Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

một số vấn đề về nhà nước trong tác phẩm nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước tác phẩm kinh điển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.91 KB, 19 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Nguồn gốc gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước là một trong
những tác phẩm chủ yếu của chủ nghĩa Mác. Trong tác phẩm này Ph.Ăngghen
đã phân tích một cách khoa học lịch sử của nhân loại trong những giai đoạn
phát triển sớm nhất của nó, đã vạch rõ quá trình tan rã của chế độ công xã
nguyên thủy và quá trình hình thành xã hội có giai cấp dựa trên chế độ tư hữu.
Tác giả chỉ rõ những nét đặc trưng chung của xã hội đó, giải thích rõ
những đặc điểm trong sự phát triển của các quan hệ gia đình trong các hình
thái kinh tế - xã hội khác nhau, nêu rõ nguồn gốc và thực chất của nhà nước
và chứng minh sự tất yếu phải diệt vong của nhà nước khi mà xã hội cộng
sản, xã hội không có giai cấp hoàn toàn thắng lợi.
Tác phẩm: " Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà
nước " là một trong những tác phẩm mà Ăngghen đã sử dụng bản tóm tắt của
Mác về các công trình nghiên cứu thực tế của L.Moóc gan cũng như của các
nhà khoa học đương thời để phân tích một cách khoa học lịch sử loài người ở
những giai đoạn phát triển sớm nhất của nó, làm sáng tỏ cơ sở kinh tế của quá
trình tan rã chế độ công xã nguyên thủy và hình thành xã hội có giai cấp dựa
trên chế độ tư hữu vạch ra những đặc điểm chung của xã hội đó. Ph.Ăngghen
giải thích đặc điểm của sự phát triển những quan hệ gia đình ở các hình thái
kinh tế xã hội khác nhau, vạch rõ nguồn gốc và bản chất của Nhà nước, ông
chỉ ra quy luật tất yếu của sự phát triển của sản xuất, của sự phát triển kinh tế
là sẽ tiến tới một xã hội cộng sản văn minh trong đó chế độ tư hữu, giai cấp và
nhà nước không còn tồn tại. Chúng ta có thể khẳng định rằng đây là một tác
phẩm tuyệt vời của Ph.Ăngghen viết về gia đình, về chế độ tư hữu và về nhà
nước. Đánh giá về tác phẩm, Lênin đã viết: "Có thể tin vào từng câu, có thể
tin rằng mỗi một câu không phải được nói một cách lần lượt, mà được viết
trên cơ sở những đống tài liệu lịch sử và chính trị khổng lồ" [1.67]. Vì vậy,
trong quá trình nghiên cứu một số tác phẩm kinh điển của Mác và Ăngghen
1



tôi chọn tác phẩm "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà
nước" để nghiên cứu, tìm hiểu và viết tiểu luận : “ Một số vấn đề về Nhà
nước trong tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà
nước” của Angghen làm đề tài tiểu luận của mình.

2


PHẦN NỘI DUNG
1. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
Năm 1877, L.H.Moócgan, đại biểu của phái duy vật tự phát người Mỹ,
đã hoàn thành tác phẩm Xã hội cổ đại hay các cuộc khảo cứu những con
đường tiến bộ của loài người từ thời đại mông muội qua thời đại dã man đến
thời đại văn minh (hay “Xã hội cổ đại”), làm rõ nhiều vấn đề lịch sử trước khi
loài người bước vào thời đại văn minh - chế độ chiếm hữu nô lệ. Năm 1884,
một năm sau khi Mác mất, Ăngghen tìm thấy bản thảo viết tay tóm tắt tác
phẩm Xã hội cổ đại của L.H.Moóc-gan của Mác viết từ những năm 1880,
1881 và biết Mác có ý định viết một tác phẩm xung quanh vấn đề này nhưng
chưa kịp.
Tiếp tục ý định của Mác, theo Ăngghen có thể xem như là sự thực hiện
một di chúc do Mác để lại, từ cuối tháng 3 đến cuối tháng 5-1884 Ăngghen đã
viết tác phẩm Nguồn gốc gia đình, chế độ tư hữu và nhà nước. Khi viết tác
phẩm này, Ăngghen sử dụng những nhận xét và phê phán của Mác về tác
phẩmXã hội cổ đại của L.H.Moócgan, đưa những tư liệu từ các nghiên cứu
trước đó của mình về lịch sử Hy Lạp, La Mã, Airơlen và người Giécmanh thời
cổ v.v., kế thừa và phê phán nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa
học Anh, Pháp, Đức, Bắc Mỹ và Nga nhằm chứng minh sự đúng đắn của
những quan niệm duy vật về lịch sử của chủ nghĩa Mác. Tác phẩm được in lần
đầu tiên ở Xuyrích (Đức) vào đầu tháng 10-1884, sau đó được tái bản nhiều
lần và được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau.

