Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

Bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ UBND phường thượng thanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (429.6 KB, 55 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU......................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài:............................................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu:.......................................................................................1
3. Phạm vi nghiên cứu.........................................................................................1
4. Vấn đề nghiên cứu:..........................................................................................2
5. Phương pháp nghiên cứu:................................................................................2
6. Ý nghĩa của đề tài:...........................................................................................2
7. Kết cấu của đề tài:...........................................................................................2
PHẦN NỘI DUNG..................................................................................................3
Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu...................................................3
1.1.Chính quyền cấp xã, phường và vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ chính
quyền cấp xã, phường:.........................................................................................3
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của chính quyền cấp xã, phường..........................3
1.1.2. Vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã, phường..................6
1.2.Khái niệm chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã phường và những
yếu tố tác động đến chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã phường.....10
1.2.1. Khái niệm chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã phường.........10
1.2.2. Những tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ.................................12
1.2.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp
xã phường..........................................................................................................17
Chương 2: Thực trạng và giải pháp.....................................................................22
2.1. Khái quát chung về phường Thượng Thanh và UBND phường Thượng
Thanh................................................................................................................22
2.1.1 Khái quát chung về phường Thượng Thanh.............................................22
2.1.2 Khái quát về UBND phường Thượng Thanh............................................27
2.1.3. Khái quát thực trạng cán bộ công chức viên chức Ủy ban nhân dân
phường Thượng Thanh:.....................................................................................28



Chương 3: Giải pháp và khuyến nghị cho việc bồi dưỡng, nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ UBND phường Thượng Thanh...................................................34
3.1. Các giải pháp nang cao chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền của UBND
phường Thượng Thanh......................................................................................34
3.1.1. Tiến hành rà soát, đánh giá tổng thể đội ngũ cán bộ chính quyền UBND
phường Thượng Thanh......................................................................................34
3.1.2. Xây dựng chiến lược, quy hoạch cán bộ cấp xã đảm bảo khoa học, hợp lý...36
3.1.3. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của chính quyền trên cơ sở đó có nội
dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chính quyền phù hợp...37
3.1.4. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc bầu và giám sát hoạt
động của đội ngũ cán bộ chính quyền................................................................39
3.1.5. Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính quyền.......................41
3.1.6. Đổi mới chế độ, chính sách đối với cán bộ chính quyền phường............43
3.1.7. Nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ chính quyền UBND phường
Thượng Thanh gắn với quá trình đổi mới tổ chức, hoạt động của chính quyền
phường Thượng Thanh......................................................................................46
3.1.8. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán
bộ chính quyền phường.....................................................................................48
3.1.9. Tăng cường quản lý, kiểm tra, giám sát hoạt động của cán bộ chính quyền
phường..............................................................................................................50
KẾT LUẬN............................................................................................................51
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
1, UBND: Ủy ban nhân dân
2, HDND: Hội đồng nhân dân
3, CNH: công nghiệp hóa
4, HĐH: hiện đại hóa



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII khẳng định:
"Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng gắn liền với vận mệnh
của Đảng, của đất nước, của chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng
Đảng".
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Vì
vậy huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng".
Cấp xã (xã, phường, thị trấn) là một cấp trong hệ thống hành chính bốn cấp
của Nhà nước Việt Nam, là nền tảng của hệ thống chính trị. Cấp xã, phường giữ một
vai trò, vị trí hết sức quan trọng, là nơi trực tiếp thực hiện đường lối, chính sách,
pháp luật và nhiệm vụ cấp trên giao, là cấp chính quyền trực tiếp chăm lo đến đời
sống của nhân dân, là cầu nối giữa nhà nước với nhân dân.
Cán bộ là một yếu tố quan trọng nhất trong việc xây dựng và củng cố chính
quyền cấp xã, phường vững mạnh. Đồng thời muốn xây dựng và củng cố chính
quyền cấp xã, phường vững mạnh thì phải xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ năng lực
và phẩm chất để thực hiện sự nghiệp đổi mới mà Đảng ta đã khởi xướng.
Tuy nhiên, so với yêu cầu nhiệm vụ mới của đất nước, của địa phương thì
đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã, phường còn nhiều bất cập. Đội ngũ cán bộ
chính quyền cấp xã của tỉnh hầu hết chưa qua đào tạo cơ bản, chủ yếu là qua các lớp
bồi dưỡng ngắn ngày. Những lúng túng, va vấp, vi phạm trong công việc là điều khó
tránh khỏi. Đây là một vấn đề rất lớn đặt ra về đào tạo để nâng cao trình độ năng lực
cho đội ngũ cán bộ chính quyền UBND phường Thượng Thanh.
Trong bối cảnh trên, cần có một sự nghiên cứu toàn diện về đội ngũ cán bộ
chính quyền cấp xã, phường để có giải pháp nâng cao trình độ năng lực của đội ngũ
cán bộ chính quyền. Từ những phân tích nêu trên em lựa chọn đề tài: " Bồi dưỡng,
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ UBND phường Thượng Thanh" để làm báo cáo
thực tập. Đây là vấn đề cấp bách, phù hợp với yêu cầu cải cách nền hành chính nhà
nước hiện nay, phù hợp với thực tiễn của địa phương.

2. Mục tiêu nghiên cứu:
Mục đích của luận văn là đề xuất những phương hướng, giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền phường Thượng Thanh trong giai
đoạn hiện nay.
3.Phạm vi nghiên cứu
- Quan niệm về chính quyền cấp xã còn nhiều ý kiến khác nhau. Luận văn
nghiên cứu đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã chỉ tập trung vào đội ngũ cán bộ của
HĐND và UBND phường Thượng Thanh.

1


- Báo cáo nghiên cứu đội ngũ cán bộ chính quyền phường Thượng Thanh
4. Vấn đề nghiên cứu:
+ Phân tích cơ sở lý luận về cán bộ chính quyền cấp xã và chất lượng đội ngũ
cán bộ chính quyền cấp xã, phường. Trong đó hệ thống hóa những quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng, Nhà nước ta về đội ngũ
cán bộ chính quyền cấp xã; khái niệm và những tiêu chí đánh giá, những yếu tố ảnh
hưởng đến chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã, phường.
+ Phân tích thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền phường
Thượng Thanh, qua đó nêu ra những vấn đề tồn tại cần khắc phục cũng như phân
tích các nguyên nhân hạn chế đến chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền phường
Thượng Thanh.
+ Đề xuất các phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng, đội ngũ cán bộ
chính quyền phường Thượng Thanh nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới,
xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân ở nước ta hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu:
- Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, của
Đảng và Nhà nước ta về nhà nước, pháp luật xã hội chủ nghĩa (XHCN), về cán bộ,

về chính quyền cấp xã và đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã.
- Báo cáo sử dụng phương pháp nghiên cứu của triết học Mác - Lênin, kết
hợp các phương pháp lịch sử - thực tiễn; phân tích tổng hợp, điều tra xã hội học;
thống kê, so sánh...
6. Ý nghĩa của đề tài:
- Báo cáo góp phần làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn về chất lượng và
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền phường Thượng Thanh.
- Trên cơ sở đánh giá thực trạng về chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền
phường Thượng Thanh báo cáo đề xuất các phương hướng, giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền phường Thượng Thanh, đáp ứng nhiệm
vụ cách mạng hiện nay đối với phường Thượng Thanh.
7. Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, báo cáo gồm 3
chương.

