Câu 1. Anh /chị hãy phân tích nội dung những vấn đề cơ bản của
triết học. Từ đó hãy chỉ ra sự khác biệt giữa các trường phái duy vật
và duy tâm trong lịch sử triết học
1. Triết học là gì
Đã có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về triết học, nhưng đều bao
hàm những nội dung cơ bản giống nhau: Triết học nghiên cứu thế giới
với tư cách là một chỉnh thể, tìm ra những quy luật chung nhất chi phối
sự vận động của chỉnh thể đó nói chung, của xã hội loài người, của con
người trong cuộc sống cộng đồng nói riêng và thể hiện nó một cách có
hệ thống dưới dạng duy lý.
Khái quát lại, có thể hiểu: Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung
nhất của con người về thế giới; về vị trí, vai trò của con người trong thế
giới ấy.
Bài viết tiếp theo: Nội dung, ý nghĩa quy luật lượng và chất
– Triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội, xét cho cùng, đều
bị các quan hệ kinh tế của xã hội quy định. Dù ở xã hội nào, triết học
bao
giờ
cùng
gồm
hai
yếu
tốt:
+ Yếu tố nhận thức – sự hiểu biết về thế giới xung quanh, trong đó có
con
người;
+ Yếu tố nhận định – đánh giá về mặt đạo lý
– Triết học đã ra đời trong xã hội chiếm hữu nô lệ (ở phương Tây) và
trong thời kỳ chuyển từ xã hội chiếm hữu nô lệ sang xã hội phong kiến
(phương Đông), gắn liền với sự phân công lao động xã hội – tách lao
động trí óc ra khỏi lao động chân tay (sau lần phân công lao động thứ 2)
1
– Phù hợp với trình độ phát triển thấp ở các giai đoạn đầu tiên của lịch
sử loài người, triết học ra đời với tính cách là một khoa học tổng hợp các
tri thức của con người về hiện thực xung quanh và bản thân mình. Sau
đó, do sự phát triển của thực tiễn xã hội và của quá trình tích luỹ tri thức,
đã diễn ra quá trình tách các khoa học ra khỏi triết học thành các khoa
học độc lập. Triết học với tính cách là khoa học, nên nó có đối tượng và
nhiệm vụ nhận thức riêng của mình, nó là hệ thống những quan niệm,
quan điểm có tính chất chỉnh thể về thế giới, về các quá trình vật vất và
tinh thần và mối liên hệ giữa chúng, về nhận thức và cải biến thế giới
2. VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TR IẾT HỌC
– Theo Ăng-ghen, “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của
triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại”. Việc giải
quyết vấn đề cơ bản của triết học là cơ sở và điểm xuất phát để giải
quyết các vấn đề khác của triết học.
– Vấn đề cơ bản của triết học gồm hai mặt:
+ Mặt thứ nhất trả lời câu hỏi: Giữa vật chất và ý thức cái nào có trước,
cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào? Nói cách khác, giữa vật chất
và ý thức cái nào là tính thứ nhất, cái nào là tính thứ hai. Có hai cách trả
lời khác nhau dẫn đến hình thành hai khuynh hướng triết học đối lập
nhau:
Những quan điểm triết học cho vật chất là tính thứ nhất, ý thức là
tính thứ hai hợp thành chủ nghĩa duy vật. Trong lịch sử tư tưởng triết
học có ba hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật: Chủ nghĩa duy vật
chất phác, ngây thơ cổ đại; Chủ nghĩa duy vật máy móc, siêu hình thế kỷ
XVII – XVIII; Chủ nghĩa duy vật biện chứng.
2
Ngược lại, những quan điểm triết học cho ý thức là tính thứ nhất,
vật chất là tính thứ hai, hợp thành chủ nghĩa duy tâm. Chủ nghĩa duy
tâm lại được thể hiện qua hai trào lưu chính: Chủ nghĩa duy tâm khách
quan (Platon, Hêghen…) và chủ nghĩa duy tâm chủ quan (Beccli,
Hium…)
Bạn đã nắm vững kiến thức: Định nghĩa vật chất của Lênin
+ Mặt thứ hai trả lời cho câu hỏi: Con người có khả năng nhận thức
được thế giới hay không? (Ý thức có thể phản ánh được vật chất hay
không, tư duy có thể phản ánh được tồn tại hay không?). Mặt này còn
được gọi là mặt nhận thức.
Các nhà triết học duy vật cho rằng, con người có khả năng nhận
thức thế giới. Song, do mặt thứ nhất quy định, nên sự nhận thức đó là sự
phản ánh thế giới vật chất vào óc con người.
Một số nhà triết học duy tâm cũng thừa nhận con người có khả
năng nhận thức thế giới, nhưng sự nhận thức đó là sự tự nhận thức của
tinh thần, tư duy.
Một số nhà triết học duy tâm khác như Hium, Can-tơ lại phủ nhận
khả năng nhận thức thế giới của con người. Đây là những người theo
“Bất khả tri luận” (Thuyết không thể biết). Khuynh hướng này không
thừa nhận vai trò của nhận thức khoa học trong đời sống xã hội.
Đối với các hệ thống triết học, vấn đề cơ bản của triết học không chủ
được thể hiện trong các quan niệm có tính chất bản thể luận, mà còn
được thể hiện trong các quan niệm chính trị – xã hội, đạo đức và tôn
giáo, tất nhiên có thể là nhất quán hoặc là không nhất quán.
3
Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm xuyên suốt
lịch sử phát triển của tư tưởng triết học và thể hiện tính đảng trong triết
học.
Hai mặt vấn đề cơ bản của triết học này tác động qua lại lẫn nhau.
sự khác biệt giữa các trường phái duy vật và duy tâm trong lịch sử triết
học/
Tổng kết toàn bộ lịch sử triết học, đặc biệt là lịch sử triết học Cổ điển
Đức, Ăngghen đã khái quát: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc
biệt là triết học hiện đại, là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại”; giữa ý
thức và vật chất, giữa tinh thần và giới tự nhiên.
Vấn đề cơ bản của triết học được phân tích trên hai mặt. Thứ nhất, giữa
ý thức và vật chất: cái nào có trước, cái nào có sau? Cái nào quyết định
cái nào? Thứ hai, con người có khả năng nhận thức chân thực thế giới
hay không?
Việc giải quyết hai mặt vấn đề cơ bản của triết học là xuất phát điểm của
các trường phái lớn: chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm; khả tri
luận và bất khả tri luận. Ngoài ra còn có chủ nghĩa nhị nguyên và hoài
nghi luận. Về thực chất, chủ nghĩa nhị nguyên có cùng bản chất với chủ
nghĩa duy tâm, còn hoài nghi luận thuộc về bất khả tri luận; mặt khác,
bất khả tri luận thường có mối liên hệ mật thiết với chủ nghĩa duy tâm,
còn khả tri luận thường gắn với chủ nghĩa duy vật.
