CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ XÂY DỰNG LỘ TRÌNH TOUR DU
LỊCH VÀ THUYẾT MINH TẠI ĐIỂM
1.1 Lý thuyết về xây dựng lộ trình tour du lịch
1.1.1
Khái niệm về lộ trình tour du lịch
Lộ trình tour DL là trình tự tiến hành chuyến tham quan theo nội dung không
gian và thời gian.
Lợi ích của việc xây dựng lộ trình tour DL:
-
Đảm bảo tính logic, hợp lý và chất lượng của hoạt động hướng dẫn tham quan
Xác định điểm đến, nội dung chủ yếu cần giới thiệu
Biết thời gian dành cho từng nội dung
Giúp cho việc chuẩn bị đủ lượng thông tin cần thiết
1.1.2
Yêu cầu và tiêu chí xây dựng lộ trình tour
Yêu cầu khi xây dựng lộ trình tour DL:
- Nắm được yêu cầu và nhu cầu của đoàn khách
- Kiến thức sâu về tuyến, điểm tham quan
- Phải biết về đường đi, khoảng cách giũa các điểm đến
Tiêu chí xây dựng lộ trình tour DL:
- Phù hợp với nhu cầu của khách
- Hấp dẫn, tránh trùng lặp
- Có tính logic
- Giúp HDV biết đường đi, những điểm cần giới thiệu
- Chuẩn bị cho bài thuyết minh
1.1.3 Quy trình thiết lập lộ trình tham quan
Thiếp lập lộ trình tham quan tổng thể từ điểm bắt đầu cho đến điểm kết thúc. Xác
định điểm dừng, điểm dừng để tham quan, điểm dừng để ăn uống, nghỉ ngơi…
1.2 Lý thuyết về thuyết minh du lịch
1.2.1 Khái niệm
Thuyết minh du lịch là hình thức diễn đạt bằng lới nói lẫn cảm xúc của một
hướng dẫn viên để diễn tả điểm tham quan, tuyến điểm du lịch, tới những
lãnh vực gần gũi hay có liên quan tới các đối tượng tham quan, tới địa
phương trên tuyến tham quan của đoàn khách …
1.2.2 Nguyên tắc xây dựng bài thuyết minh
Dựa vào đối tượng tham quan
Đối tượng tham quan là các cảnh quan, các di tích lịch sử văn hóa, công trình
kiến trúc, điêu khắc, các làng quê … thường có đổi thay theo thời gian và sự
tác động từ nhiều phía. Xem xét trực tiếp đối tượng tham quan, phỏng vấn tại
chỗ với những người có hiểu biết về đối tượng tham quan, hướng dẫn viên
đồng thời cần chú ý tới việc lựa chọn sẵn vị trí quan sát tốt nhất cũng như
những vị trí khác khi đưa khách tới tham quan. Khi lựa chọn đối tượng tham
quan, người hướng dẫn viên cần chú ý những điều sau đây:
Những đối tượng tham quan phải theo hành trình tham quan của đoàn, hành trình
này phải được sắp xếp khoa học hợp lý. Đối tượng tham quan trên lộ trình, tại các
điểm du lịch,…. Cần tránh sự trùng lặp, giống nhau và tránh sự đơn điệu, dễ gây sự
nhàm chán cho du khách. Số lượng các đối tượng tham quan cần chọn lựa cho vừa
phải so với độ dài thời gian của toàn chuyến tham quan, với nhu cầu của khách,
trạng thái sức khỏe, tâm lý của khách và loại phương tiện di chuyển,…
Dựa vào loại hình tham quan
Xác định loại hình tham quan du lịch nhằm giúp cho hướng dẫn trong việc
lựa chọn đối tượng tham quan cho phù hợp, chuẩn bị bài thuyết minh và tổ
chức hướng dẫn tham quan du lịch thuận lợi. Loại hình du lịch được xác định
sẽ cho phép hướng dẫn viên chuẩn bị việc hướng dẫn tham quan du lịch theo
chủ đề nhất định. Cũng từ đó, việc lựa chọn đối tượng tham quan chủ yếu, đối