2


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
1.1.Chính quyền cấp xã, phường và vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ
chính quyền cấp xã, phường:
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của chính quyền cấp xã, phường
* Khái niệm chung về chính quyền cấp xã, phường:
Trong hệ thống hành chính nước ta, chính quyền xã - phường - thị trấn (gọi
chung là cấp xã) là chính quyền cấp thấp nhất trong hệ thống chính quyền 4 cấp
hoàn chỉnh: Trung ương, tỉnh, huyện, xã.
Tính đến 19 tháng 4 năm 2002, nước ta có 10.579 đơn vị hành chính xã,
phường, thị trấn, trong đó có 8.964 xã, 573 thị trấn, 1.042 phường. Dưới xã,
phường, thị trấn có các cộng đồng dân cư tự quản; dưới xã có thôn, làng, ấp, bản,

buôn. Dưới phường, thị trấn có tổ dân phố, ở một số thành phố, thị xã giữa phường
và tổ dân phố có cụm dân cư, giữa xã và thôn có khu hành chính. Số lượng xã,
phường, thị trấn trong những năm qua không ổn định. Cùng với quá trình chia tách
các tỉnh, huyện, việc thành lập mới các xã, phường, thị trấn diễn ra ở hầu hết các
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Chỉ trong vòng 7 năm từ 1995 đến 2002 đã
tăng 357 đơn vị trong đó có 59 xã, 213 phường và 85 thị trấn. Chính quyền cấp xã
là nơi trực tiếp thực hiện nhiệm vụ cụ thể quản lý hành chính nhà nước trên tất cả
các lĩnh vực chính trị, an ninh, quốc phòng, kinh tế, văn hóa, xã hội ở cơ sở, đảm
bảo các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đi vào cuộc sống,
nâng cao mọi mặt đời sống của nhân dân. Sự trong sạch vững mạnh, hoạt động có
hiệu lực, hiệu quả của chính quyền cấp xã đóng vai trò rất quan trọng trong toàn bộ
hoạt động quản lý nhà nước và cung cấp dịch vụ công phục vụ nhân dân.
Trong quá trình xây dựng, hoàn thiện bộ máy nhà nước, Đảng và nhân dân ta
luôn dành sự quan tâm đối với chính quyền cấp xã, phường. Cùng với việc hoàn
thiện thể chế, chính sách đãi ngộ và đầu tư cơ sở vật chất, Đảng và Nhà nước luôn
chăm lo xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ năng
lực của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã, phường.
Chính quyền cấp xã, phường là cấp chính quyền gần dân nhất, là cầu nối trực
tiếp giữa hệ thống chính quyền cấp trên với nhân dân, hàng ngày tiếp xúc, nắm bắt
và phản ánh tâm tư nguyện vọng của nhân dân. Cấp xã, phường có vai trò rất quan
trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của

3


Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế- xã hội, tổ chức
cuộc sống của cộng đồng dân cư.
Chính quyền được hiểu là bộ máy điều khiển, quản lý công việc của nhà
nước và hoạt động của nó mang tính chất quyền lực của Nhà nước, bằng phương

thức tác động của Nhà nước. Cấp xã , phường là đơn vị cấp dưới cùng, vì thế Chính
quyền cấp xã, phường chỉ bao gồm HĐND và UBND. Qua đó có thể hiểu, chính
quyền cấp xã là một cấp cuối cùng trong hệ thống chính quyền 4 cấp của Việt Nam,
là nơi trực tiếp thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, các mục
tiêu kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng ở cơ sở, thực hiện việc quản lý
hành chính nhà nước trên địa bàn.
Từ những phân tích trên đây, có thể nêu khái quát khái niệm chính quyền cấp
xã, phường như sau: Chính quyền cấp xã, phường bao gồm HĐND và UBND là
cấp thấp nhất trong hệ thống chính quyền 4 cấp ở Việt Nam, thực hiện quyền lực
nhà nước ở địa phương, có chức năng thay mặt nhân dân địa phương, căn cứ vào
nguyện vọng của nhân dân địa phương, quyết định và tổ chức thực hiện những vấn
đề có liên quan đến phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng và đời
sống của nhân dân địa phương, theo Hiến pháp, pháp luật và các mệnh lệnh, quyết
định của cấp trên.
* Đặc điểm của chính quyền cấp xã, phường:
Chính quyền cấp xã, phường có những đặc điểm sau:
Một là: Chính quyền cấp xã có HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương và UBND do HĐND bầu ra là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan
hành chính nhà nước ở địa phương. Vì thế, chính quyền cấp xã, phường là cấp trực
tiếp thực hiện nhiệm vụ cụ thể về quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực
chính trị, kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng ở cơ sở, là cầu nối trực tiếp giữa nhà
nước và nhân dân, xử lý trực tiếp, kịp thời những yêu cầu hàng ngày của nhân dân.
Hai là: Chính quyền cấp xã, phường khác với chính quyền cấp tỉnh thành
phố, cấp quận huyện: Tổ chức bộ máy chính quyền cấp xã, phường chỉ bao gồm cơ
quan quyền lực nhà nước là HĐND là cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng
của nhân dân ở địa phương và UBND là cơ quan chấp hành của HĐND và là cơ
quan hành chính nhà nước ở địa phương, không có các cơ quan tư pháp: Viện kiểm
sát nhân dân và Tòa án nhân dân.
Ba là: Chính quyền cấp xã, phường là nơi trực tiếp tiếp xúc với nhân dân;


