Tìm hiểu và cảm nhận về bài thơ “Cảm hoài” của Đặng Dung
I-Thời đại
Cuối thế kỷ XIV nhà Trần suy vong. Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần lập nên triều đại
mới.
Quân Minh mượn danh nghĩa điếu phạt họ Hồ, giúp nhà Trần phục hưng nhưng thực chất
là đến cướp nước ta. Sau khi thôn tính An Nam chúng thi hành nhiều chính sách nham hiểm, tàn
độc nhằm xoá sổ vùng đất này.
Tuy nước nhà rơi vào tay giặc nhưng con cháu nhà Trần vẫn hừng hực ý chí khôi phục
nghiệp cũ, cộng thêm dân ta không cam chịu làm nô lệ giặc Tàu nên thời Hậu Trần lại hưng khởi.
Sau vì vua tôi bất đồng, Giản Định đế nghe lời xàm tấu đã giết chết hai tướng giỏi là Đặng Tất và
Nguyễn Cảnh Chân, từ đó lòng người hoang mang, thế quân ta ngày càng suy yếu. Việc dựng lại
nghiệp cũ của con cháu xem như thất vọng.
II-Chiến sĩ-nhà thơ Đặng Dung
Đặng Dung là con của một danh tướng thời Trần tên là Đặng Tất. Từ nhỏ ông đã được
cha dạy dỗ để trở thành một vị anh hùng trung quân ái quốc. Lớn lên, ông nối nghiệp cha trở
thành một tướng giỏi thời Hậu Trần. Sau khi cha bị giết oan, Đặng Dung ôm mối hận giết cha
Cảm Hoài - Đặng Dungnhận thấy Giản Định đế là một kẻ kém tài nhưng vì nợ nước chưa trả nên
ông đã gác lại thù nhà và đưa Trần Quý Khoách lên làm vua, tôn Giảng Định đế làm thái thượng
hoàng hết lòng giúp vua đánh giặc. Mặc dù tướng Đặng Dung và binh sĩ có ý chí ngất trời giành
lại độc lập nhưng vì thế địch và ta chênh lệch nên cuối cùng ông thất thủ và bị bắt giải sang
Trung Quốc, dọc đường ông đã nhảy sông tự tử. Cũng chính trong giai đoạn cuối của cuộc chiến
ác liệt ấy, Đặng Dung đã sáng tác bài thơ “Cảm hoài”, một tuyệt tác có một không hai ngàn đời
còn lưu dấu.
Trong toàn Việt Thi Lục của Lê Quí Đôn (1726 - 1784) thì nhà bác học này chép lại và
ghi lại tên của bài thơ là “Thuật hoài”. Nhưng theo nguyên tắc của văn học sử thì bài thơ trên bắt
buộc phải gọi là “Cảm hoài” tên thương hiệu của nó, một danh tác mang dấu ấn Đặng Dung. Tên
“Cảm hoài” đã được Lý Tử Tấn đời vua Lê Thánh Tông chép lại và công bố trước tiên (theo
Laiquangnam giới thiệu thi nhân tráng sĩ Đặng Dung). Vậy nên tôi xin lấy tên “Cảm hoài” dùng
xuyên suốt trong bài cảm nhận của mình về tuyệt tác có một không hai của chiến sĩ - nhà thơ
Đặng Dung.
III-bài thơ “Cảm hoài”
Nguyên tác
Thế sự du du nại lão hà!
Dịch nghĩa
Thế sự mang mang lại đến tuổi già
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
Thiên hạ thì vô cùng hãy nhập vào mà
hát ca
Thời lai đồ điếu thành công dị,
Thời đến bọn đồ tể , bọn câu cá cũng
thành công dễ dàng
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.
Thời qua anh hùng cũng đành nuốt hận
Trí chúa hữu hoài phù địa trục,
Hết lòng vì chúa có hoài bão xoay trục
đất
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
Rửa giáp binh không lối, kéo ngược dòng
sông ngân hà
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch.
Thù nước chưa báo thì đầu bạc trước
Kỷ độ Long Tuyền đái nguyệt ma!
