Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Tiểu luận toàn cầu hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.41 KB, 24 trang )

MỤC LỤC
Đề 1:
Câu 1: Xu thế toàn cầu hóa và những tác động đối với Việt Nam
hiện nay. Liên hệ với bản thân sinh viên
LỜI MỞ ĐẦU
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TOÀN CẦU HÓA
1. Khái quát về toàn cầu hóa.
a. Khái niệm toàn cầu hóa.
b. Lịch sử của toàn cầu hoá.
2. Bản chất của toàn cầu hóa.
3. Ý nghĩa của toàn cầu hóa.
4. Dấu hiệu của toàn cầu hóa
II. CÁC TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU HÓA KINH TẾ
1. Tác động tích cực của toàn cầu hoá kinh tế
2. Tác động tiêu cực của toàn cầu hóa kinh tế
3. Tác động của toàn cầu hóa đối với kinh tế
4. Tác động của toàn cầu hóa đối với chính trị
5. Tác động của toàn cầu hóa đối với văn hóa xã hội và ngôn
ngữ
III. Những tác động của toàn cầu hóa đối với Việt Nam
1. Tác động về kinh tế
2. Tác động về xã hội
3. Tác động về văn hóa
4. Tác động đối với con người
IV. LIÊN HỆ BẢN THÂN
V. KẾT LUẬN
Câu 2: Mối quan hệ giữa quản lý và lãnh đạo. Lấy ví dụ minh
họa
TÀI LIỆU THAM KHẢO



LỜI NÓI ĐẦU
Trong bối cảnh chúng ta đang hội nhập kinh tế thế giới thì quá
trình toàn cầu hóa đã trở thành một xu thế khách quan có ảnh
hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội như chính trị, kinh tế,
văn hóa,… nó vừa là điều kiện, vừa là kết quả cần thiết cho mọi
quá trình phát triển xã hội.
Thế giới hiện nay đang có những biến động không ngừng, nhiều
xu thế đang diễn ra, tạo cho nhân loại những vận hội, nhưng
cũng nhiều thách thức mới. Quá trình toàn cầu hoá đang ngày
càng mạnh mẽ, ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống của các
quốc gia. Trong bối cảnh này, không một quốc gia nào có thể
phát triển nếu đứng ngoài sự phát triển của loài người. Cuộc
cách mạng công nghệ đang ngày càng làm cho đời sống của
loài người nâng cao. Nhân loại đang có những bước tiến dài
đáng kể trên bước đường phát triển của mình. Tuy nhiên nhiều
vấn đề mang tình toàn cầu đang nảy sinh, tác động không nhỏ
đến đới sống quốc tế, sự sống còn của tất cả hết thảy mọi
người, không phân biệt màu da, chủng tộc, tôn giáo, quan điểm
chính trị. Việt Nam chúng ta cũng vậy, con đường hội nhập chủ
động tích cực vào quá trình toàn cầu mà Đảng ta lựa chọn là
con đường đúng đắn, điều đó được chứng minh rất rõ ràng bằng
những gì mà chúng ta đã đạt được trong năm vừa qua. Nhưng
chúng ta cũng nhìn nhận rằng cũng như tất cả các quốc gia
khác, chúng ta cũng phải chịu tác động từ những vấn đề toàn
cầu, những vấn đề này đang gây ra nhiều nhức nhối trong đời
sống xã hội cản trở quá trình phát triển của đất nước
Trước tình hình chung của thế giới, và Việt Nam đang có xu
hướng toàn cầu hóa nên em chọn đề tài: “Xu thế toàn cầu hóa
và tác động đối với Việt nam”.
Mặc dù đã có rất nhiều cố gắng xong vì mới làm quen với hình

thức viết tiểu luận cũng như sự hiểu biết còn hạn chế của một
sinh viên còn đang học tập và nghiên cứu trong nhà trường nên


bài viết này của em không thể tránh được nhiều thiếu xót. Em
rất mong sự giúp đỡ, góp ý và dạy bảo của thầy cô. Qua đây
em xin chân thành cảm ơn thầy Lê Văn Cảnh giảng viên trực
tiếp giảng dạy bộ môn Những vấn đề lớn của thời đại và khoa
học quản lý hiện đại đã hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành
bài tiểu luận này.
Em xin chân thành cảm ơn!
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TOÀN CẦU HÓA
1. Khái quát về toàn cầu hóa.
a. Khái niệm toàn cầu hóa.
- Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong
xã hội và trong nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và
trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc gia, các tổ chức hay các
cá nhân ở góc độ văn hóa, kinh tế, v.v... trên quy mô toàn cầu.
- Toàn cầu hóa là quá trình hình thành một chỉnh thể thống nhất
toàn thế giới, đó là sự ảnh hưởng tác động, xâm nhập lẫn nhau
xuyên biên giới trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã
hội, trước hết và chủ yếu là lĩnh vực kinh tế trên phạm vi toàn
cầu. Toàn cầu hóa được định nghĩa một cách khách quan nhất
là sự phụ thuộc qua lại không ngừng giữa các quốc gia và các
cá nhân. Sự phụ thuộc qua lại có thể xảy ra trên lĩnh vực kinh
tế, công nghệ, môi trường, văn hoá hay xã hội.... Rõ ràng cần
phân biệt toàn cầu hoá kinh tế với khái niệm rộng hơn là toàn
cầu hoá nói chung. Đặc biệt trong phạm vi kinh tế, toàn cầu
hoá hầu như được dùng để chỉ các tác động của thương mại nói
chung và tự do hóa thương mại hay "tự do thương mại" nói

riêng. Cũng ở góc độ kinh tế, người ta chỉ thấy các dòng chảy tư
bản ở quy mô toàn cầu kéo theo các dòng chảy thương mại, kỹ
thuật, công nghệ, thông tin, văn hoá.
b. Lịch sử của toàn cầu hoá.
Toàn cầu hoá, theo nghĩa cổ điển, đã bắt đầu vào khoảng thế kỷ
thứ 15, sau khi có những cuộc thám hiểm hàng hải quy mô lớn.
Cuộc thám hiểm lớn lần đầu tiên vòng quanh thế giới do
Ferdinand Magellan thực hiện vào năm 1522. Cũng như việc
xuất hiện các trục đường trao đổi thương mại giữa châu Âu,
châu Á, châu Phi và châu Mỹ không phải là hiện tượng gần đây.