tượng tham quan bổ sung trong chuyến du lịch nhanh chóng hơn, dễ dàng
hơn. Loại hình tham quan du lịch dựa vào các tiêu thức sau:
- Mục đích của chuyến tham quan du lịch nhằm giúp khách tìm hiểu một lãnh
vực nào đó, mang tính chuyên sâu và cũng hạn hẹp hơn, khách du lịch chỉ
quan tâm tới lãnh vực mà vì nó họ tham gia vào chuyến tham quan
- Cơ cấu và thành phần của khách du lịch
- Dựa vào lứa tuổi, nghề nghiệp, dân tộc, tôn giáo, quốc tịch,... của khách du
lịch cho phù hợp với yêu cầu và đặc điểm của từng loại khách nhất định
- Phương tiện di chuyển
1.2.3 Cấu trúc bài thuyết minh
Mở bài
Giới thiệu sơ nét về bản thân
Thông báo chương trình tham quan
Tạo chú ý và gây hứng thú cho khách
Thân bài
Giới thiệu tổng thể tuyến, điểm tham quan
Liệt kê những đối tượng tham quan chính
Giới thiệu lần lượt các đối tượng tham quan theo lộ trình ( dừng lại các đôi
tượng quan trọng)
Giao tiếp với KDL thông qua câu hỏi và trả lời
Kết bài
Tóm tắt nội dung chính
Quảng bá cho chuyến du lịch tiếp theo
1.2.4 Phương pháp thuyết minh
- Phương pháp phân đoạn
Thực hiện đối với những cảnh quan có quy mô lớn (Đại nội, phố cổ Hội An), hoặc
các sự kiện được diễn tiến trình tự theo thời gian (quá trình Nam Tiến, mở và dựng
nước theo các thời đại).
- Phương pháp nổi bật trọng tâm, trọng điểm
Làm nổi bật điểm đặc trưng và sự khác biệt của cảnh quan, sự kiện này với cảnh
quan, sự kiện khác (phân tích các yếu tố khí hậu, địa lý, văn hóa hay nhân vật lịch
sử,...) Nêu bật những đặc điểm riêng mà nơi khác không có (phương pháp so sánh).
Tất cả việc làm nổi bật này đều nhằm vào mục đích: tạo hứng thú cho du khách.
- Phương pháp tức cảnh, sinh tình
Thể hiện tình cảm hứng thú về một phong cảnh đẹp hay về một sự việc xã hội nào
đó.
- Phương pháp kết hợp giữa hư và thực
Kết hợp giữa truyền thuyết, truyện ngụ ngôn, truyện dân gian,….Với ý nghĩa thực,
giá trị đạo đức xã hội thực của câu chuyện. Hư là thần thoại, là truyền thuyết, giá
trị đạo đức dân gian. Thực là ứng xử, giao tiếp xã hội. Nguyên tắc chính khi sử
dụng phương pháp này là: lấy thực làm chủ đạo.
- Phương pháp hỏi đáp
Khách hỏi – hướng dẫn trả lời: Tránh trả lời tràn lan, quên mất nội dung chính
đang truyền đạt cho cả đoàn, không được tránh né, từ chối.
Hướng dẫn đặt vấn đề – khách cùng trả lời: Để thực hiện hình thức này đạt hiệu
quả cao và gây hứng thú cho du khách, người hướng dẫn viên phải chuẩn bị trước
– với những cách đặt vấn đề tạo sự hào hứng, đừng dễ quá cũng đừng khó quá,
những câu hỏi đặt ra khách có thể trả lời được
Hướng dẫn tự hỏi – tự trả lời: Đây là dạng khá đặc biệt, trong đó người hướng dẫn
viên phải mượn lời của một nhân vật thứ ba và tạo dựng tiết tấu câu chuyện thật
thú vị và hấp dẫn. Thường là dạng một câu chuyện không gắn với hoạt động đời
thường.
- Phương pháp so sánh – lấy cái quen thuộc để so sánh với điều mới lạ
So sánh những cái tương tự trong đời thường với điều mới lạ đang diễn ra trước
mắt: so sánh sự khác nhau và những điểm nổi bật về một giai đoạn lịch sử, một
triều đại.
CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ THỰC TIỄN - BÀI THUYẾT MINH VỀ KDT LS
ĐỀN HÙNG
2.1 Đối tượng KDL, mục đích chuyến đi
- Đối tượng KDL: Cán bộ công nhân viên chức - Giáo viên trường trung học
Thương mại
- Mục đích: Tham quan một danh thắng đẹp của đất nước vừa để các thầy, cô hiểu
thêm về lịch sử cội nguồn qua di tích đền Hùng, góp phần tăng tư liệu giảng dạy
cho thầy, cô.
2.2 Sơ đồ tham quan KDT LS đền Hùng
2.3 Bài thuyết minh hướng dẫn tham quan đền Hùng
Chào mừng quý khách đã đến với khu di tích lịch sử đền Hùng.
Đầu tiên cho phép tôi gửi đến quý thầy cô Trường Trung học Thương mại lời chúc
sức khỏe và lời chào trân trọng nhất. Tôi xin tự giới thiệu, tôi là Nguyễn Thị A,
sinh năm 1996. Hôm nay tôi rất vinh dự được thay mặt cho Công ty du lịch Group
1 đồng hành cùng quý thầy cô trong chuyến du lịch này.
Chắc hẳn trong chúng ta ai cũng đã nghe câu :
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba”
Đó là câu ca dao nói về ngày hội Đền Hùng, tự bao đời đã thấm vào tâm hồn
của mỗi người Việt Nam. Và ngày hôm nay, chúng ta hãy cùng trở về với đất tổ
Hùng Vương, nơi có những câu chuyện cổ tích thời vua Hùng, để cùng chiêm
ngưỡng cảnh đẹp nơi Người dựng nước và thắp nén hương cầu chúc cho mọi điều
tốt đẹp. Chúc thầy cô sẽ có một chuyến tham quan đầy bổ ích và ý nghĩa.
Đền Hùng là tên gọi khái quát của Khu di tích lịch sử Đền Hùng – quần thể đền
chùa thờ phụng các vua Hùng và tôn thất của nhà vua trên núi Nghĩa Lĩnh, gắn với
Giỗ Tổ Hùng Vương – Lễ hội Đền Hùng được tổ chức tại địa điểm đó hằng năm
ngày 10 tháng 3 âm lịch. Đền Hùng được dựng trên núi Nghĩa Lĩnh, giữa đất
Phong Châu, ngày nay là xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Đền
Hùng cách Hà Nội khoảng 85 km, và cách trung tâm thành phố Việt Trì khoảng 11
km về hướng Tây Bắc.
Nhìn một cách tổng quát khu di tích lịch sử Đền Hùng có 4 đền, 1 chùa và lăng
Vua Hùng:
Cổng đền
Đền Hạ
Nhà bia
Chùa Thiên Quang
Đền Trung
Đền Trung và Lăng Hùng Vương
Đền Giếng
Đền thờ cha Lạc Long Quân và đền Tổ Mẫu Âu Cơ
Chúng ta sẽ cùng nhau tham quan các đền và tìm hiểu về các truyền thuyết từ
thời các vua Hùng.
Ngoài ra, tại đây có bảo tàng Hùng Vương. Bảo tàng được xây dựng năm 1986 do
Hội kiến trúc sư Việt Nam thiết kế phỏng theo truyền thuyết bánh Chưng, bánh
Dầy phản ánh quan niệm của người Việt cổ về vũ trụ trời tròn, đất vuông. Bảo tàng
Hùng Vương nằm trên đường Trần Phú, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.
Những hiện vật đặc sắc trong bảo tàng gồm có kiến trúc đình làng, bộ sưu tập
đá Phùng Nguyên; đồ sành, gốm thời Trần, Lê được tìm thấy ở Trường Sa; tín
ngưỡng thờ cúng Hùng Vương; văn hóa Gò Mun; bộ sưu tập công cụ cuội văn hóa
Sơn Vi...