Chủ nghĩa duy vật là trường phái triết học xuất phát từ quan điểm: bản
chất của thế giới là vật chất; vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ
hai; vật chất có trước quyết định ý thức. Ngược lại, chủ nghĩa duy tâm là
trường phái triết học xuất phát từ quan điểm: bản chất thế giới là ý thức;
4
ý thức là tính thứ nhất, vật chất là tính thứ hai; ý thức có trước và quyết
định vật chất.
Chủ nghĩa duy tâm có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội của nó,
đó là: sự xem xét phiến diện, tuyệt đối hóa, thần thánh hóa một mặt, một
đặc tính nào đó của quá trình nhận thức và đồng thời thường gắn với lợi
ích của các giai cấp, tầng lớp áp bức, bóc lột nhân dân lao động. Mặt
khác, chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo cũng thường có mối liên hệ mật
thiết với nhau, nương tựa vào nhau để cùng tồn tại và phát triển.
Trong lịch sử, chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức cơ bản là chủ nghĩa
duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan. Chủ nghĩa duy tâm
chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người. Trong khi phủ
nhận sự tồn tại khách quan của hiện thực, chủ nghĩa duy tâm chủ quan
khẳng định mọi sự vật, hiện tượng chỉ là “phức hợp những cảm giác”
của cá nhân. Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ
nhất của tinh thần, ý thức nhưng tinh thần ý thức ấy được quan niệm là
tinh thần khách quan, ý thức khách quan có trước và tồn tại độc lập với
giới tự nhiên và con người. Thực thể tinh thần, ý thức khách quan này
thường được mang những tên gọi khác nhau như: “ý niệm tuyệt đối”,
“tinh thần tuyệt đối”, “lý tính thế giới”…
Đối lập với chủ nghĩa duy tâm, chủ nghĩa duy vật và sự tồn tại, phát
triển của nó có nguồn gốc từ sự phát triển của khoa học và thực tiễn,
đồng thời thường gắn với lợi ích của giai cấp và lực lượng tiến bộ trong
lịch sử. Nó là kết quả của quá trình đúc kết, khái quát kinh nghiệm để
vừa phản ánh những thành tựu mà con người đã đạt được trong từng giai
đoạn lịch sử, vừa định hướng cho các lực lượng xã hội tiến bộ hoạt động
trên nền tảng của những thành tựu ấy. Trên cơ sở phát triển của khoa học
và thực tiễn, chủ nghĩa duy vật đã phát triển qua các hình thức của nó,
5
trong đó, chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức phát triển cao nhất
của chủ nghĩa duy vật.
Câu 2. Theo Anh/chị chủ nghĩa duy tâm về bản chất là sai lầm khi
phản ánh thế giới khách quan nhưng tại sao chủ nghĩa duy tâm vẫn
tồn tại đến tận ngày nay. Hãy phân tích và chứng minh.
Chủ nghĩa duy tâm (CNDT) là trường phái THọc khẳng định rằng mọi
thứ đều tồn tại bên trong tâm thức và thuộc về tâm thức. Là một nền
tảng của ngành vũ trụ học, hay 1 cách tiếp cận tới hiểu biết về sự tồn tại,
CNDT thường được đặt đối lập với CNDV, cả 2 đều thuộc lớp bản thể
học nhất nguyên chứ ko phải nhị nguyên hay đa nguyên.
Chủ nghĩa duy tâm có hai khuynh hướng:
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con
người trong khi phủ nhận sự tồn tại của thế giới khách quan và coi nó là
một cái gì đó hoàn toàn do tính tích cực của chủ thể quy định.
Chủ nghĩa duy tâm khách quan thừa nhận ý thức và tinh thần là thuộc
tính thứ nhất (có trước), vật chất là thuộc tính thứ hai (có sau), và coi cơ
sở tồn tại không phải là tâm thức con người theo như quan niệm của Chủ
nghĩa duy tâm chủ quan mà là một tâm thức nào đó ở bên ngoài thế giới
như "tinh thần tuyệt đối", "lý tính thế giới", v.v... ( CHƯA XONG)
Câu 3. Anh /chị hãy phân tích những nội dung chủ yếu của triết học
Trung quốc. Từ đó phân tích những nội dung cơ bản của triết học
Trung quốc ảnh hưởng đến tư tưởng triết học Việt Nam.
6
Trung Quốc là một trong những cái nôi của văn minh nhân loại. Trung
Quốc đất đai rộng lớn, có hai con sông lớn Hoàng Hà và Trường Giang,
là một trong những nước có nền văn minh hình thành sớm nhất và rực rỡ
nhất trong lịch sử. Triết học Trung Quốc suy cho cùng là sự phản ánh xã
hội Trung Quốc. Triết học Trung Quốc có mầm mống từ lâu, nhưng thực
sự nở rộ vào khoảng thế kỷ VI đến thế kỷ III tr.CN. Đây là thời kỳ biến
đổi dữ dội, chuyển biến từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong
kiến kiểu phương Đông – thời kỳ Đông Chu liệt quốc hay Xuân Thu
chiến quốc với chiến tranh liên miên, tàn khốc, trật tự xã hội cũng như
luân lý đạo đức sụp đổ, cái cũ đã qua, cái mới chưa đến, lòng người chao
đảo không biết đi về đâu. Có thể khái quát một số đặc điểm của lịch sử
xã hội Trung Quốc như sau:
Một là, công xã nông thôn được bảo tồn lâu dài trong suốt thời kỳ lịch
sử cổ - trung đại, với hạt nhân của nó là chế độ đại gia đình phụ quyền
(tông pháp) được xác lập vững chắc. Địa vị của người con trưởng quan
trọng nhất trong nhà, trách nhiệm cũng lớn nhất, được hưởng gia tài, giữ
việc hương khói.
Hai là, ở Trung Quốc, nhà nước ra đời trên cơ sở trình độ kỹ thuật còn
non kém (đồ sắt chưa được sử dụng phổ biến); trong xã hội, mức độ
phân hóa giai cấp chưa sâu sắc. Hình thức bóc lột là hình thức cống nạp;
tô và thuế nhập làm một. Mối quan hệ của các thành viên trong xã hội
đối với nhà nước là quan hệ của thần dân đối với vua chứ không phải là
mối quan hệ của công dân đối với nhà nước.
Ba là, ruộng đất công, trên nguyên tắc, toàn bộ đất đai trong toàn quốc là
thuộc quyền sở hữu của nhà vua, mọi người dân chỉ có quyền sử dụng
đất. Chỉ bằng một quyết định, nhà nước có thể tịch thu ruộng đất của bất
cứ ai.
Bốn là, cho đến trước khi bị chủ nghĩa thực dân tư bản phương Tây xâm
lược, trên đất nước Trung Quốc chưa hề có một cuộc cách mạng xã hội
theo đúng nghĩa. Trong lòng xã hội, các kết cấu mới – cũ đan xen lẫn
7
nhau, cùng cộng sinh bên nhau trong suốt quá trình lịch sử. Thế kỷ VIII
tr.CN phân tầng xã hội đã bắt đầu biến đổi sâu sắc, kết cấu giai tầng
phức tạp, xung đột đã gay gắt.