Ngoài những trao đổi về hàng hoá vật chất, một số giống cây
cũng được đem trồng từ vùng khí hậu này sang vùng khí hậu
khác (chẳng hạn như khoai tây, cà chua và thuốc lá). Thuật ngữ
"tự do hoá" xuất hiện để chỉ sự kết hợp của học thuyết kinh tế
về thị trường tự do tuyệt đối và sự hủy bỏ các rào cản đối với
việc lưu thông hàng hoá. Thời kỳ bắt đầu dùng vàng làm 4 tiêu
chuẩn của hệ thống tiền tệ (bản vị vàng) và tự do hoá trong thế
kỷ thứ 19 thường được chính thức gọi là "thời kỳ đầu của toàn
cầu hoá". "Thời kỳ đầu của toàn cầu hoá" rơi vào thoái trào khi
bắt đầu bước vào Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, và sau đó
sụp đổ hẳn khi xảy ra khủng hoảng bản vị vàng vào cuối những
năm 1920 và đầu những năm 1930. Kể từ Chiến tranh thế giới
lần thứ hai, các Vòng đàm phán thương mại do Hiệp định chung
về thuế quan và thương mại (GATT) khởi xướng, đã đặt lại vấn
đề toàn cầu hoá và từ đó dẫn đến một loạt các hiệp định nhằm
gỡ bỏ các hạn chế đối với "thương mại tự do". Vòng đàm phán
Uruguay đã đề ra hiệp ước thành lập Tổ chức thương mại thế
giới hay WTO, nhằm giải quyết các tranh chấp thương mại. Các

hiệp ước thương mại song phương khác, bao gồm một phần của
Hiệp ước Maastricht của châu Âu và Hiệp ước mậu dịch tự do
Bắc Mỹ (NAFTA) cũng đã được ký kết nhằm mục tiêu giảm bớt
các thuế quan và rào cản thương mại. Từ thập kỷ 1970, các tác
động của thương mại quốc tế ngày càng rõ rệt, cả về mặt tích
cực lẫn tiêu cực.
2. Bản chất của toàn cầu hóa.
- Với tính cách là một xu thế lịch sử, toàn cầu hoá được quyết
định bởi sự phát triển mạnh mẽ, mang tính bước ngoặt của lực
lượng sản xuất trong thời đại cách mạng khoa học công nghệ.
- Toàn cầu hoá vừa mang bản chất khách quan, vừa chứa đựng
tính chất tự do tư bản; vừa tích cực vừa tiêu cực; vừa đem lại
thời cơ, thuận lợi và nguy cơ, thách thức đối với các quốc gia
dân tộc, nhất là các nước kém phát triển và đang phát triển.
- Toàn cầu hoá là một quá trình vừa hợp tác rộng mở, vừa đấu
tranh gay gắt, phức tạp giữa các quốc gia, tập đoàn, cộng
đồng, cá nhân... với nhau.


- Để bảo vệ lợi ích quốc gia trong quá trình tham gia toàn cầu
hoá, các nước trên thế giới đã và đang triển khai mạnh mẽ quá
trình khu vực hoá.
3. Ý nghĩa của toàn cầu hóa.
Thuật ngữ toàn cầu hóa xuất hiện vào những năm 1950, với sự
phổ biến các phương tiện vận tải có động cơ và sự gia tăng các
trao đổi thương mai; và được chính thức sử dụng rộng rãi từ
những năm 1990 của thế kỷ XX. "Toàn cầu hóa" có thể có nghĩa
là:
- Sự hình thành nên một ngôi làng toàn cầu dưới tác động của
những tiến bộ trong lĩnh vực tin học và viễn thông, quan hệ

giữa các khu vực trên thế giới ngày càng gần gũi hơn, cộng với
sự gia tăng không ngừng về các trao đổi ở mức độ cá nhân và
sự hiểu biết lẫn nhau cũng như tình hữu nghị giữa các "công
dân thế giới", dẫn tới một nền văn minh toàn cầu.
- Toàn cầu hoá kinh tế "thương mại tự do" và sự gia tăng về
quan hệ giữa các thành viên của một ngành công nghiệp ở các
khu vực khác nhau trên thế giới (toàn cầu hoá một nền kinh tế)
ảnh hưởng đến chủ quyền quốc gia trong phạm vi kinh tế.
- Tác động tiêu cực của các tập toàn đa quốc gia tìm kiếm lợi
nhuận việc sử dụng các phương tiện luật lệ và tài chính mạnh
mẽ và tinh vi để vượt qua giới hạn của các tiêu chuẩn và luật
pháp địa phương hòng lợi dụng nhân công và dịch vụ của các
vùng phát triển chưa đồng đều lẫn nhau.
- Sự lan rộng của chủ nghĩa tư bản từ các quốc gia phát triển
sang các quốc gia đang phát triển.
- Toàn cầu hóa thúc đẩy mạnh, nhanh sự phát triển đặc biệt là
sự xã hội hóa các lực lượng sản xuất đưa lại sự tăng trưởng kinh
tế cao.
- Toàn cầu hóa thúc đẩy sự tăng trưởng của thương mại thế giới.
- Toàn cầu hóa thúc đẩy tăng trưởng đầu tư trực tiếp nước ngoài
và sự hợp tác giữa các doanh nghiệp.
- Toàn cầu hóa thúc đẩy sự gia tăng lưu thông quốc tế về vốn.
4. Các dấu hiệu của toàn cầu hoá.


