồng)
- Xuất khẩu
- Trong nước
Tổng doanh
thu (tỷ Đồng)
Nạp ngân sách
(tỷ Đồng)

1995

1996

1997

1998

1999


2000

2001

7592

9653

10779

10721

10500

11467

12500

2783
4809

3666
5987

3525
7254

2900
7821


3300
7200

3076
8333

4000
8500

1917

2584

2953

2953

2792

3114

3675

955
962

1262
1322


1323
1630

1246
1707

1328
1464

1765
1349

1850
1825

2402

3658

4254

4558

4129

4887

5669

120


152

199

154

133

155

165

(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động ngành than Việt Nam)
Trong giai đoạn sản xuất và kinh doanh 1995-2001, ngành than khoáng
sản Việt Nam cũng gặt hái được nhiều thành công trong khai thác, chế biến và
xuất khẩu. Bằng sự nỗ lực của chính Tổng công ty đã giúp cho lượng than khai
thác và than sản phẩm xuất khẩu hàng năm không ngừng gia tăng, đó là một
dấu hiệu đáng mừng trong việc đầu tư đổi mới công nghệ trong quá trình khai
12


thác và chiến lược phát triển thị trường của công ty đưa ra trong những năm
đầu thành lập. Việc đổi mới công nghệ cọc chống trong hầm lò hay công nghệ
khai thác các mỏ lộ thiên, đổi mới và cải tiến công nghệ trong giai đoạn vận
chuyển trên băng chuyền… cùng với việc phát triển thị trường, bạn hàng đã
mang đến cho ngành than một số thành công nhất định.
Với những chính sách và đướng lối hoạt động đúng đắn, trong năm 1995
ngành than đã tiêu thụ được 7592 nghìn tấn than với doanh thu tiêu thụ thu về
khoảng 1917 tỷ Đồng, tuy sản lượng than tiêu thụ trong nước lớn gấp 2 lần

lượng than tiêu thụ trên thị trường quốc tế nhưng doanh thu tiêu thụ của 2 thị
trường này lại bằng nhau, như vậy có thể thấy rằng ngành than đang thực hiện
trợ giá cho thị trường trong nước. Đây cũng có thể là một biện pháp để khuyến
khích nhu cầu sử dụng than trong nước và một phần hỗ trợ thị trường trong
nước. Trong những năm tiếp theo, sản lượng than khai thác và sản lượng kinh
doanh trên thị trường của ngành than Việt Nam tăng liên tục, trong năm 1996
sản lượng than khai thác và doanh thu từ kinh doanh than tăng khoảng 30% so
với năm trước nên doanh thu từ thị trường trong nước và thế giới cũng tăng với
tốc độ 32% so với năm 1995. Ngành than đã rất nỗ lực để giữ vững được tốc
độ tăng lên trong khai thác và kinh doanh tiêu thụ, năm 1997 ngành than đã
khai thác được 10779 nghìn tấn than, tăng gần 42% sản lượng khai thác so với
năm 1995 về than sản phẩm, kết quả đó được đánh giá là một thành quả vượt
bậc và là mong ước của ngành than trong thời gian bấy giờ. Tuy trong khai
thác than thành phẩm tăng nhanh nhưng lại xuất hiện dấu hiệu chững lại của
hoạt động kinh doanh xuất khẩu do những ảnh hưởng ban đầu của cuộc đại
khủng hoảng tài chính – tiền tệ châu Á trong năm 1997, sản lượng tiêu thụ
giảm, doanh thu từ hoạt động xuất khẩu tăng nhẹ và đó là dấu hiệu đầu tiên cho
những giảm sút của doanh thu trong những năm tiếp theo. Đánh giá trong
những năm 1995-1997, ngành than của Việt Nam đã có những bước tiến vượt
bậc nhờ biết phát huy được nội lực, công nghệ mới áp dụng và những chính