Năm là, Trung Quốc được gọi là một trong những nước có nền văn minh
sớm nhất và rực rỡ nhất trong lịch sử, cho đến năm 1911, lịch sử Trung
Quốc trải qua ba thời kỳ kế tiếp nhau: thời kỳ thượng cổ, cổ đại, trung
cổ. Tuy nhiên, tư tưởng triết học Trung Quốc chỉ nở rộ ở nửa cuối thời
kỳ cổ đại (vào thời Đông Chu) và được duy trì phát triển ít nhiều ở thời
kỳ Trung cổ.
Xuất hiện và phát triển trong điều kiện như vậy, triết học Trung Quốc có
một số đặc điểm cơ bản sau:
1. Thứ nhất, triết học Trung Quốc nhấn mạnh mặt thống nhất trong mối
quan hệ giữa con người và vũ trụ. Đây là tư tưởng xuyên suốt nhiều
trường phái, học thuyết khác nhau. Trong những kinh điển chủ yếu của
Nho giáo (Kinh dịch, Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh tử...) đều
nhất quán tư tưởng “biết đến cùng cái tính của con người thì cũng có thể
biết đến cùng cái tính của vạt vật trời đất”. Ngoài ra, các trường phái,
học thuyết khác cũng thể hiện rõ quan điểm này, Trang Chu cho rằng,
trời đất với ta cùng sinh, vạn vật với ta là một...
2. Thứ hai, triết học Trung Quốc xuất phát từ con người, lấy con người
làm vấn đề trung tâm. Nghiên cứu thế giới cũng chỉ nhằm làm rõ vấn đề
con người. Tuy nhiên con người không được chú ý trên tất cả các mặt
mà chỉ chú ý trên khía cạnh luân lý, đạo đức. Vấn đề bản thể luận trong
triết học Trung Quốc rất mờ nhạt, còn trong triết học phương Tây lại đặt
trọng tâm vào nghiên cứu thế giới, vấn đề con người cũng chỉ được bàn
tới nhằm giải thích thế giới. Do đó, khác với triết học Trung Quốc, trong
triết học phương Tây, vấn đề bản thể luận rất đậm nét.
Về bản chất con người (tính người, Khổng Tử cho gần nhau (giống
nhau), nhưng do tập quán, phong tục mà xa nhau (khác nhau) (“Tính
tương cận, tập tương viễn”); Mạnh Tự cho tính người (nhân tính) vốn
8
thiện; Tuân Tử cho tính người vốn ác; Cáo Tử cho tính không thiện cũng
không bất thiện. Đổng Trọng Thư đưa ra tính tam phẩm, còn Hàn Dũ
đưa ra có tính ba bậc.
Về số phận con người, Nho giáo quy tất cả là do mệnh trời; Tuân Tử cho
rằng con người có thể thắng được trời. Từ đó triết học Trung Quốc
hướng đến mẫu người lý tưởng như sĩ, quân tử, đại trượng phu, thánh
nhân.
3. Thứ ba, triết học Trung Quốc ít tồn tại dưới dạng triết học thuần túy
mà thường được trình bày xen kẽ hoặc ẩn giấu đằng sau với những vấn
đề cấu trúc xã hội, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật. Vì vậy, ở Trung Quốc ít
khi có triết gia và các phần triết học độc lập. Cho nên, nếu ở phương
Đông nói chung, Trung Quốc nói riêng triết học ẩn giấu đằng sau các
khoa học khác thì ở phương Tây ngay từ đầu, triết học đã là một khoc
học độc lập, các khoa học khác lại ẩn giấu ở đằng sau triết học ở vào
buổi bình minh của nó.
4. Thứ tư, về mặt nhận thức, triết học Trung Quốc bàn nhiều về vấn đề
trực giác tâm linh, những vấn đề phi lý tính. Phương pháp nhận thức
này, xét về góc độ nào đó nó phù hợp với đối tượng mà nó đặt ra để
nghiên cứu. Nó thường không được trình bày dưới dạng hình thức hệ
thống lý luận lôgic như các tác phẩm triết học hiện đại. Nhìn chung, lý
luận nhận thức trong triết học Trung Quốc là phiến diện, không xem giới
tự nhiên là đối tượng nhận thức, mà chỉ nhận thức chủ yếu về mặt luân
lý đạo đức.
5. Thứ năm, triết học Trung Quốc vừa thống nhất vừa đa dạng. Thống
nhất ở chỗ nó đều nhằm mục đích ổn định xã hội, chấm dứt chiến tranh,
chẳng hạn, Nho gia đưa ra đường lối chính danh, đức trị; Pháp gia đưa ra
đường lối pháp trị; Mặc gia đưa ra đường lối kiêm ái; Đạo gia đường lối
vô vi... Nó đa dạng ở chỗ có rất nhiều trường phái, khuynh hướng tư
tưởng, với 9 trường phái và đặc biệt nổi bật hơn cả là 6 trường phái lớn
có ảnh hưởng mạnh mẽ trong đời sống, trong lịch sử xã hội là: Nho gia,
9
Mặc gia, Đạo gia, Pháp gia, Âm Dương gia, Danh gia. Mỗi nhà đều có
chủ trương, đường lối riêng của mình.
Trong các trào lưu triết học Trung Quốc cổ đại, thường đan xen các yếu
tố duy vật và duy tâm, biện chứng và siêu hình. Cuộc đấu tranh giữa chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm không gay gắt quyết liệt như ở
phương Tây. Chẳng hạn như:
- Nho giáo về cơ bản là duy tâm, nhưng vẫn có những luận điểm duy
vật, nhất là ở thời kỳ đầu.
- Đạo gia, Mặc gia, Âm Dương ngũ hành gia bên cạnh những luận điểm
duy vật lại có cả những luận điểm duy tâm.
Trong suốt chiều dài hơn 2.000 năm phong kiến Trung Hoa, các học
thuyết cổ đại thường được các nhà tư tưởng phong kiến kế thừa, tự nhận
thuộc về trường phái đã có nào đó từ thời cổ đại mà không lập ra học
thuyết mới cho nên sự phát triển của triết học Trung Quốc chủ yếu theo
hướng từ từ thay đổi về lượng mà ít thấy có sự nhảy vọt về chất.
6. Phép biện chứng trong triết học Trung Quốc thể hiện trong học thuyết
biến dịch (Kinh dịch); sự tương tác giữa âm dương, ngũ hành; trong học
thuyết Lão Tử. Nhìn chung, biện chứng trong triết học Trung Quốc vẫn
còn thô sơ, đơn giản, biện chứng vòng tròn, tuần hoàn khép kín.
Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo là ba dòng chủ đạo, kiến tạo nên hệ tư
tưởng phong kiến Trung Quốc, song trên thực tế, Nho giáo vẫn là dòng
chủ đạo.
* Triết học Trung quốc ảnh hưởng đến tư tưởng triết học Việt Nam.