Các hiện vật được trưng bày của Bảo tàng Hùng Vương bao gồm 3 phần:
- Phần 1: Trưng bày cố định, có 49 cụm mỹ thuật theo 5 chủ đề: Thiên nhiên,
con người Phú Thọ; Phú Thọ thời kỳ tiền sử và sơ sử; Phú Thọ trong thời kỳ Bắc
thuộc và xây dựng quốc gia phong kiến tự chủ; Lịch sử chống ngoại xâm của nhân
dân Phú Thọ và Phú Thọ trong công cuộc đổi mới từ năm 1986 đến nay.
- Phần 2: Trưng bày chuyên đề. Đây là phần trưng bày có tính chất động, theo
chuyên đề gắn liền với những yêu cầu của nhiệm vụ chính trị.
- Phần 3: Trưng bày ngoài trời. Khu vực này trưng bày cố định các hiện vật có
kích thước lớn như xe tăng của Pháp; tàu chiến của Pháp trong chiến thắng Tu Vũ Đá Chông; máy bay… và những đề tài có tính chất minh hoạ như trưng bày dân tộc
học, khảo cổ học và lịch sử cách mạng.
Bảo tàng có ý nghĩa lịch sử quan trọng. Bảo tàng tổng hợp mang tính chất đặc
trưng của bảo tàng khảo cứu địa phương nhằm giới thiệu về lịch sử Phú Thọ từ thời
khai sơn lập địa, dựng nước của thời đại các vua Hùng cho tới thời đại Hồ Chí
Minh thông qua các bộ sưu tập, tài liệu, hiện vật quý hiếm. Qua đó tái hiện không
gian địa văn hóa hào hùng, vẻ vang của đất nước trên đất Tổ.
Đền Hùng được xây vào thế kỷ 15, tương truyền nơi đây người con trưởng của
Lạc Long Quân và Âu Cơ lên làm vua lấy hiệu Hùng Vương, đặt tên nước là Văn
Lang. Đền Hùng được Bộ Văn hóa thông tin xếp hạng là khu di tích đặc biệt của
quốc gia vào năm 1962. Đến năm 1967, Chính phủ Việt Nam đã quyết định khoanh
vùng xây dựng khu vùng cấm Đền Hùng. Ngày 8 tháng 2 năm 1994, Thủ tướng
Chính Phủ Việt Nam đã phê duyệt dự án quy hoạch tổng thể khu di tích lich sử
Đền Hùng lần thứ nhất, tạo tiền đề cho việc đầu tư xây dựng nhiều công trình hạng
mục trong khu di tích. Ngày 6 tháng 1 năm 2001, Chính Phủ Việt Nam ban hành
Nghị định số 82/2001/NĐ-CP, quy định về quy mô, nghi lễ tổ chức giỗ tổ Hùng
Vương và lễ hội Đền Hùng hằng năm. Đã là người con của đất Việt thì không ai
không nhớ ngày 10 tháng 3 âm lịch hằng năm - ngày Quốc lễ, ngày giỗ tổ Hùng
Vương. Ngày 6 tháng 12 năm 2012, UNESCO công nhận Tín ngưỡng thờ cúng
Hùng Vương ở Phú Thọ là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại với những yếu
tố đời sống tâm linh của người Việt Nam đã tồn tại từ hang nghìn năm nay, thể hiện
tinh thần đại đoàn kết dân tộc và gắn kết cộng đồng. Tính độc đáo của tín ngưỡng
này thể hiện rất rõ ở yếu tố thờ Hùng Vương chính là thờ Quốc Tổ. Đây là hiện
tượng văn hóa không phải dân tộc nào cũng có và chúng ta cần phải tự hào vì đều
đó.
Để chuyến tham quan được diễn ra an toàn và vui vẻ, tôi xin lưu ý với quý thầy
cô 1 số điều sau: Chúng ta di chuyển nhẹ nhàng nhẹ, nói khẽ khi đi vào các lăng
tẩm vua Hùng và các chùa đền linh thiêng. Không nên chụp ảnh trong và trước cửa
Đền, chùa. Không nên tách đoàn. Và đặc biệt là vứt rác đúng nơi quy định, không
thả tiền lẻ bừa bãi,…
Chúng ta sẽ có 3 tiếng để tham quan khu di tích. Bây giờ là 9 giờ và đúng 12
giờ chúng ta sẽ tập trung trước cổng đền. Và bây giờ xin mời quý thầy cô tham
quan đền Hùng.
