Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

Tìm hiểu khu di tích danh thắng Nhị Tam Thanh ở thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.35 MB, 43 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do tôi thực hiện. Tôi
nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích phục vụ việc nghiên cứu chứ không nhằm
mục đích thương mại. Mọi thông tin và số liệu trong bài tiểu luận này là hoàn
toàn xác thực. Tôi xin chịu mọi trách nhiệm nếu có sự thiếu trung thực về thông
tin trong bài tiểu luận này.


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài tiểu luận tôi đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ nhiệt
tình và sự hướng dẫn chỉ bảo từ quý thầy cô và bạn bè.
Tôi xin chân thành cảm ơn ban quản lí khu di tích danh thắng Nhị - Tam
Thanh đã tạo điều kiện cho tôi tiến hành điền dã và khảo sát thực địa tại đây.
Tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến các thầy cô trong khoa
Văn hóa thông tin và xã hội đặc biệt là giảng viên – TS. Lê Thị Hiền, người đã
giúp đỡ và tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành
đề tài.
Do trình độ và kinh nghiệm nghiên cứu của tôi còn hạn chế nên bài tiểu
luận không tránh khỏi khiếm khuyết và thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong nhận được
sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô và bạn bè để tôi có thể hoàn thiện hơn bài
nghiên cứu của mình.
Xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ DI TÍCH DANH THẮNG VÀ KHÁI
QUÁT VỀ THÀNH PHỐ LẠNG SƠN.............................................................5


1.1. Cơ sở lí luận chung về di tích danh thắng............................................5
1.1.1. Một số khái niệm...................................................................................5
1.1.2. Phân loại di tích.....................................................................................6
1.1.3. Tầm quan trọng của di tích danh thắng.................................................8
1.2. Khái quát về thành phố Lạng Sơn....................................................................9
1.2.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên..........................................................9
1.2.2. Đặc điểm dân cư – kinh tế - xã hội....................................................10
1.2.3. Cơ sở hạ tầng.......................................................................................11
Tiểu kết...............................................................................................................................12
Chương 2. ĐẶC ĐIỂM KIẾN TRÚC CỦA KHU DI TÍCH DANH THẮNG
NHỊ - TAM THANH.........................................................................................13
2.1. Đặc điểm kiến trúc động Nhị Thanh - chùa Tam Giáo..........................13
2.2. Đặc điểm kiến trúc động Tam Thanh - chùa Tam Thanh.....................17
2.3. Đặc điểm kiến trúc tượng đá nàng Tô Thị, núi Tô Thị..........................20
2.4. Đặc điểm kiến trúc thành nhà Mạc................................................................22
Tiểu kết...............................................................................................................................23
Chương 3. GIẢI PHÁP BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ CỦA
KHU DI TÍCH DANH THẮNG NHỊ - TAM THANH..................................24
3.1. Các giá trị của khu di tích danh thắng Nhị - Tam Thanh.....................24
3.1.1. Giá trị lịch sử.......................................................................................24
3.1.2. Giá trị văn hóa.....................................................................................24
3.1.3. Giá trị du lịch......................................................................................25
3.1.4. Giá trị tâm linh....................................................................................26


3.1.5. Giá trị kiến trúc...................................................................................26
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn và phát huy các giá
trị của khu di tích danh thắng Nhị - Tam Thanh..............................................26
3.2.1. Tăng cường và nâng cao hiệu quả của các cấp uỷ Đảng, chính quyền
và các cơ quan liên quan trong việc bảo tồn và phát huy giá trị các di tích

lịch sử - văn hóa trong khu di tích danh thắng Nhị - Tam Thanh.................27
3.2.2. Tuyên truyền, phổ biến nâng cao ý thức của người dân trong việc bảo
tồn và phát triển khu di tích danh thắng Nhị - Tam Thanh...........................27
3.2.3. Đầu tư ngân sách cho việc tu bổ các công trình di tích trong khu di
tích danh thắng Nhị - Tam Thanh..................................................................28
3.2.4. Đào tạo đội ngũ quản lí có chuyên môn cao và có tinh thần trách
nhiệm với công tác quản lí............................................................................28
3.2.5. Quy hoạch lại không gian khu di tích.................................................29
3.2.6. Tổ chức đan xen nhiều chương trình nghệ thuật kết hợp với tuyên
truyền giáo dục cho nhân dân và du khách về các giá trị và công tác bảo tồn
của khu di tích...............................................................................................30
3.2.7. Giải pháp xã hội hoá công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hoá........30
Tiểu kết...............................................................................................................................31
KẾT LUẬN........................................................................................................32
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................33
PHỤ LỤC..........................................................................................................34


DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
KT – XH
VH – TT
VHTT & DL

Kinh tế - xã hội
Văn hóa - thông tin
Văn hóa thể thao & du lịch


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài

Ngày nay với xu thế hội nhập, ngành du lịch đang trở thành ngành mũi
nhọn của nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Bắt nhịp với xu thế
khách quan ấy, tỉnh Lạng Sơn luôn chú trọng phát triển ngành du lịch, đặc biệt là
các di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh tại tỉnh như Ải Chi Lăng, núi Mẫu
Sơn, cột cờ Phai Vệ, Thành cổ Lạng Sơn...Trong đó, khu di tích danh thắng Nhị
- Tam Thanh – khu di tích thắng cảnh đẹp nhất của thành phố Lạng Sơn được
đặc biệt quan tâmphát triển bởi ý nghĩa và giá trị đặc biệt của nó đã làm nên cái
hồn của xứ Lạng thân yêu.
Không chỉ đẹp và nổi tiếng, khu di tích danh thắng này còn chứa đựng
những giá trị và ý nghĩa sâu sắc gắn liền với kinh tế du lịch của tỉnh Lạng Sơn.
Tuy nhiên, việc sử dụng, khai thác khu di tích này còn diễn ra chồng chéo nhau,
vì các cơ quan bảo tồn, du lịch, điện ảnh, thương mại, dịch vụ… địa phương đều
hướng vào khai thác di tích và các hoạt động này chưa được quản lý, phối hợp
chặt chẽ. Hiện nay các di tích trong khu di tích này đang dần bị tàn phá và hủy
hoại nghiêm trọng không chỉ bởi những tác động của tự nhiên, mà còn của
khách du lịch. Vì vậy, cấp thiết cần có những biện pháp thích hợp để bảo tồn và
phát huy giá trị của chúng.
Vốn yêu thích thắng cảnh của quê hương từ lâu nên đề tài nghiên cứu này
là dịp để tôi tìm hiểu về thắng cảnh của quê hương mình và đề ra giải pháp góp
phần phát triển các giá trị của danh thắng quê hương.
Với những lí do trên tôi đã chọn đề tài “Tìm hiểu khu di tích danh
thắng Nhị - Tam Thanh ở thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn” làm đề tài
thi hết môn của mình.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong đề tài này, tôi tập trung nghiên cứu về đặc điểm kiến trúc của các di
tích trong khu di tích danh thắng Nhị - Tam Thanh. Đó là đặc điểm kiến trúc của
động Nhị Thanh - chùa Tam Giáo, đặc điểm kiến trúc của chùa Tam Thanh 1