Trong tác phẩm này, Ăngghen phân tích một cách khoa học về những
giai đoạn phát triển sớm nhất của lịch sử nhân loại, về quá trình tan rã của chế
độ công xã nguyên thuỷ, về quá trình hình thành, những đặc trưng của các xã
hội có giai cấp dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và giải thích
những đặc điểm của sự phát triển của các quan hệ gia đình trong các hình thái
kinh tế - xã hội khác nhau. Đặc biệt, Ăngghen luận chứng nhiều vấn đề lý
3


luận và thực tiễn xung quanh vấn đề nhà nước như nguồn gốc và bản chất,
đặc trưng và chức năng của nhà nước; đồng thời, chứng minh sự tất yếu diệt
vong của nhà nước khi xã hội cộng sản văn minh hoàn toàn thắng lợi.
2. Những nội dung chủ yếu bàn về vấn đề Nhà nước của tác phẩm
a) Luận giải về nguồn gốc và bản chất của nhà nước
Từ những khảo cứu thực tế lịch sử, dựa trên lập trường duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử Ăngghen đã luận chứng một cách khoa học nguồn
gốc, bản chất, quy luật hình thành và phát triển của nhà nước như một tất yếu
khách quan trong quá trình phát triển của xã hội loài người. Nhà nước, theo
đó, không phải là một thực thể quyền lực từ bên ngoài áp đặt vào xã hội, mà
là sản phẩm của một xã hội đã phát triển đến một giai đoạn nhất định, là bằng
chứng của những mâu thuẫn, của những phân chia xã hội thành các lực lượng
đối lập nhau mà tự chúng không thể giải quyết được. Để những mặt đối lập và
những giai cấp có quyền lợi mâu thuẫn nhau ấy không đi đến tiêu diệt lẫn
nhau và tiêu diệt cả xã hội, thì cần phải có một lực lượng tựa hồ như đứng
trên xã hội, có nhiệm vụ làm dịu xung đột và giữ cho xung đột trong vòng trật
tự, lực lượng ấy là nhà nước.
Những tiền đề kinh tế và xã hội của sự xuất hiện nhà nước, theo
Ăngghen, là sự ra đời của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và xã hội phân
chia thành giai cấp. Nhà nước là sản phẩm của xã hội đã phân chia giai cấp, là
kết quả của những mâu thuẫn giữa các giai cấp không thể điều hoà được, là

sản phẩm của sự phát triển xã hội. Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ chưa
cần có một quyền lực công cộng tách khỏi nhân dân và đứng đối lập với nhân
dân, thích ứng với tình trạng kinh tế thấp kém là tình trạng chưa phân hoá giai
cấp, là những thị tộc, bộ lạc và đứng đầu các tổ chức này là các tộc trưởng do
nhân dân bầu ra. Quyền lực của những tộc trưởng này dựa vào sức mạnh đạo
đức và uy tín, quyền hành và chức năng của cơ quan quản lý xã hội chưa
mang tính chính trị. Các thủ lĩnh, trong đó có thủ lĩnh quân sự, do nhân dân

4


bầu ra không phải là người cai trị, họ chỉ thực hiện ý chí của nhân dân và
không có đặc quyền, đặc lợi.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội đã
đưa lại năng suất lao động ngày một cao và xuất hiện của cải dư thừa. Đây là
điều kiện khách quan làm xuất hiện sự chiếm đoạt của cải ở một số người có
quyền lực và sự phân hoá xã hội thành những giai cấp đối kháng. Sau lần
phân công lao động xã hội thứ ba, đã có sự tích tụ của cải về một số ít người
và sự bần cùng hoá một số đông người. Sự ra đời của chế độ tư hữu và phân
chia xã hội thành giai cấp như vậy đã làm cho chế độ cộng sản nguyên thuỷ
tan rã.
Mặt khác, chiến tranh cướp bóc và tranh giành lãnh thổ giữa các thị tộc,
bộ lạc đã làm tăng quyền lực cho thủ lĩnh quân sự. Cùng với chế độ phụ
quyền, quyền thừa kế chức vụ thủ lĩnh quân sự ngày càng làm cho họ giàu có,
địa vị thống trị của họ được củng cố. Họ bóc lột nhân dân ngày càng thậm tệ
và trở thành lực lượng đối lập với nhân dân. Cơ quan tổ chức của thị tộc, bộ
lạc dần dần tách khỏi gốc rễ của nó trong nhân dân, từ chỗ là công cụ của
nhân dân trở thành cơ quan thống trị và áp bức nhân dân. Cuộc đấu tranh giữa
hai giai cấp đối kháng lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử xã hội, chủ nô và nô
lệ, dẫn tới nguy cơ các giai cấp đó tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt luôn cả xã