4


cán bộ chính quyền cấp xã, phường là người hàng ngày trực tiếp giải quyết những
vấn đề liên quan đến mọi quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân đảm bảo theo đúng
đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, các văn bản pháp luật
của cấp trên. UBND còn có trách nhiệm rất nặng nề phải quản lý mọi mặt đời sống
của nhân dân địa phương cho nên trong hoạt động mang nhiều tính chất hành chính
địa phương.
Bốn là: Trong hoạt động của chính quyền cấp xã,phường giữa HĐND và
UBND khó tách biệt nhau về các lĩnh vực thẩm quyền và UBND có ưu thế vượt
trội: Chính quyền cấp xã, phường được coi là một cấp chính quyền hoàn chỉnh, bao
quát toàn diện đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng ở địa bàn cơ
sở. Nội dung các nghị quyết của HĐND và quyết định của UBND nhìn chung là
giống nhau, chỉ khác ở chỗ: HĐND quyết định biện pháp, còn UBND tổ chức thực
hiện. Trong khi đó, tổ chức bộ máy của HĐND không đủ sức hoạt động độc lập mà
chủ yếu dựa vào bộ máy của UBND để soạn thảo các nghị quyết. Theo Điều 5, Luật
tổ chức HĐND và UBND (sửa đổi): "Hội đồng nhân dân cấp xã có Chủ tịch, Phó
Chủ tịch Hội đồng nhân dân. Đối với cấp tỉnh và cấp quận huyện: "Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh thành phố, cấp quận huyện có Thường trực Hội đồng nhân dân và các
ban của Hội đồng nhân dân". Với cơ cấu tổ chức như trên, các ban của HĐND cấp
tỉnh thành phố và cấp quận huyện có khả năng soạn thảo các nghị quyết, thức hiện
chức năng quyết định các biện pháp, chủ trương về các vấn đề thuộc thẩm quyền
của HĐND cấp tỉnh thành phố, cấp quận huyện. Trong khi đó, ở cấp xã phường, do
không có bộ máy giúp việc, đại biểu HĐND lại kiêm nhiệm, việc chuẩn bị các kỳ
họp hoàn toàn dựa vào bộ máy của UBND và mỗi năm chỉ họp từ 3 - 4 lần. Trong
điều kiện đó, hoạt động của UBND sẽ có ưu thế vượt trội hơn, dễ lấn át HĐND, dễ
lâm vào tình trạng "vừa đá bóng, vừa thổi còi".
Năm là: Các đơn vị hành chính cấp xã phường, được hình thành trên nền
tảng những địa điểm quần cư, nó liên kết dân cư trong một khối liên hoàn thống

nhất. Mọi vấn đề của địa phương đều liên quan chặt chẽ với nhau và cần phải được
giải quyết trên cơ sở kết hợp hài hòa các lợi ích: Nhà nước, dân cư và giữa dân cư
với nhau. Chính quyền ở đây không chỉ là cơ quan cai trị- quản lý mà còn là cơ
quan thể hiện lợi ích chung của dân cư.
Trong khi tổ chức quyền lực nhà nước ở cấp trung ương có việc phân chia,
hoặc phân công phân nhiệm một cách rạch ròi giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Cấp tỉnh thành phố, cấp quận huyện cũng có cơ quan tư pháp - Viện kiểm sát nhân

5


dân và Tòa án nhân dân. Riêng cấp xã phường, trong cơ cấu tổ chức bộ máy chính
quyền chỉ có HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương và UBND là cơ
quan chấp hành của HĐND và là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, thậm
chí UBND cấp xã, phường, thị trấn trong nhiều trường hợp còn phải kiêm nhiệm
luôn cả chức năng tư pháp (xét xử, hòa giải).
1.1.2. Vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã, phường
C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh đều đánh giá rất
cao vai trò của đội ngũ cán bộ. Có đường lối đúng đắn nhưng thiếu đội ngũ cán bộ
có phẩm chất và năng lực thì cách mạng cũng khó thành công. Cán bộ có vai trò
quyết định thắng lợi của cách mạng.
C. Mác, Ph. Ăngghen là người sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản khoa học, là
lãnh tụ vĩ đại đầu tiên của phong trào cách mạng vô sản trên thế giới đã đưa ra
những tư tưởng, quan điểm cơ bản về tầm quan trọng của việc xây dựng đội ngũ cán
bộ. Song do điều kiện lịch sử lúc bấy giờ, chưa có một đảng vô sản nào giành được
chính quyền nên Mác và Ăngghen chưa thể bàn cụ thể về cán bộ và công tác cán bộ
trong điều kiện Đảng cầm quyền. Nhưng chính các ông đã trực tiếp bắt tay vào việc
tuyển chọn, xây dựng đội ngũ cán bộ cho tổ chức cộng sản có tính quốc tế đầu tiên
là "Ủy ban thông tin cộng sản". Trong Đại hội "Liên đoàn những người cộng sản",
Mác và Ăngghen đã nêu rõ nguyên tắc tổ chức một đảng cách mạng của giai cấp vô

sản là phải lựa chọn cho mình những đại biểu công nhân giác ngộ nhất, tiêu biểu
nhất theo phương châm: Cần phải sàng lọc từng người một.
V.I. Lênin là người đã vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận của chủ nghĩa
Mác trong điều kiện lịch sử cụ thể của nước Nga. Trong tác phẩm "Những nhiệm vụ
bức thiết của phong trào chúng ta", khi nói về vai trò của người lãnh đạo phong trào
cách mạng, Người đã chỉ rõ: "Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành
được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình
những lãnh đạo chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh
đạo phong trào".
Tổng kết những năm đầu của cách mạng (1917-1922), V.I. Lênin đã khẳng
định: "Nghiên cứu con người, tìm những cán bộ có bản lĩnh. Hiện nay đó là then
chốt; nếu không thế thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy lộn".
Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc";
"công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt
hay kém".

6


Quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và qua thực tiễn cách mạng ở
các nước, các Đảng cộng sản và công nhân quốc tế đều chứng minh và khẳng định
vai trò quan trọng của cán bộ và công tác cán bộ.
Tính đến 19/4/2002, nước ta có 10.579 đơn vị hành chính cấp xã. Trong kỳ
bầu cử ngày 14/11/1999, tổng số đại biểu HĐND xã, phường, thị trấn được bầu là
227.000 đại biểu.
Tổng số cán bộ xã, phường, thị trấn được hưởng sinh hoạt phí và phụ cấp
hàng tháng từ các nguồn ngân sách và kinh phí khác nhau trong toàn quốc khoảng 2
triệu người, bình quân mỗi xã, phường, thị trấn có khoảng 190 cán bộ. Cán bộ
chuyên trách bình quân mỗi xã có 22 người. Đại biểu HĐND bình quân mỗi xã có
22 đại biểu; cán bộ cấp thôn tổng số có khoảng 480.000 người; cán bộ y tế, giáo dục