động Tam Thanh, đặc điểm kiến trúc của Thành nhà Mạc và đặc điểm kiến trúc
của tượng đá nàng Tô Thị tại núi Tô Thị.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
-Về không gian: Tôi tập trung nghiên cứu các di tich trong khu di tích
danh thắng Nhị - Tam Thanh tại thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn.
-Về thời gian: Khu di tích này đã tồn tại lâu đời nhưng bài tiểu luận của
tôi tập trung nghiên cứu nó trong khoảng thời gian từ năm 2005 đến nay. Tuy
nhiên trong bài cũng đề cập đến sự kiện từ năm 1991.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
- Làm rõ đặc điểm kiến trúc của khu di tích danh thắng Nhị - Tam Thanh.
- Đề ra các giải pháp có thể áp dụng vào thực tiễn nhằm bảo tồn và phát
huy các giá trị của khu di tích danh thắng Nhị - Tam Thanh.
- Công trình nghiên cứu này có thể trở thành tư liệu tham khảo cho những
ai nghiên cứu về di tích danh thắng nói chung và nghiên cứu về khu di tích danh
thắng Nhị - Tam Thanh nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
-Hệ thống hóa, khái quát hóa lí luận về di tích danh thắng.
-Phân tích, làm rõ đặc điểm kiến trúc nổi bật của khu di tích danh thắng
Nhị - Tam Thanh.
-Làm rõ giá trị và đề xuất các giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy các giá
trị của khu di tích danh thắng Nhị - Tam Thanh.
4. Lịch sử nghiên cứu
Đã có một số nhà nghiên cứu và các bài viết về khu danh thắng này như:
-Trong quyển Ngữ văn địa phương cấp trung học cơ sở - tài liệu nội bộ
lưu hành trong tỉnh Lạng Sơn có bài viết về động Nhị Thanh. Bài viết đã miêu
tả về những đặc điểm nổi bật của động Nhị Thanh tuy nhiên còn khá bao quát và
chưa nói đến giá trị của nó.
-Tác phẩm Lạng Sơn, thế và lực trong thế kỉ XXI của tác giả Viết Luân
Chu, NXB Chính trị quốc gia, 2005 có đề cập đến những tiềm lực phát triển của

2


khu danh thắng nhưng chưa làm rõ cần bảo tồn nó như thế nào.
-Cuốn Xứ Lạng văn hóa và du lịch của tác giả Nguyễn Cường, NXB Văn
hóa dân tộc, 2000 đã giới thiệu và mô tả đặc điểm của khu di tích danh thắng
này nhưng chỉ mang tính khái quát, mô tả.
-Trong cuốn Di sản văn hóa Lạng Sơn của tác giả Nguyễn Cường, NXB
Văn hóa thông tin, 2006 có bài viết giới thiệu về tổng thể khu di tích này và
nghiên cứu khá sâu về các di tích trong khu di tích như chùa Tam Thanh, động
Nhị Thanh, thành Nhà Mạc, núi Tô Thị. Tuy nhiên tác giả lại chưa nêu rõ việc
bảo tồn các di tích này như thế nào.
Như vậy, các tài liệu trên đã tìm hiểu về các di tích danh thắng trong khu
di tích danh thắng Nhị - Tam Thanh tuy nhiên chúng chỉ mang tính bao quát mà
chưa có bài viết nào hệ thống hóa các đặc điểm, giá trị và đề ra các biện pháp để
bảo tồn và phát huy các giá trị của chúng. Bởi vậy tôi mong rằng bài tiểu luận
của tôi sẽ tạo ra được cái nhìn tổng quan nhất về cả khu di tích danh thắng Nhị Tam Thanh.
5. Phương pháp nghiên cứu
-Phương pháp nghiên cứu lí thuyết.
-Phương pháp khảo sát thực địa.
6. Giả thuyết nghiên cứu
-Đề tài nghiên cứu nhằm làm rõ đặc điểm kiến trúc của khu di tích danh
thắng Nhị - Tam Thanh.
-Nếu những giải pháp tôi đưa ra trong đề tài này được công nhận và được
đưa vào thực tế thì sẽ có thể góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị của khu di
tích danh thắng Nhị - Tam Thanh. Từ đó, khu di tích danh thắng này sẽ được bảo
tồn tốt hơn góp phần thúc đẩy du lịch và phát triển kinh tế cho tỉnh Lạng Sơn.
7. Đóng góp của đề tài
- Trở thành tư liệu nghiên cứu, tư liệu tham khảo về khu di tích danh
thắng Nhị - Tam Thanh nói riêng và di tích danh thắng nói chung.

- Các giải pháp được đề xuất trong nghiên cứu có thể góp phần nâng cao
hiệu quả quản lí và bảo tồn các giá trị của khu di tích danh thắng Nhị - Tam
3


Thanh.
8. Cấu trúc của đề tài
Ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục thì đề tài có cấu
trúc gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lí luận về di tích danh thắng và khái quát về thành phố
Lạng Sơn
Chương 2. Đặc điểm kiến trúc của khu di tích danh thắng Nhị - Tam
Thanh
Chương 3. Giải pháp bảo tồn và phát huy các giá trị của khu di tích danh
thắng Nhị - Tam Thanh

4


Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ DI TÍCH DANH THẮNG VÀ KHÁI QUÁT VỀ
THÀNH PHỐ LẠNG SƠN
1.1. Cơ sở lí luận chung về di tích danh thắng
1.1.1. Một số khái niệm
Di tích danh thắng hay còn gọi là danh lam thắng cảnh là một thành tố của
di sản văn hóa. Di tích danh thắng có ý nghĩa vô cùng quan trọng góp phần tạo
nên vẻ đẹp của một quốc gia, dân tộc.
 Khái niệm di tích:
Theo Từ điển Thiều Chiểu:
“Di tích là dấu vết của quá khứ còn lưu lại trong lòng đất hoặc trên mặt