Có thể nhận biết toàn cầu hoá thông qua một số xu hướng, hầu
hết các xu hướng đó bắt đầu từ Chiến tranh thế giới lần thứ hai.
Trong số đó có lưu thông quốc tế ngày càng tăng đối với hàng
hoá, tiền tệ, thông tin và cùng với việc phát triển các công
nghệ, tổ chức, hệ thống luật lệ và cơ sở hạ tầng cho việc lưu

thông này. Hiện nay vẫn còn nhiều tranh luận xung quanh sự
tồn tại của một số xu hướng.
-Gia tăng thương mại quốc tế với tốc độ cao hơn tốc độ tăng
trưởng kinh tế thế giới Gia tăng luồng tư bản quốc tế bao gồm
cả đầu tư trực tiếp từ nước ngoài
-Gia tăng luồng dữ liệu xuyên biên giới thông qua việc sử dụng
các công nghệ như Internet, các vệ tinh liên lạc và điện thoại
-Gia tăng trao đổi văn hoá quốc tế, chẳng hạn như việc xuất
khẩu các văn hoá phẩm như phim ảnh hay sách báo.
-Toàn cầu hoá cũng tác động đến ý thức con người, khiến con
người chú ý hơn đến những vấn đề có ảnh hưởng toàn cầu như
vấn đề nóng lên của khí hậu, khủng bố, buôn lậu ma tuý và vấn
đề nâng cao mức sống ở các nước nghèo.
-Sự tràn lan của chủ nghĩa đa văn hoá và việc cá nhân ngày
càng có xu hướng hướng đến đa dạng văn hoá, mặt khác, làm
mất đi tính đa dạng văn hoá thông qua sự đồng hoá, lai tạp
hoá, Tây hoá, Mỹ hoá hay Hán hoá của văn hoá.
- Làm mờ đi ý niệm chủ quyền quốc gia và biên giới quốc gia
thông qua các hiệp ước quốc tế dẫn đến việc thành lập các tổ
chức như WTO và OPEC.
-Gia tăng việc đi lại và du lịch quốc tế.
-Gia tăng di cư, bao gồm cả nhập cư trái phép
II. CÁC TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU HÓA KINH TẾ
Các đặc trưng của toàn cầu hoá mà chúng ta đã nêu nói nên
một điều rằng toàn cầu hoá đã và đang phát triển mở rộng
mạnh mẽ, nó là một xu thế khách quan của thời đại, các quốc
gia dù muốn hay không thì vẫn phải lao vào cuộc chơi có tính
hai mặt đó. Các quốc gia hiện nay vẫn đang luôn tích cực để



làm “trong sáng” quá trình toàn cầu hoá kinh tế và đã gặt hái
được không ít những lợi ích mà nó mạng lại và không ngừng
thúc đẩy nó lên một cách mạnh mẽ. Nhưng một vấn đều quan
trọng đặc ra hiện nay là làm thế nào để có thể vận dụng một
cách triệt để những lợi ích mà nó mang lại? Điều đó không phải
là dễ và cũng không phải là quá khó. Một trong những yếu tố và
cũng là nguyên nhân quan trọng cho sự thành công của các
quốc gia khi tham gia và quá trình đó là: Cần phải biết xác định
những tác động tích cực mà nó mang lại để phát huy nó trở
thành một thế mạnh của mình và xác định những mặt tiêu cực
của nó để hạn chế một cách tối thiểu ảnh hưởng của nó tới nền
nền kinh tế, chính trị của mình.vậy đâu là tác đọngtích cực và
đâu là tác động tiêu cực của nó, điều đó sẽ được làm sáng tỏ
trong phần này.
1. Tác động tích cực của toàn cầu hoá kinh tế:
Mặt tích cực của toàn cầu hoá kinh tế thẻ hiện ở chỗ:
Thứ nhất, thông qua tự do hóa thương mại sự thu hóa đầu
tư và chuyển dao công nghệ, nó tạo cơ hội cho sự phát triển
của kinh tế toàn cầu nói chung và từng quốc gia nói riêng.
Thứ hai, là thúc đẩy quá trình cạnh tranh của hang hóa,
dịch vụ, buộc các nền kinh tế phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế
cho phù hợp, mở rộng nền kinh tế thị trường, cải tiến kỹ thuật,
tăng năng suất lao động, hiệu quả kinh doanh.
Thứ ba, là tạo ra một môi trường thuận lợi trong việc nắm
bắt thông tin, tri thức mới, giao lưu văn hóa thế giới trên cơ sở
đó các quốc gia buộc phải cải cách hệ thống tài chính, ngân
hang, chuẩn hóa nền tài chính quốc gia nâng cao năng lực cạnh
tranh.
Thứ tư, là làm gia tăng sự phụ thuộc lẫn nhau thúc đẩy sự
phát triển, tính xã hội hóa của lực lượng sản xuất, đưa nền kinh

tế toàn cầu hóa phát triển ở mức ngày càng cao hơn.
2. Tác động tiêu cực của toàn cầu hóa kinh tế
Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, toàn cầu hóa kinh tế bộc lộ
những mặt tiêu cực:


Thứ nhất, là khiến cho sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các
nước ngày càng tăng, dễ dẫn tới tình trạng chủ quyền quốc gia
từng bước bị suy giảm không chỉ bên lĩnh vực kinh tế mà còn cả
bên lĩnh vực chính trị, văn hóa, đặc biệt là đối với những nước
chậm hoặc đang phát triển; đồng thời, cũng làm gia tăng tính
phụ thuộc về vốn và công nghệ… với bên ngoài, mà sự phụ
thuộc này dễ gây ra những tác động dây chuyền tiêu cực trong
nền kinh tế thế giới (tính lan truyền nhanh và mạnh của khủng
hoảng kinh tế).
Thứ hai, là tạo ra sự phân hóa xã hội ngày càng sâu sắc
hơn, khoảng cách giàu nghèo ngày càng một tăng các tệ nạn
xã hội, tội phạm và buôn lậu quốc tế có cơ hội và môi trường để
gia tăng.
Thứ ba, là kéo tình trạng làm giảm môi trường sinh thái,
gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới cuộc sống của nhân loại.
Thứ tư, sự phân phối không đều lợi ích thu được từ quá
trình toàn cầu hóa kinh tế tất yếu dẫn đến sự mâu thuẫn giữa
các quốc gia. Với ưu thế vượt trội hơn hẳn về tiềm lực tài chính
và trình độ khoa học – công nghệ so với các nước đang phát
triển, các nước tư bản khống chế cục diện kinh tế toàn cầu. Mâu
thuẫn này thể hiện rõ qua những cuộc biểu tình rầm rộ, thậm
chí dẫn đến bạo loạn đẫm máu trên đường phố ở một số nước
nhằm phản đối sự bất bình đẳng trong quá trình toàn cầu hóa
kinh tế.