mầm non khoảng 200.000 người. Cán bộ không chuyên trách (như cán bộ phụ trách
công tác dân số, Hội người cao tuổi, Hội chữ thập đỏ, cán bộ hoạt động văn hóa thông tin...) có khoảng 780.000 người. Có thể thấy, số lượng cán bộ cấp xã là quá
lớn, và xu hướng còn mở rộng thêm chứ không tinh giảm được do công việc dồn
xuống cấp dưới quá nhiều, và nhiều ngành cũng như cấp tỉnh thành phố, quận
huyện đều muốn có cán bộ của mình ở cơ sở cấp xã phường.
Trong hệ thống chính trị ở cơ sở có cán bộ chuyên trách và không chuyên
trách:
Cán bộ chuyên trách là những cán bộ phải dành phần lớn thời gian lao động,
làm việc tại công sở để thực hiện chức trách được giao, bao gồm: Cán bộ giữ chức
vụ qua bầu cử gồm: Cán bộ chủ chốt của cấp ủy đảng, HĐND, UBND, những người
đứng đầu Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội. Cán bộ chuyên
môn được UBND tuyển chọn gồm trưởng công an, xã đội trưởng, cán bộ văn
phòng, địa chính, tài chính - kế toán, tư pháp, văn hóa - xã hội. Số lượng cán bộ
chuyên trách do Chính phủ quy định. Tổng số cán bộ chuyên trách ở một xã,
phường, thị trấn tối thiểu là 17 người, tối đa là 25 người (chưa kể kiêm nhiệm).
Cán bộ chuyên trách ở cấp xã, phường có chế độ làm việc và được hưởng
chính sách chế độ về cơ bản như cán bộ, công chức nhà nước; khi không còn là cán
bộ chuyên trách mà chưa đủ điều kiện để hưởng chế độ hưu trí, được tiếp tục tự
đóng bảo hiểm xã hội hoặc hưởng phụ cấp một lần theo chế độ nghỉ việc. Cán bộ,
công chức cơ sở có đủ điều kiện được thi tuyển vào ngạch công chức ở cấp trên.
Theo Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh cán bộ, công
chức, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2003, tại điểm g và h khoản 1, Điều 1 quy

7


định: Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong thường
trực HĐND, UBND; Bí thư, Phó bí thư Đảng ủy; người đứng đầu tổ chức chính trị xã hội xã, phường, thị trấn và những người được tuyển dụng, giao giữ một chức
danh chuyên môn nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã được gọi là cán bộ công chức nhà
nước trong biên chế, được hưởng lương từ ngân sách nhà nước và các nguồn thu sự

nghiệp theo quy định của pháp luật.
Cán bộ chính quyền cấp xã, phường là bộ phận lớn nhất và rất quan trọng
trong đội ngũ cán bộ của bộ máy chính quyền ở nước ta. Họ vừa là người đại diện
của nhân dân trong quản lý hành chính nhà nước ở địa phương, vừa là người trực
tiếp tổ chức thực hiện quyền hành pháp và quản lý hành chính nhà nước, cũng như
thực hiện các nhiệm vụ quản lý và phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, giáo dục, y
tế, an ninh, quốc phòng ở địa phương. Cán bộ chính quyền cấp xã đã có nhiều đóng
góp, trưởng thành trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng tổ quốc qua các thời kỳ cách
mạng trước đây và hiện nay, họ vẫn phát huy được những ưu điểm của mình.
Tuy nhiên, đứng trước những nhiệm vụ to lớn của giai đoạn đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước, trước những hoàn cảnh và tình thế
mới, đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã, phường cũng bộc lộ nhiều điểm bất cập
cần phải nghiên cứu khắc phục.
Trước hết, đó là mâu thuẫn giữa số lượng ngày một tăng của đội ngũ cán bộ
chính quyền cấp xã, phường nhưng chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.
Đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã, phường tuy rất đông về số lượng nhưng không
đủ sức đảm đương được những công việc trong những điều kiện và tình hình mới
của đất nước.
Theo quy định tại Nghị định số 174/CP của Chính phủ ban hành ngày
29/9/1994, cơ cấu của UBND xã, phường, thị trấn gồm có: 1 chủ tịch, 1 phó chủ
tịch và 5 ủy viên ủy ban. Với khoảng 1 vạn đơn vị hành chính cấp xã, đội ngũ cán
bộ chính quyền cấp xã có số lượng khoảng 70.000 người.
Nghị định số 50/CP ngày 26/7/1995 quy định, ngoài số ủy viên ủy ban đã
nêu trên, các chức danh khác được bố trí phù hợp với yêu cầu của từng địa phương
theo các mức sau đây:
- Dưới 5.000 dân: 12 cán bộ.
- Từ 5.000 dân đến dưới 10.000 dân: 14 cán bộ.
- Từ 10.000 dân đến dưới 15.000 dân: 16 cán bộ.
- Từ 15.000 dân đến dưới 20.000 dân: 18 cán bộ.


8


- Trên 20.000 dân trở lên tối đa không quá 20 cán bộ.
Trừ số cán bộ làm công tác đoàn thể, số cán bộ chính quyền cấp xã, phường
gồm chủ tịch UBND và các thành viên của ủy ban dao động từ 7 đến 13 người tùy
theo từng loại xã, phường.
Đến Nghị định số 09/1998/NĐ-CP ban hành ngày 23/01/1998, quy định số
lượng cán bộ chính quyền cấp xã, phường như sau:
- Xã dưới 10.000 dân: 17-19 cán bộ.
- Xã từ 10.000 dân đến 20.000 dân: 19-21 cán bộ.
- Xã trên 20.000 dân, cứ thêm 3.000 dân thêm 1 cán bộ, tối đa không quá 25
cán bộ.
Như vậy, nếu trừ số cán bộ làm công tác đoàn thể, số lượng cán bộ làm công
tác chính quyền cấp xã, phường đã tăng lên ở từng loại xã từ 3 đến 5 người và nếu
lấy bình quân mỗi xã, phường có khoảng 20 cán bộ, thì tổng số cán bộ chính quyền
cấp xã, phường trong cả nước sẽ vào khoảng 212.000 người. So với đội ngũ công
chức hành chính trong toàn quốc từ cấp huyện đến Trung ương hiện có khoảng
200.000 người, thì đội ngũ cán bộ làm công tác chính quyền ở cấp xã, phường
không phải là nhỏ. Ngoài số đó ra còn có 227.000 người là đại biểu HĐND và hàng
trăm ngàn các trưởng các cụm dân cư, những người đang được chính quyền cấp xã,
phường trao những quyền hạn nhất định về quản lý hành chính, tạo thành một đội
ngũ cán bộ đông đảo ở cấp xã, phường trong toàn quốc.
Việc quy định số lượng cán bộ chính quyền cấp xã , phường tính theo quy
mô dân số là chủ yếu, và quy định mức tối thiểu là 17 người và mức tối đa không
quá 25 người là chưa thực sự phù hợp với tình hình thực tế. Cụ thể là đối với xã,
phường, thị trấn quá ít dân cư (dưới 1.000 người) thì biên chế cho 17 người là
nhiều; còn đối với xã, phường, thị trấn có quá đông dân cư (trên 30.000) mà lại có
địa hình tự nhiên và tình hình kinh tế - xã hội phức tạp thì biên chế tối đa theo quy
định là ít. Do đó, phát sinh tư tưởng muốn chia tách thêm đơn vị hành chính để

