Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Tư tưởng tự do trong thơ Puskin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.2 KB, 33 trang )

Tư tưởng tự do trong thơ Puskin
MỞ ĐẦU..........................................................................................................................................................2
CHƯƠNG 1: VÀI NÉT VỀ CUỘC ĐỜI PUSKIN VÀ NHỮNG TÁC PHẨM CỦA ÔNG.........................3
1.1.

Vài nét về cuộc đời Pushkin............................................................................................................3

1.1.1.

Thời thơ ấu...............................................................................................................................3

1.1.2.

Thời niên thiếu.........................................................................................................................3

1.1.3.

Thời đi đày...............................................................................................................................4

1.1.4.

Thời trở về Sankt – Peterburg..................................................................................................5

1.1.5.

Thời cuối – đấu súng................................................................................................................5

1.2.

Một số nội dung nổi bật trong thơ ca của Pushkin..........................................................................5


1.2.1.

Tụng ca tự do...........................................................................................................................5

1.2.2.

Lòng yêu mến thiên nhiên, xứ sở............................................................................................6

1.2.3.

Tình yêu....................................................................................................................................6

CHƯƠNG 2: KHÁI NIỆM TƯ TƯỞNG TỰ DO. TƯ TƯỞNG TỰ DO TRONG NGHỆ THUẬT............7
2.1.

Khái niệm về tự do...........................................................................................................................7

2.2 Tư tưởng tự do trong nghệ thuật và văn học.........................................................................................8
2.2.1

Tư tưởng tự do trong nghệ thuật..............................................................................................8

2.2.2

Tư tưởng tự do trong văn học..................................................................................................8

CHƯƠNG 3: TƯ TƯỞNG TỰ DO TRONG CÁC TÁC PHẨM THƠ CA CỦA PUSHKIN.....................11
3.1.

Tư tưởng tự do - một nội dung đặc sắc trong thơ trữ tình của Pushkin........................................11


3.1.1.

Sự giải phóng bản thể khỏi những ràng buộc........................................................................11

3.1.2.

Đấu tranh chống lại sự chuyên chế của chính quyền............................................................12

3.1.3.

Tự do trong nội tại.................................................................................................................14

3.1.4.

Khát vọng tự do ẩn nấp dưới các biểu tượng từ thiên nhiên.................................................15

3.1.5 Sự tự do của tình yêu....................................................................................................................16
3.2 Tư tưởng tự do – bước chuyển mình của Puskin từ văn học cổ điển sang văn học lãng mạn và văn
học hiện thực..............................................................................................................................................19
CHƯƠNG 4: TƯ TƯỞNG TỰ DO TRONG TÁC PHẨM NGƯỜI TÙ KAVKAZ....................................21
4.1.

Hình ảnh người thanh niên khao khát sự tự do.............................................................................21

4.2.

Tình yêu tự do, phóng khoáng của cô gái Tsecketx......................................................................22

4.3 Tư tưởng tự do trong trường ca Người tù Kavkaz - tư tưởng của chủ nghĩa lãng mạn.....................23



CHƯƠNG 5: TƯ TƯỞNG TỰ DO TRONG TÁC PHẨM ĐOÀN NGƯỜI TSIGAN...............................24
5.1 Aleko, con người trốn chạy khỏi xã hội đang sống để tìm kiếm tự do...............................................24
5.2 Tự do trong tình yêu (của cô gái thảo nguyên Demphira)..................................................................26
5.3 Tự do của con người chiêm nghiệm (Lão Trượng).............................................................................27
5.4 Tư tưởng tự do trong trường ca Đoàn người Tsigan - đập bể ảo tưởng tự do, dấu ấn của văn học
hiện thực trong văn chương Puskin...........................................................................................................28
KẾT LUẬN....................................................................................................................................................29
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................................................................30
BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC.............................................................................................................31


MỞ ĐẦU
Văn chương không phải là tư tưởng. Nhưng văn chương chắc chắn chứa tư tưởng.
Lựa chọn, viết gì, viết thế nào nếu không phải là một phút lóe sáng của tâm thức
thì đều mang dấu ấn tư tưởng người sáng tác. Tư tưởng là gì, là tư tưởng của chính
người viết, là tư tưởng người viết hướng đến, là chính nó? Tự do là một loại tư
tưởng. Nhiều tác giả có tư tưởng tự do. Nhiều tác giả viết về tư tưởng tự do. Còn
bản thân tự do vẫn luôn là một tư tưởng cần, có, tồn tại trong đời sống. Sáng tác
của Pushkin - Đại thi hào Nga - lấy tư tưởng tự do làm mạch nguồn chính, đặc biệt
là những sáng tác giai đoạn đầu. Thơ trữ tình, trường ca Người tù Kavkaz, trường
ca Đoàn người Tsigan của Pushkin khai thác dưới góc nhìn tư tưởng, tư tưởng tự
do sẽ hiện lên những hình hài gì?


CHƯƠNG 1: VÀI NÉT VỀ CUỘC ĐỜI PUSKIN VÀ NHỮNG TÁC PHẨM CỦA
ÔNG.
1.1. Vài nét về cuộc đời Pushkin
1.1.1. Thời thơ ấu