(Nho giáo của Trung Quốc ảnh hưởng đến nho giáo nước ta rất nhiều,
đặc biết là từ thế kỷ 15-19, và cho đến tận bây giờ, nho giao nước ta về
cơ bản là tiếp thu nho giáo của Trung Quốc. Nho giáo rất coi trọng tri
thức, học hành. Hàng nghìn năm qua và đến tận bây giờ, con người
chúng ta vẫn coi trọng việc học hành lên trên hết, coi trọng giáo dục đạo
đức, rèn luyện tài năng cho con người. Tuy vậy nho giáo vẫn có những
10
điểm tiêu cực đó là “trọng năm khinh nữ”. Điểm tiêu cực này tồn tại ở
nước ta cho đến thế kỹ 19, thời phong kiến được trị vì nhà Nguyễn.
Nhưng đến này thì cách mạng Việt Nam đã xóa đi điểm xấu, lạc hậu của
nho giáo với mục tiêu là tôn trọng quyền bình đẳng của con người, bảo
vệ quyền lợi của phụ nữ.)
Câu 4. Anh/chị hãy so sánh những đặc điểm chủ yếu của triết học
phương đông và triết học phương tây. Từ đó chỉ ra những điểm
giống và khác nhau giữa hai nền triết học này trong lịch sử tư tưởng
của nhân loại
Sự giống nhau :
THọc phương Đông và THọc phương Tây đều được hình thành, phát
triển trong cuộc đấu tranh giữa CNDT,giữa phương pháp siêu hình và
phương pháp biện chứng.Thực chất cuộc đấu tran này là 1 phần cuộc
đấu tranh tư tưởng của những giai cấp đối kháng trong xã hội. Những
quan niệm duy vật thường gần gũi và gắn liền với những lực lượng tiến
bộ trong XH và ngược lại những quan niệm duy tâm thường gần gũi và
gắn liền với lực lượng lạc hậu, bảo thủ trong xã hội.
THọc phương đông và phương tây có thể sử dụng những khái niệm,
phạm trù khác nhau nhưng đêù phải bàn đến vấn đề cơ bản của THọc,
đồng thời đều tuân theo những phương pháp chung trong nhận thức thế
giới : phương pháp biện chứng hoặc p.p siêu hình.
THọc phương tây và phương đông đều bàn đến vấn đề con người ở
những khía cạnh khác nhau, mức độ đậm nhạt khác nhau và qua những
thời kỳ lịch sử khác nhau đều có những đánh giá khác nhau vè con
người.
11
Các học thuyết THọc ở phương đông hay tây đều có khuynh hướng
chung là xâm nhập lẫn nhua, vừa có sự kế thừa giữa các học thuyết, hoặc
trong sự phát triền của học thuyết đó,vừa có sự đào thải,lọc bỏ những
quan niệm lạc hậu, hoặc những quan niệm ko phù hợp vs nhãn quan của
giai cấp thống trị.
Sự khác biệt căn bản của triết học phương Tây và phương Đông còn
được thể hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất đó là triết học phương Đông nhấn mạnh sự thống nhất
trong mối quan hệ giữa con người và vũ trụ với công thức thiên địa
nhân là một nguyên tắc “thiên nhân hợp nhất”. Cụ thể là:
Triết học Trung quốc là nền triết học có truyền thống lịch sử lâu đời
nhất, hình thành cuối thiên niên kỷ II đầu thiên niên kỷ I trước công
nguyên. Đó là những kho tàng tư tưởng phản ánh lịch sử phát triển của
những quan điểm của nhân dân Trung hoa về tự nhiên, xã hội và quan hệ
con người với thế giới xung quanh, họ coi con người là tiểu vũ trụ trong
hệ thống lớn... trời đất với ta cùng sinh, vạn vật với ta là một. Như vậy
con người cũng chứa đựng tất cả những tính chất, những điều huyền bí
của vũ trụ bao la. Từ điều này cho ta thấy hình thành ra các khuynh
hướng như: khuynh hướng duy tâm của Mạnh Tử thì cho rằng vũ trụ,
vạn vật đều tồn tại trong ý thức chủ quan vầ trong ý niệm đạo đức Trời
phú cho con người. Ông đưa ra quan điểm “vạn vật đều có đầy đủ trong
ta”. Ta tự xét mình mà thành thực, thì có cái thú vui nào lớn hơn nữa.
Ông dạy mọi người phải đi tìm chân lý ở ngoài thế giới khách quan mà
chỉ cần suy xét ở trong tâm, “tận tâm” của mình mà thôi. Như vậy theo
ông chỉ cần tĩnh tâm quay lại với chính mình thì mọi sự vật đều yên ổn,
không có gì vui thú hơn. Còn theo Thiện Ung thì cho rằng: vũ trụ trong
lòng ta, lòng ta là vũ trụ. Đối với khuynh hướng duy vật thô sơ - kinh
dịch thì biết đến cùng cái tính của con người thì cũng có thể biết đến cái
12
tính của vạn vật, trời đất: trời có chín phương, con người có chín khiếu.
Ở phương Đông khuynh hướng duy vật chưa rõ ràng đôi khi còn đan xen
với duy tâm, mặc dù nó là kết quả của quá trình khái quát những kinh
nghiệm thực tiến lâu dài của nhân dân Trung hoa thời cổ đại. Quan điểm
duy vật được thể hiện rõ ở học thuyết Âm dương, tuy nó còn mang tính
chất trực quan, chất phác, ngây thơ và có những quan điểm duy tâm,
thần bí về lịch sử xã hội nhưng trường phái triết học này đã bộ lộ rõ
khuynh hướng duy vật và tư tưởng biện chứng tự phát của mình trong
quan điểm về cơ cấu và sự vận động, biến hoá của sự vật hiện tượng
trong tự nhiên cũng như trong xã hội.
Ở Ấn độ tư tưởng triết học Ấn độ cổ đại được hình thành từ cuối thiên
niên kỷ II đầu thiên niên kỷ I trước công nguyên, bắt nguồn từ thế giới
quan thần thoại, tôn giáo, giải thích vũ trụ bằng biểu tượng các vị thần
mang tính chất tự nhiên, có nguồn gốc từ những hình thức tôn giáo tối
cổ của nhân loại. Ở Ấn độ nguyên tắc “thiên nhiên hợp nhất” lại có màu
sắc riêng như:
Xu hướng chính của Upanishad lànhằm biện hộ cho học thuyết duy tâm,
tôn giáo trong kinh Vêđa về cái gọi là “tinh thần sáng tạo tối cao”
sángtạo và chi phối thế giới này. Để trả lời câu hỏi cái gì là thực tại cao
nhất, là căn nguyên của tất cả mà khi nhận thức được nó, người ta sẽ
nhận thức được mọi cái còn lại và có thể giải thoát được linh hồn khỏi
sự lo âu khổ nào của đời sống trần tục và ràng buộc của thế giới này là
“tinh thần vũ trụ tối cao” Brahman, là thực thể duy nhất, có trước nhất,
tồn tại vĩnh viễn, bất diệt, là cái từ đó tất cả thế giới đều nảy sinh ra và
nhập về với nó sau khi chết. Tóm lại Brahman là tinh thần vũ trụ, là
đấng sáng tạo duy nhất, là đại ngã, đại đinh, là vũ trụ xung quanh cái tồn
tại thực sự, là khách thể.