13


sách phát triển hợp lý, đóng góp vào ngân sách nhà nước 471 tỷ Đồng trong 3
năm 1995-1997.
Năm 1998, sau khi chịu sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính –
tiền tệ khu vực nên đã tác động đến than xuất khẩu của Việt Nam trên thị
trường thế giới về lượng lẫn về giá cả, ngành than của Việt Nam phải cạnh
tranh hơn khi mà cung vượt quá cầu trên thị trường, nhưng nhờ sự mềm dẻo

trong quan hệ bạn hàng và có các mối quan hệ bạn hàng lâu năm nên lượng
than xuất khẩu của Việt Nam vẫn duy trì tại mức 3 triệu tấn và giữ được 25%30% thị phần than Antraxit buôn bán thế giới. Thị trường trong nước cũng có
sự giảm sút trong tiêu thụ, đặc biệt là năm 1999, lượng than tiêu thụ giảm hơn
600 tấn so với năm 1998 và doanh thu kinh doanh than của Việt Nam đã giảm
xuống từ 2953 tỷ Đồng năm 1998 xuống 2792 tỷ Đồng cả năm 1999. Cho đến
năm 2001, Tổng công ty than Việt Nam đã mở rộng quan hệ dài hạn với các
nhà tiêu thụ như: Trung Quốc, Hungari, Trung Quốc, Thái Lan, Philippin, Đài
Loan, Hà lan, Hàn Quốc, Nam Phi… Về thị trường xuất khẩu, công ty không
chỉ duy trì ở các thị trường tiêu thụ tiềm năng mà còn mở rộng ra các thị
trường mới nên sản phẩm than của công ty đã có mặt tại khoảng 40 nước trên
thế giới, và công ty cũng đã tiến hành ký kết nhiều hợp đồng cung cấp than dài
hạn cho khách hàng.
Các giai đoạn phát triển và trưởng thành của ngành than Việt Nam từ
năm 1855 đến nay, có thể nhìn nhận mô hình quản lý ngành than từ trước đến
nay:
● Từ tháng 4/1955 đến tháng 7/1960, ngành than do Bộ Công nghiệp
quản lý.
● Từ tháng 7/1960 đến tháng 8/1969, ngành than do Bộ Công nghiệp
nặng quản lý.
● Từ tháng 8/1969 đến tháng 1/1981,ngành than do Bộ Điện và Than
quản lý.

14


● Từ tháng 1/1981 đến tháng 3/1987, ngành than thuộc sự quản lý của
Bộ Mỏ và Than.
● Từ tháng 3/1987 đến tháng 10/1994, ngành than thuộc sự quản lý của
Bộ Năng lượng.
● Từ tháng 10/1994, ngành than của Việt Nam chịu sự quản lý của Tổng

công ty than Việt Nam, Tổng công ty Than Việt Nam là một tập đoàn kinh tế
trực thuộc Chính phủ.

1.

Tầm quan trọng của ngành than khoáng sản Việt Nam
1.1.3. Tầm quan trọng của ngành than khoáng sản trong nền kinh tế
Việt Nam là một trong những quốc gia có trữ lượng than lớn trên thế giới,

với ước tính có khoảng 4 tỷ tấn than Antraxit. Với trữ lượng than phân bố chủ
yếu là ở độ sâu dưới 500m trong khi lượng than ở các mỏ lộ thiên lại rất nhỏ,
khoảng 300 triệu tấn nên gặp không ít khó khăn trong việc khai thác. Hơn nữa,
Việt Nam có trữ lượng khoảng 17 tỷ tấn than nâu thích hợp cho việc sử dụng
trong các ngành công nghiệp nồi hơi, nhưng phần lớn lượng than này nằm dưới
Đồng bằng châu thổ sông Hồng nên số than này sẽ rất khó khăn trong việc khai
thác do việc ảnh hưởng đến diện tích đất nông nghiệp và ảnh hưởng của lượng
nước ngầm cao. Than Antraxit nằm chủ yếu ở vùng mỏ Quảng Ninh còn than
nâu chủ yếu tập trung ở Đồng bằng sông Hồng.
Ngành than là một bộ phận của nền kinh quốc dân thống nhất, phát triển
của ngành than phải đặt trong sự phát triển của các ngành liên quan và đặt
trong tổng thể phát triển của nền kinh tế và xã hội. Ngành than là một trong
những ngành công nghiệp mang tính chất hạ tầng và là nguồn cung cấp đầu
vào phục vụ cho nhiều ngành kinh tế khác. Mang tính chất là một ngành công
nghiệp hạ tầng nên ngành cần có tính chất đặc thù cho cả đầu tư phát triển nội
ngành và cả con người, đảm bảo cho ngành than Việt Nam phát triển một cách
bền vững, chắc chắn và đồng bộ với các ngành nó phục vụ. Khi nói đến tầm
quan trọng của ngành than, chúng ta cần đánh giá than trong các mặt kinh tế,
xã hội, bảo vệ môi trường và an ninh năng lượng…
15