Pushkin sinh ngày 6 tháng 6 năm 1799 trong gia đình quý tộc ở thành phố Moskva.
Cha ông là hậu duệ của gia đình dòng dõi Boyar cũ, mẹ ông thuộc dòng dõi của
người Arap nổi tiếng Abram Hannibal.
Pushkin được học tiếng Pháp và sử dụng nó như ngôn ngữ chính trong gia đình.
Nhưng dấu ấn văn hóa Nga vẫn luôn tồn tại trong con người ông. Thời thơ ấu, ông
được tiếp xúc với văn hóa Nga từ những lời dạy bảo của bà ngoại thuộc tầng lớp
quý tộc xưa và đặc biệt là được nghe những bài ca, chuyện cổ tích dân gian Nga từ
nhũ mẫu Arina.
1.1.2. Thời niên thiếu
Thời niên thiếu Pushkin sớm được gặp gỡ, giao lưu với các nhà văn, nhà thơ nổi
tiếng thường xuyên lui tới gia đình ông.
Năm 1811 – 1817, ông theo học ở trường học tiến bộ dành cho con em quý tộc là
Hoàng Thôn. Ở đây ông đã sớm khẳng định được bản thân mình, một cây bút tài
năng. Thời gian theo học tại đây, chứng kiến cuộc chiến của Nga hoàng với quân
Pháp, ông sớm cho ra đời bài “Hồi tưởng ở Hoàng thôn” và được Derzhavin tôn
vinh.
Năm 1820, ông bắt đầu khám phá và sáng tác thể loại trường ca và đem đến cho nó
một màu sắc mới với những cốt truyện có yếu tố kì ảo, giọng văn hài hước, sợi dây
liên kết giữa tinh thần ngày xưa và tinh thần thời đại mới. Cung tronslag thời gian
này, mâu thuẫn xã hội trở nên gay gắt, với cái nhìn dân chủ, ông sáng tác những tác
phẩm kêu gọi nhân dân đứng lên đấu tranh. Với tất cả tài năng và niềm tin, nhiệt
huyết ông cho ra đời các trường ca và các bài thơ tiêu biểu trong giai đoạn này
như:
Trường ca Ruslan và Lutmila
Gửi Chaadaev (1818)


Tự do (1818)
Làng (1819)
1.1.3. Thời đi đày

Năm 1820 – 1824, do những tác phẩm công kích chính quyền, kêu gọi kháng
chiến, Pushkin bị đầy đi phương Nam. Tại đây ông cho ra đời rất nhiều trường ca
và tác phẩm thơ đậm tinh thần tự do, như:
Trường ca Người tù Kavkaz (1821)
Lệ đài Bakhchisarai (1823)
Tiểu thuyết bằng thơ Evgheni Oneghin (1823)
Trường ca Những người Zigan (1824)
Bắt chước kinh Koran (1824)
1824 – 1826 Pushkin bị đày lên phương Bắc ở trang trại Mikhailovskoie dưới sự
quản thúc của gia đình. Từ đây ông cũng từ biệt chủ nghĩa lãng mạn để thực sự
bước chân vào con đường của chủ nghĩa hiện thực. Giai đoạn ở đây ông đặc biệt
quan tâm đến mối quan hệ và vai trò của cá nhân, nhân dân đối với lịch sử. Các tác
phẩm tiêu biểu:
Gửi biển (1824 – bài thơ từ biệt chủ nghĩa lãng mạn)
Chú rể (1825)
Kịch lịch sử Boris Godunov (1825)
Gửi K (1825)
Evgheni Oneghin (hoàn tất chương 5, 6 – cuối 1825 – đầu 1926)
Những bài ca về Atenka Razin (1826)
Sau đó ông được Nga hoàng ân xá và trở về sống ở Moskva. Năm 1831 với ông là
năm có nhiều sự kiện quan trọng. Đầu tiên là ông được gặp gỡ nhà văn nổi tiếng
người Nga Gogol, họ có ảnh hướng rất lớn tới nhau trong sáng tác nghệ thuật. Thứ
hai, ông kết hôn với Natalia Goncharova, người đem đến nguồn cảm hứng sáng tác


rất lớn cho ông. Cuối cùng, ông hoàn thành tiểu thuyết thơ Evgheni Oneghin sau 8
năm theo đuổi.
1.1.4. Thời trở về Sankt – Peterburg
Năm 1833 ông trở lại Sankt – Peterburg. Ở đây ông cùng một số người bạn lập ra
tờ tạp chí “Người đương thời” nhưng tờ báo hoạt động không tốt dẫn đến rất nhiều

khó khăn. Giai đoạn này thì tác phẩm của Pushkin vẫn còn bị kiểm soát nhưng đã
được nới lỏng hơn so với những giai đoạn trước. Ông bắt đầu nghiên cứu và sáng
tác văn xuôi. Các tác phẩm tiêu biểu cho giai đoạn này là:
Con đầm Pich (1833)
Kỵ sĩ đồng (1833)
Người con gái viên đại úy (1836)
1.1.5. Thời cuối – đấu súng
Nga hoàng vẫn luôn e ngại những tác phẩm của Pushkin cho nên đã âm mưu tung
tin đồn ngoại tình của vợ Pushkin với một sĩ quan kỵ binh trong quân đội của
mình. Pushkin tức giận và thách đấu súng với viên sĩ quan đó, cuối cùng bị tử
thương từ cuộc đọ súng này. Ông mất vào ngày 10 tháng 2 năm 1837, để lại cho
nên văn học Nga và văn học thế giới một khối lượng tác phẩm đồ sộ.
Ra đi khi mới 38 tuổi nhưng chỉ với nhiêu đó đã đủ đưa ông trở thành Mặt trời thi
ca Nga, là người “khởi đầu của mọi khởi đầu trong văn học Nga” (M. Gorki).
Trong hơn 20 năm sáng tác ông để lại hơn 800 bài thơ thuộc nhiều thể loại khác
nhau: tụng ca, bi ca, tráng ca, trào phúng, tình ca, thư bằng thơ, … và nhiều trường
ca, tiểu thuyết bằng thơ, kịch, tác phẩm văn xuôi.
1.2.

Một số nội dung nổi bật trong thơ ca của Pushkin

Ở đất nước của Pushkin, ông được mệnh danh là “mặt trời thi ca Nga”. Và dù trong
sự nghiệp văn chương của mình, ngoài thơ, ông còn chạm tay đến các thể loại:
truyện ngắn, kịch, tiểu thuyết... nhưng nhìn chung thơ ca của ông vẫn chiếm vào
một vị trí hết sức quan trọng. Thế giới thơ ca Pushkin tựu chung có thể gom lại
thành 4 nội dung chính.
1.2.1. Tụng ca tự do