hội. Các tổ chức thị tộc, bộ lạc mất đi khả năng tự điều tiết, quản lý và một cơ
quan quyền lực đặc biệt là nhà nước ra đời. Quá trình hình thành nhà nước
gồm nhiều giai đoạn, trong đó có giai đoạn cơ quan quản lý dưới chế độ cộng
sản nguyên thuỷ chuyển hoá thành cơ quan nhà nước. Đồng thời, do các đặc
điểm về kinh tế - xã hội và lịch sử khác nhau nên có nhiều phương thức hình
thành nhà nước khác nhau, như các phương thức Aten, Rôma, Giécmanh hay
phương Đông v.v. chẳng hạn.
Cùng với các nghiên cứu hết sức công phu và lập luận chặt chẽ.
Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng những nguyên nhân làm tan rã xã hội thị tộc chính
là những nguyên nhân làm xuất hiện nhà nước. Song để khẳng định một cách
5


chắc chắn và lôgíc hơn về những nguyên nhân làm xuất hiện nhà nước,
Ăngghen đã tiếp tục tìm hiểu, phân tích về sự ra đời và phát triển của ba hình
thức nhà nước cổ là nhà nước Aten, nhà nước La mã và nhà nước Giéc manh.
Theo Ăngghen, sự ra đời của nhà nước Aten: "là một ví dụ đặc biệt điển hình
về sự hình thành nhà nước nói chung" [1.180]. Ông cho rằng đó là kết quả ra
đời tất yếu khách quan của những điều kiện kinh tế - xã hội ngay trong lòng
xã hội thị tộc. Đó hoàn toàn là sự phát triển tiến lên một bước cao hơn từ xã
hội cộng sản nguyên thủy sang chế độ chiếm hữu nô lệ bởi vì như Ăngghen
kết luận về sự phát sinh ra nhà nước Aten: "Một mặt vì nó diễn ra dưới một
dạng thuần túy, không có sự can thiệp của bạo lực ở bên trong hay bên
ngoài... mặt khác vì trong trường hợp này, một hình thức phát triển rất cao của
nhà nước tức là chế độ cộng hòa dân chủ đã trực tiếp xuất hiện từ xã hội thị
tộc..." [1;180]. Còn sự ra đời của nhà nước La mã thì lại hoàn toàn khác,
"Trong lúc đó thành La mã và lãnh thổ La mã được mở rộng ra nhờ các cuộc
xâm chiếm, số dân cư đã tăng dần lên, một phần do người ta di cư đến, một
phần do dân cư ở các miền bị chinh phục, chủ yếu là các miền Latinh..."
[1;192]. Tất cả những người dân mới này đều ở ngoài các thị tộc và bộ lạc cũ

và họ không phải là nhân dân La mã chính cống mà họ là những người tự do
về thân thể, có thể có ruộng đất, có nghĩa vụ nộp thuế và làm các nghĩa vụ
quân sự nhưng họ không được nắm một chức vụ gì và cũng không được tham
gia đại hội, các Curies, cũng không được tham gia việc cấp phát đất đai do
nhà nước đã chiếm được trong các cuộc chinh chiến. Họ hợp thành một lớp
người bình dân không có mọi quyền lợi chính trị. Song vì: "Do dân số của họ
ngày càng tăng, do đó họ được huấn luyện quân sự, được vũ trang nên họ trở
thành một thế lực đáng sợ đối lập với Populus cũ (tức dân La mã bản địa) là
cái mà nay đã đóng hẳn cửa lại không dung nạp thêm bất cứ một người nào
vào nữa" [1;193]. Thêm vào đó là số lượng tù binh bắt được ngày càng nhiều
thông qua các cuộc chiến tranh và họ cũng không có bất cứ quyền lợi gì. Cả
hai nhóm người này, người bình dân và người nô lệ hợp thành một lực lượng
6


mới, lực lượng "ngoại lai" và lực lượng này ngày càng lớn mạnh lên trở thành
lực lượng đối trọng với dân bản xứ. Khi đó tất nhiên sẽ dẫn tới xuất hiện các
mâu thuẫn mà theo quy luật thì khi có mâu thuẫn tất có đấu tranh dẫn tới cuộc
cách mạng mà theo Ăngghen thì: "Người ta chỉ có thể khẳng định một cách
chắc chắn rằng những cuộc đấu tranh giữa người bình dân và Populus là
nguyên nhân cuộc cách mạng đó" [1;193].
Đây chính là nguyên nhân trực tiếp cho ra đời nhà nước La mã. Tổ
chức nhà nước La mã ra đời phá vỡ tổ chức xã hội thị tộc cũ, thành lập xã hội
mới bằng một đại hội nhân dân mới, không có sự phân biệt dân ngoại lai với
dân bản địa.
Và cuối cùng ông khẳng định: "Vậy, nhà nước quyết không phải là một
quyền lực từ bên ngoài áp đặt vào xã hội. Nó cùng không phải là cái "hiện
thực của ý niệm đạo đức" là "hình ảnh hiện thực của lý tính" như Hêghen
khẳng định. Đúng ra, Nhà nước là sản phẩm của một xã hội đã phát triển tới
một giai đoạn nhất định; đó là sự thú nhận rằng xã hội đó bị lúng túng trong