Bao thời qua đội trăng mà mài kiếm long
tuyền .
Lại Quang Nam
Đặng Dung
Dịch thơ 1:
Dịch thơ 2:
Việc đời bối rối tuổi già vay,
Thế cuộc mênh mang tuổi sớm già,
Trời đất vô cùng một cuộc say.
Đất trời thu lại chỉ say ca,
Bần tiện gặp thời lên cũng dễ,
Gặp thời đồ điếu thành công dễ
Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay.
Lỡ vận anh hùng nuốt hận đa.
Vai khiêng trái đất mong phò chúa,
Giúp chúa những mong nâng địa
trục,
Giáp gột sông trời khó vạch mây.
Rửa binh không lối kéo thiên hà.
Thù trả chưa xong đầu đã bạc,
Quốc thù chưa trả đầu mau bạc,
Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày.
Phan Kế Bính
Bao độ mài gươm dưới nguyệt tà.
Vũ Hải Tiêu
1-Giảng nghĩa từ
Du du: mang mang, dằng dặc, thăm thẳm…
Thế sự du du: ý nói việc đời còn rối ren, đất nước trong tay giặc.
Nại lão hà: tuổi già lại đến lúc không mong muốn.
Hàm ca(hàm:vui, miệt mài):khúc ca vui ngạo nghễ, không thẹn với đất trời.
Đồ(làm thịt súc vật) là đồ tể, chỉ Phàn Khoái, một tên bán thịt về sau gặp thời trở thành
chiến hữu của Hán Lưu Bang.
Điếu(câu, người câu cá): chỉ Hàn Tín, đại tướng của Lưu Bang. Hai tên Phàn Khoái và
Hàn Tín đều xuất thân bần hàn, gặp thời nên phú quý, Đặng Dung cho đó là bình thường.
Vận khứ: qua thời, nói nhà Trần hết thời, người anh hùng không gặp thời.
Anh hùng: người hào kiệt xuất chúng.
Ẩm hận(ẩm:nuốt): nuốt hận.
Trí chúa(trí:suy tìm đến chỗ cùng cực, rất, tất cả..): một lòng quyết tâm phò vua cứu
quốc.
Địa trục: trục trái đất.
Tẩy binh(tẩy:rửa sạch): lấy điển từ bài thơ “Tẩy binh mã” của Đỗ Phủ:An đắc tráng sĩ
vãn thiên hà(yên được tráng sĩ kéo được sông ngân hà)/tẩy giáp binh trường bất dụng(tẩy
sạch giáp binh dài lâu không dùng tới nữa).
Quốc thù:thù nước.
Vị báo: chưa báo.
Đầu tiên bạch(đầu đã bạc): lấy điển cố từ Ngũ Tử Tư thời Đông Châu một đêm chờ qua
lọt cửa thành đầu bạc trắng.
Kỷ độ: đã bao lần.
Long tuyền: tên một thanh gươm, tương truyền nước Sở có suối Long Tuyền tôi thép làm
kiếm sắc, về sau long tuyền chỉ bảo kiếm nói chung.
Đái: đội,
Đái nguyệt ma: đội trăng mài…
Ma: mài, ma sát.
2-Cảm nhận về tác phẩm
Trong những ngày tháng cuối cùng của cuộc chiến chống giặc Minh, Đặng Dung
đã để lại cho hậu thế một tuyệt phẩm thơ mang tên “Cảm hoài’’xứng danh là thiên hạ dệ
nhất thi. Bài thơ là tinh thần hùng tâm tráng chí của một hào kiệt xuất chúng tuy không
gặp thời vận nhưng với sĩ khí hiên ngang cùng lòng yêu nước sâu đậm ông xứng đáng là
tấm gương để con cháu ngàn đời noi theo.