Sống ở “thế kỷ bạo tàn” của Nikolai II nên tự do đối với Pushkin là một điều vô

cùng quý giá. Tinh thần yêu tự do, chống chế độ độc tài được thể hiện trong rất
nhiều bài thơ của Puskin. Ông đã đốt lên trong ngọn lửa chiến đấu, thổi bùng lên
tinh thần cách mạng. Đây chính là đề tài quan trọng trong thơ của Pushkin.
1.2.2. Lòng yêu mến thiên nhiên, xứ sở
Trong thơ trữ tình của Pushkin, số lượng bài thơ, câu thơ viết về thiên nhiên chiếm
một khối lượng khá lớn. Có thể nói, thiên nhiên có sức ảnh hưởng rất lớn đến nhà
thơ. Cách Pushkin nói về thiên nhiên đã thể hiện trọn vẹn cái thần của xứ sở Nga,
nét đặc trưng của thiên nhiên Nga. Trong thơ ông, người ta chỉ nhận ra những cảnh
sắc chỉ riêng có ở nước Nga chứ không phải ở một xứ sở nào khác. Do vậy, thiên
nhiên trong thơ Pushkin mang tính chất tư liệu, góp phần tạo nên giá trị cho các bài
thơ.
1.2.3. Tình yêu
Thế giới nhớ đến Pushkin với tên tuổi là một nhà thơ tình vĩ đại. Dường như tình
yêu là một sức hút khó cưỡng đối với những con người khắp nơi trên thế giới. Mà
thơ tình của Pushkin được mọi người biết đến rộng rãi là vì sự tự do của tình yêu
trong các tác phẩm của ông, tính nhân văn, các cung bậc của tình yêu được nhà thơ
khai thác đến mức tột cùng.


CHƯƠNG 2: KHÁI NIỆM TƯ TƯỞNG TỰ DO. TƯ TƯỞNG TỰ DO TRONG
NGHỆ THUẬT.
2.1. Khái niệm về tự do
Trong nhiều ngôn ngữ phương Tây, từ tự do xuất phát từ liber của tiếng Latinh, có
nghĩa tự do, không phải nô lệ. Từ này đi liền với từ liberty trong tiếng Anh và khái
niệm tự do. Tự do là một khái niệm rất rộng, quy chiếu tự do dưới mỗi phương
diện của nó sẽ cho ra một định nghĩa cụ thể không trùng lặp. Hai phương diện của
tự do được bàn luận và chú ý đến nhiều nhất chính là triết học và xã hội. Triết học
chú ý đến vấn đề nội tại về tự do của con người (một ví dụ cụ thể là Tự do của Ý
chí), còn xã hội, chủ yếu chú ý đến những vấn đề bên ngoài: “bản chất và các giới
hạn của quyền lực mà xã hội có thể thực thi một cách chính đáng đối với cá nhân”

(John Stuart Mill 2005, 19). Trong bài tập này, chúng tôi lựa chọn định nghĩa tự do
từ góc độ xã hội.
Trong tác phẩm nổi tiếng Bàn về tự do, John Stuart Mill đã viết trong lời mở đầu:
“Cuộc đấu tranh giữa Tự do và Quyền uy là đặc trưng nổi bật nhất trong phần lớn
lịch sử chúng ta sớm biết đến, đặc biệt là trong lịch sử Hy Lạp, La Mã và nước
Anh” (John Stuart Mill 2005, 19). Thời cổ xưa, những cuộc đấu tranh này được thể
hiện qua các cuộc tranh đoạt giữa dân chúng hay một vài giai tầng của dân chúng
với chính quyền. Và quyền tự do, trong suốt thời gian dài, thậm chí cho đến bây
giờ, vẫn được hiểu là sự bảo vệ, chống lại các ý thức chuyên chế của những kẻ
nắm chính trị.
Chủ nghĩa tự do của con người hiện đại phủ nhận nhiều giả thuyết nền tảng đã
thống trị các lý thuyết đầu tiên về nhà nước, chẳng hạn như thần quyền của vua
chúa, vị trí có được do thừa kế và quốc giáo. Những quyền căn bản của con người
mà tất cả những người theo chủ nghĩa tự do đều ủng hộ là quyền được sống, quyền
tự do và quyền sở hữu tài sản.
Tư tưởng tự do nhấn mạnh đến quyền cá nhân. Nó đi tìm kiếm một xã hội tôn
trọng tự do tư tưởng cho mỗi cá nhân, quyền lực (nhất là của nhà nước và tôn giáo)
được hạn chế, pháp trị, tự do trao đổi tư tưởng, một nền kinh tế thị trường hỗ trợ
doanhnghiệp tư nhân tự do, và một hệ thống chính phủ minh bạch trong đó các
quyền của người dân phải được bảo vệ.



2.2 Tư tưởng tự do trong nghệ thuật và văn học
2.2.1 Tư tưởng tự do trong nghệ thuật
Không phải chính trị hay khoa học, chính nghệ thuật lại là phạm trù quan tâm đến
tự do nhất. Tự do và nghệ thuật như một quả cam mọng nước, bao bọc lấy nhau và
duy trì cho nhau được tồn tại, như lời tuyên bố của Albert Camus “Không có tự do,
không có nghệ thuật; nghệ thuật chỉ sống dựa vào sự gò bó nó tự tạo nên cho mình,
và sẽ chết dưới mọi dạng khác”. Với một mong muốn về cuộc sống bình đẳng, con

người được hưởng sự sống tuyệt vời với tất cả quyền lợi của mình, các nhà làm
nghệ thuật đã nhắc đến vấn đề tự do trong rất nhiều tác phẩm của mình. Ý niệm
này toát ra từ Picasso khi ông sáng tạo những bức tranh khỏa thân nổi tiếng như
Những người phụ nữ Algiers, Lá xanh, Khỏa thân và bầu ngực. Hoặc như trong
lịch sử các tác phẩm hội họa kinh điển của nền mỹ thuật Pháp, bức La Liberté
guidant le peuple (Nữ thần Tự do dẫn dắt người dân) của danh họa Pháp Eugène
Delacroix luôn được xem là tác phẩm đắt giá, ghi lại được tinh thần của Cách
mạng Pháp. Tác phẩm Nữ thần Tự do dẫn dắt người dânđã khắc họa lại sự kiện
Cách mạng Tháng 7 (1830) của nước Pháp, nhưng khi bình luận về bức tranh này,
người ta thường nhìn nhận sự kiện tháng 7 chỉ như một cái cớ để danh họa
Delacroix sáng tác, còn bản thân bức tranh đã vượt ra khỏi ý nghĩa của một sự kiện
cụ thể, để vươn lên tầm vóc của một bức tranh khái quát nên những biểu tượng lớn
lao của nước Pháp. Hay như người đàn ông “đã tạo ra những sự diễn đạt thi vị theo
cách mới trong truyền thống ca khúc tuyệt vời của Mỹ” - Bob Dylan đã đưa những
vấn đề về tự do xuất hiện liên tục trong các tác phẩm âm nhạc của mình: “How
many years must a mountain exist before it is washed to the sea? How many years
can some people exist before they're allowed to be free?” (Tạm dịch: Bao nhiêu
năm núi vẫn ung dung, cho đến một ngày núi sẽ nằm dưới biển? Bao nhiêu lâu ta
sẽ sống, nhưng đến một ngày mới thật sự tự do?)
2.2.2 Tư tưởng tự do trong văn học
Hoàng đế Marcus Aurelius - một vị vua, triết gia lý tưởng - trong tác phẩm Suy
ngẫm, đã viết: “...ý niệm về một thực thể chính trị được quản lý theo cách sao cho
có quyền bình đẳng và có tự do bình đẳng trong ngôn luận, và ý niệm về một nhà
nước quân chủ tôn trọng tự do của những người bị trị...” – Marcus Aurelius
Antoninus Augustus, một trong những tác phẩm đầu tiên nói đến tự do. Trong
Những đứa con của tự do (Marc Levy) đi đến những khẳng định về những con