một mối mâu thuẫn với bản thân nó mà không sao giải quyết được, rằng xã
hội đó bị phân chia thành những mặt đối lập không thể điều hòa mà xã hội đó
bất lực không sao từ bỏ được. Nhưng muốn cho những mặt đối lập đó những
giai cấp có quyền lợi kinh tế mâu thuẫn nhau đó không đi đến chỗ tiêu diệt lẫn
nhau và tiêu diệt luôn cả xã hội trong một cuộc đấu tranh vô ích, thì cần phải
có một lực lượng cần thiết, một lực lượng tựa hồ như đứng trên xã hội, có
nhiệm vụ làm dịu sự xung đột và giữ cho sự xung đột đó nằm trong vòng "trật
tự". Và lực lượng đó nảy sinh ra từ xã hội, nhưng lại đứng trên xã hội và ngày
càng xa rời xã hội, chính là nhà nước" [1;.252-253].
+ Về bản chất, nhà nước
Ăngghen khẳng định: "Nhà nước là nhà nước của giai cấp có thế lực
nhất, của giai cấp thống trị về mặt kinh tế, và nhờ có nhà nước, giai cấp này
cũng trở thành giai cấp thống trị về mặt chính trị và do đó có thêm được
những thủ đoạn mới để đàn áp và bóc lột giai cấp bị áp bức... Nhà nước là
7


một tổ chức của giai cấp có của, dùng để bảo vệ giai cấp này chống lại giai
cấp không có của" [1;.255-256].
Nhà nước là bộ máy của một giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp
khác. Nhà nước là tổ chức chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế nhằm bảo
vệ trật tự hiện hành và đàn áp sự phản kháng của các giai cấp khác. Nhà nước
chỉ là công cụ chuyên chính của một giai cấp, không có và không thể có nhà
nước đứng trên giai cấp và nhà nước của mọi giai cấp. Đối với đông đảo
người sống trên một lãnh thổ rất rộng lớn, thì nhà nước là mối liên hệ chủ yếu
nhất liên kết họ lại với nhau, nhưng nhà nước ngày càng trở thành kẻ áp bức
và bóc lột đối với họ. Nhà nước ra đời không những không thủ tiêu bóc lột mà
còn biến bóc lột thành một chế độ.
b) Luận giải về những đặc trưng cơ bản của nhà nước
Bất cứ nhà nước nào, theo Ăngghen, cũng có những đặc trưng cơ bản

sau đây:Thứ nhất, nhà nước là cơ quan phân chia và quản lý dân cư theo địa
vực. Địa vực thì ổn định còn dân cư thì ngày càng di động, nên người ta phải
lấy sự phân chia địa vực cư trú làm nơi cho dân chúng thực hiện những quyền
và nghĩa vụ của mình, không kể họ thuộc về thị tộc hay bộ lạc nào. Cách tổ
chức dân cư theo địa vực cư trú ngày càng được thừa nhận trong tất cả các
quốc gia và làm nên sự khác biệt giữa nhà nước với thị tộc, bộ lạc trước đây.
Các thị tộc, bộ lạc được hình thành dựa trên cơ sở những quan hệ huyết thống
còn nhà nước được hình thành trên cơ sở phân chia dân cư theo địa vực cư trú
và quyền lực nhà nước có hiệu lực đối với mọi cư dân sống trên địa vực ấy.
Thứ hai, nhà nước là một cơ quan quyền lực có tính chuyên nghiệp và cưỡng
chế đối với mọi thành viên trong xã hội, quyền lực này không còn ăn khớp
với dân cư tự tổ chức thành lực lượng vũ trang nữa. Trước đây những người
đứng đầu thị tộc, bộ lạc quản lý xã hội bằng đạo đức và uy tín, còn giờ đây
những người đại diện cho nhà nước thực hiện quyền lực bằng sự cưỡng bức
của pháp luật. Hơn nữa, nhà nước không phải chỉ gồm những người được vũ
trang mà có cả công cụ vật chất phụ thêm nữa, như nhà tù và các loại cơ quan
8


cưỡng bức mà xã hội thị tộc, bộ lạc không hề biết đến. Lòng tôn kính của thần
dân đối với các cơ quan của xã hội thị tộc trước kia đối với quan lại ngày nay
không đủ nữa nên bây giờ họ phải làm cho thần dân phải kính trọng họ bằng
những đạo luật đặc biệt khiến họ đặc biệt trở nên thần thánh và bất khả xâm
phạm và Ăngghen đã ví von rất hay là: "Viên cảnh sát tồi nhất của nhà nước
văn minh vẫn có quyền uy hơn tất cả những cơ quan của xã hội thị tộc cộng
lại, nhưng một vị vương công có thế lực nhất, một chính khách hoặc một vị
chỉ huy quân sự lớn nhất của thời đại văn minh có thể ganh tị với một vị thủ
lĩnh thị tộc nhỏ nhất về sự tôn kính tự nguyện và không thể tranh cãi được mà
vị thủ lĩnh ấy được hưởng" [1; 254-255].
Thứ ba, để duy trì nhà nước cần phải có những sự đóng góp của cư dân