Nhận xét về bài thơ “Cảm hoài” của anh hùng thi sĩ Đặng Dung, Lý Tử Tấn, một
nhà phê bình đầu đời Lê có câu “không phải bậc hào kiệt thì không làm được”. Có lẽ Lý
Tử Tấn đã gián tiếp xác nhận sự thống nhất giữa bậc hào kiệt, anh hùng cứu nước và nhà
thơ yêu nước hội tụ trong con người Đặng Dung. Quả thật những lời ca ngợi ấy không
ngoa. Bởi ta không thể phủ nhận Đặng Dung là một vị tướng tài với ý chí sắt thép, quyết
tâm phò chúa dù trong hoàn cảnh vô cùng bất lợi khó khăn. Thế giặc binh hùng tướng
mạnh, quân ta thì khó khăn về mọi mặt, ấy thế mà vị chí sĩ ấy vẫn hiên ngang sừng sững
với hoài bảo lớn, sôi sục ý chí căm hờn lãnh binh chiến đấu giành lại non sông. Ta lại
càng không thể phủ nhận tài năng thơ ca của một đấng anh tài, chỉ trong vòng vỏn vẹn
tám câu thơ bảy chữ tác giả đã thâu tóm được thời cuộc, truyền tải được nỗi lòng thương
cảm của một con người lực bất tòng tâm trước thời vận, trước thế sự trái ngang.
Bốn câu đầu của bài thơ là tâm trạng bất khả kháng của tác giả trước cuộc đời
trước thời cuộc nhưng ánh lên trong ấy là một tâm hồn của kẻ sỉ đầy trắc ẩn vẫn mong
cống hiến được nhiều hơn trong cuộc sống.
“Thế sự du du nại lão hà
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca
Thời lai đồ điếu thành công dị
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa…”
Câu đầu tiên thi nhân cất lên là lời cam chịu trước tạo hóa : Thế sự du du nại lão
hà, du du là mang mang, nại lão hà là tuổi già lại đến, cả câu muốn nói việc trên đời còn
rối ren, bề bộn chờ kẻ sỉ giải quyết thế nhưng tuổi già lại đến. Người anh hùng không
ngăn được dòng chảy của thời gian.
Sự ưu tư về thời gian và tuổi tác xưa nay vẫn là dấu hỏi lớn còn bỏ dở của nhiều
thi sĩ. Bởi họ vẫn biết thời gian trôi đó, sự đời biến đổi vô thường nhưng hỡi ôi đời người
hữu hạn có mấy ai được toại nguyện, thỏa lòng trong cái thuở bình sinh. Đặng Dung cũng
thế, đứng trước sự hữu hạn của đời người mà sự đời lại mang mang vô tận luôn thách
thức chí làm trai thỏa vọng tung hoành. Lúc bấy giờ nước ta rơi vào tay giặc Tàu hung
hiểm, hàng vạn dân đen vô tội vẫn chờ bậc hào kiệt xuất chúng đòi lại cho họ cuộc sống
bình yên. Đứng trước vận nước đau lòng, thù nhà chưa trả, nỗi sầu giăng như tơ rối trong
lòng Đặng Dung. Người anh hùng ấy cần nhiều hơn thời gian để chí làm trai, để tài năng
được dụng mà cứu lấy giang sơn. Nhưng thật tiếc thay tuổi già đến, sự giới hạn của tuổi
xuân như chiếc lồng khóa chặt tâm tư người chiến sĩ.
Để rồi từ sự bất lực trước dòng chảy của thời gian người anh hùng ấy chẳng thẹn
với lòng vì đã hết sức dốc tâm vì nghiệp lớn, nên cả trời đất này ông chỉ còn mong thâu
tóm mà hát khúc ca đẹp nhất.
“Vô cùng thiên địa nhập hàm ca”
Hàm ca là một khúc ca sảng khoái, một khúc ca dâng tràn tiếng reo vui với cuộc
sống. Nhà thơ muốn thâu tóm cả đất trời(vô cùng thiên địa) để đưa vào khúc hát ngân
vang trong cuộc đời của mình. Một cuộc đời không hoài phí, không hỗ thẹn, sống vì nước
vì dân thì đến cuối đời những gì vị danh tướng đã làm sẽ là một khúc ca tuyệt mỹ trong
trời đất. Đặng Dung quả là một con người làm nên lịch sử mà giọng nói vẫn còn âm vang
đặc mùi tráng sĩ.