Về Kinh tế
Việc khai thác than có một vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của
nền kinh tế nói chung và sự phát triển của nhiều ngành nói riêng, cụ thể như:
● Đảm bảo nhu cầu về nguyên liệu, nhiên liệu cho một số ngành trong
nền kinh tế quốc dân như: điện, xi măng, sắt thép, giấy, đạm, vật liệu xây dựng
và chất đốt sinh hoạt…
Bảng 1.3: Sản lượng và giá trị than tiêu thụ 2001 – 2008*
2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

2008*

thụ

12,5

15,7


18,1

27,3

32,7

38,9

42,1

9,1

(tr tấn)
- Xuất khẩu
- Trong

4,0

6,6

6,6

11,6

17,9

29,6

31,0


4,7

8,5

9,1

11,5

14,5

14,8

9,3

11,1

4,4

Than tiêu

nước

(Nguồn: Tổng công ty Than Việt Nam – 2008*: Qúy I/2008 )
Hàng năm, một lượng than lớn được cung cấp cho các ngành công
nghiệp luyện kim cũng như phục vụ nhu cầu tiêu thụ trong sinh hoạt không
ngừng được tăng lên. Nếu như trong năm 1995 với lượng than cung cấp cho
các ngành trong nước khoảng 4,8 triệu tấn thì đến năm 2000 lượng than tiêu
thụ trong nước đã tăng lên gần gấp đôi và đạt mức 8,4 triệu tấn. Sau cuộc
khủng hoáng kinh tế châu Á năm 1997 thì nhu cầu tiêu dùng than phục vụ
trong sản xuất của các ngành công nghiệp sử dụng than cũng được ổn định nên

đến năm 2004, lượng than cung cấp cho tiêu dùng trong nước đạt trên 14,5
triệu tấn than, tốc độ trung bình gia tăng cung cấp than cho nền kinh tế trong
giai đoạn 2000 – 2004 đạt tốc độ khoảng 13%/năm. Dự kiến từ nay đến năm
2020, sản lượng cung cấp than cho nền kinh tế ước đạt khoảng 15 – 43 triệu
tấn than, tốc độ gia tăng bình quân hằng năm là 8%/năm. Ngoài ra, nhờ giá bán
than của công ty than đối với thị trường trong nước chỉ bằng một nửa so với

16


giá bán than trên thị trường thế giới nên nó đã gián tiếp làm giá thành một số
mặt hàng này trong nước; Hay nói cách khác, than đã gián tiếp đóng góp vào
giá trị GDP của đất nước thông qua các ngành sử dụng than…
● Ngành than đóng góp vào giá trị gia tăng của đất nước – giá trị GDP.
Mỗi năm, ngành than đã đóng góp vào giá trị GDP hàng ngàn tỷ đồng, năm
1995 giá trị đóng góp của ngành than mới chỉ khoảng 120 tỷ Đồng thì đến năm
2004 giá trị đóng góp của ngành than đã đạt mức 6 ngàn tỷ Đồng và mức độ
đóng góp này ngày càng tăng lên, trong giai đoạn 1995 đến 2004, tốc độ trung
bình đóng góp của ngành than đối với nhà nước đạt 19,1%. Không những thế,
trong hoạt động xuất khẩu than hàng năm, ngành cũng đã thu về một lượng
ngoại tệ lớn, năm 2004 lượng ngoại tệ thu về đạt 322 triệu USD.
Về xã hội
Ngành than đã trực tiếp tạo ra việc làm cho hàng chục nghìn việc làm
cho người lao động và gián tiếp tạo việc làm cho hàng chục vạn người ở các
ngành kinh tế khác. Theo số liệu tổng kết của ngành than về số lượng lao động
tham gia hoạt động trong ngành và thu nhập bình quân qua các năm ổn định và
có nhiều thuận lợi cũng như ưu đãi cho công nhân viên.
● Ngành than đã tạo việc làm cho một bộ phận lớn người lao động tại
địa phương hay khắp các vùng miền khác đến tham gia khai thác trong các mỏ
than hay quản lý. Năm 2002 , lượng lao động tham gia trong ngành than mới