Thứ năm, tác động của toàn cầu hóa kinh tế trong mặt
tiêu cực của nó đối với chính trị: Quá trình toàn cầu hóa kinh tế
càng được tăng cường thì quốc gia của mỗi nước càng bị hạn
chế và thu hẹp một cách tương đối thúc đẩy các nguồn vồn đầu
vào hình thành các “bong bóng xà phòng”, nguyên nhân gây ra
cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trên phạm vi rộng lớn;
khoảng cách giàu nghèo trên thế giới và
3. Tác động của toàn cầu hóa đối với kinh tế.
Các tổ chức quốc gia sẽ mất dần quyền lực, quyền lực này sẽ
chuyển về tay các tổ chức đa phương như WTO. Các tổ chức
này sẽ mở rộng việc tự do đối với các giao dịch thương mại, và
thông qua các hiệp ước đa phương hạ thấp hoặc nâng cao hàng
rào thuế quan để điều chỉnh thương mại quốc tế. Toàn cầu hóa


cũng làm cho hiện tượng "chảy máu chất xám" diễn ra nhiều và
dễ dàng hơn. Hai hiện tượng này đã góp phần gia tăng khoảng
cách giàu nghèo giữa các quốc gia phát triển và đang phát
triển, giữa từng khu vực riêng biệt trong một đất nước.
4. Tác động của toàn cầu hóa đối với chính trị.
Toàn cầu hoá sẽ làm tăng lên nhiều lần các mối quan hệ giữa
các công dân trên thế giới và cũng như các cơ hội cho từng
người. Tuy nhiên nó đặt ra vấn đề là phải tìm ra một giải pháp
thay thế cho hệ thống chính trị và hiến pháp hiện tại dựa trên
khái niệm nhà nước - quốc gia. Các thực thể này đã từng gây ra
những tác động tiêu cực trong suốt lịch sử do tính chất can
thiệp mạnh bạo của nó. Ảnh hưởng của chúng giảm dần do sự
toàn cầu hoá, và không còn đủ tầm xử lý nhiều thách thức
mang tính toàn cầu ngày nay.
5. Tác động của toàn cầu hóa đối với văn hóa xã hội và

ngôn ngữ.
Toàn cầu hóa còn là quá trình được mở rộng tới mọi lĩnh vực
khác của đời sống xã hội, trong đó có văn hóa. Đó là quá trình
giao lưu, trao đổi, hội nhập và cả đấu tranh một cách tự nhiên
giữa các nền văn hóa. Thông qua các hình thức liên kết kinh tế,
chuyển giao công nghệ, luân chuyển vốn và mở rộng thị
trường, các nền văn hóa khác nhau có điều kiện giao lưu,
truyền bá, lan tỏa và thẩm thấu lẫn nhau làm cho văn hóa
phong phú, đa dạng. Tuy nhiên, hiện nay toàn cầu hóa đang có
hiện tượng đồng hóa văn hóa dưới sức ép của quyền lực nước
lớn muốn áp đặt văn hóa và hệ thống tư tưởng của mình lên
các quốc gia khác trên phạm vi toàn cầu. Tiến trình này xét
theo góc độ địa - chính trị- văn hóa, nó được cảnh báo như là
một cuộc “xâm lăng văn hóa”, không chỉ ở một khu vực nào đó
mà còn ở cấp độ quy mô thế giới. Trong cuộc “xâm lăng văn
hóa” này, kẻ xâm lăng chính là chủ nghĩa tư bản hiện đại.
III. Những tác động của toàn cầu hóa đối với Việt Nam.
Ở Việt Nam toàn cầu hóa là một xu thế khách quan do sự phát
triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, của kinh tế và khoa học
công nghệ vượt khỏi biên giới quốc gia hình thành nền kinh tế
thế giới thu hút ngày càng nhiều các nước tham gia, vừa hợp
tác vừa cạnh tranh và đấu tranh với nhau. Không thể có một


quốc gia nào có thể phát triển bình thường nếu đứng ngoài xu
thế toàn cầu hoá.
Toàn cầu hóa là xu hướng tất yếu và ngày càng mở rộng. Tính
tất yếu của toàn cầu hóa trước hết được biểu hiện ở tính tất yếu
về kinh tế. Toàn cầu hóa kinh tế là khía cạnh quan trọng nhất
của toàn cầu hóa, nó tác động sâu sắc đến lĩnh vực chính trị.

Những thay đổi về chính trị lại tác động về kinh tế và văn hóa.
Toàn cầu hoá có hai mặt tích cực và tiêu cực, thuận lợi và khó
khăn, thời cơ và thách thức.
- Thuận lợi : Tham gia toàn cầu hoá chúng ta sẽ tranh thủ: vốn,
công nghệ, thị trường, kinh nghiệm quản lý. Đồng thời phát huy
lợi thế của ta, thế mạnh của ta.
- Khó khăn: Toàn cầu hoá hiện nay do các nước tư bản chi phối –
đây là cuộc chơi không cân sức giữa các nước giàu và các nước
nghèo, các nước giàu tìm cách ép các nước nghèo.
Bên cạnh những xơ hội, toàn cầu hóa tạo ra cho Việt Nam
những thách thức to lớn, như nguy cơ tụt hậu về kinh tế, nạn
thất nghiệp và thiếu việc làm, sự phân hóa giàu ngheo, tệ nạn
xã hội, sự lo ngại về mất bản sắc, sự đồng hóa văn hóa..Vì vậy,
Việt Nam phải chủ động tích cực hội nhập quốc tế
Ngoài những cơ hội, toàn cầu hoá tạo ra cho Việt Nam những
thách thức to lớn về kinh tế, văn hóa -xã hội:
- Thách thức về thất nghiệp và việc làm : Trong những năm tới,
quá trình hội nhập sẽ đòi hỏi đội ngũ lao động có trình độ cao
hơn. Nếu như đội ngũ người lao động Việt Nam không được đào
tạo và chuẩn bị về mặt công nghệ, quản lí thì tình trạng thất
nghiệp không những không giảm mà còn có nguy cơ tăng cao.
Tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm cũng là một trong những
nguyên nhân dẫn tới sự phân hoá giàu nghèo
Thách thức về văn hóa: Thực ra, trong kỷ nguyên toàn cầu
hóa hiện nay, sự lo ngại về khả năng đánh mất bản sắc văn hóa
dân tộc là mối lo chung của các nước đang phát triển.Cùng với
toàn cầu hoá, nhiều học giả đã chỉ ra xu hướng đồng nhất tất
cả các nền văn hoá. Tất cả các nước phát triển đang muốn áp
đặt các giá trị văn hoá của mình cho toàn thế giới. Thông qua
quá trình toàn cầu hoá, các nước phát triển phương Tây muốn