1. Thuyết minh chi tiết
(1)
Cổng chính
Được xây dựng vào năm Khải Định thứ 2 (1917). Cổng xây kiểu vòm cuốn cao
8,5m, hai tầng 8 mái, lợp giả ngói ống. Tầng dưới có một cửa vòm cuốn lớn, đầu
cột trụ cổng tầng trên có cửa vòm nhỏ hơn, 4 góc tầng mái trang trí Rồng, đắp nổi
hai con Nghê. Giữa cột trụ và cổng đắp nổi phù điêu hai võ sỹ, một người cầm
giáo, một người cầm rìu chiến, mặc áo giáp, ngực trang trí hổ phù. Giữa tầng một
có đề bức đại tự: “Cao sơn cảnh hành” (lên núi cao nhìn xa rộng). Còn có người
dịch là “Cao sơn cảnh hạnh” (Đức lớn như núi cao). Mặt sau cổng đắp hai con hổ
là hiện thân vật canh giữ thần.
(2)
Đền Hạ
Ngay chân Đền Hạ là nhà bia với kiến trúc hình lục giác, có 6 mái. Trên đỉnh
có đắp hình nậm rượu, 6 mái được lợp bằng gạch bìa bên trong, bên ngoài láng xi
măng, có 6 cột bằng gạch xây tròn, dưới chân có lan can. Trong nhà bia trước đây
đặt tấm bia ghi lại việc tu sửa đường lên núi Hùng, hiện nay đặt bia đá, nội dung
ghi lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người về thăm Đền Hùng ngày
19/9/1945: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước Bác cháu ta phải cùng nhau giữ
lấy nước”
Được xây dựng vào thế kỷ XVII - XVIII. Kiến trúc kiểu chữ nhị (=) gồm Tiền
bái và Hậu cung, mỗi toà ba gian, cách nhau 1,5m, kiến trúc đơn sơ, kèo cầu suốt,
bẩy gối vào đầu kèo làm cho mái sau dài hơn mái trước. Đốc xây liền tường với
đốc hậu cung, hai bên đắp phù điêu, một bên voi, một bên ngựa. Bờ nóc phẳng,
không trang trí, mái lợp ngói mũi, địa phương gọi là ngói mũi lợn.
Tương truyền rằng nơi đây, mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng, sau nở thành
trăm người con trai, nguồn gốc của cộng đồng người Việt, nghĩa “đồng bào” (cùng
bọc) được bắt nguồn từ đây.. Khi các con khôn lớn cha Lạc Long Quân mang theo
50 người con về vùng biển quai đê lấn biển, mở mang bờ cõi. Mẹ Âu Cơ mang
theo 49 người con ngược lên vùng núi, trồng dâu, chăn tằm, dệt vải, xây dựng cuộc
sống. Người con trưởng ở lại làm Vua, cha truyền con nối 18 đời đều gọi là Hùng
Vương.
Chùa Thiên Quang Thiền Tự
Chùa Thiên Quang nằm xen giữa các ngôi đền thờ Tổ trong Khu di tích lịch sử
Đền Hùng, được xây kế bên Đền Hạ, ở độ cao 80m. . . Hàng năm nhân dân ở khắp
mọi miền đất nước về với Đền Hùng dâng hương viếng Tổ đều không quên cắm
hoa lễ Phật.