đất có ý nghĩa về mặt văn hóa và lịch sử”[7;123].
Trong Giáo trình Bảo tồn di tích lịch sử - văn hóa của trường Đại học
Văn hóa Hà Nội có định nghĩa di tích như sau:
“Di tích là những không gian vật chất cụ thể, khách quan, trong đó chứa
đựng các giá trị điển hình lịch sử; do tập thể hoặc cá nhân con người hoạt động
sáng tạo ra trong lịch sử để lại”[2;17].
Ở Việt Nam, một di tích khi đủ các điều kiện sẽ được công nhận theo thứ
tự: di tích cấp tỉnh, di tích cấp quốc gia và di tích quốc gia đặc biệt.
 Khái niệm di tích lịch sử văn hóa:
Lần đầu tiên Pháp lệnh di tích lịch sử năm 1984 đã đưa ra khái niệm về di
tích lịch sử, văn hóa như sau:
“Di tích lịch sử, văn hóa là những công trình xây dựng, địa điểm, đồ vật,
tài liệu và tác phẩm có giá trị lịch sử, khoa học nghệ thuật, giá trị văn hóa hoặc
có liên quan đến những sự kiện lịch sử, quá trình phát triển văn hóa, xã hội”[6].
Tiếp đó, trong Luật Di sản văn hóa năm 2013 (Điều 4) có định nghĩa: “
Di tích lịch sử - văn hóa là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật,
bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hóa,
khoa học”[5].
5


 Khái niệm danh lam thắng cảnh (di tích thắng cảnh):
Luật Di sản văn hóa 2013 cũng định nghĩa về danh lam thắng cảnh như
sau:
“Danh lam thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết
hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị lịch sử thẩm
mỹ, khoa học”[5].
Như vậy, pháp luật quan niệm danh lam thắng cảnh là những khu vực có
cảnh đẹp được mọi người biết đến và được thừa nhận rộng rãi.
1.1.2. Phân loại di tích

Căn cứ Điều 4 Luật di sản văn hoá, Điều 14 Nghị định số 92/2002/NĐ-CP
ngày 11/11/2002 của Chính phủ Việt Nam quy định chi tiết thi hành một số điều
của Luật Di sản văn hoá, các di tích được phân loại như sau:
 Di tích lịch sử - văn hoá
Di tích lịch sử - văn hoá là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ
vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn
hoá, khoa học. Di tích lịch sử - văn hóa phải có một trong các tiêu chí sau đây:
 Công trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu trong
quá trình dựng nước và giữ nước. Các di tích tiêu biểu thuộc loại này như đền
Hùng, Cổ Loa, Cố đô Hoa Lư, Bãi cọc Bạch Đằng, Cột cờ...
 Công trình xây dựng, địa điểm gắn với thân thế và sự nghiệp của anh
hùng dân tộc, danh nhân của đất nước. Các di tích tiêu biểu thuộc loại này
như Khu di tích lịch sử Kim Liên, Đền Kiếp Bạc, Quần thể di tích danh thắng
Yên Tử, Lam Kinh, đền Đồng Nhân...
 Công trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu của các
thời kỳ cách mạng, kháng chiến. Các di tích tiêu biểu thuộc loại này như Khu di
tích chiến thắng Điện Biên Phủ, Địa đạo Củ Chi, Khu di tích lịch sử cách mạng
Pắc Bó, Phòng tuyến Tam Điệp, Hành cung Vũ Lâm, Khu rừng Trần Hưng
Đạo...
Năm 2010, di tích lịch sử chiếm 51.2% số di tích được xếp hạng. Các di
6


tích này không những có giá trị lịch sử và văn hóa mà còn mang lại những giá trị
lớn trên phương diện kinh tế, nhất là kinh tế du lịch.
 Di tích kiến trúc nghệ thuật
Di tích kiến trúc nghệ thuật là công trình kiến trúc nghệ thuật, tổng thể
kiến trúc đô thị và đô thị có giá trị tiêu biểu trong các giai đoạn phát triển nghệ
thuật kiến trúc của dân tộc. Quần thể các công trình kiến trúc hoặc công trình
kiến trúc đơn lẻ có giá trị tiêu biểu về kiến trúc, nghệ thuật của một hoặc nhiều

giai đoạn lịch sử. Các di tích tiêu biểu loại này như Chùa Bút Tháp, phố cổ Hội
An, nhà thờ Phát Diệm, chùa Keo, đình Tây Đằng,Chùa Phật Tích.
Năm 2010, di tích kiến trúc nghệ thuật chiếm 44.2% tổng số di tích được
xếp hạng.
 Di tích khảo cổ
Di tích khảo cổ là những địa điểm khảo cổ có giá trị nổi bật đánh dấu các
giai đoạn phát triển của các văn hoá khảo cổ. Các di tích tiêu biểu thuộc loại này
như Hoàng thành Thăng Long, hang Con Moong, di chỉ Đông Sơn, động Người
Xưa, thánh địa Mỹ Sơn
Năm 2010, di tích khảo cổ chiếm 1.3% các di tích được xếp hạng.
 Di tích thắng cảnh
Di tích thắng cảnh (danh lam thắng cảnh) là cảnh quan thiên nhiên hoặc
địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có
giá trị lịch sử, thẩm mỹ, khoa học. Danh lam thắng cảnh phải có một trong các
tiêu chí sau đây:
 Cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan
thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị thẩm mỹ tiêu biểu. Các di tích
quốc gia đặc biệt tiêu biểu thuộc loại này như 4 danh lam thắng cảnh khu danh
thắng Tây Thiên, Tràng An - Tam Cốc - Bích Động, vịnh Hạ Long, động Phong
Nha.
 Khu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa lý, đa
7


dạng sinh học, hệ sinh thái đặc thù hoặc khu vực thiên nhiên chứa đựng
những dấu tích vật chất về các giai đoạn phát triển của Trái Đất. Các di tích tiêu
biểu thuộc loại này như vịnh Hạ Long, Cao nguyên Đồng Văn, các vườn quốc
gia và khu dự trữ sinh quyển thế giới ở Việt Nam.
Danh lam thắng cảnh chiếm khoảng 3.3% số di tích được xếp hạng.
 Di tích lịch sử cách mạng