bắt phần còn lại của thế giới không chỉ khuất phục về kinh tế,
chính trị và quân sự, mà còn muốn hạn chế tối đa nét đặc thù
của văn hoá phi phương Tây, bởi theo họ, các nền văn hoá này
không phù hợp, thậm chí còn xung đột với văn hoá và văn minh
phương TâY
Thách thức về xã hội : những nhu cầu của nền kinh tế
toàn cầu đã và đang mang lại những thay đổi to lớn trong thói
quen lao động và lối sống của con người ở tất cả các quốc gia
dân tộc. Sự phân hoá giàu nghèo, tệ nạn xã hội và tội phạm
mang tính quốc tế. Đang là những vấn đề làm đau đầu các
quốc gia dân tộc. Nói tóm lại, chính toàn cầu hoá đang làm cho
những vấn đề toàn cầu của thời đại tác động mạnh mẽ và
nhanh chóng đến các quốc gia dân tộc. Ngày nay, không một
quốc gia dân tộc nào có thể làm ngơ trước sự lan truyền một
cách nhanh chóng và rộng rãi của các bệnh dịch, các nạn
khủng bố, tội phạm quốc tế.

Những tác động của toàn cầu hóa đối với Việt Nam.
1. Tác động về kinh tế
Không ai có thể phủ nhận được rằng toàn cầu hóa là một quá
trình tất yếu và đang tạo ra những cơ hội cho các nước có nền
kinh tế đang phát triển hội nhập vào nền kinh tế thế giới để
trên cơ sở đó, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và đổi mới
công nghệ.
Việt Nam từ khi mở cửa, hội nhập, phát triển nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần, có nhiều công ty nước ngoài vào đầu tư,
thương mại phát triển xuyên biên giới,…. Đặc biệt là trong xu
thế toàn cầu hoá, Việt Nam gia nhập các tổ chức kinh tế thế

giới và khu vực như: Khu vực mậu Dịch tự do ASEAN, tổ chức
thương mại thế giới… Đây là cơ hội mà để ngành kinh tế Việt
Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp có điều kiện phát triển và có
sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Tuy nhiên, toàn cầu hoá còn có những tác động tới các doanh
nghiệp Việt Nam là khả năng cạnh tranh chưa cao. Mở cửa thị
trường, cùng với cư hội mở rộng thị trường tiêu thụ của các


doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với nhiều thách thức là
cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Mặc dù đã đạt
được những thành tựu to lớn trong thời gian vừa qua nhưng
nhìn chung, nền kinh tế Việt Nam vẫn còn những hạn chế cần
khắc phục. Có nhiều doanh nghiệp tính tự chủ không cao, khả
năng vận hành và thích ứng với sự thay đổi của môi trường kinh
doanh còn hạn chế. Khi toàn cầu hóa các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế phải đối mặt với sự cạnh tranh quyết
liệt với các doanh nghiệp nước ngoài về thị trường hàng hóa và
dịch vụ. Các doanh nghiệp nước ngoài với ưu thế là nguồn vốn
lớn, sản phẩm sản xuất trên nền tảng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nên chất lượng va giá cả phù hợp, thêm vào đó là kinh
nghiệm chiếm lĩnh thị trường của những tập đoàn hàng đầu
trong lĩnh vực thương mại quốc tế sự cạnh tranh này khiến các
doanh nghiệp Việt Nam phải đứng trước hai lựa chọn:
Một là, chấp nhận sự cạnh tranh, liên tục đổi mới công nghệ áp
dụng khoa học – kỹ thuật, vận hành hệ thống quản lý mới, cải
tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, tăng
cường dịch vụ nhằm để sản phẩm sản xuất ra có thể cạnh tranh
với sản phẩm cùng loại, chiếm lĩnh thị trường, hướng tới xuất
khẩu và nhằm tạo uy tín trên thị trường.

Hai là, doanh nghiệp không có khả năng cạnh tranh bị đào
thải khỏi thị trường. Điều này có thể xảy ra đối với các doanh
nghiệp quá yếu và tiềm lực kinh tế còn hạn chế cũng như
thương hiệu và kinh nghiệm trên thị trường quốc tế. Sự đào thải
của hàng loạt doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả sẽ khiến lao
động thất nghiệp tăng cao.
Toàn cầu hóa còn tạo ra thách thức đối với kinh tế là nước ta
phải thực hiện hàng loạt những cam kết, những thỏa thuận đã
ký từ những hiệp định thương mại đa phương, song phương,
đồng thời tuân thủ triệt để quy định của thế giới.
2. Tác động về xã hội
Toàn cầu hoá đã mang lại nhiều cơ hội cho Việt Nam giao lưu
với các nước trên thế giới, mở rộng quan hệ kinh tế, chính trị,
ngoại giao. Tuy nhiên, Việt Nam cũng giống như nhiều nước
khác trên thế giới đang đứng trước những hiểm hoạ của thiên
tai, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường,… Đặc biệt toàn cầu hoá


kinh tế cùng với việc phát triển nền kinh tế thị trường của đất
nước đã làm nảy sinh tư tưởng thực dụng ở không ít người.
Những tác động đó cùng với một số hiện tượng tiêu cực trong
xã hội đã làm ảnh hưởng đến lòng tin của dân vào sự lãnh đạo
của Đảng và Nhà Nước.
Toàn cầu hóa làm cho đất nước ta phải đối đầu với các tệ nạn
xã hội du nhập vào Việt Nam đã làm cho lớp thanh niên sa đọa,
làm cho tính dân tộc trong người thanh niên bị giải một cách
nghiêm trọng và gây nguy hiểm cho xã hội…
3. Tác động về văn hoá.
Xu thế toàn cầu hóa là điều kiện thuận lợi cho các nước phát
triển xuất khẩu cũng như các nước kém phát triển, đang phát