người khao khát tự do, trải qua bao nhiêu khó khăn của cuộc chiến với Đức quốc
xã, đối diện với cái chết, với thiếu thốn, ... nhưng họ vẫn hướng về mùa xuân của

tự do phía tương lai. Nhà thơ Nga nổi tiếng Mikhail Yuryevich Lermontov thường
xuyên viết về tự do đã từng lên tiếng:
“Я ищу свободы и покоя!
Я б хотел забыться и заснуть!”
(Tạm dịch: Tôi đi tìm tự do và tĩnh lặng
Tôi chỉ mong giá được ngủ và quên!)
Rồi tiếng lòng tha thiết và dữ dội của Paul Éluard:
“Trên quạnh hiu trần trụi
Trên bậc thềm cái chết
Ta viết tên em
Trên sức khỏe phục hồi
Trên hiểm nguy tan biến
Trên hy vọng chẳng nhớ nhung
Ta viết tên em
Và do phép màu một tiếng
Ta làm lại cuộc đời
Ta sinh ra để biết em
Để gọi tên em
TỰ DO”
(Tế Hanh dịch)
Tư tưởng tự do tồn tại trong văn học dưới hai dạng thức. Ở dạng thức thứ nhất, tư
tưởng (tự do) đóng vai trò là nội dung tạo nên tác phẩm văn học, song song với chủ


đề làm thành linh hồn của một tác phẩm. Dạng thức thứ hai, tư tưởng tự do tồn tại
trong ý thức của nhà văn. Ở dạng thức này, tư tưởng tự do giống như người truyền
cảm hứng, giúp phát huy tối đa sự sáng tạo chủ quan của người nghệ sĩ trong các
tác phẩm của họ. Hầu hết các văn bản văn học, khi đã trở thành một tác phẩm, đều
mang trong mình tư tưởng tự do ở dạng thức thứ hai. Bởi chính sự xuất hiện của
dạng thức này trong qua trình sáng tác và tiền sáng tác, tác phẩm mới thực sự thành

hình và đến được tay người đọc.
2.2.3


CHƯƠNG 3: TƯ TƯỞNG TỰ DO TRONG CÁC TÁC PHẨM THƠ CA CỦA
PUSHKIN
Tư tưởng tự do trong thơ ca của Pushkin thuộc về dạng thức thứ nhất của văn học.
Đây là một nội dung đặc sắc nhưng hết sức quan trọng mà người nghiên cứu thơ
ông bỏ qua trong quá trình khảo sát thì chắc chắn không thể đến gần được với văn
chương Pushkin.
3.1. Tư tưởng tự do - một nội dung đặc sắc trong thơ trữ tình của Pushkin
3.1.1. Sự giải phóng bản thể khỏi những ràng buộc
John Adam từng nói rằng: “Hãy để trí óc con người tự do. Nó phải được tự do. Nó
sẽ được tự do. Sự mê tín và giáo điều không thể giam cầm được nó.” Tư tưởng này
có lẽ được thể hiện sâu sắc nhất trong mảng thơ trữ tình của Pushkin. Có lẽ chủ đề
tự do được tập trung mãnh liệt nhất ở bài Tự do, ngay từ nhan đề tác giả đã chủ
đích hướng người đọc đi theo mạch nguồn của sự giải phóng khỏi những ràng
buộc. Những lời thơ đanh thép mà tha thiết rền rĩ:
“Hỡi nàng thơ kiêu hãnh của tự do?
Hãy tới gỡ hoa vinh dự khỏi đầu ta!
Tới đập tan cây đàn thơ ẻo lả!
Ta muốn ngợi ca tự do cho trần thế,
Ta muốn đập vào những tật xấu gian tham
Đang nghiễm nhiên ngự trị trên ngai vàng...”
(Tự do)
Đó không chỉ là tự do đơn thuần, mà đó là sự thoát ly khỏi những cái xấu xa và
đáng sợ đang thắt chặt cuộc sống đau khổ của con người. Pushkin ý thức được
nguồn gốc của sự mất tự do, hơn ai hết ổng hiểu cách để tìm thấy tự do. Nhà thơ
thất vọng về sự thụ động của người dân và những người đã quen và sẵn sàng sống
trong chế độ nô lệ. Muốn có tự do thì không còn cách nào khác là đấu tranh:

“Ôi! Nhìn bất cứ về đâu ta cũng thấy;
Những gông cùm, xiềng xích với roi da


Và lệ sầu thê thảm cuộc đời tù
Và tình cảnh tan hoang vòng pháp luật…”
(Tự do)
Ông nguyện làm một chú chim nhỏ mang sự tự do bay cao, làm làn sóng mạnh vỗ
mãi bài ca tự do, cả cuộc đời đấu tranh bền bỉ cho những áp bức. Để làm được điều
này không hề đơn giản. Đó phải là một trái tim thức nhận mạnh mẽ với hiện thực
cuộc sống, là một tâm hồn rung cảm với bao đau khổ kiếp người, và một trí tuệ
siêu việt cùng lòng can đảm. Chính những điều này đã thôi thúc Puskin viết nên
những câu thơ về tự do hay đến thế. Ông hiểu được rằng mình chính là Người gieo
giống tự do trên đồng vắng:
“Tôi ra đi từ sáng sớm tinh mơ
Bàn tay tôi trong trẻo ngây thơ
Gieo mầm sống trên luống cày nô dịch
Nhưng tôi chỉ phí thời gian vô ích
Cả tư tưởng và việc làm thiện chí của tôi
Nhân danh thanh bình, cứ gậm cỏ đi thôi!
Tiếng vinh dự không thể làm tỉnh giấc”
(Người gieo giống tự do trên đồng vắng)
3.1.2. Đấu tranh chống lại sự chuyên chế của chính quyền
Pushkin ý thức được nguồn gốc của sự mất tự do, hơn ai hết ổng hiểu cách để tìm
thấy tự do. Nhà thơ thất vọng về sự thụ động của người dân và những người đã
quen và sẵn sàng sống trong chế độ nô lệ. Muốn có tự do thì không còn cách nào
khác là đấu tranh:
“Ôi! Nhìn bất cứ về đâu ta cũng thấy;
Những gông cùm, xiềng xích với roi da
Và lệ sầu thê thảm cuộc đời tù



Và tình cảnh tan hoang vòng pháp luật…”
(Tự do)
Tự do chính là bản tuyên ngôn của các nhà cách mạng: lật đổ chế độ Nga hoàng.
Bài thơ mang một sức mạnh cổ vũ lớn lao trong cuộc đấu tranh giải phóng con
người bằng một niềm tin mãnh liệt. Kết thúc bài thơ Tự do ông viết:
“Tự do nhân dân và cuộc sống thanh bình
Sẽ là kẻ đứng canh muôn đời bên ngôi báu”
Pushkin đã liên tục đấu tranh bền bỉ và không biết mệt mỏi cho tự do, nhà thơ dám
lên tiếng chỉ đích danh những kẻ cướp đi sự sống con người, căm thù xã hội Nga
hoàng đáng sợ lúc bấy giờ. Không lâu trước khi đón nhận cái chết bi thương,
Puskin đã viết bài thơ bất hủ Đài kỷ niệm (1836) như một lời di chúc cho muôn vàn
thế hệ mai sau, như lời ca thiên nga bi tráng và bất diệt. Nhà thơ hiểu rằng cuộc đời
mình không uổng phí, sự nghiệp của mình sẽ sống mãi trong trái tim nhân loại:
“Ta đã dựng cho ta đài kỷ niệm
Không bởi sức tay người! Đường tới viếng
Cỏ không trùm dấu bước thế nhân,
Cao hơn cả trụ thờ Alếcxanđrơ bởi cái đầu bất trị.
Và nhân thế còn yêu ta mãi
Vì đàn thơ ta thức tỉnh thân ái
Vì trong thủa bạo tàn ta ca ngợi tự do
Và gợi từ tâm với kẻ sa cơ.”
(Đài kỷ niệm)
Với những vần thơ táo bạo, Pushkin đã phản ánh được tâm trạng sôi nổi cách mạng
của thanh niên, lòng yêu nước tha thiết, tinh thần lạc quan, hi vọng, thái độ cảm
thức sâu sắc bạo lực, uy quyền. Pushkin khẳng định rằng cuối cùng nhân dân sẽ
thắng mọi thế lực bạo tàn:



“Ta thấy trước với niềm vui cay độc
Cái chết của ngươi, của con cháu ngươi
Thế gian sẽ thấy trên trán của tên bạo chúa
Dấu vết của người đời nguyền rủa”
(Tự Do)
3.1.3. Tự do trong nội tại
Sự tự do trong tư tưởng sáng tác của Pushkin ta có thể nhận thấy tư tưởng ấy tràn
đầy trên những dòng thơ mang tinh thần lạc quan, kêu gọi nhân dân đứng lên đấu
tranh tự do. Trong nội tại tư tưởng của Pushkin đã có tư tưởng tự do trong suy nghĩ
về tinh thần của chính mình. Ta có thể bắt gặp trong những vần thơ mà Pushkin đã
sử dụng biểu tượng Thượng Đế, đại diên cho giải pháp tình thương và sự tự do
trong chính nội tại, tinh thần của bản thể và đó như là sự cứu rỗi con người trong
bầu không khí khi tự do bị trói buộc:
“Tôi cảm thấy lòng mình đầy an ủi
Còn việc chi mà phải trách ông xanh:
Khi có thể đem tự do kia tới
Trao tặng cho dù chỉ một kiếp sinh!”
(Con chim nhỏ)
Và trong những vần thơ Tượng đài:
“Ôi nàng thơ! Hãy lắng nghe thiên mệnh
Nguyệt quế không màng, hờn giận không hay
Khen chê người đời dửng dưng đón nhận
Và không luận bàn với kẻ ngủ say”
(Tượng đài)


Tư tưởng rũ bỏ mọi ý kiến, bình phẩm của người đời và đón nhận những điều cao
cả hơn. Điều đó là đã thể hiện sứ mệnh là “người gieo giống tự do” của Pushkin và
thể hiện được ý chí con người vượt lên mọi buồn đau tủi nhục của cuộc đời. Từ tự
do mà Pushkin hiểu không phải chỉ là xoá bỏ những bất công xã hội, tháo ách bóc

lột, mà ông quan tâm nhiều hơn đến tự do tinh thần, một trong những biểu hiện của
nó là sự an lạc của người dân trong những điều kiện nhân đạo.
“Ta sẽ mãi được nhân dân yêu quý
Bời đàn thơ ta ca ngợi tự do
Khơi bác ái giữa bạo tàn thế kỷ
Gợi nhân từ đến với phận rủi ro”
(Tượng đài)
Với tư tưởng tự do trong tinh thần của Pushkin, ông đã cho ra đời những bài thơ
mang đậm tinh thần tư tưởng tự do từ sâu trong bản thể và đặc là hướng tới giải
pháp tình thương của đấng cao xanh kho mà con người ta sống trong xã hội ngự trị
của vật chất và quyền lực.
3.1.4. Khát vọng tự do ẩn nấp dưới các biểu tượng từ thiên nhiên
Với phong vị thiên nhiên tươi đẹp và tình yêu nồng ấm của phương Nam đã tạo
nên những vần thơ cháy bỏng, rực lửa và sục sôi nhiệt huyết của Pushkin. Như
cánh chim bay trong bầu trời bao la và nắng ấm, cất cao tiếng hót :
“ Trong ngày hội tưng bừng đầu xuân thắm
Trả tự do cho chim nhỏ giam lồng
Tôi cảm thấy lòng mình đầy an ủi
Còn việc chi mà phải trách ông xanh:
Khi có thể đem tự do kia tới
Trao tặng cho dù chỉ một kiếp sinh”
(Con chim nhỏ)