Di tích cách mạng - kháng chiến là một bộ phận cấu thành hệ thống các di
tích lịch sử - văn hoá, tuy nhiên, nó có những điểm khác với các di tích tôn giáo
tín ngưỡng như đình, đền, chùa, miếu… ở chỗ: đó là những địa điểm cụ thể,
công trình kiến trúc có sẵn (nhà ở, đường phố…), là những công trình được con
người tạo nên phù hợp với mục đích sử dụng (địa đạo, hầm bí mật…) gắn liền
với những sự kiện cụ thể, nhân vật lịch sử cụ thể mà trở thành di tích. Loại hình
di tích này rất đa dạng, phong phú, có mặt ở khắp mọi nơi, khó nhận biết, đồng
thời cũng rất dễ bị lãng quên, dễ biến dạng theo mục đích sử dụng, theo thời tiết
và theo thời gian. Bởi vậy các di tích này vừa khó bảo tồn vừa khó phát huy tác
dụng nếu không được quan tâm đặc biệt.
Một số di tích lịch sử cách mạng như: Chiến khu Tân Trào, Chiến khu
Quỳnh Lưu, Khu di tích chiến thắng Điện Biên Phủ,...[3],[5].
1.1.3. Tầm quan trọng của di tích danh thắng
Di tích danh thắng (danh lam thắng cảnh) là điều kiện thuận lợi để quảng
bá đất nước và con người Việt Nam đến với bạn bè quốc tế. Trong thời đại hội
nhập và phát triển, vai trò của ngành dịch vụ đóng vai trò ngày càng to lớn đối
sự phát triển kinh tế của một đất nước. Phát triển du lịch đặc biệt là khai thác
giá trị du lịch của các khu di tích thắng cảnh có ý nghĩa đóng góp to lớn đối với
ngành dịch vụ. Các di tích thắng cảnh không chỉ là nơi lí tưởng để khách du lịch
nghỉ dưỡng, tận hưởng không khí yên bình, tĩnh lặng của thiên nhiên mà còn là
cơ hội để họ tiếp xúc và tìm hiểu văn hóa đặc trưng của mỗi dân tộc và vùng
miền. Thông qua hoạt động du lịch này, những nét văn hóa truyền thống của các
dân tộc được gìn giữ và biết đến nhiều hơn, tạo động lực phát triển cho các loại
8


hình nghệ thuật truyền thống đặc sắc. Một vai trò quan trọng nữa của du lịch
thắng cảnh là tạo nguồn thu từ du lịch tại các di tích thắng cảnh này. Phát triển
du lịch ở các di tích thắng cảnh không chỉ giúp phát triển ngành du lịch nói
riêng mà còn tạo điều kiện để phát triển kinh tế xã hội nói chung. Phát huy các

giá trị của di tích thắng cảnh sẽ giúp hội nhập quốc tế và khu vực khi các giá trị
văn minh này đến với bạn bè quốc tế. Đây cũng là lợi thế giúp nâng cao vị thế
của một quốc gia. Quan trọng hơn, danh lam thắng cảnh luôn gắn với một địa
danh hay vùng miền cụ thể do đó nó cũng sẽ nâng cao hiểu biết về vùng miền
cho người dân. Ví như nhắc đến Hồ Gươm là sẽ nhớ ngay đến thủ đô Hà Nội,
nhắc đến vịnh Hạ Long thì sẽ nhớ ngay đến Quảng Ninh… Như vậy, mỗi thắng
cảnh còn quảng bá hình ảnh cho địa phương, khiến nơi có di tích thắng cảnh
càng được nhiều người biết đến hơn và nổi tiếng hơn.

 Điều kiện trở thành di tích danh thắng
Theo Luật Di sản văn hóa năm 2013:
Danh lam thắng cảnh phải có một trong các tiêu chí sau đây:
-Cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên
nhiên với công trình kiến trúc có giá trị thẩm mỹ tiêu biểu.
-Khu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa lý, đa
dạng sinh học, hệ sinh thái đặc thù hoặc khu vực thiên nhiên chứa đựng những
dấu tích vật chất về các giai đoạn phát triển của trái đất [5].
1.2. Khái quát về thành phố Lạng Sơn
1.2.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
 Vị trí địa lý
Thành phố Lạng Sơn nằm ở vị trí từ 21,45 đến 22 độ vĩ Bắc, 106,39 đến
107,03 độ kinh Đông. Thành phố nằm giữa một lòng chảo lớn, có dòng sông Kỳ
Cùng chảy qua trung tâm Thành phố và đây là dòng sông chảy ngược. Nó bắt
nguồn từ huyện Đình Lập của Lạng Sơn và chảy theo hướng Nam - Bắc về
huyện Quảng Tây - Trung Quốc.
Thành phố Lạng Sơn nằm trên trục đường quốc lộ 1A, đường sắt liên vận
9


quốc tế Việt Nam – Trung Quốc, đường quốc lộ 1B đi Thái Nguyên, đường quốc

lộ 4B đi Quảng Ninh, đường quốc Lộ 4A đi Cao Bằng. Thành phố cách Thủ đô
Hà Nội 154 km, cách cửa khẩu Quốc tế Hữu Nghị 14 km và cách 5 cặp chợ
đường biên Việt - Trung thuộc huyện Cao Lộc, Lộc Bình, Văn Lãng từ 25 đến
30km.
Phía Bắc giáp xã Thạch Đạn, Thụy Hùng – huyện Cao Lộc.
Phía Nam giáp xã Tân Thành, Yên Trạch – huyện Cao Lộc và xã Vân
Thủy - huyện Chi Lăng
Phía Đông giáp thị trấn Cao Lộc và các xã Gia Cát, Hợp Thành, Tân
Liên – huyện Cao Lộc.
Phía Tây giáp xã Xuân Long – huyện Cao Lộc và xã Đồng Giáp –
huyện Văn Quan.
Bao gồm 5 phường và 3 xã: phường Hoàng Văn Thụ, phường Vĩnh Trại,
phường Tam Thanh, phường Chi Lăng, phường Đông Kinh, xã Mai Pha, xã
Quảng Lạc, xã Hoàng Đồng.
 Điều kiện tự nhiên
Thành phố nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm, nhiệt độ trung bình
hàng năm 21 ⁰C, độ ẩm trung bình 80%, lượng mưa trung bình năm là
1439 mm. Thành phố nằm trên nền đá cổ, có độ cao trung bình 250 mét so
với mực nước biển, gồm các kiểu địa hình: xâm thực bóc mòn, cacxtơ và đá vôi,
tích tụ.
1.2.2. Đặc điểm dân cư – kinh tế - xã hội
 Đặc điểm dân cư
Dân số của thành phố năm 2014 là 92.200người, với nhiều dân tộc khác
nhau như: Kinh, Tày, Nùng, Hoa, Dao, Mường, Sán Dìu, Sán Chỉ,...Cộng đồng
các dân tộc Lạng sơn luôn đoàn kết cùng nhau xây dựng đời sống và nếp sống
văn hóa tốt đẹp.
 Đặc điểm kinh tế
Cơ cấu kinh tế của Thành phố chủ yếu là phát triển thương mại du lịch
10