13
Còn Atman là tinh thần con người, là tiểu ngã, là cái có thể mô hình hoá,
là chủ thể và chẳng qua chỉ là linh hồn vũ trụ cư trú trong con người mà
thôi. Linh hồn con người (Atman) chỉ là sự biểu hiện, là một bộ phận
của “tinh thần tối cao”. Vì Atman “linh hồn” là cái tồn tại trong thể xác
con người ở đời sống trần tục, nên ý thức con người lầm tưởng rằng linh
hồn, “cái ngã” là cái khác với “linh hồn vũ trụ”, khác với nguồn sống
không có sinh, không có diệt vong của vũ trụ.
Vậy nên kinh Vêđa nối con người với vũ trụ bằng cầu khẩn, cúng tế bắt
chước hoà điệu của vũ trụ bằng lễ nghi, hành lễ ở hình thức bên ngoài.
Còn kinh Upanishad quay vào hướng nội để đi từ trong ra, đồng nhất cá
nhân với vũ trụ bằng tri thức thuần tuý kinh nghiệm.
Đối với phương Tây lại nhấn mạnh tách con người ra khỏi vũ trụ, coi
con người là chủ thể, chúa tể để nghiên cứu chinh phục vũ trụ – thế giới
khách quan. Và cũng chính từ thế giới khách quan khách nhau nên dẫn
đến hướng nghiên cứu tiếp cận cũng khác nhau:
Từ thế giới quan triết học “thiên nhân hợp nhất” là cơ sở quyết định
nhiều đặc điểm khác của triết học phương Đông như: lấy con người làm
đối tượng nghiên cứu chủ yếu – tính chất hướng nội; hay như nghiên
cứu thế giới cũng là để làm rõ con người và vấn đề bản thảo luận trong
triết học phương Đông bị mờ nhạt. Nhưng ngược lại triết học phương
Tây lại đặ trọng tâm nghiên cứu vào thế giới – tính chất hướng ngoại;
còn vấn đề con người chỉ được nghiên cứu để giải thích thế giới mà thôi.
Cho nên phương Tây bàn đậm nét về bản thể luận của vũ trụ.
Cái khác biệt nữa là ngay trong vấn đề con người phương Đông cũng
quan niệm khác phương Tây:
14
Ở Phương Đông người ta đặt trọng tâm nghiên cứu mối quan hệ người
với người và đời sống tâm linh, ít quan tâm đến mặt sinh vật của con
người, chỉ nghiên cứu mặt đạo đức thiện hay ác theo lập trường của giai
cấp trống trị cho nên nghiên cưú con người không phải là để giải phóng
con người mà là để cai trị con người, không thấy quan hệ giữa người với
người trong lao động sản xuất.
Ở Phương Tây họ lại ít quan tâm đến mặt xã hội của con người, đề cao
cái tự nhiên – mặt sinh vật trong con người, chú ý giải phóng con người
về mặt nhận thức, không chú ý đến nguyên nhân kinh tế – xã hội, cái
gốc để giải phóng con người.
Thứ hai, ở phương Đông những tư tưởng triết học ít khi tồn tại dưới
dạng thuần tuý mà thường đan xen với các hình thái ý thức xã hội
khác. Cái nọ lấy cái kia làm chỗ dựa và điều kiện để tồn tại và phát triển
cho nên ít có những triết gia với những tác phẩm triết học độc lập. Và có
những thời kỳ người ta đã lầm tưởng triết học là khoa học của khoa học
như triết học Trung hoa đan xen với chính trị lý luận, còn triết học Ấn độ
lại đan xen tôn giáo với nghệ thuật. Nói chung ở phương Đông thì triết
học thường ẩn dấu đằng sau các khoa học.
Ở phương Tây ngay từ thời kỳ đầu triết học đã là một khoa học học độc
lập với các môn khoa học khác mà các khoa học lại thường ẩn dấu đằng
sau triết học. Và thời kỳ Trung cổ là điển hình: khoa học muốn tồn tại
phải khoác áo tôn giáo, phải tự biến mình thành một bộ phận của giáo
hội.
Thứ ba, Lịch sử triết học phương Đông ít thấy có những bước nhảy
vọt về chất có tính vạch ra ở các thời điểm, mà chỉ là sự phát triển
cục bộ, kế tiếp xen kẽ. Ở Ấn độ, cũng như Trung quốc các trường phái
15
có từ thời cổ đại vẫn giữ nguyên tên gọi cho tới ngày nay (từ thế kỷ VIII
– V trước công nguyên đến thế kỷ 19).
Nội dung có phát triển nhưng chỉ là sự phát triển cục bộ, thêm bớt hay đi
sâu vào từng chi tiết như: Nho tiền tần, Hán nho, Tống nho vẫn trên cơ
sở nhân – lễ – chính danh, nhưng có cải biên về một phương diện nào đó
ví như Lễ thời tiền Tần là cung kính, lễ phép, văn hoá, thời Hán biến
thành tam cương ngũ thường, đời Tống biến thành chữ Lý...
Các nhà triết học ở các thời đại chỉ giới hạn mình trong khuôn khổ ủng
hộ, bảo vệ quan điểm hay một hệ thống nào đó để hoàn thiện và phát
triển nó hớn là vạch ra những sai lầm và không đặt ra mục đích tạo ra
thức triết học mới. Do vậy nó không mâu thuận với các học thuyết đã
được đặt nền móng từ ban đầu, không phủ định nhau hoàn toàn và dẫn
đến cuộc đấu tranh trong các trường phái không gay gắt và cũng không
triệt đêt. Có tình trạng đó chính là do chế độ phong kiến quá kéo dài và
bảo thủ, kết cấu kinh tế, giai cấp trong xã hội đan xen cộng sinh bên
nhau.
Ngược lại ở phương Tây lại có điểm khác biệt. Ở mỗi giai đoạn, mỗi
thời kỳ, bên cạnh các trường phái cũ lại có những trường phái mới ra đời
có tính chất vạch thời đại như thời cố đại bên cạnh trường phái Talét,
Hêraclit... đến Đêmôcrit rồi thời đại khai sáng Pháp, CNDV ở Anh, Hà
lan, triết học cổ điển Đức... Và hơn nữa cuộc đấu tranh giữa duy tâm và
duy vật mang tính chất quyết liệt, triệt để hơn.