Chùa xưa có tên gọi là ” Viễn Sơn Cổ Tự ” sau đổi thành ” Thiên Quang Thiền
Tự “. Chùa được xây dựng vào thời Trần. Đến thế kỷ XV xây dựng lại, thời
Nguyễn chùa được đại trùng tu. Hiện nay chùa có kiến trúc kiểu chữ công (I) gồm
ba tòa Tiền đường (5 gian), Tam bảo (3 gian) và Thượng điện (3 gian) các tòa được
làm theo kiểu cột trụ, quá giang gối đầu vào cột, kèo suốt cài nóc. Phía ngoài có
hành lang xây xung quanh, nhà Tổ ở phía sau. Mái chùa lợp ngói mũi có đầu đao
cong, bờ nóc đắp hình lưỡng long chầu nguyệt. Trước sân chùa có hai tháp sư hình
trụ 4 tầng; một gác chuông được xây dựng vào thế kỷ XVII gồm ba gian, hai tầng
mái. Trên gác chuông có treo quả chuông, không ghi niên đại đúc chuông mà chỉ
ghi: “Đại Việt quốc, Sơn Tây dạo Lâm Thao phủ, Sơn Vi huyện, Hy Cương xã, Cổ
Tích thôn cư phụng”. Qua đó có thể đoán quả chuông được đúc thời Hậu Lê.
Trước cửa chùa có cây Vạn tuế có tuổi gần tám trăm năm. Nơi đây ngày
19/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh trước khi về tiếp quản thủ đô Hà Nội, Bác đã
ngồi làm việc bên gốc cây Vạn Tuế.
Trước sân chùa có 2 tháp sư hình trụ, 4 tầng. Lòng tháp xây rồng, đỉnh đắp hoa
sen. Trong tháp có bát hương và một tấm bia đá (0,3m x 0,5m) nội dung ghi về các
vị Hòa thượng đã tu hành và viên tịch tại đây. Gác chuông còn được gọi là Tam
quan (cổng chùa) nằm thẳng trước cổng chùa. Được xây dựng vào thế kỷ XVII,
gồm 3 gian, 2 tầng mái, 4 vì kèo cột kiểu chồng gường kết hợp với bẩy kẻ. Đây là
công trình kiến trúc cổ duy nhất còn tồn tại trong Khu di tích lịch sử Đền Hùng.
Trong chùa có trên 30 pho tượng: Tam thế, A Di Đà, Quan Âm Nam Hải, Quan
Âm Tống Tử, Đức Thánh Hiền, Hộ pháp… được bài trí trang nghiêm. Tháng 9
năm 1954, khi về thăm Đền Hùng, tại chùa Thiên Quang, Bác Hồ đã ngồi nghỉ bên
gốc cây thiên tuế, sau đó, gặp gỡ và nói chuyện với cán bộ và chiến sỹ Đại đoàn
Quân Tiên phong chuẩn bị về tiếp quản thủ đô Hà Nội với lời căn dặn: “Các vua
Hùng đã có công dựng nước Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
(3)
Đền Trung
Từ đền Hạ leo thêm 168 bậc đá nữa là tới đền Trung.Đền Trung còn có tên gọi
là Hùng Vương Tổ miếu, xây dựng vào thời Lý – Trần, cấu trúc hình chữ Nhất đơn
sơ, không có cột, kèo cầu quá giang, cột trốn gối vào tường, mái lợp ngói mũ. Đền
Trung được xây sớm nhất trên núi Nghĩa Lĩnh, nằm trên núi Nghĩa Lĩnh, được xây
theo kiểu hình chữ nhất, có 3 gian, quay về hướng Nam, dài 7,2m, rộng 3,7m; mái
hiên cao 1,8m. Bộ vì kiểu kèo cầu quá giang gối vào tường, phía trước mở 3
cửa.Đến thế kỷ XVII được xây dựng lại như kiểu dáng hiện nay.
Tương truyền là nơi các Vua Hùng cùng Lạc Hầu, Lạc Tướng ngắm cảnh và
họp bàn việc nước. Cũng chính tại nơi đây, vua Hùng đã trao ngôi báu cho hoàng
tử Lang Liêu, người con đã tạo nên bánh chưng - bánh dầy.