dịch vụ (chiếm 59,8%), công nghiệp –xây dựng (chiếm 35,5%) và nông lâm
nghiệp (chiếm 4,7%). GDP bình quân đầu người năm 2005 đạt 14,9 triệu
đồng/người/năm.
Hoạt động của các thành phần kinh tế phát triển ổn định, phong phú và đa
dạng. Hiện Thành phố có hơn 300 doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh, hơn
4.000 hộ kinh doanh cá thể đang hoạt động sản xuất, kinh doanh trên địa bàn.
 Đặc điểm văn hóa - xã hội
Lĩnh vực văn hoá xã hội có nhiều chuyển biến tích cực. Đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân từng bước được cải thiện. Tỷ lệ hộ nghèo năm 2005
còn 3,67% (theo tiêu chí mới), hộ giàu và khá chiếm trên 40%. 100% thôn bản
có điện lưới quốc gia, 100% số hộ được nghe đài phát thanh, trên 95% số hộ
được xem truyền hình, tỷ lệ thôn bản được dùng nước sạch chiếm khoảng 85%.
Chất lượng giáo dục - đào tạo ngày càng được nâng cao, tỷ lệ học sinh tốt
nghiệp bình quân từ 98-100%, số học sinh giỏi hàng năm đều tăng. Đảm bảo các
chương trình mục tiêu quốc gia về Y tế, Dân số, Gia đình và trẻ em. Tỷ lệ tăng
dân số tự nhiên duy trì ổn định ở mức 0,9%/năm. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng
còn 16% vào năm 2005.
1.2.3. Cơ sở hạ tầng
Trong thời gian qua, có thể nói những thay đổi về cơ sở hạ tầng đô thị đã
góp phần tích cực vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố.
Hiện nay, hệ thống giao thông của Thành phố đã được đầu tư thêm
21,7km, nâng cấp 26,15km mặt đường đổ bê tông xi măng hoặc bê tông nhựa,
nâng tổng chiều dài của hệ thống giao thông thành phố lên 125,5km, trong đó có
48,4km đường cao cấp. Đặc biệt quốc lộ 1A được đầu tư nâng cấp thành đường
cao tốc với 3 làn xe theo dự án của Chính phủ tạo điều kiện thuận lợi cho phát
triển thương mại, du lịch, dịch vụ, giao lưu, trao đổi hàng hóa giữa Lạng Sơn và
các địa phương khác. Hệ thống điện sinh hoạt của Thành phố hiện có 2.397 km
đường dây, 527 trạm biến áp. Điện chiếu sáng đô thị có hơn 36 km và 5 trạm
biến áp. Hệ thống cấp nước sinh hoạt hiện có 11 giếng khoan, 50km đường ống f

>100, 80km đường ống f <100. Hệ thống thoát nước có 10,2km đường ống, 2km
11


mương, 580 hố ga. Hệ thống thuỷ lợi hiện có 06 hồ đập lớn nhỏ, 11 trạm bơm.
Thực hiện tốt chương trình kiên cố hoá kênh mương, đến nay cơ bản đã kiên cố
hoá được hệ thống mương thuỷ lợi trên địa bàn Thành phố. Số trường học hiện
có trên địa bàn là 25 trường, bao gồm: 08 trường Tiểu học, 07 trường Trung học
cơ sở, 02 trường Phổ thông cơ sở (cấp I + II), 04 trường Trung học phổ thông;
04 trường Trung học chuyên nghiệp. Về Y tế, có 04 bệnh viện cấp Tỉnh, 01
Trung tâm Y tế thành phố và 08 trạm y tế của 08 phường, xã.
Cơ sở hạ tầng phục vụ thương mại du lịch cũng có những thay đổi mạnh
mẽ, bước đầu đáp ứng được sự phát triển của ngành kinh tế thương mại - du lịch
- dịch vụ Thành phố. Nhiều khu di tích văn hoá - lịch sử, danh lam thắng cảnh
đã được đầu tư, tôn tạo như: Khu di tích Thành nhà Mạc, khu di tích danh thắng
Nhị - Tam Thanh, Chùa Tiên… Đầu tư xây dựng các công trình phục vụ phát
triển du lịch như: kè bờ sông Kỳ Cùng, kè suối Lao Ly, cải tạo công viên Hồ
Phai Loạn, xây dựng Khu du lịch sinh thái hồ Nà Tâm, hồ Thâm Sỉnh, Khu du
lịch sinh thái Đèo Giang - Văn Vỉ ... nhằm tạo ra các điểm du lịch hấp dẫn, thu
hút khách đến tham quan, du lịch trên địa bàn. Hệ thống cơ sở lưu trú phục vụ
du lịch hiện có hơn 800 cơ sở hoạt động kinh doanh dịch vụ khách sạn, nhà hàng
trên địa bàn. …
Những thay đổi về hệ thống cơ sở hạ tầng của Thành phố đã từng bước
cải thiện diện mạo đô thị, tạo ra nền tảng để thu hút được nhiều nguồn lực đầu tư
vào Thành phố nhằm khai thác có hiệu quả những tiềm năng, thế mạnh của
Thành phố về phát triển kinh tế thương mại - du lịch - dịch vụ.
Tiểu kết
Trong chương 1, tôi đã trình bày cơ sở lí luận về di tích danh thắng. Bên
cạnh đó, tôi đã trình bày những đặc điểm khái quát về thành phố Lạng Sơn.
Những nội dung ở trong chương 1 đã đặt cơ sở lí luận và thực tiễn để tôi có thể

triển khai chương 2 tốt hơn.