Hai câu đề vừa cất lên làm ta thấy rõ sự đối lập giữa cái hữu hạn của đời
người(nại lão hà) và cái vô tận của đất trời(vô cùng thiên địa). Tuy đối lập nhưng hai bình
diện này không triệt tiêu nhau mà chúng lại góp phần làm nổi bật lên một con người với
lý tưởng bất tử mang tên Đăng Dung. Con người vốn không có ai sống thiên thu vậy thì
hà tất câu nệ đến tuổi già hay sức trẻ, mà hãy như thi nhân, thâu tóm đất trời để hát khúc
vang ca, sống cống hiến hết mình vì chính đạo thế đã là xuất chúng.
Đến hai câu thực nhà thơ lại làm bật lên hai chữ thời vận để thấy được người
thành chẳng nên gọi anh hùng, kẻ bại không nên gán nghĩa tiểu nhân mà người anh hùng
thật sự là người đầu đội trời, chân đạp đất, sống vì nghĩa lớn.
“…Thời lai đồ điếu thành công dị
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa…”
Vân Trình dịch :
“Gặp thời bần tiện thành công dễ
Lỡ bước anh hùng dạ xót xa”
Khi gặp thời thế dù là xuất thân bần hàn vẫn có cơ hội tiến thân, còn người anh
hùng nếu không gặp thời đành phải ngậm đắng mà cam chịu. Hai câu thơ mà Vân Trình
đã dịch hay ở chổ làm rõ được cái ý thâm sâu mà tiền nhân muốn tải trong thơ nhưng nếu
so với nguyên tác thì e rằng cái tinh thâm còn kém. Trong nguyên tác Đặng Dung có nhắc
đến hai từ “đồ điếu” cũng chính là hai nhân vật anh hùng của Trung Quốc. Đồ là động từ
chỉ sự mổ xẻ, giết gia súc, trong câu muốn ám chỉ tên đồ tể là Phàn Khoái. Người này là
một chiến hữu của Hán Lưu Bang. Điếu là người đi câu cá, chỉ Hàn Tín – một vị tướng
giỏi của Lưu Bang. Cả hai người họ đều xuất thân bần hàn nhưng vì gặp vận nên đổi đời
thành anh hùng. Đặng Dung ngẫm thấy xót xa, Hàn Tín và Phàn Khoái gặp thời nên hào
kiệt, phần mình dù có tài năng để mưu toan việc lớn nhưng gặp khi lở vận phải đành cam
nuốt đắng cay.
Tuy nghiệp lớn không thành nhưng vị chí sĩ Đặng Dung vẫn xứng đáng là một
bậc anh hùng trong thiên hạ. Bởi khi đặt tiêu chuẩn cho một người anh hùng Đào Duy Từ
từng khẳng định “chớ đem thành bại luận anh hùng”. Hay Nguyễn Hữu Thuận cũng có
câu :
“Anh hùng mặc bá danh du luận
Vũ trụ trường khang tiết nghĩa lưu”
Nguyễn Duy Nhường dịch như sau:
“Anh hùng có sá chi thua được
Tiết nghĩa nào phai với đất trời”
Trọng anh hùng là trọng chỗ tiết nghĩa, trung kiên. Nhớ khi xưa nhà Trần suy sụp,
Đặng Dung vẫn hết lòng phò vua dựng lại nghiệp cũ, đứng trước vận thế bất lợi nhưng sĩ
khí của người anh hùng vẫn hiên ngang. Đến khi bị giặc bắt ông thà tự tử để giữ khí tiết
đến cùng quyết không để bọn sói lang giày xéo. Vậy nên so với Phàn Khoái và Hàn Tín
thì vị anh hùng của chúng ta không tỏ ra thua kém mà còn có phần nổi bậc.