khoảng hơn 80 ngàn người, nhưng đến năm 2004 thì lượng lao động của ngành
than đã tăng lên đến 93 ngàn lao động, với mức thu nhập bình quân của một
lao động khoảng 2.587 ngàn Đồng/lao động. Ngoài ra, nếu tính mỗi lao động
của ngành than nuôi thêm 1,5 – 2 người ăn theo thì trong thực tế việc khai thác
than đã nuôi sống hàng trăm ngàn người.
● Tạo mới và phát triển các khu dân cư, hình thành nhiều làng mỏ, phát
triển dân số và từ đó phát triển về nhà ở, trường học, bệnh viện… và các dịch
vụ hạ tầng cơ sở hạ tầng gần các khu mỏ khai thác. Tại các khu vực khai thác
mỏ than sẽ hình thành các dịch vụ, các ngành nghề sản xuất nhỏ để phục vụ

17


hay cung cấp cho công nhân, hay đấy chính là việc phát triển của các ngành
công nghiệp phụ trợ, tạo công ăn việc làm, thu nhập cho một bộ phận người
dân.
● Hình thành giai cấp công nhân mỏ ở Việt Nam và văn hóa người mỏ,
nhất là ở Quảng Ninh. Đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội và văn
hóa… Ở những vùng xa xôi hẻo lánh, phát triển khai thác mỏ than là việc làm
gia tăng sử dụng vùng đất xung quanh và giá trị của chúng.
● Góp phần phân bố lại dân cư lao động hợp lý hơn, giảm được sức ép
gia tăng dân số lên các trung tâm, thành thị.
Tuy nhiên trong việc khai thác than, đặc biệt là hoạt động khai thác trong
hầm lò luôn tiềm ẩn những rủi ro nổ lò, cháy lò, bục nước, sập lún hầm lò…
Hậu quả là người lao động gánh chịu, bên cạnh đấy cũng có nhiều lao động
mắc bệnh nghề nghiệp … đấy cũng là một vấn đề lớn đặt ra cho ngành trong
việc nâng cao chất lượng cuộc sống của đại bộ phận lao động của ngành.
Về bảo vệ môi trường
Từ khi được thành lập vào năm 1994, Than Việt Nam đã thực hiện nhiều
biện pháp cải thiện môi trường vùng mỏ khai thác theo tinh thần đảm bảo sự

phát triển bền vững của ngành than và các vùng than. Với phương châm và
mục tiêu đặt ra trong công tác bảo vệ môi trường, ngành than đã có nhiều hoạt
động có ý nghĩa trong việc quản lý môi trường và giảm thiểu các ô nhiễm do
hoạt động khai thác. Có thể những kết quả trong công tác quản lý môi trường
của ngành than không triệt để hay chưa kiểm soát hoàn toàn lượng ô nhiễm của
hoạt động khai thác gây ra nhưng những hành động của ngành đã tạo động lực
và bước đi đầu cho những ngành công nghề khác học tập và làm theo trong
công tác bảo vệ môi trường, khắc phục sự suy thoái của môi trường sống xung
quanh con người. Một số kết quả mà ngành than đạt được:
● Hầu hết các mỏ và các đơn vị sản xuất – kinh doanh đã lập và được
duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường, là cơ sở ban đầu cho việc quan
trắc, quản lý môi trường và thực hiện các giải pháp kiểm soát và giảm thiểu ô
18


nhiễm. Bên cạnh đấy, các mỏ và các nhà máy sàng tuyển đã, đang và thực hiện
các dự án xây dựng các công trình chống bụi, thoát nước, xử lý nước thải, thực
hiện nạo vét sông suối, khôi phục một số hồ nước ở Quảng Ninh, xây kè đập ở
chân bãi thải đất đá của quá trình khai thác và trồng cây xanh xung quanh các
vùng mỏ, thực hiện chương trình phủ xanh đất trống đồi trọc… tổng cộng đã
trồng mới và chăm sóc được hơn 2 nghìn ha.
● Với sự tài trợ của UNDP đã thực hiện dự án VIE/95/003 về bảo vệ môi
trường trong khai thác mỏ lộ thiên ở vùng mỏ than Quảng Ninh. Ngoài ra,
ngành cũng đã và đang thực hiện các dự án về bảo vệ môi trường khác do các
tổ chức quốc tế tài trợ như: SIDA, JICA… Về phía Than Việt Nam, trong giai
đoạn 1996-1998 đã chủ động thành lập quỹ nhằm chi vào hoạt động bảo vệ
môi trường (trích 1% từ giá thành). Đến năm 1999, đã thành lập Qũy môi
trường TVN, quỹ môi trường TVN được trích từ 1% giá thành và từ hoạt động
khác có liên quan. Hiện nay, mỗi năm ngành than sử dụng khoảng 60 tỷ Đồng
để thực hiện các chương trình bảo vệ môi trường, bảo vệ sự đa dạng sinh học