12


13


Chương 2
ĐẶC ĐIỂM KIẾN TRÚC CỦA KHU DI TÍCH DANH THẮNG NHỊ TAM THANH
Khu di tích danh thắng Nhị - Tam Thanh [A1; Tr 34] nằm trong dãy núi đá
vôi phía Tây Bắc thành phố Lạng Sơn, thuộc phường Tam Thanh, thành phố
Lạng Sơn. Khu di tích danh thắng này có tổng diện tích 52 ha với nhiều hang
động tự nhiên kỳ thú. Theo các nhà địa chất, đây là vùng thuộc hệ Triat, phiến
thạch, và các hang động này được tạo nên từ kỷ Permi Than đá có niên đại cách
ngày nay từ 360 đến 245 triệu năm.
Trong khu danh thắng Nhị - Tam thanh có nhiều di tích nổi tiếng được
đông đảo du khách trong và ngoài nước biết đến, tiêu biểu là: Động Tam Thanh,
chùa Tam Thanh, Động Nhị Thanh, Chùa Tam Giáo, Núi Tô Thị (còn gọi là núi
Vọng Phu) với tượng đá Tô Thị nổi tiếng và Thành Nhà Mạc.
2.1. Đặc điểm kiến trúc động Nhị Thanh - chùa Tam Giáo
Đi từ vòng xuyến ngã năm chợ Kỳ Lừa, trung tâm thành phố Lạng Sơn,
chếch hướng Tây Nam theo đường Nhị Thanh khoảng 500 mét là đến động Nhị
Thanh và chùa Tam Giáo. Động Nhị Thanh [A2; Tr 34] và chùa Tam Giáo [A3;
Tr 35] được danh nhân Ngô Thì Sĩ khám phá và tôn tạo khi ông làm Quan Đốc
Trấn Lạng Sơn ( Trấn là đơn vị hành chính như một tỉnh ngày nay, Đốc Trấn là
chức quan đứng đầu tỉnh) từ năm 1777 - 1780.
Ngô Thì Sĩ sinh ngày 20 tháng 9 năm Bính Ngọ (1726) là người làng
Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây cũ. Khi đang giữ chức Ngự sử,
tháng 11 năm 1777 Ngô Thì Sĩ lĩnh chỉ lên làm Đốc trấn Lạng Sơn. Đến nơi thấy

dân 7 Châu của Lạng Sơn ly tán quá nửa, nhiều người chết do hạn hán và nạn
trộm cướp. Ông cùng người nhà khai phá đất hoang hóa, dạy dân cày bừa trồng
lúa, xin triều đình miễn thuế cho dân Lạng Sơn. Sau đó vài năm mọi cõi yên ổn,
lúc này ông mới thung dung giữa chốn núi khe của xứ Lạng, vượt sông sang
phía Bắc thành thấy cây cối dây leo chằng chịt um tùm, lam chướng bốc lên
ngùn ngụt, thấp thoáng phía trong có 2 cái động: Động ở trên cao có thạch nhũ
14


rủ xuống; động chếch phía dưới có suối nhỏ róc rách, hỏi dặn mới biết suối chảy
từ Hoàng Đồng về và đặt tên là suối Thụ Phúc (nay là suối Ngọc Tuyền – tức
suối Ngọc) chảy qua động đọng thành ao nước trong suốt, ông gọi là “Nhất Bích
Trì” nghĩa là ao Nhất Bích hay ao trong biếc.
Ngay bên trong Tam quan chùa Tam Giáo khoảng 5 mét có khối đá cao 3
mét đường kính hơn 3 mét, trên đó Ngô Thì Sĩ cho dựng một ngôi đình gọi là
“Quân đình quân môn” nghĩa là Đình duyệt quân. Cách đó 10 mét, phía bên trái,
ông cho dọn đá làm “Thụy Tuyền hiên” nghĩa là hiên Ngủ bên suối. Ở động thấp
trên nóc cửa động có ghi chữ Nhị Thanh động nét chữ 10 cm, chiều cao chữ đến
gần 1 mét.
Cách cửa động Nhị Thanh 10 mét có một hốc đá trông tự cái am nhỏ ở độ
cao 8 mét có bức tượng chân dung theo hình trạng kiết già ngồi dựa vào vách đá,
đó là tượng truyền thần Ngô Thì Sĩ kích thước lớn nhỏ cao thấp không sai một
li, như con người thật của ông vậy.
Đi tiếp 30 mét nữa đến cầu kiều đầu tiên, trần hang hạ thấp, lòng hang chỉ
một người đi cúi là vừa, nhường chỗ cho cơ man thạch nhũ đủ các hình thù lạ
lẫm. Nhiều nhũ đá nối liền tạo thành các các cột đỡ trần hang, lại có gió nhẹ
phảng phất đâu đây rất dễ chịu. Đến đây suối như biến mất không thấy đâu, lại
nghe tiếng nước chảy róc rách, qua khúc quanh, không gian rộng lớn mở ra
trước mặt nóc hang cao hơn 30 mét, chỗ rộng nhất cũng phải gần 30 mét, từ độ
cao 18 mét một thác nước nhỏ đổ xuống , cách nền động 2 mét theo kẽ đá, thác

chảy vào suối chảy ngầm dưới nền động nên không nhìn thấy lòng suối đâu.
Dưới chân thác nước Ngô Thì Sĩ cho tôn cao hơn để làm sân khấu, trên nóc
động có khe nhỏ ánh sáng rọi qua được ông cho khắc 3 chữ lớn “Hang thông
thiên”.
“Động Nhị Thanh có nhiều ngách thông từ bên này sang bên kia. Suối
Ngọc Tuyền bắt nguồn từ Hoàng Đồng chảy xuyên qua động đọng lại trước cửa
hang tạo thành ao Nhất Bích, nước xanh biêng biếc. Đây cũng là con đường ra
vào hang rất tiện lợi. Xưa kia vào mùa mưa có thể ngồi trên thuyền len lỏi khắp
động vãn cảnh, lắng nghe âm thanh thánh thót, du dương của nước suối vọng
15


vào vách núi. Trong lòng động, muôn trùng nhũ đá lung linh soi bóng xuống
dòng nước lấp lánh như gương. Mảnh thì giống tiên ông,mảnh thì giống sư tử
đang trầm mình...Gần giữa hang có một khoảng đất rộng gọi là sân khấu”. Ánh
sáng từ thông thiên” lọt xuống đủ để soi tỏ từng vách đá, từng viên cuội dưới
dòng suối. Nơi đây, Ngô Thì Sĩ từng mở tiệc thiết đãi tướng sĩ, tổ chức bình
thơ...Nhiều người đã ví động Nhị Thanh như một câu lạc bộ thơ văn của Lạng
Sơn thế kỉ XVIII”[4;15].
Vòng bên cánh gà sân khấu, qua khúc ngoặt là đến hang Giao Long ta như
lạc vào “Vườn thạch nhũ” chỗ rộng phải đến 25 mét, chiều dài hút mắt đến hàng
chục mét, trần và nền hang tương đối bằng phẳng, không biết cơ man nào là nhũ
đá tạo nên muôn hình vạn trạng, có hình như voi phục lại có hình như rùa bò, có
hình như gấu, hải cẩu…nhiều cột đá hững hờ bên mép suối đỡ lấy trần hang,
nhiều nhũ đá lòng thòng, mầm đá cao thấp như đang cố vượt lên.
Từ cửa trước đến cửa sau động Nhị Thanh chỉ khoảng 500 mét, nhưng
phải trải qua 4 chiếc cầu kiều do suối uốn lượn lúc phải lúc trái ta cảm nhận
được rất rõ cảnh hoang sơ của hang động qua tiếng cá nhảy, ếch bơi và những
chú dơi giật mình thảng thốt bay quang quàng, cảnh sắc thiên nhiên thật là thơ
mộng.