Thứ tư, Sự phân chia trường phái triết học cũng khác:
Ở phương Đông đan xen các trường phái, yếu tố duy vật, duy tâm biện
chứng, siêu hình không rõ nét. Sự phân chia chỉ xét về đại thể, còn đi
16
sâu vào những nội dung cụ thể thường là có mặt duy tâm có mặt duy vật,
sơ kỳ là duy vật, hậu kỳ là nhị nguyên hay duy tâm, thể hiện rõ thế giới
quan thiếu nhất quán, thiếu triệt để của triết học vì phân kỳ lịch sử trong
các xã hội phương Đông cũng không mạch lạc như phương Tây.
Ngược lại triết học phương Tây thì sự phân chia các trường phái rõ nét
hơn và các hình thức tồn tại lịch sử rất rõ ràng như duy vật chất phác thô
sơ đến duy vật siêu hình rồi đến duy vật biện chứng.
Thứ năm, Hệ thống thuật ngữ của triết học phương Đông cung khác
so với triết học phương Tây ở 3 mảng:
- Về bản thể luận: Phương Tây dùng thuật ngữ “giới tự nhiên”, “bản
thể”, “vật chất”. Còn ở phương Đông lại dùng thuật ngữ “thái cực” đạo
sắc, hình, vạn pháp,... hay ngũ hành: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ... Để
nói về bản chất của vũ trụ đặc biệt là khi bàn về mối quan hệ giữa con
người và vũ trụ thì phương Tây dùng phạm trù khách thể – chủ thể; con
người với tự nhiên, vật chất với ý thức, tồn tại và tư duy. Còn phương
Đông lại dùng Tâm – vật, năng – sở, lí – khí, hình – thần. Trong đó hình
thần là những phạm trù xuất hiện sớm và dùng nhiều nhất.
- Nói về tính chất, sự biến dổi của thế giới: phương Tây dùng thuật ngữ
“biện chứng” siêu hình, thuộc tính, vận động, đứng im nhưng lấy cái đấu
tranh cái động là chính. Đối với phương Đông dùng thuật ngữ động –
tĩnh, biến dịch, vô thường, thường còn, vô ngã và lấy cái thống nhất, lấy
cái tĩnh làm gốc là vì phương Đông triết học được xây dựng trên quan
điểm vũ trụ là một, phải mang tính nhịp điệu.
- Khi diễn đạt về mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trên thế giới thì
phương Tây dùng thuật ngữ “liên hệ”, “quan hệ” “quy luật”. Còn
17
phương Đông dùng thuật ngữ “đạo” “lý” “mệnh” “thần”, cũng xuất phát
từ thế giới quan thiên nhân hợp nhất nên tất cả phải mang tính nhịp điệu,
tính quy luật, tính soắn ốc của vũ trụ như thái cực đến lưỡng nghi... Có
nhịp điệu là hài hoà âm dương, còn vũ trụ là tập hợp khổng lồ các xoắn
ốc...
Thứ sáu, Tuy cả hai dòng triết học phương Đông và phương Tây đều
nhằm giải quyết vấn đề cơ bản của triết học nhưng phương Tây
nghiêng nặng về giải quyết mặt thứ nhất còn mặt thứ hai chỉ giải
quyết những vấn đề có liên quan. Ngược lại ở phương Đông nặng về
giải quyết mặt thứ hai cho nên dẫn đến hai phương pháp tư duy
khác nhau.
Phương Tây đi từ cụ thể đến khái quát cho nênlà tư duy tất định – tư duy
vật lý chính xác nhưng lại không gói được cái ngẫu nhiên xuất hiện. Còn
phương Đông đi từ khái quát đến cụ thể bằng các ẩn dụ triết học với
những cấu cách ngôn, ngụ ngôn nên không chính xác nhưng lại hiểu
cách nào cũng được
Câu 5. Anh/chị hãy phân tích định nghĩa vật chất của V.I.Lênin. Từ
đó rút ra ý nghĩa và phương pháp luận
Lênin đã định nghĩa: "Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ
thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được
cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ
thuộc vào cảm giác" (V.I.Lênin: Toàn tập, t.18, Nxb. Tiến bộ, M., 1980,
tr.151).
Trong định nghĩa này, Lênin đã chỉ rõ:
+ "Vật chất là một phạm trù triết học". Đó là một phạm trù rộng và khái
quát nhất, không thể hiểu theo nghĩa hẹp như các khái niệm vật chất
18
thường dùng trong các lĩnh vực khoa học cụ thể hoặc đời sống hàng
ngày.
+ Thuộc tính cơ bản của vật chất là "thực tại khách quan", "tồn tại không
lệ thuộc vào cảm giác". Đó cũng chính là tiêu chuẩn để phân biệt cái gì
là vật chất và cái gì không phải là vật chất.
+ "Thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác",
"tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác". Điều đó khẳng định "thực tại
khách quan" (vật chất) là cái có trước (tính thứ nhất), còn "cảm giác" (ý
thức) là cái có sau (tính thứ hai). Vật chất tồn tại không lệ thuộc vào ý
thức.
+ "Thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác,
được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh". Điều đó nói
lên "thực tại khách quan" (vật chất) được biểu hiện thông qua các dạng
cụ thể, bằng "cảm giác" (ý thức) con người có thể nhận thức được Và
"thực tại khách quan" (vật chất) chính là nguồn gốc, nội dung khách
quan của "cảm giác" (ý thức). Định nghĩa của Lênin về vật chất đã giải
quyết được cả hai mặt của vấn đề cơ bản của triết học theo lập trường
của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Định nghĩa vật chất của Lênin có ý nghĩa:
1. Chống lại tất cả các loại quan điểm của chủ nghĩa duy tâm về phạm
trù vật chất.
2. Đấu tranh khắc phục triệt để tính chất trực quan, siêu hình, máy móc
và những biến tướng của nó trong quan niệm về vật chất của các nhà
triết học tư sản hiện đại. Do đó, định nghĩa này cũng đã giải quyết được
sự khủng hoảng trong quan điểm về vật chất của các nhà triết học và
khoa học theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình.
3. Khẳng định thế giới vật chất khách quan là vô cùng, vô tận, luôn vận
động và phát triển không ngừng, nên đã có tác động cổ vũ, động viên
các nhà khoa học đi sâu nghiên cứu thế giới vật chất, tìm ra những kết
cấu mới, những thuộc tính mới và những quy, luật vận động của vật chất
để làm phong phú thêm kho tàng tri thức của nhân loại.
19
ý nghĩa phương pháp luận: Định nghĩa vật chất của Lê nin có ý nghĩa
quan trọng đốí với sự phát triển của CN duy vật và nhận thức khoa học:
+ Khẳng định bản chất của thế gới là vật chất, vật chất có trước,
ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức, ý thức chỉ là sự phản ánh, chỉ
là sản phẩm của vật chất đồng thời định nghĩa cũng khẳng định con
người có khả năng nhận thức được thế giới, có khả năng chụp lại, chép
lại, phản ảnh thế giới vc.