là thuế. Thuế là các khoản bắt buộc phải nộp cho nhà nước, là nguồn thu
chính để nuôi sống bộ máy nhà nước. Việc thu thuế dựa trên cơ sở quyền lực
nhà nước với sự hậu thuẫn của các cơ quan và phương tiện cưỡng chế.
c) Luận giải về những chức năng của nhà nước
Trước hết, theo Ăngghen, nhà nước có hai chức năng là chức năng
thống trị của giai cấp và chức năng xã hội. Chức năng thống trị của giai cấp
nói lên rằng bất cứ nhà nước nào cũng là công cụ chuyên chính của một giai
cấp, sẵn sàng sử dụng mọi công cụ, biện pháp có thể để bảo vệ sự thống trị
của giai cấp đó. Chức năng xã hội của nhà nước nói lên rằng bất cứ nhà nước
nào cũng phải thực hiện việc quản lý những hoạt động chung vì sự tồn tại của
xã hội. Hai chức năng này có mối quan hệ qua lại với nhau, chức năng xã hội
là cơ sở của sự thống trị chính trị và sự thống trị chính trị còn kéo dài chừng
nào nhà nước còn thực hiện chức năng xã hội của nó.
Đồng thời, nhà nước với tư cách là đại biểu cho chủ quyền của một
quốc gia còn thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại. Chức năng đối nội của
nhà nước là duy trì trật tự xã hội theo lợi ích của giai cấp cầm quyền. Nhà
nước xây dựng và thực thi các chính sách, sử dụng quân đội, cảnh sát, bộ máy
tuyên truyền và các công cụ khác nhằm duy trì và phát triển xã hội theo
9


những nguyên tắc và chuẩn mực nhất định. Nhà nước thực hiện chức năng đối
nội là chủ yếu, vì nó ra đời và tồn tại trước hết trên phạm vi quốc gia - dân
tộc. Chức năng đối ngoại của nhà nước là bảo vệ lãnh thổ quốc gia, trong một
số trường hợp là mở mang lãnh thổ quốc gia và quan hệ với các nước khác vì
lợi ích của giai cấp thống trị cũng như lợi ích quốc gia. Chức năng đối nội và
đối ngoại của nhà nước đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị.
d) Luận giải về vấn đề nhà nước tiêu vong
Theo Ăngghen, nhà nước tiêu vong cũng là một tất yếu như sự xuất
hiện của nó trong điều kiện xã hội nhất định. Ăngghen phân tích và đưa ra

những tiên đoán của mình về nhà nước và tổ chức xã hội trong tương lai, khi
mà lực lượng sản xuất đã phát triển cao, khi mà giai cấp bị áp bức tức giai cấp
vô sản trưởng thành để có thể tự giải phóng mình và giải phóng cho mọi
người bị bóc lột trong xã hội thì khi đó giai cấp sẽ tự tiêu vong và như thế nhà
nước cũng phải tiêu vong theo.
Ăngghen viết: "Nhà nước tồn tại không phải là mãi mãi từ ngàn xưa.
Đã từng có những xã hội không cần đến nhà nước, không có một khái niệm
nào về nhà nước và chính quyền nhà nước cả. Đến một giai đoạn phát triển
kinh tế nhất định, giai đoạn tất nhiên phải gắn liền với sự phân chia xã hội
thành giai cấp, thì sự phân chia đó làm cho nhà nước trở thành một tất yếu.
Bây giờ chúng ta đang bước nhanh đến gần một giai đoạn phát triển sản xuất,
trong đó sự tồn tại của những giai cấp nói trên không những không còn là một
sự tất yếu nữa, mà đã trở thành một trở ngại trực tiếp cho sản xuất. Những
giai cấp đó nhất định sẽ mất đi cũng như xưa kia, chúng nhất định phải xuất
hiện. Giai cấp mất đi thì nhà nước cũng không tránh khỏi tiêu vong theo. Xã
hội sẽ tổ chức lại nền sản xuất trên cơ sở liên hợp tự do và bình đẳng giữa
những người sản xuất, sẽ đem toàn thể bộ máy nhà nước xếp vào cái vị trí thật
sự của nó lúc bấy giờ. Tức là vào viện bảo tàng đồ cổ, bên cạnh cái xa kéo sợi
và cái rìu bằng đồng" [1;257-258].