Ngày nay, Nhị Thanh có giá trị như một bảo tàng về Ngô Thì Sĩ. Các bức
tích tự trên vách đá, vòm động còn lưu bút tích của ông. Đặc biệt, ông cho rằng
đạo là một mà thôi, Phật - Lão chỉ khác tên nhưng nội dung đều là Nho cả.
Khổng Tử, Lão Tử và Phật Thích Ca tuy tên là ba nhưng thực đạo đều thống
nhất là một. Chính vì vậy Ông đã đưa 3 đạo vào thờ chung một chùa và gọi là
chùa Tam Giáo.
Chếch phía trái động Nhị Thanh có lẽ do thế đất tôn hơn nên Ngô Thì Sỹ
đã cho xây dựng chùa Tam Giáo. Chùa Tam Giáo [A3; Tr 35] là một loại hình
kiến trúc đặc biệt: Không có mái, không có nhà, bàn thờ được đặt trong các
hang, hốc đá làm cho ta có cảm giác thiên tạo với những nhũ đá kỳ vĩ càng tạo
nên sự linh thiêng của ngôi chùa.
Hiện nay trong chùa có các cung thờ như: Cung Công Đồng, Cung Tam
16


Tòa Thánh Mẫu, Cung Sơn Trang, Cung Tam Bảo...Giờ đây, khi vào chùa Tam
Giáo, chính giữa chỗ nóc hang cao nhất Ngô Thì Sĩ cho khắc 4 chữ lớn “Bất khả
hình dung” nghĩa là không thể hình dung được; liền đó ở bên trái có chữ
“Ngưỡng chi di cao”, bên phải có chữ “Vô đắc nhi du” có nghĩa là ngẩng trông
càng cao không thể vượt qua, chỗ này là nơi thờ bóng vị tiên thánh Khổng Phu
Tử; phía dưới bên trái có trạm 4 vật là Đàn, Sách, Cung, Kiếm tượng trưng cho
4 vị hiền sĩ đứng chầu. Vách trái động có dòng chữ “Đại thánh nhân xuất yên”
có nghĩa là bậc Đại Thánh ra đời, thờ Đức phạt tổ Thích Ca, ngay dưới có tượng
người cưỡi tượng trắng theo hầu là hai tiểu đồng: một tiểu đồng cầm lọng che,
một tiểu đồng cầm bộ kinh Kim cương. Vách phải động có khắc chữ “Kỳ do
long hổ” có nghĩa là có lẽ là như Rồng chăng? Thờ vị Tổ đạo gia Lý Lão Quân,
ngay phía dưới có tượng người cưỡi trâu xanh, theo sau là hai tiểu đồng: 1 tiểu
đồng cầm lọng che, một tiểu đồng cầm bộ Đạo đức kinh. Ngày nay, các hình ảnh
khác đã bị mờ khó nhìn.
Từ cửa chùa Tam Giáo, rẽ trái đi khoảng 30 mét có một hang đá nhỏ chứa

được vài chục người, nền hang cao, đất sạch lại kín mưa gió, Ngô Thì Sĩ cho
dọn kê làm bếp cho các nhà sư, gọi là “Trai táo” nghĩa là Bếp cơm chay, bút tích
của ông vẫn còn trong hang này.
Trong sách Di sản văn hóa Lạng Sơn có ghi lại như sau:
“Tất cả mọi công việc thổ mộc đất đá dựng Đình duyệt quân, chùa Tam
Giáo, thạch miên am, Thụy tuyền hiên, Trai táo, vị Đốc trấn Ngô Thì Sĩ cho làm
từ tháng Trọng Thu năm Kỷ Hợi (tức tháng 5 năm 1779 âm lịch) đến tháng
Mạnh Thu (tháng 7) cùng năm thì hoàn thành. Ngày 28 tháng 7 năm 1779 âm,
Ngô Thì Sĩ tổ chức mở hội ăn mừng: Ở chùa Tam Giáo làm lễ tế, trong động Nhị
Thanh tổ chức ăn uống, ca hát, múa rối nước và các trò diễn khác trong 7 ngày
7 đêm. Nội dung bia Ma Nhai “Bài ký động Nhị Thanh” có ghi: Đêm đầu mở
hội có một con hổ to như con bò đến gần sân khấu hang Thông Thiên vòng
quanh đàn lễ rồi đi không thấy quay trở lại, nên dân chúng ban đêm không còn
sợ hãi nữa; Lại có một con Giao Long, râu và đuôi đều đỏ vào phường múa rối
nước như muốn xem trò, đuổi cũng không đi, khi các trò diễn kết thúc thì không
17


thấy đâu nữa nên mọi người dự hội ai cũng cho là lạ, vì vậy, trong Bài phú
Động Nhị Thanh của Ngô Thì Sĩ có câu:
“Mừng trăm thần không nổi giận
Quen Long, Hổ quanh đàn”
Và cho tạc tượng Hổ ở bên phải và tượng Giao Long ở bên trái trước cửa
Động, trông như những con vật thật”[1;99].
Như vậy, Ngô Thì Sĩ chính là người có ảnh hưởng và quyết định nhiều
nhất đến việc hình thành động Nhị Thanh và chùa Tam Giáo. Ông không chỉ có
công xây dựng Lạng Sơn trở thành một nơi sầm uất mà còn là người khai phá và
tôn tạo nên di tích động Nhị Thanh – chùa Tam Giáo như ngày hôm nay. Hiện
tại, những di tích này luôn được sở Văn hóa thể thao và du lịch tỉnh Lạng Sơn
quan tâm đầu tư tôn tạo và phát triển.