vùng mỏ và xử lý các sự cố môi trường trong hoạt động khai thác than của
Than Việt Nam. Mục đích của than Việt Nam là xây dựng một môi trường
xanh-sạch-đẹp.
● Than Việt Nam đã xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý về môi trường các
cấp và ban hành “Quy định về công tác bảo vệ môi trường và phòng chống sự
cố môi trường trong Than Việt Nam”, đề ra giải pháp cũng như thực hiện các
dự án, khắc phục ô nhiễm và bảo vệ môi trường trên toàn vùng và tại các khu
đô thị, dân cư.
1.1.1. Than khoáng sản trong ngành năng lượng
Than là một trong những tài nguyên năng lượng của quốc gia trong
nguồn tài nguyên năng lượng đa dạng của Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam đang
khai thác nguồn năng lượng thương mại bao gồm: dầu khí, than, thủy điện và
khí đốt với tổng năng lượng khai thác trong năm 2003 là 35,1 triệu TOE (triệu
tấn dầu tương đương) và tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của nguồn
19


năng lượng thương mại là 13,14%/năm. Nguồn tài nguyên năng lượng của Việt
Nam có thể đáp ứng dược nhu cầu cơ bản về năng lượng trong nước và một
phần cung cấp cho hoạt động xuất khẩu ra nước ngoài. Nếu như phần trên của
bài viết nghiên cứu về vai trò của than sản phẩm trong nền kinh tế xã hội, thì
phần này bài viết sẽ nhìn nhận đóng góp của than trong tổng thể các nguồn
năng lượng Việt Nam đối với nền kinh tế đang phát triển của Việt Nam. Do hạn
chế về phát triển kinh tế và trình độ công nghệ nên sản lượng sản xuất và tiêu
thụ các dạng năng lượng thương mại trên đầu người của Việt Nam còn thấp,
năm 1990 là 107 kgOE và năm 2003 là 436 kgOE mỗi năm.
● Quan hệ năng lượng và GDP
Trong sản lượng năng lượng sản xuất ra hằng năm thì than sạch có tốc
độ gia tăng bình quân hàng năm khoảng 12%/năm, với năm 2003 đạt 18,7 triệu
tấn, năm 2004 tăng lên đến 25,4 triệu tấn… Trong những năm qua, cường độ

sử dụng năng lượng của Việt Nam không ngừng được tăng lên, đó là điều tất
yếu khi mà Việt Nam đang trong giai đoạn đầu công nghiệp hóa nên thực hiện
quá trình thay đổi năng lượng phi thương mại (củi gỗ, than gỗ, phụ phẩm nông
nghiệp…) bằng các nguồn năng lượng thương mại. Bên cạnh đó, nhà nước Việt
Nam cũng đang thực hiện chính sách trợ giá năng lượng và áp dụng chính sách
giá năng lượng thấp cũng như việc sử dụng các nhà máy, các thiết bị có hiệu
suất thấp và đã quá thời hạn sử dụng cũng làm tăng cường độ sử dụng nănh
lượng; Cường độ sử dụng năng lượng của Việt Nam theo giá hiện hành hiện
nay là khoảng 400 kgOE/1000 USD, trong khi giá trị bình quân của các nước
đang phát triển OECD là 130,5, giá trị bình quân của thế giới là 176,5 và một
số nước trên thế giới như: Thái Lan 248, Inđônêxia 319, Malaixia 262, Trung
Quốc 538, Hàn Quốc 209 và Nhật Bản 61…
Xét về hệ số đàn hồi giữa năng lượng và GDP (tỷ số giữa tốc độ tăng
tiêu thụ năng lượng và tốc độ tăng trưởng GDP trong cùng một giai đoạn) –
một trong những chỉ tiêu quan trọng đánh giá mối quan hệ giữa Năng lượng và
Kinh tế trong cùng một giai đoạn nghiên cứu.