triển phải nhập khẩu, tiếp cận, sử dụng những thành tựu của
khoa học công nghệ, thành quả trên các lĩnh vực khác… để
hiện đại hóa. Trong quá trình này, cũng có những ảnh hưởng
dẫn đến những nguy cơ bị áp đặt bởi các cường quốc với những
điều kiện có thể gây tổn hại đến sự phát triển của các quốc gia
nhỏ yếu. Việt Nam không ngoại lệ.
Xu thế và quá trình toàn cầu hóa là môi trường rộng mở, cơ hội
để văn hóa giữa các quốc gia được giao lưu bằng nhiều hình
thức đa dạng. Giá trị và di sản của các quốc gia được giới thiệu,
quảng bá rộng rãi đến mọi người. Các quốc gia, dân tộc xích lại
gần nhau hơn, từ đó có thể chia sẻ, hợp tác, mở rộng giao lưu
quốc tế, tiếp thu tinh hoa văn hóa nghệ thuật làm phong phú
kho tàng văn hóa dân tộc mình, thụ hưởng tốt hơn thành quả
văn hóa của nhân loại. Thế nhưng, trong xu thế toàn cầu hóa,
văn hóa là một lĩnh vực dễ bị mai một, trong đó văn hóa truyền
thống dễ bị tổn thương hơn cả, bản sắc văn hóa dân tộc trở
thành vấn đề trọng đại của mỗi quốc gia.
Sự giao lưu quốc tế rộng rãi trên cơ sở của phát triển kinh tế
toàn cầu cũng có những tác động không nhỏ tới lĩnh vực văn
hóa. Cùng với việc phục hồi, phát huy các giá trị văn hoá, nền
văn hoá Việt Nam có điều kiện tiếp thu các giá trị mới của nền
văn hoá thế giới và ngày càng trở nên đa dạng, phong phú.
Tuy nhiên, cùng với những tác động tích cực, toàn cầu hoá cũng
gây ra những hệ quả tiêu cực đối với nền văn hoá Việt Nam
như: một số giá trị văn hoá truyền thống không được bảo tồn,


gìn giữ; một số người thay đổi nhanh chóng lối sống, tha hoá
đạo đức,…
Nhìn chung, sự tác động của toàn cầu hoá đối với xã hội Việt

Nam là mạnh mẽ và sẽ còn tiếp tục tăng thêm trong những
năm tới. Điều quan trọng là chúng ta phải biết khai thác, tận
dụng những mặt tích cực của toàn cầu hoá để tạo ra sức mạnh
chiến thắng các tác động tiêu cực của nó.
4. Tác động đối với con người.
Tác động của toàn cầu hóa đối với con người VN Con người là
chủ thể trong mọi hoạt động văn hóa. Trong xu thế toàn cầu
hóa, công dân của những quốc gia tham gia trong diễn trình
này đều chịu sự tác động của nó ở nhiều phương diện. Quá
trình tiếp xúc, giao lưu đã mở ra cho các cá nhân nhiều cơ hội
tiếp xúc những thành tựu, các hệ giá trị khác nhau qua nhiều
phương cách đa dạng. Đặc biệt, giới trẻ - một lực lượng xã hội
năng động, nguồn nhân lực đông đảo của mỗi quốc gia chịu
tác động mạnh mẽ nhất. Giao lưu văn hóa ngày càng được mở
rộng là là điều kiện tốt cho giới trẻ mở rộng được tầm nhìn,
tiếp cận, hưởng thụ sản phẩm, thành tựu văn hóa đa dạng hơn
trong thời kỳ hội nhập.Toàn cầu hóa đang đưa lối sống phương
Tây vào nước ta. Lối sống ấy, một mặt, tác động tích cực đến
việc làm thay đổi lối sống khép kín, cam chịu, phụ thuộc, ỉ lại
vốn có của người Việt Nam sang một lối sống cởi mở, năng
động, tự lập, dám chịu trách nhiệm, phù hợp với xu thế thời


đại. Tuy nhiên, cũng chính việc tiếp thu lối sống đó một cách
thiếu định hướng (tiếp thu cả mặt tiêu cực của nó) mà dẫn đến
việc xa rời lối sống theo chuẩn mực đạo đức dân tộc. Các công
nghệ thông tin hiện đại đang truyền bá khắp thế giới lối sống
sùng bái vật chất, cá nhân, vị kỷ, thực dụng, đua đòi, ăn chơi
xa hoa, lãng phí, sống truỵ lạc, thác loạn, ưa dùng bạo
lực...Toàn cầu hóa các quan hệ kinh tế sẽ đưa lại sự hưởng thụ

các sản phẩm vật chất và tinh thần của nhân loại với một giá
rẻ hơn, tiện nghi phong phú hơn. Song mặt khác, chính sự giao
thoa về văn hóa, sự tràn ngập của hàng hóa đó đã tạo ra khả
năng về sự tha hóa nhân cách, đạo đức, làm rối loạn các giá trị
truyền thống của dân tộc. Toàn cầu hóa đã gây ảnh hưởng
không nhỏ tới lối sống và những giá trị đạo đức của người Việt
Nam. Những sản phẩm văn hóa độc hại từ nước ngoài đưa vào
nước ta đã tác động tiêu cực tới đời sống tinh thần, văn hóa
của một bộ phận nhân dân. Ảnh hưởng của lối sống thực dụng
đã làm xuất hiện tâm lý “chạy theo đồng tiền", coi “tiền là trên
hết", không cần biết đến đạo lý phải trái, đánh mất nhân cách
và nhân tính. Lối sống thực dụng, vị kỷ đang dẫn đến thái độ
bàng quan, thờ ơ với công việc của cộng đồng và với những
người xung quanh. Điều đó làm cho mối dây liên kết giữa cá


nhân và cộng đồng, giữa người và người trở nên "lỏng lẻo". Một
trong những tác động tích cực của toàn cầu hóa "là việc soi
chiếu các giá trị đạo đức dưới góc độ cá nhân, phẩm chất cá
nhân". Nhưng cũng chính mặt tích cực này khi bị con người đẩy
lên quá mức sẽ trở thành tiêu cực. Ý thức đề cao cá nhân, một
khi bị tuyệt đối hóa sẽ dẫn đến việc cái cá nhân lấn át cái cộng
đồng.