giảm nhẹ công việc, lại được tăng thêm biên chế cán bộ. Đối với chức danh trưởng
khu hành chính... nếu làm kiêm thêm chức danh bí thư chi bộ thì mức sinh hoạt phí
chỉ được tính tăng thêm 1,5 lần (nếu làm nguyên chức danh trưởng khu hành chính,
bí thư chi bộ... thì được hưởng mức phụ cấp là 80.000/tháng. Nếu làm kiêm cả hai
chức danh thì được hưởng mức phụ cấp là 120.000/tháng). Do đó chưa kích thích
được họ làm kiêm nhiệm cả hai chức danh. Hầu hết các xã, phường, thị trấn đều có
tình trạng tách riêng hai chức danh trưởng thôn, trưởng khu hành chính... và bí thư

9


chi bộ để tăng thêm cán bộ và giảm nhẹ công việc.
Phần lớn các bộ, ngành đều muốn có chân rết của mình xuống tận cơ sở để
tiện cho việc chỉ đạo, liên hệ, và yêu cầu cần có thêm chức danh trong cơ cấu chính
quyền và hợp thức hóa các chức danh đó. Ý muốn này bắt gặp sự yếu kém về năng
lực của cán bộ cấp xã, phường sự lúng túng trong chỉ đạo của bộ máy chính quyền
đã dẫn tới sự tăng nhanh số lượng cán bộ ở cấp xã trong những năm qua, làm cho cơ
cấu đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã phình to, tạo gánh nặng cho ngân sách và
làm giảm hiệu quả hoạt động của chính quyền cấp xã phường. Bình quân mỗi xã
phường có khoảng 190 cán bộ, trong đó có 90 cán bộ nằm trong diện quy định của
Chính phủ, 100 cán bộ do các bộ ngành ở Trung ương và tỉnh quy định
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo được nhân dân nhiệt
liệt hưởng ứng và hăng hái thực hiện, đã thu được những thành tựu rất quan trọng.
Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, Đảng ta đã chỉ ra 4 nguy
cơ lớn của đất nước: Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu
vực và toàn thế giới; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nguy cơ về nạn tham
nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch. Đồng
thời, Hội nghị nhận định "Công tác cán bộ vẫn là một khâu yếu. Đội ngũ cán bộ
nhìn chung chưa ngang tầm đòi hỏi của nhiệm vụ".
Cán bộ quyết định mọi công việc. Trong hệ thống các cơ quan quản lý hành

chính nhà nước, cán bộ chính quyền cấp xã có vị trí hết sức quan trọng. Họ là
những người quán triệt quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nước đưa vào cuộc sống, biến chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của
Nhà nước thành hiện thực. Cán bộ chính quyền cấp xã phường có vai trò to lớn và
trách nhiệm hết sức nặng nề trong hệ thống quản lý nhà nước. Cán bộ chính quyền
cấp xã phường được Nhà nước trao cho thẩm quyền quản lý nhà nước ở địa phương.
Do phải thường xuyên tiếp xúc với nhân dân, trực tiếp giáo dục, động viên và tổ
chức nhân dân thực hiện pháp luật, thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân. Cán bộ
chính quyền cấp xã phường, ngoài phẩm chất chính trị, cần phải có trình độ, năng
lực nhất định và cần nhất là phải tạo dựng được uy tín trong cộng đồng dân cư.
1.2.Khái niệm chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã phường và
những yếu tố tác động đến chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã
phường
1.2.1. Khái niệm chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã phường
Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học do Nxb Đà Nẵng xuất bản năm

10


2000 định nghĩa: "Chất lượng: Cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một con người,
một sự vật, sự việc".
Khi đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã,phường một vấn
đề đặt ra là hiểu cho đúng thế nào là chất lượng của đội ngũ cán bộ. Chất lượng của
đội ngũ cán bộ được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau:
Chất lượng của đội ngũ cán bộ được thể hiện thông qua hoạt động của bộ
máy chính quyền cấp xã phường, ở việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của
chính quyền cấp xã phường.
Chất lượng của đội ngũ cán bộ được đánh giá dưới góc độ phẩm chất đạo
đức, trình độ năng lực và khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao cũng như hiệu
quả công tác của họ.

Chất lượng của đội ngũ cán bộ là chỉ tiêu tổng hợp chất lượng của từng cán
bộ. Đối với đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã phường, muốn xác định chất lượng
cao hay thấp ngoài việc đánh giá phẩm chất đạo đức phải có hàng loạt chỉ tiêu đánh
giá trình độ năng lực và sự tín nhiệm của nhân dân địa phương. Chẳng hạn, các lớp
đào tạo huấn luyện đã qua; bằng cấp (kể cả ngoại ngữ, tin học) về chuyên môn, kỹ
thuật, quản lý nhà nước, pháp luật v.v...; độ tuổi; thâm niên công tác v.v...
Chất lượng của đội ngũ cán bộ còn được đánh giá dưới góc độ khả năng
thích ứng, xử lý các tình huống phát sinh của người cán bộ, công chức đối với công
vụ được giao.
Công vụ là một hoạt động gắn liền với công chức, là một loại lao động đặc
thù để thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước; thi hành pháp luật - đưa pháp luật vào
đời sống; quản lý và sử dụng có hiệu quả công sản và ngân sách Nhà nước phục vụ
nhiệm vụ chính trị.
Từ những góc độ khác nhau nêu trên, có thể đưa ra khái niệm chất lượng đội
ngũ cán bộ chính quyền cấp xã như sau: Chất lượng đội ngũ cán
bộ chính quyền cấp xã là chỉ tiêu tổng hợp đánh giá phẩm chất đạo đức, trình
độ, năng lực và khả năng thích ứng, thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được giao của
họ.
Để đánh giá đúng thực trạng và xác định các giải pháp nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp xã phường cần phải xác định rõ những
tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ, cũng như hiểu rõ những yếu tố tác động
đến chất lượng của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã phường.