+ Định nghĩa vật chất đã bác bỏ quan điểm xuyên tạc của CN
duy tâm về CN duy vật và khẳng định bản chất của CN duy vật luôn
được "khẳng định và tồn tại", cơ sở nền tảng của CN duy vật vẫn tiếp tục
phát triển và nó cũng bác bỏ các quan niệm trước đây về vật chất, góp
phần mở đường cho các KH tự nhiên trong việc tìm ra các hình thức mới
của vật chất để chứng minh cho sự phong phú của cấu trúc vật chất. Vì
vậy nó cung cấp thế giới quan, phương pháp luận cho hoạt động nhận
thức và hoạt động cải tạo thực tiễn.
Câu 6. Anh/chị hãy phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất
và ý thức. Từ đó đánh giá về mối quan hệ khách quan và chủ quan
trong giải quyết các vấn đề thực tiễn của nước ta hiện nay.
Đinh nghĩa:- Vật chất: Vật chất, theo Lênin. “là một phạm trù triết học
dùng để chỉ thực tại khách quan, được đem lại cho con người trong cảm
giác,được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh lại, và tồn
tại không lệ thuộc vào cảm giác” Vật chất tồn tại bằng cách vận động và
thông qua vận động để thể hiện sự tồn tại của mình.Không thể có vật
chất không vận động và không có vận động ở ngoài vật chất.Đồng thời
vật chất vận động trong không gian và thời gian.Không gian và thời gian
là hình thức tồn tại của vật chất,là thuộc tính chung vốn có của các dạng
vật chất cụ thể .- Ý thức: Ý thức lẩn phẩm của quá trình phát triển của tự
nhiên và lịch sử - xã hội.Bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của
20
thế giới khách quan,là sự phản ánh tích cực,tự giác,chủ động,sáng tạo
thế giới khách quan và bộ não người thông qua hoạt động thực
tiễn.Chính vì vậy,không thể xem xét hai phạm trù này tách rời,cứng
nhác, càng không thể coi ý thức (bao gồm cảm xúc,ý chí,tri thức,….) là
cái có trước ,cái sinh ra và quyết định sự tồn tại ,phát triển của thế giới
vật chất.b) Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:- Vật chất
quyết định sự hình thành và phát triển của ý thức.Vật chất là cái có
trước,nó sinh ra và quyết định ý thức: Nguồn gốc của ý thức chính là vật
chất : bộ não ngưòi – cơ quan phản ánh thế giơí xung quanh,sự tác động
của thế giới vật chất vào bộ não ngưòi,tạo thành nguồn gốc tự nhiên .
Lao động và ngôn ngữ(tiếng nói,chữ viết )trong hoạt động thực tiễn
cùng với nguồn gốc tự nhiên quyết định sự hình thành,tồn tại và phát
triển của ý thức . Mặt khác,ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan.Vật chất là đối tượng,khách thể của ý thức,nó quy định nội
dung,hình thức,khả năng và quá trình vận động của ý thức . -Tác động
trở lại của ý thức Ý thức do vật chất sinh ra và quy định,nhưng ý thức lại
có tính độc lập tương đối của nó.Hơn nữa,sự phản ánh của ý thức đối với
vật chất là sự phản ánh tinh thần,phản ánh sáng tạo và chủ động chứ
không thụ động,máy móc,nguyên si thế giới vật chất,vì vậy nó có tác
động trở lại đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con
người . Dựa trên các tri thức về quy luật khách quan,con người đề ra
mục tiêu,phương hướng,xác định phương pháp,dùng ý chí để thực hiện
mục tiêu ấy.Vì vậy,ý thức tác động đến vật chất theo hai hướng chủ
yếu :Nếu ý thức phản ánh đúng đắn điều kiện vật chất,hoàn cảnh khách
quan thì sẽ thúc đẩy tạo sự thuận lợi cho sự phát triển của đối tượng vật
chất.Ngược lại,nếu ý thức phản ánh sai lệch hiện thực sẽ làm cho hoạt
động của con người không phù hợp với quy luật khách quan,do đó:sẽ
kìm hãm sự phát triển của vật chất. Tuy vậy,sự tác động của ý thức đối
với vật chất cũng chỉ với một mức độ nhất định chứ nó không thể sinh ra
hoặc tiêu diệt các quy luật vận động của vật chất được.Và suy cho
21
cùng,dù ở mức độ nào nó vẫn phải dựa trên cơ sở sự phản ánh thế giới
vật chất . Biểu hiện ở mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong đời sống
xã hội là quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội,trong đó tồn tại xã
hội quyết định ý thức xã hội,đồng thời ý thức xã hội có tính độc lập
tương đối và tác động trở lại tồn tại xã hội . Ngoài ra, mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức còn là cơ sở để nghiên cứu,xem xét các mối quan hệ
khác như: lý luận và thực tiễn,khách thể và chủ thể,vấn đề chân lý …
* Đánh giá về mối quan hệ khách quan và chủ quan trong giải quyết các
vấn đề thực tiễn của nước ta hiện nay
Câu 7. Anh/chị hãy phân tích nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của
phép biện chứng duy vật. Từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận và
vận dụng trong thực tiễn địa phương.
a. Nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
- Đối lập với quan điểm biện chứng, quan điểm siêu hình coi sự tồn tại
của các sự vật và hiện tượng trong thế giới là những cái tách rời nhau,
giữa chúng không có sự liên hệ tác động qua lại, không có sự chuyển
hóa lẫn nhau và nếu có chỉ là sự liên hệ mang tính chất ngẫu nhiên, gián
tiếp. Ngược lại, phép biện chứng duy vật cho rằng, sự tồn tại của các sự
vật, hiện tượng của thế giới không phải là sự tồn tại tách rời và cô lập
lẫn nhau, mà chúng là một thể thống nhất. Trong thể thống nhất
đó những mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, ràng buộc và phụ
thuộc, qui định lẫn nhau, chuyển hoá cho nhau.
Ví dụ: tự nhiên theo nghĩa rộng, là toàn bộ thế giới vật chất tồn tại khách
quan. Xã hội chỉ là một bộ phận đặc thù của giới tự nhiên. Sự xuất hiện,
tồn tại, vận động và phát triển của xã hội một mặt, phụ thuộc vào các qui
luật tự nhiên, nhưng mặt khác còn phụ thuộc vào những qui luật xã hội,
trong đó con người là chủ thể của lịch sử xã hội. Do đó, xã hội không thể
là cái gì khác, mà chính là một bộ phận đặc thù, được tách ra hợp qui
luật của tự nhiên, là hình thức tổ chức vật chất cao nhất của vật chất
trong quá trình tiến hoá liên tục, lâu dài của tự nhiên.
22
- Tính chất của mối liên hệ: tính khách quan, tính phổ biến và tính đa
dạng phong phú.
Tính khách quan của mối liên hệ là mối liên hệ của các sự vật, hiện
tượng trong thế giới, dù thể hiện dưới hình thức nào cũng cũng là sự qui
định, tác động và chuyển hoá lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng độc lập
và không phụ thuộc vào ý thức con người; con người chỉ có thể nhận
thức và vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn xã hội. Ví
dụ: con người không thể tùy tiện lựa chọn chủ quan một hình thức xã hội
này hay một hình thức xã hội khác. Với tư cách là chủ thể của lịch sử
thông qua hoạt động thực tiễn của mình thì con người có thể nhận thức,
vận dụng thành công các qui luật khách quan để khẳng định vai trò của
con người trong quá trình biến đổi hiện thực khách quan.