20


Bảng 1.4: Mối quan hệ tương quan Năng lượng – Kinh tế của Việt
Nam
Nhịp tăng GDP (%)
Nhịp tăng nhu cầu Năng lượng

1991-1995
8.18

1996-2003
6.99


13.8
9.3
(%)
Hệ số Năng lượng - GDP
1.68
1.33
(Nguồn: Ban quản lý dự án – Bộ kế hoạch và Đầu tư)

2004-2007
8.1
10.125
1.25

Trong quan hệ năng lượng – GDP giai đoạn đầu của cuộc đổi mới kinh
tế 1991 – 1995 ở mức 1,68 là phù hợp với tình hình của một quốc gia đang
phát triển ở giai đoạn đầu, giai đoạn này nền kinh tế bắt đầu đổi mới và phát
triển kéo theo nhu cầu tiêu thụ các nguồn năng lượng tăng cao. Nhưng đến giai
đoạn sau, hệ số Năng lượng – GDP đã giảm xuống còn 1,33, điều đó chứng tỏ
nền kinh tế đã vận hành một cách đúng hướng và có hiệu quả hơn, tập trung
phát triển các ngành sử dụng ít năng lượng hơn.

2.
Những yếu tố kinh tế xã hội tác động đến ngành than khoáng
sản Việt Nam
1.1.2. Vấn đề phân bố vùng mỏ và địa phương khai thác
● Hiện nay, đa số các vùng mỏ than khai thác, các kho vật liệu nổ… đều
nằm ở các khu vực hẻo lánh, giao thông đi lại khó khăn nên ngành than gặp
không ít khó khăn trong việc đưa phương tiện và vận chuyển than khai thác
được đi tiêu thụ. Các mỏ than được đánh giá có trữ lượng lớn và giá trị lớn

nằm rải rác trên khu vực rộng lớn, các mỏ nằm trong khu vực đồi núi thì ngành
than có thể tiến hành bóc đất khai thác nhưng các mỏ than tập trung ở đồng
bằng sông Hồng thì ngành than gặp nhiều khó khăn do việc bóc đất và ảnh
hưởng đến một diện tích đất nông nghiệp nên các mỏ than trọng tâm thường là
ở khu vực hẻo lánh và xa khu dân cư hay ở các vùng đồi núi. Công tác khai
thác các mỏ than ở khu vực đồi núi sẽ kéo theo một hệ quả là ngành than phải
21


đầu tư nhiều hơn vào công tác xây dựng và quản lý cơ sở vật chất phục vụ của
công nhân viên từ các dịch vụ phục vụ cuộc sống như: điện, nước, trạm y tế,
trường học, bệnh viện, đường sá giao thông… đã phần nào làm tăng chi phí
đầu tư cố định phục vụ ngành than. Đặc biệt, hiện nay lượng công nhân phục
vụ trong các khu mỏ ngày càng lớn nên sức ép về đảm bảo cuộc sống cho lao
động ở khu vực đồi núi, hẻo lánh là một nhiệm vụ không dễ giải quyết của
ngành.
● Vùng mỏ than Quảng Ninh lâu nay chỉ tập trung sản xuất và kinh
doanh xoay quanh sản phẩm than mà các ngành nghề sản xuất hàng tiêu dùng,
dịch vụ có khả năng thu hút lao động nữ lại hạn chế. Với vùng mỏ than Quảng
Ninh, để đòi hỏi lượng nhân công khai thác trong khu mỏ là rất lớn và chủ yếu
là nhân công nam trong khi các chính sách và chiến lược giải quyết công ăn
việc làm cho nữ giới trong khu mỏ lại triển khai còn chậm; những người phụ
nữ ở đấy là người thân, là vợ, là con của công nhân đang khai thác than trong
các hầm mỏ… Cuộc sống của những hộ gia đình đó mà phụ thuộc vào đồng
lương của ngành than độc canh sẽ gây không ít khó khăn và gành nặng cho
công nhân tham gia hoạt động trong ngành than.
● Quảng Ninh nằm trong khu vực trọng điểm kinh tế Bắc bộ, có tốc độ
đô thị hóa nhanh nên ý thức bảo vệ môi trường, giữ gìn cảnh quan môi trường,
di tích lịch sử văn hóa lại càng được chú trọng. Bên cạnh Quảng Ninh là Vịnh
Hạ Long, một di sản thiên nhiên thế giới mở ra triển vọng về du lịch văn hóa