2.2. Đặc điểm kiến trúc động Tam Thanh - chùa Tam Thanh
Động Tam Thanh [A4; Tr 35] nằm trong dãy núi có hình đàn voi phủ phục
trên mặt cỏ xanh. Lối lên cửa động gồm 30 bậc đá đục vào sườn núi, cỏ hai bên
tươi tốt.
Động Tam Thanh gồm hai hang động là Long Châu và Long Hoa. Động
Long Hoa mang hình kim tự tháp, vẫn gọi là Thủy Tiên động – nơi các nàng tiên
thường xuống tắm. Trong động Tam Thanh lưu nhiều bút tích của cổ nhân ca
ngợi cảnh đẹp. Đốc trấn Lạng Sơn Ngô Thì Sĩ đã khắc bài thơ vào vách đá:
Thanh tuyền bách thạch giai năng ngữ
Bối lập tiền phong kiến vọng phu.
( Suối trong tuôn chảy trên hàng trăm ngọn đá như đang trò chuyện. Quay
lưng lại nhìn lên ngọn núi phía trước thấy hòn Vọng Phu).
Giữa động Tam Thanh có hồ Âm Ty nước trong vắt. Những tầng thạch
nhũ trong suốt trầm mặc soi bóng mặt hồ tạo nên vẻ huyền ảo như mơ như thực.
Ngàn năm nay giọt giọt từ trần hang vẫn không ngừng rỏ xuống như sự chảy trôi
bất tận của vũ trụ…
Cuối hồ Âm Ty có hai cửa mở thẳng lên trời. Ánh sáng tự nhiên xuyên
qua làm những nhũ đá mang hình ông tiên, sư tử, gấu,…bừng lên đầy sinh khí.
18


Theo các bậc nhũ đá lên mãi, ta sẽ đứng trên đỉnh Tam Thanh. Đưa mắt về mây
trời hướng Bắc ta sẽ bắt gặp hòn núi có bức tượng đá người phụ nữ đang bồng
con mang tên núi Vọng Phu.
Phía ngoài cửa động Tam Thanh hiện nay còn có nhà sàn và mô hình cọn
nước, cối giã gạo đặc trưng của người dân tộc Tày Lạng Sơn. Trong nhà sàn
trưng bày những loại nhạc cụ dân tộc truyền thống của đồng bào các dân tộc
trong tỉnh như đàn tính hay các loại trang phục truyền thống độc đáo của người
Dao, người Tày - Nùng. Ngoài ra còn có bán và trưng bày ẩm thực dân tộc như
chè, măng hô… Mô hình chiếc cọn nước nằm ngay phía dưới nhà sàn trong một

chiếc đầm nhỏ. Chiếc cọn cao khoảng 3 mét, được sơn màu đỏ khá bắt mắt và
thu hút khách tham quan. Bên trên là lối đi vào cửa động, hai bên trồng rất
nhiều hoa trạng nguyên sặc sỡ.
Chùa Tam Thanh [A5; Tr 36] nằm trong động Tam Thanh, còn có tên gọi
khác là chùa Thanh Thiền, thờ Phật. Chùa Tam Thanh là một ngôi chùa đặc biệt,
được bố trí trong hang đá, không có kiểu kiến trúc giống như những ngôi chùa
khác. Qua cách sắp xếp bài trí tượng có thể thấy hệ thống thờ tự được sắp xếp
theo kiểu "tiền Phật hậu Thánh".
Về niên đại: qua các tài liệu thư tịch cổ, các nhà nghiên cứu cho rằng chùa
Tam Thanh thuộc hệ phái Bắc tông. Chùa được dựng từ thời Hậu Lê, trong động
Tam Thanh.
“Về cái tên Tam Thanh, hiện có nhiều cách giải thích khác nhau. Theo
các nhà nghiên cứu cho rằng: Nơi này, xưa kia nguyên là nơi thờ tự của Đạo
Giáo, do vậy Tam Thanh tức là Ngọc Thanh, Thượng Thanh và Thái Thanh. Đây
là ba cung Thanh cao nhất được coi là ba tiên cảnh mà ở đó mỗi cung do một vị
thần cai quản, đó là Nguyên Thủy Thiên Tôn (Ngọc Thanh Đại Đế), Linh Bảo
Thiên Quân (Thượng Thanh Đại Đế), và Đạo Đức Thiên Tôn (Thái thượng Lão
Quân). Sau này do ảnh hưởng của nhiều yếu tố, Đạo Giáo mờ nhạt trong tâm
thức dân chúng địa phương, người ta đưa các yếu tố thờ tự của Phật giáo vào
thờ ở trong chùa là chính. Hiện nay trong chùa có các cung thờ như: Cung Tam
Bảo (thờ Phật), Cung Đức Ông, Cung Công đồng Thánh Mẫu, Cung Ngũ Dinh,
19


Cung Cấm (nơi thờ ADi Đà), Cung Sơn Trang. Trong động Tam Thanh hiện nay,
các dấu tích của Đạo Giáo chỉ còn lại cái tên Tam Thanh và ngày lễ hội chính
của Chùa là ngày 15 tháng Giêng cũng là một biểu hiện Đạo Giáo khi xưa (một
ngày lễ hội lớn trong Đạo Giáo)” [1;104].
Ngoài sự nổi tiếng về giá trị danh thắng, chùa Tam Thanh còn nổi tiếng
bởi những giá trị văn hóa nghệ thuật hàm chứa trong di tích. Đó là hệ thống văn

bia khá phong phú, có giá trị về mặt sử liệu và văn học nghệ thuật do các văn
nhân, thi sĩ qua các thời kì lịch sử ghi lại.
Tấm bia có niên đại cổ nhất ở di tích là tấm bia số 4, được Binh Sứ Bắc
quân đô phủ, Đô đốc Thiêm sự, Vũ quận công Vi Đức Thắng tạo dựng vào thời
Lê - Vĩnh Trị thứ 2 (1677) bia có tên là: "Trùng tu Thanh Thiền Động" - Nội
dung bia ghi lại việc hưng công trùng tu di tích này của ông.
Tấm bia cổ số 2 là của tác giả Ngô Thì Sĩ tạc vào năm Kỷ Hợi (1779).
Đây là một bài thơ ca ngợi cảnh đẹp sơn thủy hữu tình của di tích. Nội dung
được dịch như sau:
“Thong thả cưỡi lừa chơi động xưa,
Dùng dằng bên động cảnh càng ưa.
Suối trong, cuội đá, đừng reo gọi,
Núi trước nàng Tô dãi nắng mưa”
Bia số 2, gồm hai bài thơ kí của hai tác giả là quan triều Nguyễn (Đoàn
Binh Duyệt và Tôn Thất Tố) làm khi theo giá vua Khải Định năm 1918 ra tuần
thú miền Bắc, nội dung cũng là ca ngợi vẻ đẹp của danh thắng này.
Đặc biệt tại di tích chùa Tam Thanh còn có tấm bia chữ Nôm (tấm bia số
3), đây là tấm bia duy nhất được thể hiện bằng loại hình chữ viết cổ của dân tộc
ta hiện có ở địa bàn tỉnh Lạng Sơn. Bia này do Tuần phủ Thái Bình là Đào Trọng
Vận viết năm 1924. Đây là một tác phẩm văn thơ có giá trị về nội dung văn học
nghệ thuật. Bia này được phiên âm nội dung như sau:
" Xanh xanh xanh ngắt trấn thành Tây
Cảnh động này xây lắm vẻ say
Non nước đi về quen bóng hạc
20


×