10


Có nghĩa là giai cấp vô sản giành lấy nhà nước và biến những tư liệu
sản xuất thành sở hữu của xã hội, từng bước tự xoá bỏ mình với tư cách một
giai cấp, xoá bỏ sự khác biệt giai cấp và mọi sự đối lập giai cấp, đồng thời xoá
bỏ cả nhà nước. Khi nhà nước đã trở thành đại diện của toàn thể xã hội, không
còn giai cấp nào bị áp bức nữa, không còn đấu tranh sinh tồn cá nhân nữa, vai
trò của nhà nước sẽ mất dần đi. Nhà nước sẽ đi đến chỗ tự tiêu vong cũng là
một tất yếu khách quan khi nó đã hoàn thành vai trò lịch sử của mình, khi chủ

nghĩa cộng sản văn minh được hoàn thành.
Trong tác phẩm này Ăngghen còn bàn về các hình thức nhà nước và
cho rằng hình thức cộng hoà dân chủ là hình thức nhà nước ngày càng trở nên
tất yếu đối với chúng ta, vì hình thức nhà nước đó không chính thức thừa
nhận sự chênh lệch về của cải nữa mà của cải chỉ có thể phát huy quyền lực
của nó một cách gián tiếp. Chừng nào giai cấp vô sản chưa trưởng thành đến
mức có thể tự giải phóng, thì phần lớn họ sẽ xem chế độ hiện tồn như một chế
độ duy nhất có thể có được về mặt chính trị. Nhưng khi giai cấp vô sản đã
trưởng thành thì nó tự tổ chức thành một đảng riêng biệt và cái ngày mà cái
nhiệt kế đầu phiếu phổ thông chỉ điểm sôi trong những người công nhân, thì
họ cũng như các nhà tư bản sẽ biết phải làm gì.
3. Ý nghĩa của tác phẩm và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt
Nam vào công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do
dân vì dân.
Tác phẩm "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà
nước" của Ăngghen ra đời có những ý nghĩa sâu sắc không chỉ cho phong trào
cộng sản quốc tế khi đó mà vẫn còn đầy ắp giá trị cho tới ngày nay.
Một là, khi nghiên cứu tác phẩm cho chúng ta những căn cứ khoa học
để hiểu lý luận về CNXH khoa học, về Nhà nước xã hội chủ nghĩa và để bảo
vệ nó.
Giai cấp tư sản tuyên truyền rằng chế độ tư hữu là cái thiêng liêng vốn
có từ khi có xã hội loài người và nó sẽ tồn tại vĩnh viễn với xã hội loài người;
11


rằng gia đình tư sản là hình thức gia đình vốn có từ khi có xã hội loài người
và đó là gia đình bình đẳng, hạnh phúc, tự do; rằng nhà nước là cơ quan điều
hòa quyền lợi giữa các giai cấp cùng tồn tại trong một thiết chế xã hội và nhà
nước tư sản là nhà nước có chế độ dân chủ tốt đẹp nhất cần được bảo vệ vĩnh
viễn. Nội dung tác phẩm cung cấp cho cúng ta cơ sở khoa học để vạch trần

những quan điểm phản khoa học của các nhà lý luận tư sản. Xây dựng cho
giai cấp công nhân và nhân dân lao động những quan điểm đúng đắn nhằm lật
đổ giai cấp tư sản, xây dựng chế độ xã hội mới, xây dựng quan hệ sản xuất
mới, xây dựng nhà nước mới - nhà nước chuyên chính vô sản - xây dựng xã
hội mới tốt đẹp hơn với các quan hệ tình yêu hôn nhân và gia đình hoàn toàn
trong sáng.
Hai là, tác phẩm "Nguồn gốc gia đình của chế độ tư hữu và của nhà
nước" đã bổ sung và làm phong phú những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản
khoa học, về cuộc cách mạng vô sản tác phẩm đã chỉ ra rằng cuộc cách mạng
vô sản tất yếu sẽ xảy ra trên cơ sở sức sản xuất trong lòng chế độ tư bản chủ
nghĩa đã phát triển cao. Cuộc cách mạng vô sản sẽ xóa bỏ quan hệ sản xuất
TBCN đang là vật cản sự phát triển của lực lượng sản xuất, xóa bỏ chế độ tư
hữu và sự phân chia giai cấp trong xã hội. Cuộc cách mạng vô sản là cuộc
cách mạng thực sự giải phóng con người, xây dựng xã hội mới bình đẳng và
bắc ái. Về những điều kiện kinh tế - xã hội để xây dựng CNXH và CNCS, tác
phẩm đã cho chúng ta thấy rõ vai trò của sản xuất trong tiến trình phát triển xã
hội nói chung, xã hội XHCN, xã hội cộng sản chủ nghĩa nói riêng. Vai trò của
việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH, vai trò của công nghiệp hóa
đối với toàn bộ nền kinh tế và đời sống xã hội XHCN. Mặt khác tác phẩm
giúp chúng ta xây dựng những quan điểm đúng đắn về tình người, hôn nhân
và gia đình trong CNXH, quan điểm đạo đức mới về vận động, về bình đẳng,
bắc ái giữa các dân tộc, về sự nghiệp giải phóng phụ nữ, xây dựng được tình
cảm cách mạng, lòng tin vào sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân.