(4)
Đền Thượng
Đây là ngôi đền cao nhất và là ngôi đền chính trong số những đền ở đây. Do
đó, tại nơi này, thường thì sẽ có một vị lãnh đạo đại diện cho nhân dân cả nước
phát biểu cảm ơn những gì mà ông cha ra đã để lại, sau đó sẽ hứa cố gắng hơn cho
những năm sau, cầu mong sự an lành và kinh tế đất nước phát triển. Thường thì
nghi lễ này sẽ được báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng theo dõi và
phát lại trực tiếp để cho dân chúng cả nước cùng nhau theo dõi. Tất cả mọi người
lúc này, ai nấy đều nói thầm những lời nguyện cầu từ trong trái tim của mình,
mong nhận được sự phù hộ bình an của tất cả thần linh dành cho con cháu.
Đền thượng đến thế kỷ XV được xây dựng quy mô, vào thời Nguyễn triều đình
cấp tiền, cử quan về giám sát việc đại trùng tu.
Hiện nay đền có kiến trúc kiểu chữ Vương, được xây dựng 4 cấp: Nhà chuông
trống, Đại bái, Tiền tế và Hậu cung.
Ngày 18/9/1962 Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Đền Hùng, người đã nghỉ trưa
ở cửa ngách Đông Nam đền Thượng trước khi về Bác căn dặn phải trồng cây cối.
Xây dựng Đền Hùng thành công viên lịch sử cho con cháu sau này thăm viếng.
Tục truyền đây là nơi vua Hùng thứ 6 lập đàn cầu trời ban cho người tài ra giúp
nước đánh giặc Ân. Sau khi Thánh Gióng đánh tan giặc và bay về trời, vua Hùng
cho lập đền thờ vọng trên đỉnh núi, về sau, nhân dân đặt thêm bài vị vua Hùng vào
thờ cúng.
Có tên chữ là Kính thiên lĩnh điện (Điện thờ trời trên núi Nghĩa Lĩnh). Tương
truyền các vua Hùng thường lên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh để tiến hành nghi lễ tín
ngưỡng của cư dân nông nghiệp thờ trời đất, thờ Thần lúa cầu mong cho mùa màng
tốt tươi, nhân khang vật thịnh. Trên đỉnh núi Hùng xưa có mảnh vỏ chấu khổng lồ,
có chiếc thuyền nan ba cắng gắn với truyền thuyết về hạt lúa thần, phản ánh mơ
ước về cuộc sống ấm no.
Truyền thuyết kể rằng vua Hùng thứ 6 sau chiến thắng giặc Ân đã lập miếu thờ
Thánh Gióng để ghi nhớ công ơn người anh hùng đã đánh giặc cứu nước.
Người đời sau, biết ơn các vua Hùng nhân dân ta đã lập đền thờ Hùng Vương.
Lăng Hùng Vương
Lăng Hùng Vương, toạ lạc trong khu di tích lịch sử Đền Hùng thuộc xã Hy
Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ.
Tương truyền, đây là mộ của vua Hùng Vương thứ 6. Trước khi mất người có
dặn: "Hãy chôn ta trên núi Cả để đứng trên núi cao ta còn trông nom bờ cõi cho
con cháu". Lăng mộ nằm ở phía đông đền Thượng. Vị trí đầu đội sơn, chân đạp
thuỷ, mặt quay theo hướng Đông Nam. Xưa kia, đây là một ngôi mộ đất, vào năm
1870, thời vua Tự Đức năm thứ 27, đã cho xây mộ dựng lăng. Đến năm 1922, đời
vua Khải Định thì được trùng tu lại.
Lăng hình vuông, cột liền tường,có đao cong 8 góc, tạo thành 2 tầng mái. Tầng
dưới, 4 góc đắp 4 con rồng tư thế bò, tầng trên đắp rồng uốn ngược, đỉnh lăng đắp
hình “quả ngọc” theo tích “cửu long tranh châu”. Mái đắp ngói ống, cổ diêm, 3
phía đều đắp mặt hổ phù. Ba mặt Tây, Đông, Nam đều có cửa vòm, 2 bên cửa đều
đắp kỳ lân, xung quanh có tường bao quanh, trang trí hoa, chất liệu bằng đá. Trong
lăng có mộ Vua Hùng. Mộ xây hình hộp chữ nhật dài 1,3m, rộng 1,8m, cao 1,0m.