và dịch vụ… những yếu tố đấy buộc ngành than phải có một số điều chỉnh
trong ngành để phù hợp với yêu cầu phát triển chung của xã hội, ngành than đã
phải tháo dỡ hệ thống đường sắt Hà Lầm – Hòn Gai, Hòn Gai – Cọc 5 – Cọc 8
và chuyển đổi mục đích sử dụng cảng than Hòn Gai… Với những thay đổi đấy
đã đẩy chi phí sản xuất của ngành than tăng lên, đẩy giá thành sản xuất than
tăng lên.

22


1.1.3. Vấn đề thuộc nội bộ ngành than
● Chất lượng than nguyên vỉa của các mỏ than là khác nhau, điều kiện
khai thác than ở các mỏ cũng không giống nhau nên giá bán than và hiệu quả
khai thác của các mỏ than là khác nhau dẫn đến sự khác khác nhau trong thu
nhập của cán bộ công nhân viên lao động trong các mỏ than. Mặt khác, hiện
nay giá bán than trong nước và xuất đi thị trường quốc tế là khác nhau, giá bán
trên thị trường thế giới gấp đôi giá bán trong nước nên các mỏ than được xuất
đi nước ngoài sẽ có doanh thu trong kinh doanh lớn hơn là các mỏ than chỉ
được tiêu thụ trong nước.
● Xuất phát từ lợi nhuận của hoạt động bán than mà tổng công ty có
những đầu tư trong công nghệ khai thác và đào tạo nguồn lao động mới cho
ngành than. Đối với các mỏ mới được đưa vào hoạt động hay mỏ kinh doanh
than trong nước thì lượng tích lũy không cao trong khi điều kiện khai thác là
rất phức tạp và nguy hiểm, các mỏ than càng ngày càng phải khai thác xuống
sâu dưới lòng đất nên suất đầu tư ngày càng tăng. Đối với các mỏ hầm lò, các
công nghệ lạc hậu vẫn còn sử dụng nên tổn thất trong quá trình khai thác than
khá cao, mức độ đảm bảo an toàn thấp, đã nhiều năm các mỏ than phải tự cân
đối tài chính bằng cách giảm hệ số bóc đất ở mỏ lộ thiên và giảm hệ số đào lò
ở các mỏ hầm lò nên đã đưa các mỏ vào tình trạng vi phạm các tiêu chuẩn kỹ
thuật và công nghiệp ở các mức độ khác nhau.

● Do tài nguyên phân chia không đồng đều và khác nhau về trữ lượng,
chất lượng trong khi các công ty khai thác lại khác nhau về điều kiện kỹ thuật
khai thác và vốn khác nhau nên trong trường hợp nhiều công ty khai thác ở
cùng một vùng mỏ thì cần phải có các phương án điều hòa hợp lý nhằm phát
huy tối đa năng lực và công nghệ - kỹ thuật của các bên.
● Điều chỉnh quan hệ cung – cầu trên thị trường là một vấn đề phức tạp
đã tồn tại lâu nay mà ngành than vẫn chưa giải quyết được.