Hay nhà thơ diễn tả cuộc sống của mình như một con chim tự do bây giờ phải sống
trong cái lồng chật hẹp:
“Bay, bay đi, ta loài chim tự do!
Bay về miền núi ngời sau mây xám,
Bay về vùng nước xanh phẳng lặng,
Bay về nơi chỉ có gió … và ta! ...”

(Người tù)
Pushkin trở thành ca sĩ của phương Nam, lời ca của ông ngập tràn khát vọng tự do
và tình yêu tổ quốc.
Bởi nặng tình với vùng đất phương Nam như vậy, bởi yêu cái phong vị phóng đãng
tự do nơi đây, nên khi rời buộc phải rời đi, để trở về phương Bắc để chịu sự quản
thúc gắt gao ở làng Mikhailopxkoie hẻo lánh, thi sĩ đã viết nên những vần thơ thay
cho lời giã từ ánh mặt trời chói lọi, giã từ sự sống tự do:
“ Hỡi thiên nhiên tự do, thôi từ biệt!
Trước mặt ta đây là bữa cuối cùng
Ngươi xô ngọn sóng xanh bát ngát
Chói ngời lên vẻ đẹp tráng hùng”
(Gửi biển)
Tác giả mượn thiên nhiên để nói lên khát vọng tự do của mình. Đối với Pushkin,
biển là hiện thân của sức mạnh tự nhiên, là vẻ đẹp tự hào, là sinh lực đầy tự do. Từ
biệt biển, trở về với đất liền, nhà thơ cảm thấy thế là hết, mình không còn được tự
do nữa.
3.1.5 Sự tự do của tình yêu
Một bài báo Nga đã nêu ra 10 lý do để khiến tên tuổi đại thi hào Puskin trở nên lưu
danh muôn đời. Và chủ đề thơ ca tình yêu của ông là một trong những nguyên
nhân không thể thiếu. Viết về đề tài này thì bất cứ dân tộc nào, bất cứ đất nước nào
cũng có những cái tên nổi bật. Nhưng điều khiến thơ tình của Puskin khác với


những trang viết về tình yêu thường thấy đó là tư tưởng tự do xuất hiện trong thơ.
Tình yêu trong thơ Puskin cũng có đầy đủ các cung bậc cảm xúc như bao đôi lứa
đang yêu trải qua. Đó là ghen tuông, là giận hờn, là hi sinh, là chịu đựng, là hạnh
phúc. Nhưng ở những cung bậc đó đều mang màu sắc của tư tưởng tự do. Điều này
có thể tìm thấy rất nhiều, chẳng hạn như trong bài Tôi không phỉ báng những năm
tháng, Puskin đã viết:
“Tôi không phỉ báng những ngoại tình đẹp đẽ Một người xa lạ chu đáo, tôi tránh những xu hướng này.”

Với ông, “mọi ngoại tình đẹp đều là tình yêu”, tình yêu không thể bị bó hẹp trong
một khuôn khổ nhỏ hẹp hay của những rào cản thường tình. Nước Nga bấy giờ vẫn
là một quốc gia phong kiến, nói những điều về tình yêu theo kiểu của Puskin chắc
chắn sẽ khó được sự chấp nhận. Nhưng đó mới là tiếng nói của tình yêu, đó mới là
sự tự do trong cảm xúc yêu đương. Tư tưởng tự do này có thể bắt gặp trong trường
ca Đoàn người Tsigan. Với nhà thơ, tình yêu không đơn giản là cảm xúc giữa hai
người, nó còn là sự thăng hoa, sự cao đẹp, sự tuyệt đích và không thể thiếu sự tự
do. Ông đã từng viết nhiều bài thơ về biển, nhưng có lẽ bài thơ tình Biển là nơi ông
gởi gắm nhiều điều thi vị nhất:
“Tôi chưa ra biển bao giờ
Ngỡ biển xanh, xanh màu im lặng
Tôi chưa yêu bao giờ
Ngỡ tình yêu là ảo mộng
Ngày nay tôi đã ra biển rồi
Biển nhiều sóng to, gió lớn
Ngày nay tôi đã yêu rồi
Tình yêu nhiều khổ đau – cay đắng
Không gió lớn, sóng to không là biển
Chẳng nhiều cay đắng, chắng là yêu…”


Yêu phải có lúc mạnh mẽ, có lúc cay đắng, khi lại khổ đau. Nhưng yêu cũng như
biển cả kia, rộng lớn mà bao la, tự do nhưng hạnh phúc. Bởi vậy khi mất đi tình
yêu cũng như khi con người không còn tự do nữa. Khó có thể tìm thấy được nhà
thơ nào so sánh độc đáo như ông:
“Ngày ngày tiếp nối bay dần
Mỗi ngày đem mất một phần đời ta,
Hai ta đang sống đây mà…
Nhưng như đã chết, thân ra bụi rồi
Có đâu hạnh phúc em ơi,

Còn chăng yên tĩnh và đời tự do.”
(Em ơi…)
Tình yêu cần có tự do, ngay trong tình yêu con người phải được tự do, và tình yêu
chính là biểu hiện cao nhất của sự tự do. Ông đã từng tuyên bố: “Trong thời đại
độc ác của tôi, tôi ca ngợi tự do”. Và sự tự do sẽ là thiếu sót nếu bỏ qua tự do trong
tình yêu. Ông đề cao một tình yêu không toan tính, không vụ lợi, không chấp nhặt
những điều thường tình, chỉ yêu và mong người mình yêu có được hạnh phúc.
Điều này đã làm nên bài thơ bất hủ Tôi yêu em:
“Tôi yêu em: đến nay chừng có thể
Ngọn lửa tình chưa hẳn đã tàn phai
Nhưng không để em bận lòng thêm nữa
Hay hồn em phải gợn bóng u hoài
Tôi yêu em âm thầm, không hy vọng
Lúc rụt rè, khi hậm hực lòng ghen
Tôi yêu em, yêu chân thành, đằm thắm
Cầu em được người tình như tôi đã yêu em”