Sự hiên ngang, trung can nghĩa đảm của người anh hùng thi sĩ càng được khẳng
định qua hai câu luận :
“…Trí chúa hữu hoài phù địa trục
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà…”
Trí chúa là hết lòng phò vua, ý câu thứ nhất muốn nói hết lòng phò vua những
mong xoay được trục trái đất. Hình ảnh nâng trục đất được hiểu theo nghĩa biểu tượng ý
nói nâng đỡ giang sơn dựng lại nước nhà đang trong tay giặc Minh. Đó là ước mơ, hoài
bảo lớn nhất của cuộc đời người tráng sĩ, nó phù hợp với chí làm trai, bậc đại trượng phu
phải có trách nhiệm với non sông gấm vóc, người con trai sinh ra là phải trả nợ tang
bồng. Câu thơ lại một lần nữa tô đậm hình ảnh của một hào kiệt hiếm có trên đời, lấy
hạnh phúc của dân, bình yên của tổ quốc làm lẽ sống cho mình.
Người tráng sĩ ấy mang trong tim một tấm lòng bao dung, độ lượng luôn nghĩ cho
quốc gia, dân tộc đễ rồi trong con người ấy ánh lên một khao khát là mang lại hòa bình
cho đất nước.
“Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà”
Tẩy binh là rửa giáp binh. Câu thơ lấy điển từ bài thơ “Tẩy binh mã” của Đỗ Phủ :
“An đắc tráng sĩ vãn thiên hà
Tịnh tẩy giáp binh trường bất dụng”
Tạm dịch :
Yên được tráng sĩ kéo được sông Ngân Hà
Tẩy sạch giáp binh từ lâu không dùng tới nữa.
Tuy lấy điển từ bài Tẩy binh mã nhưng câu thơ của Đặng Dung lại mang một thần
thái vô trùng lặp. Đỗ Phủ thì mong tẩy binh gác kiếm không dụng nữa nhưng với Đặng
Dung tẩy binh là để chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa giành độc lập, tẩy binh xuất trận cốt
không phải gây chiến mà để mang về cho dân tộc nền độc lập, chủ quyền, niềm vui và
bình yên thật sự. Bởi trong tay giặc Tàu thì giang sơn cẩm tú của ta khác nào là địa ngục
trần gian.
Nhưng khi thời thế thay đổi thì dù là anh hùng vẫn phải nuốt hận mà cam chịu:
“…Quốc thù vị báo đầu tiên bạch…”
Ý câu thơ nói thù nước (quốc thù) chưa trả (vị báo) đầu đã bạc (đầu tiên bạch).
Với một con người sống với lý tưởng hiên ngang thì trả nợ nước là cái mà con người ấy
luôn ấp ủ. Với Đặng Dung lúc này thì trả thù nước là một mục tiêu lớn nhất, là con đường
duy nhất để khẳng định vị trí của một đấng trượng phu trong trời đất. Với tinh thần thép
của một tướng giỏi thì việc trả quốc thù là điều hiển nhiên, thế nhưng dù cuộc sống
phong trần không làm nhục chí người tráng sĩ thì tuổi xuân ngắn ngủi, tuổi già chóng đến
đã làm người tráng sĩ bất lực trước thế sự trần ai.
Dù tuổi tác không còn cho phép bậc anh tài tung hoành bốn bể, xông pha trận mạc
để cứu nguy cho thiên hạ nhưng ý chí người tráng sĩ mãi không sờn.
“…Kỷ độ long tuyền đái nguyệt ma.”