23


1.1.4. Tác động chung của nền kinh tế
● Các biến cố xảy ra trong nền kinh tế đang ở giai đoạn đầu của sự phát
triển sẽ tác động mạnh đến bất cứ một ngành nghề nào trong nền kinh tế, ngành
than cũng không nằm ngoài ngoại lệ đó. Việt Nam đã là thành viên của WTO,
nền kinh tế của Việt Nam sẽ chịu trực tiếp các tác động trên thị trường thế giới
nhanh và sâu hơn; Hiện nay, giá dầu trên thế giới tăng cao đã tác động gần như
là tất cả các lĩnh vực sản xuất – kinh doanh trong nền kinh tế. Đối với ngành
than, chi phí vào vận chuyển sản phẩm, vận chuyển đất đá thải ra trong quá
trình khai thác và chi phí vào các máy móc khoan, khai thác tăng lên, đẩy giá
thành sản phẩm tăng cao.
● Sự điều chỉnh của các chính sách của Chính phủ cũng tác động sâu sắc
đến sản lượng khai thác và tiêu thụ của ngành than. Trong nhiều năm qua,
Chính phủ cũng đã có các chính sách vĩ mô hợp lý và tích cực vào ngành than
như hướng dẫn trong công tác lập kế hoạch khai thác, kinh doanh và xuất khẩu
của ngành than nhưng bên cạnh đấy nhiều trường hợp Nhà nước cũng chưa có
các chính sách thỏa đáng hỗ trợ nhân dùng than thay củi đốt phục vụ sinh hoạt
và sản xuất. Nguồn gỗ tự nhiên của Việt Nam đang cạn kiệt và tàn phá nặng nề,
trong khi lượng than khai thác ra đủ để đảm bảo tiêu thụ trong nước vì vậy Nhà
nước cần phải đưa ra chính sách bảo vệ nguồn gỗ phục vụ chống lò trong

ngành than và đưa than đến với các hộ dân sinh hoạt hay sản xuất…
● Việc sử dụng công nghệ lạc hậu của các nhà máy, xí nghiệp, cơ sở sản
xuất xi măng, vật liệu xây dựng, phân bón… nên phải tiêu tốn một lượng than
khá lớn và quen dùng với giá than thấp, do đó khó chấp nhận việc tăng dần giá
than, buộc Nhà nước phải vào cuộc để điều chỉnh lại. Trường hợp thay đổi
công nghệ ở nhà máy xi măng Bỉm Sơn và ở ngành đường sắt đã dẫn đến sự
mất hẳn thị trường tiêu thụ của mỏ than Na Dương, mỏ Khe Bố vốn dĩ đã từ
lâu được xây dựng để phục vụ riêng cho ngành xi măng và đường sắt...

24


Chương 2.
Thực trạng hoạt động xuất khẩu Than khoáng sản Việt Nam
trong giai đoạn từ 2001 đến nay
3. Thị trường tiêu thụ than khoáng sản thế giới trong giai đoạn
hiện nay
2.1.1. Phân bố trữ lượng than khoáng sản trên thế giới
Than được dùng làm nguồn năng lượng phục vụ nhu cầu của con người
từ hàng ngàn năm nay, trên thế giới cũng như Việt Nam, than được dùng làm
chất đốt trong sinh hoạt, là nguyên liệu phục vụ trong các ngành công nghiệp
luyện kim, hóa chất, sành sứ và thủy tinh… Kể từ cuộc khủng hoảng năng
lượng vào những năm thập niên 70 đến nay, nhu cầu sử dụng nguồn năng
lượng thương mại không ngừng được tăng lên với mức tăng khoảng 60%,
trong dó 1/4 nguồn năng lượng được cung cấp từ than. Trên thực tế thì than
vẫn là nguồn năng lượng hóa thạch có trữ lượng lớn nhất trong các nguồn năng
lượng hóa thạch khác như dầu mỏ, khí đốt, Uran, với trữ lượng chiếm khoảng
68% nguồn trữ lượng của năng lượng hóa thạch. Trong lòng trái đất đang có
một trữ lượng than khổng lồ mà chưa thể khai thác hết được, theo dự báo của
Cơ quan năng lượng thế giới – IEA thì tổng lượng than khoáng sản của thế giới

hiện nay vào khoảng 1089 tỷ tấn và được nằm rải rác trên khắp trái đất. Các
quốc gia có trữ lượng than lớn trên thế giới là Mỹ 25%, Liên Xô cũ 23%,
Trung Quốc 12%, các quốc gia Ấn Độ, Australia, Nam Phi, Đức có tổng trữ
lượng chiếm 29% và phần còn lại là các nước khác trên thế giới.
Tuy được dự báo là trự lượng than chưa khai thác là khá lớn nhưng nếu
như tốc độ khai thác năm 2002 thì sau khoảng gần 250 năm nữa là lượng than
trên trái đất này sẽ cạn kiệt, do đó cần phải tính đến các phương án khai thác và
kinh doang hiệu quả, tránh lãng phí nhằm sử dụng triệt để và hiệu quả nguồn
tài nguyên quý báu của trái đất này.

25


×