Tình yêu lúc này đã vượt thoát khỏi tình cảm nam nữ bình thường. Với một bài thơ
tình, ông còn gởi gắm ở đó những suy tư về tự do trong tình yêu, yêu không cần
đáp lại, sự tự do cho người mình yêu chính là biểu hiện cao đẹp nhất trong loại tình
cảm phức tạp này. Thơ tình của Puskin trở nên tuyệt vời bởi những dấu chỉ tự do
trong tư tưởng cứ thế thấm dần vào câu chữ một cách tự nhiên mà trau chuốt. Có
hai điều đáng quý trong cuộc đời, đó là tự do và tình yêu, với Puskin nó đã hòa làm
một.

3.2 Tư tưởng tự do – bước chuyển mình của Puskin từ văn học cổ điển sang văn
học lãng mạn và văn học hiện thực
Pushkin đã phá vỡ nguyên tắc của chủ nghĩa cổ điển khi ông mới 18 tuổi, để rồi
ông khai khá chủ nghĩa hiện thực vào năm 26 tuổi và chính thức đặt nền móng cho

chủ nghĩa hiện thực vào năm 1825. Puskin đã vượt qua chủ nghĩa cổ điển, xây
dựng chủ nghĩa hiện thực trên những thành tựu của những người tiền nhiệm tiến bộ
- Fonvizin, Radishcheva Krylov, Griboyedov, để trở thành người sáng lập của văn
học Nga hiện đại: văn học hiện thực. Pushkin luôn suy nghĩ về tầm quan trọng
công việc của mình đối với người dân. Ông lên án thơ theo trật tự, được các nhà
thơ cổ điển áp dụng rộng rãi. Chỉ có sự soi dẫn và chân thành mới có thể dẫn dắt
các nhà thơ đích thực. Năm 18 tuổi ông đã viết những câu thơ đầy táo bạo trong
Bóng ma hay ảo ảnh:
“Bóng ma hay ảo ảnh,
Rác rưởi và nhớp nhơ;
Thuỷ tinh và cái đẹp Thú vui đời mộng mơ.
Tình yêu và rượu mạnh
Chúng tôi cần như nhau;
Người mà không có chúng
Ngáp vặt đến đời sau.
Thêm cho hắn chút lười,


Với họ cũng thế thôi;
Tán nàng bằng tình ái,
Nàng đổ rượu cho tôi.”
(Bóng ma hay ảo ảnh)
Tư tưởng tự do thuộc phạm trù của chủ nghĩa lãng mạn trong văn học. Các tác
phẩm ở thời kì lãng mạn đã bắt đầu đề cập đến sự truy vấn của bản thân con người
vào sâu trong bản thể. Những thắc mắc về sự tồn tại của mình, về những giới hạn
của mình, về quyền, về những ràng buộc với thiên nhiên, thực tại... và trong đó có
cả sự tự do. Thời kì đi đày phương Nam là thời kì Pushkin thoát khỏi ảnh hưởng
của chủ nghĩa cổ điển.
Hai nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa cổ điển là hướng về những hình tượng và
hình thức của văn nghệ cổ đại, đây chính là quy phạm mỹ học lí tưởng. Hình tượng

nghệ thuật chủ nghĩa cổ điển luôn vươn tới cái điển hình: cái cá biệt trở thành cái
chủng loại, cái nhất thời trở thành cái vĩnh cửu, cái hiện thực trở thành cái lí tưởng,
cái lịch sử trở thành huyền thoại. Nó là sự chiến thắng của lí trí và trật tự đối với
cái hỗn độn đồng thời đối với toàn bộ kinh nghiệm sinh động của cuộc sống. Tất cả
đã không còn xuất hiện trong thơ của Pushkin. Những quy luật và quy tắc của cổ
điển đã bị Pushkin phá tan và sáng tạo bằng một thứ văn chương mê hồn để thay
thế.
Ngoài ra, chính nhờ Pushkin mà văn học Nga có sự hòa quyện giữa dòng văn
chương bác học và văn học dân gian. Nghệ thuật phỏng phong cách dân gian của
Pushkin đã đạt tới trình độ bậc thầy.


CHƯƠNG 4: TƯ TƯỞNG TỰ DO TRONG TÁC PHẨM NGƯỜI TÙ KAVKAZ
Pushkin viết trường ca này khi bị đày xuống phương Nam. Ðây là bản trường ca
hoàn chỉnh sau bản trường ca Ruxlan và Liutmila.
Ðây là bản trường ca nói về một chàng thanh niên Nga bất bình với xã hội mình
đang sống. Anh ta từ bỏ tất cả và đến với miền núi Grudia để tìm tự do. Chàng bị
những bộ tộc người Secket bắt giam thành người tù. Lúc bấy giờ có cô gái đẹp
người Secket cảm phục hành động anh hùng và lí tưởng tự do của chàng nên đem
lòng yêu. Nhưng anh ta từ chối tình yêu vì anh ta khao khát tự do hơn cả hạnh phúc
yêu đương nhỏ hẹp. Mặc dù vậy cô gái đã dùng cưa sắt cưa xiềng cứu thoát anh.
Anh đã thoát thân qua bên kia sông, bên này cô gái tự vận trong dòng nước.
4.1.

Hình ảnh người thanh niên khao khát sự tự do

Nhân vật chính của trường ca là chàng thanh niên trẻ trung, bị số phận xua đuổi,
một người đầy những mâu thuẫn tâm lý phức tạp. Anh say mê tự do, từ bỏ tất cả để
tìm đến tự do. Anh đã đến xã hội của người Secket: một vùng rừng núi hoang sơ.
Anh quan niệm mình có thể tìm thấy tự do ở nơi nguyên sơ này.