Tính phổ biến của mối liên hệ là không có sự vật, hiện tượng nào của thế
giới tồn tại tuyệt đối biệt lập mà bao gồm những yếu tố cấu thành với
những mối liên hệ vốn có của sự vật, hiện tượng như một cấu trúc mang
tính hệ thống và sự tương tác và biến đổi lẫn nhau trong tự nhiên, xã hội
và tư duy. Những hình thức riêng biệt, cụ thể của mối liên hệ là đối
tượng nghiên cứu của từng ngành khoa học cụ thể, còn phép biện chứng
duy vật thì nghiên cứu những mối liên hệ phổ biến của tự nhiên xã hội
và tư duy. Vì vậy, Ph.Ăngghen đã viết: “Phép biện chứng là khoa học về
mối liên hệ phổ biến”[1].
Tính đa dạng phong phú của mối liên hệ là các sự vật, hiện tượng đều có
những mối liên hệ cụ thể khác nhau gắn liền với những điều kiện khách
quan nhất định. Căn cứ tính đa dạng phong phú của mối liên hệ có thể
phân chia các mối liên hệ theo từng cặp như mối liên hệ bên trong và
bên ngoài, trực tiếp và gián tiếp, mối liên hệ cái chung và cái riêng, bản
chất và hiện tượng… Sự phân chia các cặp của các mối liên hệ cũng
mang tính tương đối, vì mỗi loại mối liên hệ chỉ là một hình thức, một
bộ phận của mối liên hệ phổ biến và giữa chúng đều có khả năng chuyển
hoá cho nhau, tùy theo những điều kiện khách quan nhất định.
b. Ý nghĩa phương pháp luận
Nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến có ý nghĩa đối với hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Cho nên, khi
nghiên cứu mối liên hệ phổ biến phải có quan điểm toàn điện, quan điểm
lịch sử cụ thể.
23
- Nguyên tắc (Quan điểm) toàn diện đòi hỏi chúng ta khi phân tích về sự
vật phải đặt nó trong mối quan hệ với sự vật khác. Đồng thời, phải
nghiên cứu tất cả những mặt, những yếu tố, những mối liên hệ vốn có
của nó. Qua đó để xác định được mối liên hệ bên trong, bản chất, qui
luật của sự vật, hiện tượng. Ví dụ: Cơ sở hạ tầng trong thời kỳ quá độ ở
nước ta bao gồm các thành phần kinh tế, tức là các kiểu tổ chức kinh tế,
các kiểu quan hệ sản xuất với các hình thức sở hữu khác nhau, thậm chí
đối lập nhau, cũng tồn tại trong một nền kinh tế quốc dân thống nhất. Đó
là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Có nghĩa là có sự thống nhất ở mức độ nhất định về mặt lợi ích,
nhưng nó cũng tồn tại những mâu thuẫn nhất định…
- Nguyên tắc (Quan điểm lịch sử cụ thể) đòi hỏi khi nghiên cứu sự vật
phải thấy sự tồn tại vận động và phát triển của bản thân các sự vật và
hiện tượng là một quá trình có tính giai đoạn, tính lịch sử cụ thể. Khi
phân tích tính toàn diện về các mối liên hệ của sự vật phải đặt nó trong
mối quan hệ cụ thể, với những điều kiện lịch sử cụ thể của các mối quan
hệ đó. Ví dụ: Nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội,
không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, không có nghĩa là xóa
bỏ các quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, mà chỉ phát triển sở
hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Hiện nay trong điều kiện chuyển sang
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nên việc duy
trì và phát triển hình thức sở hũu tư nhân về tư liệu sản xuất là một yêu
cầu khách quan mang tính qui luật.
Phê phán quan điểm siêu hình coi sự tồn tại của các sự vật và hiện tượng
trong thế giới là những cái tách rời nhau, giữa chúng không có sự liên hệ
tác động qua lại, không có sự chuyển hóa lẫn nhau và nếu có chỉ là sự
liên hệ mang tính chất ngẫu nhiên, gián tiếp.
* vận dụng trong thực tiễn địa phương.
Trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định
đổi mới toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị,
văn hoá, giáo dục…), mà trước hết là đổi mới tư duy lý luận, tư duy
chính trị về CNXH. Cụ thể, về xã hội: giải quyết tốt mối liên hệ giữa
công nhân, nông dân và trí thức tạo thành mối liên hệ công nông trí thức.
24
Về chính trị: đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới hệ thống, chức năng,
tránh chồng chéo, tạo sự đồng bộ giữa đảng và nhà nước. Về tư tưởng:
với ba bộ phận chủ yếu: văn hóa, giáo dục đào tạo và khoa học công
nghệ. Nó phải có mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó giáo
dục đào tạo được coi là quốc sách hàng đầu.
Tuy nhiên không phải đổi mới tất cả các lĩnh vực ngay cùng một lúc
(như thế sẽ không đủ lực để thực hiện) mà phải xác định đổi mới có
trọng tâm, trọng điểm. Trong đổi mới các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn
hóa giáo dục…. Đảng xác định đổi mới kinh tế là trước hết; đổi mới giáo
dục đào tạo, khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu trên cơ sở phát
huy sức mạnh nội lực và tranh thủ ngoại lực.
Một điều cần lưu ý nữa là trong cả nhận thức và hoạt động thực tiễn cần
phê phán quan điểm phiến diện, một chiều. Đặc biệt, cần tích cực chống
lại chủ nghĩa chiết trung (mục đích là kết hợp giữa chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa duy tâm, hoặc ý định của bọn xét lại là muốn kết hợp chủ
nghĩa Mác và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán). Chủ nghĩa chiết trung
không biết rút ra từ tổng số những mối liên hệ và quan hệ của thế giới
khách quan thành những mối liên hệ chủ yếu, cơ bản của sự vật, hiện
tượng trong tính lịch sử - cụ thể của nó và thuật ngụy biện (lập luận chủ
quan, đánh tráo mối liên hệ không cơ bản, không quan trọng với mối
liên hệ cơ bản, quan trọng ).
Để xác định đúng đường lối, chủ trương của từng giai đoạn cách mạng,
của từng thời kỳ xây dựng đất nước, bao giờ Đảng cũng phân tích tình
hình cụ thể của đất nước và bối cảnh quốc tế diễn ra trong từng giai
đoạn, thời kỳ và trong khi thực hiện đường lối, chủ trương, Đảng ta cũng
bổ sung và điều chỉnh cho phù hợp với diễn biến của hoàn cảnh cụ thể.
Đại hội Đảng lần VIII đã khẳng định: “Xét trên tổng thể, Đảng ta đã bắt
25