IV. LIÊN HỆ BẢN THÂN.
Là công dân tương lai: thanh niên Việt Nam cần nhận thấy
được xu thế toàn cầu hoá ngày càng trở nên sâu sắc và tác
động nhiều đến nước ta, hiện nay. Nước ta đang mở cửa nên sự
tác động càng sâu sắc hơn vì vậy mỗi thanh niên Việt Nam cần
phải cố gắng học tập và rèn luyện thật tốt làm chủ công nghệ

vì nó là chìa khoá cho sự phát triển kinh tế và học tập nghiên
cứu khoa học cải tiến công nghệ để nó đem lại hiệu quả cao
cho cuộc sống, học tập kinh nghiệm quản lí từ bên ngoài nhất
là các tiến bộ của khoa học – kĩ thuật, luôn luôn rèn luyện để
trở thành người có ý chí nghị lực, trở thành người được đào tạo
có chất lượng, đáp ứng yêu cầu của công cuộc công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước …


V. KẾT LUẬN
Thế giới ngày càng chia sẻ những vấn đề và thách thức vượt
qua khỏi quy mô biên giới quốc gia, nhất là vấn đề ô nhiễm
môi trường tự nhiên, và như vậy phong trào được biết đến
trước đây với tên gọi phong trào chống toàn cầu hoá từ nay đã
biến thành một phong trào chung của các phong trào vì toàn
cầu hoá.
Ở Việt Nam sự nghiệp đổi mới cũng chịu không ít về tác động
của xu thế toàn cầu hóa. Một mặt đem lại nhiều cơ hội hội
nhập sâu, rộng vào đời sống kinh tế, chính trị, xã hội,văn hóa
quốc tế. Mặt khác, lại đứng trước hàng loạt thách thức khi mà
toàn cầu hóa ngày càng bị các thế lực tư bản tài chính của
các nước tư bản chủ nghĩa thao túng. Việc nhìn nhận được
những cơ hội và thách thức có vai trò to lớn đối với nền kinh
tế Việt Nam. Sự thành công từ các lĩnh vực về kinh tế, chính
trị nói chung như khẳng định một cách đúng đắn chủ trương
hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước ta là hoàn
toàn đúng đắn. Bên cạnh đó Đảng Cộng sản Việt Nam phải
không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh
đạo, làm tốt công tác xây dựng Đảng, trong sạch bộ máy tổ
chức của Đảng và Nhà nước ...



Có như thế, Việt Nam mới có thể tránh được nguy cơ tụt hậu
so với các quốc gia khác trên toàn thế giới.

Câu 2: Mối quan hệ giữa lãnh đạo và quản lý. Lấy ví dụ minh
họa.

Lãnh đạo và quản lý là hai khái niệm đôi khi dễ gây nhầm lẫn.
Khi chưa hiểu bản chất của mỗi khái niệm này, chúng có thể
cho rằng chúng gần nghĩa với nhau, đều muốn nói đến công
việc, hay vai trò của người đứng đầu. Khi một người nắm giữ
một chức vụ trong một tổ chức hay trong một nhóm, chúng ta
nói họ là nhà quản lý và cũng là nhà lãnh đạo, nhưng không
hẳn như vậy. Chúng ta hãy cùng phân tích để làm rõ sự khác
biệt giữa hai khái niệm này.

Trước hết, lãnh đạo chú trọng đến kết quả đạt được còn quản lý
chú trọng đến hoàn thành công việc theo khuôn khổ. Các nhà
lãnh đạo truyền cảm hứng và phát triển những người khác,
thách thức hiện trạng, luôn đặt ra câu hỏi cái gì và tại sao, và
có tầm nhìn xa. Còn các nhà quản lý thì quản lý công viêc,


kiểm soát ngân sách và chi phí, duy trì hiện trạng. Lãnh đạo
liên quan đến sự đổi mới, trong khi đó quản trị liên quan đến
duy trì tình trạng hiện tại. Như việc một tài xế sử dụng chân
ga, phanh, điều khiển, số và vô-lăng để điều khiển tốc độ và
phương hướng của một chiếc xe ô tô, một nhà quản lý sử dụng
các hệ thống kế toán, thông tin, quản lý hiệu suất công việc,

hoạch định, các chế độ lương, đào tạo, tuyển dụng nhân viên
và kiểm tra để hướng thái độ cấp dưới tới thành tích của tập
thể hoặc các mục tiêu của tổ chức.

Vậy với sự lãnh đạo thì sẽ điều khiển chiếc ô tô đi đến đâu?
Một nhà lãnh đạo là một người có thể lái chiếc ô tô đi trên một
con đường khác, đến một bến đỗ khác hoặc thậm chí quyết
định chiếc ô tô có phải là phương tiện tốt hay chưa. Do sự thay
đổi của công nghệ, sự toàn cầu hóa, các điều kiện thị trường,
thị hiếu của người tiêu dùng,… nên lãnh đạo là cần thiết để
hướng các thành viên trong tổ chức đi theo tầm nhìn mới.
Trong khi các nhà quản lý tập trung vào tuân thủ các quy trình
hiện có thì các nhà lãnh đạo lùi một bước và thậm chí đặt ra
câu hỏi tại sao hệ thống lại tồn tại, cần phải thay đổi thế nào
để tổ chức sẽ vận hành tốt hơn. Nhà lãnh đạo thành công có


thể hướng hành vi cấp dưới đến với tầm nhìn mới này. Và để
điều khiển tổ chức đến đạt được tầm nhìn mới đòi hỏi những sự
nỗ lực rất lớn. Lúc này cần có sự kết hợp cả hai kỹ năng lãnh
đạo và quản lý thì mới thực hiện thành công bất kỳ nỗ lực thay
đổi nào của tổ chức. Một trong những nguyên nhân thất bại
của những người đứng đầu là phải cố gắng rất nhiều mới có
được kỹ năng lãnh đạo, kỹ năng quản lý hoặc cả hai kỹ năng
trên.