“… lòng khao khát tự do lại thêm bề vững:
Tôi ngóng tương lai tươi đẹp xa vời
Tạm thời đây chỉ niềm vui các bạn
Là có thể an ủi được lòng tôi”.
Anh đã cảm thấy quá chán nản cuộc sống hiện bấy giờ, tự vẽ lên cho mình một
viễn cảnh tươi đẹp, một nơi tuyệt vời để sống. Mà nơi tuyệt vời đó không phải nơi
xa hoa tráng lệ như nơi anh sinh sống. Bỏ lại sau lưng tất cả, thành phố, người
thân, xã hội phức tạp với những con người thời cơ, toan tính, anh tìm đến cuộc
sống yên bình. Thế nhưng anh đã thất bại và trở thành tù nhân khi bị bộ tộc người
Secket bắt giam. Và nó cũng chính là sự vỡ mộng của nhân vật không thể tìm thấy
được tự do ở bất cứ đâu, số phận lênh đênh.
“Ôi tự do thiêng liêng!
Anh đã thành nô lệ.”


Đó là tiếng kêu gào trong nỗi tuyệt vọng, những niềm hi vọng về cuộc sống mới đã
bị dập tắt. Và vào giờ phút này tự do với anh thiêng liêng làm sao. Đã vài lần anh
thốt lên “Ôi tự do..” với một thái độ cảm thán nhưng hết sức đau khổ. Con đường
đi tìm tự do của anh đã mịt mù, nó chưa được chớm nở thì đã dập tắt. Đã có khi
anh gục ngã và anh “khát khao bóng tối của nắm mồ”. Cũng chính vì tự do mà anh
đã khước từ đi tình yêu của cô gái trẻ đối với anh tình yêu chỉ là ảo mộng ngu si.
“ Nghe lời nói tình yêu của cô thiếu nữ.
Lòng anh lại nặng nề tư lự”.
“ Quên tôi đi!… tôi đâu xứng tình yêu cô nữa”.
Dù cho tình yêu của cô gái có mãnh liệt bao nhiêu không làm anh từ bỏ niềm khao
khát về tự do, anh thà từ bỏ tình yêu của mình.
Nhưng rồi anh cũng không thể nào tìm được lối thoát. Lúng túng với chính cái lí
tưởng của mình nhưng anh cũng vẫn là hình tượng cho khát khao đi tìm tự do:
“Đêm rồi đêm lần lượt qua đi/ Anh vẫn khao khát tự do đằng đẳng”. Khao khát tự
do trong anh mới thật to lớn, dù bế tắc nhưng anh vẫn tin rằng mình có thể tìm

được thấy nó.
4.2.

Tình yêu tự do, phóng khoáng của cô gái Tsecketx

Tự do của cô gái Tsecketx là sự tự do của tình yêu với chân tâm vẹn toàn. Nàng
yêu người tù bằng một tình yêu không ngần ngại. Nàng hết mực chăm sóc chàng,
vô tư lự mang sữa, thức ăn, bón thức ăn cho một người tù, bởi vì đó là người mà
nàng mến. Cô gái còn động viên người tù Kavkaz với một “âm điệu nhẹ nhàng dịu
ấm”: “Cứ sống đi anh!”. Lời động viên có sức rung động thật lớn lao, nó vực dậy
một tâm hồn đang dần héo mòn đi. Tha thiết mong muốn chàng trai đáp lại tình
yêu của mình, người con gái Tsecketx lại càng đau khổ nhận ra lí tưởng và con
đường khát vọng của hai người quá khác biệt:
“Quên hết tự do đi! Quê hương đừng nhớ nữa,
Em xin ở cùng anh trong sơn dã”
Tình yêu của một người con gái phóng khoáng tự do cũng được thể hiện thật táo
bạo, thật mạnh mẽ:


“Lòng của em đã vì anh đắm đuối,
Hỡi anh tù binh yêu mến, em yêu anh…”
Khi tình yêu không được đáp trả, nàng vẫn sẵn sàng tháo xiềng cởi xích để người
yêu được tự do. Tình yêu đã hóa thành sức mạnh cho tự do. Người con gái
Tsecketx đã trao trả tự do cho người mình yêu.
“Anh tự do rồi, anh chạy đi thôi!”
Nàng vượt qua tất cả những lo sợ, những “hàng rào của đời tự do Tsecketx” để giải
phóng cho người mình yêu. Cái chết của người con gái Tsecketx như một lần nữa
vang vọng lên chính sự mạnh mẽ và quyết liệt của tình yêu của cô. Cái chết của
nàng là cái chết cho tự do. Thà chết vì người yêu, còn hơn để người yêu chết vì
gông xiềng. Cuối cùng, nàng đã thỏa nguyện ước muốn cho người yêu, dù cái giá

phải trả là cả sinh mệnh.
4.3 Tư tưởng tự do trong trường ca Người tù Kavkaz - tư tưởng của chủ nghĩa lãng
mạn
Tính cách nhân vật người tù là một khối mâu thuẫn, anh ta là một con người cố
chấp, chán ghét với xã hội nhưng lại không ngừng hi vọng vào xã hội, vào sự tự do
trong xã hội. Sự chạy trốn của chàng thanh niên khỏi xã hội là sự dứt bỏ các mối
liên kết với cuộc sống thực tại, là sự giải phóng bản thân, cái cá nhân, cái tôi đặc
trưng trong chủ nghĩa lãng mạn.
Nhà văn xây dựng nhân vật có tính cách không duy nhất, đây là sự phá bỏ quy
phạm của nguyên tắc sáng tác của chủ nghĩa cổ điển. Một giả định khác được các
nhà nghiên cứu đặt ra là tác giả muốn gắn tình cảm của mình vào nhân vật.
Dấu ấn của chủ nghĩa lãng mạn ở trường ca Người tù Kavkaz ở các chi tiết: nhân
vật trong trường ca này không có tên, không có quá khứ, tương lai không rõ ràng,
bối cảnh truyện không xảy ra ở nơi nhân vật sinh sống.
Belinsky nhận xét rằng người tù là nhân vật của thời đại bấy giờ mang sẵn những
đặc điểm thuộc các nhân vật của thời đại của ông và Puskin. Tìm kiếm tự do nhưng
cuối cùng lại không thấy được tự do mà trở thành nô lệ.


×