11


1.2.2. Những tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ
Chất lượng của đội ngũ cán bộ được xác định trên cơ sở tiêu chí về phẩm
chất đạo đức, trình độ năng lực phù hợp với vị trí, vai trò, chức năng nhiệm vụ của
đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã nói

riêng, về khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Về phẩm chất đạo đức: Người cán bộ muốn xác lập được uy tín của mình
trước nhân dân, trước hết đó phải là người cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt. Xây
dựng các tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ, công chức và hình thành ở họ các
phẩm chất đạo đức tương ứng với vị trí, vai trò, chức năng nhiệm vụ của đội ngũ
cán bộ là việc làm cần thiết và cấp bách, nhất là trong sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước hiện nay. Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường đang có sự chuyển biến nhanh
chóng và xã hội xuất hiện nhiều vấn đề hết sức phức tạp, trong đó phải kể đến trình
độ dân trí ngày một nâng cao, và sự đòi hỏi của xã hội đối với đội ngũ cán bộ cũng
ngày một cao hơn. Thêm vào đó công tác quản lý xã hội cũng đòi hỏi người cán bộ
phải tạo lập cho mình một uy tín nhất định đối với nhân dân.
Việc nâng cao phẩm chất, đạo đức ở người cán bộ, công chức đã được Chủ
tịch Hồ Chí Minh quan tâm từ rất sớm. Nhất là sau khi cách mạng thành công,
ngoài việc lãnh đạo, quản lý đất nước, trước những khó khăn phải chống thù trong,
giặc ngoài, Bác vẫn chăm lo việc giáo dục đạo đức cho người cán bộ, công chức
trong các cơ quan chính quyền nhà nước non trẻ. Người đã xác định: "Cán bộ là cái
dây chuyền của bộ máy" và Người nhấn mạnh: "Cán bộ là những người đem chính
sách của Chính phủ, của Đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính
sách hay cũng không thể thực hiện được". Người cán bộ tốt ở đây phải là người có
đủ cả năng lực trình độ lẫn đạo đức cách mạng. Bác yêu cầu: "Một người cán bộ tốt
phải có đạo đức cách mạng". Và muốn có đạo đức cách mạng, mỗi người cán bộ theo Bác, phải có được các phẩm chất trí, tín, nhân, dũng, liêm. Khi điều kiện và
tình hình cách mạng thay đổi, trong khi nói chuyện với anh, chị em công chức ở
Thủ đô, Bác đã nhắc nhở: "Chúng ta phải cố gắng thực hiện cần, kiệm, liêm, chính".
Theo Bác:
Trước hết là cần, tức là tăng năng suất trong công tác, bất kỳ là công tác gì.
Kiệm tức là không lãng phí thì giờ, của cải của mình và của nhân dân.
Liêm tức là không tham ô và luôn luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của
nhân dân.
Chính tức là việc phải thì dù nhỏ cũng làm, việc trái thì dù nhỏ cũng tránh.


12


Bác nói: "Những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành.
Nếu không giữ đúng Cần, Kiệm, Liêm, Chímh thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu
mọt của dân". Ngay từ những ngày đầu xây dựng chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ: "Mình có quyền dùng người thì phải dùng những người có tài năng,
làm được việc. Chớ vì bà con bầu bạn, mà kéo vào chức nọ, chức kia. Chớ vì sợ mất
địa vị mà dìm những kẻ có tài năng hơn mình".
Về trình độ năng lực: Năng lực là một khái niệm rộng, tùy thuộc vào môi
trường và trách nhiệm, vị thế của mỗi người, mỗi cán bộ trong những điều kiện cụ
thể.
Năng lực là những phẩm chất tâm lý mà nhờ chúng con người tiếp thu tương
đối dễ dàng những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo và tiến hành một hoạt động nào đấy
một cách có kết quả.
Năng lực là tổng hợp các đặc điểm phẩm chất tâm lý phù hợp với những yêu
cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định bảo đảm cho hoạt động đó đạt được kết
quả. Năng lực hình thành một phần dựa trên cơ sở tư chất tự nhiên của cá nhân, và
một phần lớn dựa trên quá trình đào tạo, giáo dục và hoạt động thực tiễn, cũng như
tự rèn luyện của cá nhân.
Năng lực ở con người có nhiều cấp độ khác nhau, ở cấp độ cao thì đó là tài
năng - thiên tài. Cần phân biệt sự kém hiểu biết với sự thiếu năng lực. Trong những
điều kiện bên ngoài như nhau, ở những con người khác nhau có thể tiếp thu những
kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo với nhịp độ khác nhau. Có người tiếp thu nhanh
chóng; có người phải tốn nhiều thì giờ và sức lực; ở người này có thể ở mức điêu
luyện, ở người khác chỉ ở mức trung bình. Khi xem xét bản chất của năng lực, cần
chú ý ba dấu hiệu cơ bản:
Một là, năng lực là sự khác biệt nhau về phẩm chất tâm lý cá nhân làm cho
người này khác người kia.
Hai là, năng lực là những khác biệt có liên quan đến hiệu quả của việc thực

hiện một hoạt động nào đó chứ không phải bất cứ những sự khác biệt chung chung
nào.
Ba là, năng lực không phải được đo bằng những kiến thức, kỹ năng và kỹ
xảo đã được hình thành ở một người nào đó. Năng lực chỉ làm cho việc tiếp thu các
kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo trở nên dễ dàng hơn.
Có thể hiểu, năng lực l lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn
có để thực hiện một hoạt động nào đó. Năng lực là những phẩm chất tâm lý, sinh lý

13


tạo cho con người có khả năng hoàn thành một hoạt động nào đó với chất lượng
cao. Mỗi con người có khả năng trong một hoạt động nhất định nào đấy có ích cho
xã hội. Nghiên cứu năng lực con người là nghiên cứu sức lực dự trữ của con người
trong lao động hay là tiềm năng của con người đối với lao động.
Năng lực thể hiện ở chỗ, con người làm việc tốn ít sức lực, ít thời gian, của
cải, mà kết quả lại tốt. Việc phát hiện ra năng lực của con người thường căn cứ vào
những dấu hiệu sau: Sự hứng thú đối với công việc nào đó; sự dễ dàng tiếp thu kỹ
năng nghề nghiệp; hiệu suất lao động trong lĩnh vực đó.
Năng lực có năng lực chung và năng lực chuyên môn, giữa chúng có mối
quan hệ ảnh hưởng, tương hỗ lẫn nhau. Năng lực chung cho phép con người có thể
thực hiện có kết quả những hoạt động khác nhau như hoạt động học tập, lao động...
Năng lực chuyên môn cho phép người ta làm tốt một loại công việc nào đó như âm
nhạc, hội họa, văn học, toán học...
Năng lực con người thường gắn liền với sở thích của người ấy. Con người có
sở thích, hứng thú về một hoạt động nào đấy thường nói lên năng lực của người đó
về mặt hoạt động đó. Năng lực không chỉ thể hiện trong những hoạt động lao động
trí óc thuần túy mà thể hiện cả trong hoạt động thể lực. Năng lực phát triển trong
quá trình hoạt động. Người lười biếng, trốn tránh hoạt động lao động trí óc cũng
như lao động chân tay thì năng lực không thể phát triển được.