12


Ba là, Khi nghiên cứu tác phẩm chúng ta học tập được một mẫu mực về
phương pháp nghiên cứu khoa học. Ăngghen đã kết hợp nhuần nhuyễn phương
pháp lôgíc và phương pháp lịch sử, sử dụng tài liệu một cách chính xác để

dựng lại hết sức tài tình, sinh động quá trình phát triển của xã hội loài người
qua các thời đại trên cơ sở của sự phát triển của sản xuất. Ăngghen còn cho
chúng ta một mẫu mực về thái độ khách quan của người nghiên cứu khoa học.
Đó là sự trân trọng đối với thành quả của các nhà khoa học đương thời
(Bocophen, Maclenan, Moóc gan...) tiếp thu có phê phán những kết quả của họ.
Trong giai đoạn hiện nay, tác phẩm v ẫn còn là một tài liệu rất quý đối
với chúng ta, lnó khẳng định con đường phát triển tất yếu của lịch sử là chế
độ mới - chế độ XHCN, cộng sản chủ nghĩa văn minh nhất định sẽ được thiết
lập, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp giải phóng loài người, phù hợp với quy
luật phát triển của lịch sử. Xây dựng lòng tin vào sự tất thắng của sự nghiệp
đổi mới, của nước ta do Đảng ta lãnh đạo đúng như Lênin khẳng định: Tác
phẩm này là cuốn sách gối đầu giường của những người cộng sản giác ngộ.
Trong điều kiện hiện nay khi mà CNXH đang lâm vào thoái trào, công cuộc
đổi mới ở nước ta đang trong giai đoạn khó khăn với nhiều thách thức và
nguy cơ thì tác phẩm đã giải thích và khẳng định con đường phát triển tất yếu
của lịch sử nhân loại là đi lên CNXH. Tác phẩm đã hướng dẫn cuộc cách
mạng, xây dựng lòng tin vào sự thắng lợi tất yếu của cách mạng vô sản, giúp
chúng ta vững tin và bước tiếp trên con đường cách mạng mà chúng ta đã
lựa chọn.
Trong thời đại mới với điều kiện hoàn cảnh mới với nhiều khó khăn,
nguy cơ và thách thức thì việc Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn kiên định con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội với mục tiêu xây dựng xã hội ta trở thành một
xã hội: "Công bằng, dân chủ, văn minh" chính là sự vận dụng đúng đắn, sáng
tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư
tưởng lý luận trong tác phẩm "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và
của nhà nước" nói riêng. Bởi vì chỉ khi xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
13


và chủ nghĩa cộng sản trên đất nước ta thì mới thực sự hoàn thành cuộc cách

mạng giải phóng con người, xây dựng một xã hội thực sự bình đẳng, bác ái.
Trong hoàn cảnh đất nước ta hiện nay, khi mà trình độ phát triển kinh
tế còn hạn chế thì tất yếu còn tư hữu, còn giai cấp và vì thế muốn phát triển
kinh tế xã hội thì Đảng Cộng sản Việt Nam xác định còn phải tồn tại nhiều
hình thức sở hữu với nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong suốt thời kỳ
quá độ.
Vấn đề Đảng ta xác định nhiệm vụ trọng tâm trong việc xây dựng thành
công CNXH ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là thực hiện thành công
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước bởi vì như Ăngghen đã chỉ
ra trong tác phẩm là sự phát triển của xã hội chính là sự phát triển của sản
xuất. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa chính là việc xây dựng lực lượng sản
xuất phát triển, tiên tiến nhằm tạo năng suất lao động tăng cao để thúc đẩy xã
hội phát triển. Đây là điều kiện tiên quyết để xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội ở nước ta.
Đảng ta xác định cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay là còn rất
lâu dài và phức tạp. Cuộc đấu tranh ấy đang diễn ra trong điều kiện mới, bằng
những hình thức mới với: "Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong
giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo kém
phát triển; thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh
ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực sai trái; đấu
tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù
địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ
nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc" [2, tr.86].
Trong giai đoạn cách mạng ở nước ta hiện nay, chúng ta đang thực hiện
công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, đặc biệt là trong việc cải cách tổ chức
hoạt động của bộ máy nhà nước theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa - nhà nước pháp quyền của dân do dân và vì dân thì việc tìm
14