Câu thơ được dịch nghĩa là bao phen mang gươm giáo ra mài dưới ánh trăng. Tác
giả thật táo bạo khi viết lên câu thơ này với hai hình ảnh đối lập nhau về nghĩa ; mài
gươm là để phục vụ cho chiến tranh, ánh trăng lại là biểu tượng của hòa bình. Vậy mà tác
giả lại mang gươm mài dưới ánh trăng, phải chăng tận sâu trong tâm khảm của mỗi người
dân An Nam hiền hòa đều mơ ước đến một ánh trăng thanh bình để con có cha, vợ có
chồng để cùng nhau vui vầy hạnh phúc. Đến cả khi mài gươm diệt giặc hình ảnh ánh
trăng vẫn ám ảnh bên lòng, nó không làm lòng người yếu đuối mà là một động lực, một
khát khao cháy bỏng có một nền hòa bình thịnh thế làm cho dân giàu nước mạnh. Để rồi
từ đó khát khao sống hạnh phúc, ngày đêm hung đúc cho dân tộc ta một ý chí sắt thép,
một sức mạnh phi thường đủ để nhấn chìm bè lũ cướp nước hung hăng. Câu thơ cuối bài
không chỉ khắc họa được tâm tình của người dân An Nam là chuộng quý hòa bình, mà nó
còn cho thấy rõ một lòng quyết tâm cao độ của vị anh hùng Đặng Dung. Dù là thời vận
không thuận ông, tuổi xuân không đợi ông nhưng trong con người ấy vẫn bùng cháy một
luồn ý chí mãnh liệt khi mà trận chiến ít dần cơ hội thắng lợi nhưng vị tướng tài vẫn nuôi
chí phục thù, đêm đêm “mài kiếm” dưới trăng. Ông không chỉ tự nuôi cho mình quyết
tâm phục quốc mà còn truyền cho hậu nhân hào khí ngất trời, tinh thần yêu nước cao độ
như nhắc nhở họ phải có bổn phận giành lại nước nhà. Tất cả con người Đặng Dung, ý
chí Đặng Dung, tinh thần Đặng Dung vẫn ấp ủ, nuôi dưỡng như một làn sóng cuộn trào,
âm ĩ giữa đại dương chỉ chực sẵn thời cơ đè bẹp lũ giặc Tàu đốn mạt.
Bài thơ kết thúc đã để lại dư ảnh về một Đặng Dung dưới nguyệt mài gươm như
mài cái tâm ngày một sáng, cái tâm ấy cao đẹp thanh nhã xứng đáng là một bậc chí nhân.
Nhìn về trang sử có in dấu son chói lọi mang tên vị anh hùng ấy của dân tộc, con cháu
không khỏi thán phục tài hoa và lí tưởng hiên ngang ấy. Nó góp phần vun đắp cho tình
yêu quê hương, tình yêu nước, lòng tự hào dân tộc của con người Việt Nam trong mọi
thời đại, nhất là trong thời đại hiện nay, thời đại của hội nhập và mở cửa, thêm sáng, thêm
hùng hồn.
Tuy cả cuộc đời anh hùng – nhà thơ Đặng Dung chỉ để lại duy nhất một bài thơ
“Cảm hoài” nhưng nó lại xứng đáng là một thượng phẩm thơ ca vượt thời gian. Bài thơ
làm theo thể thơ đường luật (thất ngôn bát cú) niêm luật chặt chẽ, luật bằng cũng như trắc
đối rất chuẩn, bố cục hợp quy cánh Niêm luật : bằng – trắc. Bài thơ được làm theo luật
trắc do chữ thứ hai của câu thơ thứ nhất là luật trắc nên bài thơ này mang luật trắc tao sự
trầm uất cho tứ thơ bên cạnh đó nhịp thơ lúc trầm lúc bổng. Trong cặp câu đề và thực luật
đối nhau. Chữ thứ hai của câu đề cùng thanh thứ hai của câu thực thứ nhất tạo nên niêm
luật của thơ. Trong thơ dùng rất thạo những điển cố điển tích, dung những hình ảnh, biểu
tượng đạt đến độ chín tuyệt vời. Đúng như một nhà phê bình đầu đời Lê đã khẳng định
“không phải bậc hào kiệt không làm được”, tác phẩm xứng danh là thiên hạ đệ nhất thi.
IV-Tài liệu tham khảo
1. Internet :
- />- />- />2. Việt Nam sử lược.Trần Trọng Kim.nxb Thanh Hóa
3. Đọc văn học văn. Trần Đình Sử. nxb Giáo dục
Người thực hiện : Đặng Hoàng Luôn – DH15NV- Khoa Sư phạm - Đại học An Giang