Đối với cán bộ chính quyền cấp xã phường, năng lực thường bao gồm những
tố chất cơ bản về đạo đức cách mạng, về tinh thần phục vụ nhân dân, về trình độ
kiến thức pháp luật, kinh tế, văn hóa, xã hội... Sự am hiểu và nắm vững đường lối,
chính sách của Đảng, Nhà nước, thành thạo nghiệp vụ chuyên môn, kỹ thuật xử lý
thông tin... để giải quyết các vấn đề đặt ra trong quản lý nhà nước một cách khôn
khéo, minh bạch, dứt khoát, hợp lòng dân và không trái pháp luật. Người cán bộ
quản lý phải được đào tạo sâu về nghề mình phụ trách, phải am hiểu công việc
chuyên môn do mình phụ trách, phải có kinh nghiệm hoạt động thực tiễn. Đồng
thời, người cán bộ phải có sự ham mê, yêu nghề, chịu khó học hỏi, tích lũy kinh
nghiệm. Người cán bộ phải có khả năng thu thập thông tin, chọn lọc thông tin, khả
năng quyết định đúng đắn, kịp thời. Vì vậy, việc nâng cao nhận thức, trình độ hiểu
biết và năng lực tổ chức thực hiện cho cán bộ chính quyền cấp xã là vấn đề quan
trọng và bức xúc trong mục tiêu nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền
cấp xã phường.
Về khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao: Đội ngũ cán bộ chính quyền

14


cấp xã phường của ta hiện nay đông nhưng không mạnh. Do những hạn chế về
trình độ văn hóa, trình độ nghiệp vụ quản lý nhà nước, quản lý kinh tế... đã dẫn tới
hạn chế trong năng lực quản lý điều hành công việc, lúng túng trong việc lập kế
hoạch, trong việc xử lý tình huống khi kế hoạch đưa ra không phù hợp thực tiễn.
Xây dựng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã phường vừa phù hợp với công cuộc
đổi mới của đất nước, vừa thuận theo ý Đảng, lòng dân, trẻ hóa đội ngũ cán bộ
chính quyền cấp xã phường là nhu cầu, là đòi hỏi khách quan của sự nghiệp xây
dựng đất nước trong thời kỳ đổi mới, làm cho đội ngũ cán bộ tràn đầy sức sống. Đội
ngũ cán bộ không được trẻ hóa thì thiếu sức sống, bảo thủ. Nơi nào mà các cán bộ
cấp trên biết lựa chọn và dìu dắt, có nhiều cán bộ mới ở đó công việc tiến triển tốt.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: "... cán bộ mới, vì công tác chưa lâu, kinh

nghiệm còn ít, có nhiều khuyết điểm. Nhưng họ lại có những ưu điểm hơn cán bộ
cũ; họ nhanh nhẹn hơn, thường giầu sáng kiến hơn". Đội ngũ cán bộ không được tri
thức hóa và chuyên môn hóa thì không thể hoàn thành nhiệm vụ. Cán bộ có tư cách,
tác phong tốt, phải toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân, dám nói thật, dám bảo vệ cái
đúng, đấu tranh chống những tiêu cực, quan liêu, tham nhũng trong đội ngũ cán bộ.
Có mối quan hệ tốt với các đồng nghiệp và quần chúng nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Vì vậy,
huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng"; Người yêu cầu: "... Đảng phải nuôi
dạy cán bộ, như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu, phải trọng nhân
tài, trọng cán bộ, trọng mỗi người có ích cho công việc của chúng ta".
Con người ta không phải là thánh hiền, ai có thể nói mình không có sai lầm,
nhưng cần tránh định kiến sẵn. Dùng một cán bộ lão thành, cũng có thể có những ý
kiến nhưng nhìn chung về cơ bản vẫn tương đối dễ dàng thông qua; nhưng đề bạt
một cán bộ trung niên hay thanh niên thì thường hay có những cái nhìn khắt khe
hơn, việc thông qua khó khăn hơn và nhất là thường cho rằng cán bộ trẻ chưa có
đóng góp nhiều cho đất nước.
Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói đến vấn
đề cán bộ cũ và cán bộ mới. Đảng càng phát triển thì cần đến cán bộ mới càng
nhiều. Theo quy luật tự nhiên, khi cán bộ cũ già đi, "nếu không có cán bộ mới thế
vào, thì ai gánh vác công việc của Đảng".
Tài năng của một con người không phải là bất biến suốt đời, mà là một quá
trình vận động như mũi tên bay. Khoa học nghiên cứu và thấy rằng đường cong tuổi
tác của những người làm công tác quản lý nói chung thì ở độ tuổi 50 là tuổi đỉnh

15


cao. Khi nói về phẩm chất, năng lực của người cán bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh
thường nói: Người có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó, người có tài mà
không có đức thì vô dụng. Nhưng chữ "đức" ở đây phải được hiểu cho đúng. Không

thể coi những người gọi dạ, bảo vâng, đúng cũng gật, sai cũng gật không có chính
kiến gì... là những người có chữ "đức". Trong khi đó lại coi những người có chính
kiến rõ ràng, dám đấu tranh phê bình, dám chống lại những sai trái như quan liêu,
tham nhũng lại bị coi là kiêu căng tự mãn, là thiếu "đức". Nói về tiêu chuẩn cán bộ,
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng cả đức và tài, trong đó đức là gốc. Người chỉ
rõ yêu cầu đối với cán bộ là: "Phải có chính trị trước rồi có chuyên môn; chính trị là
đức, chuyên môn là tài. Có tài mà không có đức là hỏng... Đức phải có trước tài" .
Để nhấn mạnh tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ cách mạng, Bác viết: "Cũng
như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc,
không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức; không có đạo đức thì
dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân".
Yêu cầu đặt ra hiện nay là xây dựng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã
phường đủ phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền
thực sự của dân, do dân, vì dân. Họ phải có tinh thần yêu nước sâu sắc, kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện có kết quả đường
lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, tận tụy phục vụ nhân dân, gắn
bó mật thiết với nhân dân, xây dựng được lòng tin trong nhân dân, cần kiệm, liêm
chính, chí công, vô tư, có ý thức tổ chức kỷ luật, trung thực không cơ hội, không
tham nhũng quan liêu và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Có sự hiểu biết về
lý luận chính trị, quan điểm đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước. Có trình độ văn hóa, chuyên môn, đủ năng lực và sức khỏe để làm việc, đáp
ứng được yêu cầu và nhiệm vụ mà tổ chức và nhân dân giao phó. Đặc biệt là đối với
các cán bộ giữ cương vị chủ chốt trong chính quyền cấp xã phường.
Cán bộ muốn làm được việc, thì phải được dân tin, dân phục, dân yêu và
Người cũng chỉ rõ: "Muốn được dân tin, dân phục, dân yêu, cán bộ phải tự mình
làm đúng đời sống mới. Nghĩa là phải siêng năng, tiết kiệm, trong sạch, chính đáng.
Nếu không thực hành bốn điều đó, mà muốn được lòng dân, thì cũng như bắc giây
leo trời".
Trong tác phẩm Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô viết, Khi
xác định nhiệm vụ xây dựng chính quyền hùng mạnh của giai cấp vô sản, Lênin đã