hiểu và vận dụng những tư tưởng, quan điểm của Ăngghen trong tác phẩm
"Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước" là một việc làm
cần thiết. Bởi vì:
Thứ nhất, về mặt nhận thức tư tưởng, cần phải khẳng định nhà nước là
của một giai cấp thống trị trong xã hội. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước
ta hiện nay, nhà nước ấy là nhà nước của giai cấp công nhân song có sự liên
minh chặt chẽ với giai cấp nông dân và các tầng lớp trí thức, tức là ý chí
nguyện vọng của giai cấp công nhân phù hợp với ý chí nguyện vọng của toàn
thể nhân dân lao động trong xã hội. Do đó trong xây dựng và hoàn thiện nhà
nước phải giữ vững và phát huy bản chất giai cấp công nhân của nhà nước,
phải xây dựng nhà nước thực sự là nhà nước của dân do dân và vì dân, do
Đảng Cộng sản lãnh đạo. Nhà nước ấy phải thể hiện và bảo vệ ý chí, lợi ích
và nguyện vọng chính đáng của toàn thể nhân dân lao động.
Thứ hai, là phải xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ vì pháp
luật là công cụ hữu hiệu để nhà nước quản lý xã hội, tăng cường pháp chế xã
hội chủ nghĩa, giữ vững kỷ cương tạo môi trường trong sạch lành mạnh trong
xã hội, tạo điều kiện để mọi người dân lao động cùng tham gia hoạt động xây
dựng pháp luật.
Thứ ba, là phải phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa vì nhà nước ta là nhà
nước của dân do dân và vì dân, nâng cao chất lượng dân chủ đại diện, mở
rộng và thực hiện chế độ dân chủ trực tiếp, tạo điều kiện cho nhân dân lao
động cùng tham gia hoạt động quản lý của nhà nước. Nâng cao chất lượng và
hiệu quả kiểm tra giám sát của nhà nước và của nhân dân đối với hoạt động
của nhà nước, phải xây dựng nhà nước Việt Nam theo hướng nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam.
Thứ tư là phải xây dựng những điều kiện kinh tế - xã hội nhằm bảo
đảm cho sự thắng lợi của công cuộc xây dựng XHCN đó ở Việt Nam, phải
tiếp tục công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước mà nhất là công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, từng bước thực hiện công

15


bằng trong xã hội, xóa bỏ khoảng cách giàu nghèo, khoảng cách giữa thành
thị và nông thôn. Trong quá trình đó phải thấy vai trò quan trọng, quyết định
của lực lượng sản xuất, phải tiếp tục xây dựng lực lượng sản xuất, coi đó là
yếu tố quyết định cho sự thành công của công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa
mà yếu tố quan trọng, yếu tố trung tâm là xây dựng con người mới xã hội chủ
nghĩa, con người của bình đẳng bác ái, yêu lao động, căm ghét bóc lột, bất
công, con người với tình cảm cách mạng trong sáng lành mạnh và tin tưởng
vào sự nghiệp đổi mới mà Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo,
con người với tinh thần nghiêm túc, mẫu mực trong nghiên cứu khoa học luôn
cầu thị, có chí tiến thủ luôn sống với phương châm mình vì mọi người, biết
yêu với tình yêu trong sáng, trân trọng những giá trị đích thực của nhân loại.
Thứ năm là phải tiếp tục gìn giữ và xây dựng những giá trị truyền thống
tốt đẹp của gia đình Việt Nam - tế bào của xã hội. Gia đình phải được xây
dựng trên cơ sở hôn nhân tự nguyện tiến bộ, trên cơ sở tình yêu nam nữ trong
sáng lành mạnh. Chỉ có thế mới thực hiện được tốt hơn sự nghiệp giải phóng
phụ nữ, bảo đảm bình đẳng nam nữ, thực hiện tốt việc xây dựng "Gia đình
văn hóa mới" tạo cơ sở quan trọng để xây dựng con người mới xã hội chủ
nghĩa cho xã hội tương lai.
Đó là những công việc lớn mà chúng ta cần phải làm để xây dựng xã
hội ta trở thành xã hội dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn
minh, đưa đất nước ta đi lên xã hội chủ nghĩa dựa trên nền tảng tư tưởng của
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

16


KẾT LUẬN

Với tác phẩm này, Ăngghen đã trả lời một cách khoa học câu hỏi nhà
nước là gì, nó xuất hiện như thế nào và trên cơ sở nào, tại sao trong các thời kỳ
lịch sử khác nhau, nhà nước lại có các hình thức và vai trò khác nhau. Chỉ ở
đâu có giai cấp, mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp thì mới có nhà nước.
Nhà nước xuất hiện là do những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà. Nhà
nước là cơ quan thống trị của một giai cấp này đối với một số giai cấp khác,
nhà nước có bản chất giai cấp của nó. Từ việc chỉ ra nguồn gốc xuất hiện nhà
nước, bản chất giai cấp của nhà nước và tính chất bóc lột, áp bức giai cấp của
các kiểu nhà nước chủ nô, phong kiến và tư sản, Ăngghen nêu lên quan điểm
về một nhà nước kiểu mới - nhà nước của giai cấp vô sản khác về chất so với
các kiểu nhà nước áp bức, bóc lột và bác bỏ những quan điểm phản khoa học
về vấn đề nhà nước.
Những luận điểm của Ăngghen về nhà nước trong tác phẩm này thể
hiện sự phát triển và hoàn chỉnh về cơ bản và có hệ thống các quan điểm của
chủ nghĩa Mác về vấn đề nhà nước. Dựa trên quan điểm duy vật về lịch sử và
các sự kiện lịch sử, Ăngghen đã chứng minh các hình thức quan hệ gia đình
và quan hệ sở hữu, các hình thức giai cấp và nhà nước là do lịch sử quy định
và thay đổi theo lịch sử. Những luận điểm này trở thành cơ sở lý luận cho
cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các
nước trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân và đế quốc những năm
cuối của thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đến nay

17


DANH MỤC THAM KHẢO
1. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001


18


MỤC LỤC

19



×