Mộ có mái mui luyện. Phía trong lăng có bia đá ghi: Biểu chính (lăng chính). Phía
trên ba mặt lăng đều có đề: Hùng Vương lăng (Lăng Hùng Vương).
(5)
Đền Giếng
Từ lăng vua Hùng đi xuống, đền Giếng ở chân núi phía Ðông Nam. Trong đền
có giếng Ngọc, bốn mùa đầy nước, trong vắt soi gương được. Ðền thờ Ngọc Hoa
và Tiên Dung công chúa là con gái yêu của vua Hùng thứ 18 thường hay chải tóc
và soi gương ở giếng này.
Theo truyền thuyết, giếng Ngọc hình thành từ thời vua Hùng Vương 18. Thời
đó, nơi này chỉ là một vũng nước trong. Một lần, khi vua cùng các vị đại thần lên
núi Nghĩa Linh làm lễ tế đất trời thì các công chúa đi ngắm cảnh. Khi đến vũng
nước trong tại phía Đông Nam núi Nghĩa Lĩnh, hai công chúa Tiên Dung và Ngọc
Hoa đã dừng lại bên vũng nước, ngắm dung nhan mình trên mặt nước trong veo.
Hai nàng đã uống nước từ vũng và khen nước rất ngọt và mát. Từ đó, vũng nước
trong này trở thành nơi hai nàng công chúa đến thưởng ngọan, soi mặt .Vào thế kỷ
18, đền Giếng được xây dựng, vũng nước trong veo không bao giờ cạn nước ấy
được xây thành một cái giếng như bây giờ và được gọi là giếng Ngọc. Do địa hình
nên giếng Ngọc là nơi tụ về của nước mưa, dưới đáy giếng là đá cứng và sỏi nhỏ
khiến nước giếng quanh năm trong vắt. Đến giếng Ngọc, du khách thường được
người giữ đền múc nước mời uống.
Ngay chân đền Hạ là nhà bia, với kiến trúc hình lục giác, xây dựng năm 1917,
trên đỉnh có đắp hình nậm rượu, 6 mái được lợp bằng gạch bìa bên trong, bên
ngoài láng xi măng, có 6 cột bằng gạch xây tròn, dưới chân có lan can. Trong nhà
bia hiện nay đặt một bia đá, nội dung ghi lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi
Người về thăm đền Hùng ngày 19/9/1954 và nói chuyên với Trung đoàn Thủ Đô :
“Các Vua Hùng đã có công dựng nước,
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”
A. Kết thúc
Thưa các thầy, cô, vừa rồi chúng ta đã tham quan và tìm hiểu sâu hơn về lịch
sử, kiến trúc của 4 ngôi đền: đền Hạ, đền Trung, đền Thượng và đền Giếng. Ngoài
ra, có bảo tàng Hùng Vương, nhà bia, chùa Thiên Quang , lăng Hùng Vương… Hi
vọng các thầy, cô đã có được những điều đặc biệt cho mình tại khu di tích.
Thay mặt công ty du lịch Group 1 gửi lại lời cảm ơn chân thành. Chúc các thầy,
các cô Trường Thương mại ta luôn luôn có sức khỏe để công tác tốt và tham quan
được nhiều điểm du lịch hơn nữa cùng công ty Group 1. Một lần nữa xin cám ơn
và hẹn gặp lại!
PHẦN 3: GIẢ ĐỊNH MỘT SỐ CÂU HỎI CỦA KDL VÀ PHƯƠNG ÁN TRẢ
LỜI
Thời gian: giây
00:00 – 00.22: Giới thiệu chung
00:23 – 00:37: Bảo tàng
00:38 – 00:44: Lịch sử KDT
00:45 – 00:59: Lưu ý với khách
01:00 – 01:43: Cổng chính
01:44–02:15: Đền Hạ - Nhà bia
02:16 – 02:25: Chùa Thiên Quang
02:26 – 02:38: Đền Hạ
02:39 – 03:21: Đền Trung
03:22 – 04:00: Đền Thượng
04:01 – 05:09: Lăng Vua Hùng
05:10 – 05:37: Đền Giếng
05:38 – 05:58: Bia
05:59 – 06:06: Kết thúc