Mối quan hệ giữa lãnh đạo và quản lý Lãnh đạo và quản lí là
hai khái niệm khác nhau tuy nhiên nó hay được sử dụng và
hiểu là giống nhau. Nếu ta ví tổ chức giống như một cơ thể
người thì: Lãnh đạo là phần hồn (hệ thần kinh) Quản lí là phần

xác. Tất cả đều quan trọng, đều cùng tồn tại trong một cơ thể,
bổ trợ cho nhau không thể tách rời. Nói về chức năng công việc
thì lãnh đạo và quản lí là hai công việc khác nhau.
Công việc chủ yếu của lãnh đạo là:
- Phân tích tình hình, định hướng, vạch chiến lược
- Đưa ra các quyết định quan trọng


- Làm điểm tựa về uy tín cho tổ chức, đối với cả người bên
trong lẫn người bên ngoài.
Công việc chủ yếu của người quản lí là:
- Thực hiện các quyết định của lãnh đạo
- Xử lí các công việc hàng ngày
- Đảm bảo cho bộ máy hoạt động trơn tru
- Quản lí cơ sở vật chất kĩ thuật của cơ quan tổ chức tùy chức
năng công việc của lãnh đạo và quản lí là khác nhau nhưng lại
hỗ trợ tiếp nối công việc của nhau Nếu lãnh đạo chỉ ban hành
ra các chủ trương chính sách, kế hoạch để đó không có quản lí
thực hiện thì các chủ trương kế hoạch đó chỉ ở trên trang giấy
không được thực hiện trong thực tế, tổ chức không thể hoạt
động. Nếu quản lí và lãnh đạo đều đưa ra các quyết định quan
trọng thì sẽ có quá nhiều quyết định quản lí, sẽ chồng chéo về
chức năng nhiệm vụ. Quản lí thực hiện và kết quả đi theo
hướng nào lại là do lãnh đạo quyết định Quản lí đảm bảo hoạt
động của bộ máy được trơn tru thì lãnh đạo cơ quan sẽ có uy
tín, cơ quan tổ chức cũng có uy tín theo. Như vậy cơ quan sẽ
thu hút được nhiều đối tác giúp cơ quan tổ chức phát triển. Vậy
về công việc lãnh đạo và quản lí không hề tách rời nhau về vị



trí, vai trò, chức năng. Ở các tổ chức nhỏ, việc lãnh đạo và
quản lí hay được quy định làm một do cùng một người đảm
nhiệm. Tuy nhiên đối với tổ chức lớn thì sự phân biệt giữa lãnh
đạo và quản lí là tương đối rõ ràng và sự giao thoa về chức
năng, nhiệm vụ công việc càng lớn .
Ví dụ: Học viện hành chính có : Lãnh đạo là : Giám Đốc học
viện Quản lí là : Các trưởng phòng như : Trưởng phòng quản lí
sinh viên, Trưởng phòng tổ chức cán bộ…. Kĩ năng lãnh đạo và
quản lí đòi hỏi khác nhau, Đối với lãnh đạo cần : + Uy tín cá
nhân cao(nếu người bên trong không phục thì khó lãnh đạo,
nếu mất uy tĩn đối với bên ngoài thì toàn bộ tổ chức mất uy tín
theo)
+ Có trình độ cao, tầm nhìn xa trông rộng, để có thể đưa ra
những định hướng và quyết định đúng đắn
+ Biết phối hợp hài hoà với bộ phận quản lí Đối với quản lí :
+ Hiểu được và tuân theo các quyết định của lãnh đạo
+ Có tính kỉ luật, cẩn thận, tỉ mỉ, nắm sát các chi tiết (người
lãnh đạo có thể không mạnh những điểm này).
Tuỳ lĩnh vực quản lí mà cần có trình độ chuyên môn tương ứng
nhất định. Lãnh đạo phải có trình độ cao hơn người quản lí và


người quản lí thì phải có tính chuyên môn cao, tuy nhiên tất cả
đều vì uy tín, vì công việc, vì sự phát triển của tổ chức. Lãnh
đạo và quản lí gồm một nhóm người cùng tiến hành một hoạt
động chung, cùng thống nhất về mặt lợi ích. Một tâm hồn, một
đạo đức trong sáng.

Người lãnh đạo và quản lý phải biết làm cho người khác yêu
mến mình. Đó là lời giải đáp cho những suy nghĩ trăn trở mỗi

lúc được đặt ra, khi ta hình dung ra trách nhiệm hết sức nặng
nề ấy. Hãy làm cho mọi người yêu mến mình, tin tưởng mình,
tất cả những khó khăn của bạn sẽ được những người cộng sự,
thuộc cấp, nỗ lực vượt qua cùng với chính bạn. Cũng cần nhớ
tạo ra một sự công bằng trong cơ quan, xí nghiệp của ban.
Không được xem những thường những người cộng sự, những
người thuộc cấp quanh mình là những kẻ nô lệ. Hãy coi tất cả
họ là bản thân bạn. Hãy làm cho họ hiểu được các quan niệm
kế hoạch, nỗ lực, ý chí của bạn - hết thảy đều nhằm mục đích
tạo một sự công bằng cần thiết.
Lãnh đạo là một khía cạnh quan trọng của quản lý. Khả năng lãnh đạo có
hiệu quả là mét trong những chìa khoá để trở thành một người quản lý giỏi.
Cùng những việc thực hiện các nhiệm vụ cốt yếu khác của quản lý tức là thực


hiện trọn vẹn việc quản lý- có mét ý nghĩa quan trọng để đảm bảo rằng một nhà
quản lý có thể trở thành một nhà lãnh đạo có hiẹu quả. Các nhà quản lý phải
thực hành tất cả các yếu tố để kết hợp nguồn nhân lực và vật lực nhằm đạt được
các mục tiêu.
Có lúc nhà quản lý cần phải làm người lãnh đạo và ngược lại. việc lãnh
đạo và quản lý có thể do chủ thể quản lý tiến hành, chủ thể có thể là duy
nhất( một phân hệ, một lực lượng, một người...) mà cũng có thể là không duy
nhất( hai phân hệ trở lên). nhưng để đảm bảo cho quá trình quản lý có hiệu quả
cao, việc lãnh đạo và quản lý phải thống nhất hữu cơ với nhau, có mối quan hệ
mật thiết với nhau, hòa nhập vào nhau.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
-Tạp chí thư viện Việt Nam- Th.s Nguyễn Thị Đào: Trung
tâm TTKH & CNQG
- />-ý nghĩa của toàn cầu hóa- 123kienthuc.com

- />-Tâm lý học trong quản lý Nhà Nước
- Giáo trình môn những vấn đề lớn của thời đại và khoa
học quản lý hiện đại năm 2015.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×