chỉ rõ: "Trong lịch sử, không có một phong trào nhân dân sâu sắc và mạnh mẽ nào

16


diễn ra mà lại không có một thứ bọt bẩn - những phần tử phiêu lưu và bịp bợm,
những bọn khoe khoang và những kẻ hay lớn tiếng ba hoa - chui luồn vào hàng ngũ
những nhà cách tân thiếu kinh nghiệm...". Lênin cũng xác định: "Ngày nay, nhiệm
vụ quản lý đã trở thành nhiệm vụ chủ yếu và trọng tâm" và mục đích là "làm thế
nào cho thực sự toàn thể nhân dân đều học tập được công tác quản lý và bắt đầu
đảm nhận công tác quản lý" .
Để đào tạo được đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã phường vừa hồng vừa
chuyên, phải xây dựng được những tiêu chuẩn khi lựa chọn cán bộ (kể cả cán bộ
thông qua bầu cử và cán bộ thông qua xét tuyển) để sắp xếp, định biên cán bộ cấp
xã theo Nghị định số 09/1998/NĐ-CP. Cán bộ cấp xã phường phải được giáo dục,
đào tạo, bồi dưỡng bằng nhiều hình thức khác nhau như: Tự học, tự đào tạo, đưa đi
đào tạo tập trung, tại chức... cán bộ phải gần gũi với nhân dân, phải am hiểu được
tâm tư nguyện vọng của nhân dân. Tiêu chuẩn cơ bản để lựa chọn cán bộ chính
quyền cấp xã phường:
Một là: Cán bộ chính quyền cấp xã phường cần phải có trình độ học vấn,
phải có kiến thức quản lý nhà nước, phải qua đào tạo hoặc bồi dưỡng kiến thức
quản lý nhà nước.
Hai là: Cán bộ chính quyền cấp xã phường phải trong sạch, không tham
nhũng, không ăn hối lộ, chiếm đoạt của công. Đây là yếu tố phẩm chất đạo đức của
người cán bộ. Cán bộ muốn xây dựng uy tín của mình thì đòi hỏi phải mất rất nhiều
thời gian, có khi là cả một quá trình công tác lâu dài mới tạo lập được uy tín. Nhưng
tự làm mất uy tín thì không cần nhiều thời gian, và khi đã làm mất uy tín rồi thì cơ
hội xây dựng lại uy tín rất khó.
Ba là: Cán bộ chính quyền cấp xã phường trong quá trình hoạt động phải tôn
trọng nhân dân, thông cảm với nhân dân, phải biết dựa vào nhân dân, phục vụ nhân

dân, gần gũi với nhân dân. Mọi hoạt động của cán bộ chính quyền cấp xã phường có
ảnh hưởng và tác động rất lớn đến đời sống của nhân dân địa phương.
1.2.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đội ngũ cán bộ chính
quyền cấp xã phường
Một là: Vấn đề đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính quyền cấp xã phường
Trong bản giải trình của Bộ Chính trị tiếp thu ý kiến Trung ương về Đề án
đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở đã chỉ rõ nguyên nhân
của những yếu kém, bất cập của hệ thống chính trị ở cơ sở là do: "...chưa nhận thức
đúng vai trò, vị trí của cơ sở, quan liêu, để một thời gian quá dài không có chính

17


sách đồng bộ đối với cán bộ, thiếu chăm lo bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ cho
cơ sở, không kịp thời bàn và đưa ra những chính sách để củng cố và tăng cường cơ
sở".
Phần đông cán bộ cấp xã có trình độ học vấn thấp. Một số cán bộ là người
dân tộc, vùng sâu, vùng xa còn ở tình trạng mù chữ. Một số không nhỏ cán bộ chính
quyền cấp xã phường không được đào tạo, bồi dưỡng những kiến thức cơ bản về
quản lý nhà nước, về pháp luật, về hành chính và kỹ năng quản lý hành chính những kiến thức và kỹ năng phục vụ cho nghiệp vụ chính mà họ đang đảm nhận.
Đối với số cán bộ chủ chốt cấp xã, phường sau mỗi lần bầu cử tuy có được bồi
dưỡng, đào tạo nhưng các kiến thức họ thu nhận được không đầy đủ, hệ thống, vì
chủ yếu là chỉ qua các lớp bồi dưỡng ngắn ngày, và cũng chưa được quan tâm đúng
mức. Trong một vài năm trở lại đây, trình độ học vấn của đội ngũ cán bộ cấp xã
phường đã được nâng lên, nhưng những kiến thức cơ bản trong lĩnh vực nhà nước
và quản lý nhà nước, quản lý kinh tế thì rất yếu và thiếu. Hơn thế nữa, đội ngũ cán
bộ chính quyền cấp xã lại thường biến động qua mỗi cuộc bầu cử. Đây cũng chính
là lý do tạo cho người cán bộ chính quyền cấp xã phường không an tâm trong công
tác, không có ý chí học tập nâng cao trình độ. Điều này có hạn chế rất lớn đến chất
lượng công tác của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã phường. Đây là một trong

những nguyên nhân làm cho đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã chưa đáp ứng được
với yêu cầu của công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước.
Trong thực tế, việc đào tạo, bồi dưỡng còn nhiều mặt hạn chế. Tình trạng
người cần đi học thì không đi học, không được cử đi học và không có chỗ để học;
người không cần đi học lại được cử đi học, người không cần đi học thì lại bị buộc
phải đi học gây ra sự lãng phí không nhỏ. Đã có khá nhiều cán bộ cấp xã học xong
không bố trí được công tác, phải nghỉ việc. Ngoài lãng phí tiền của, cái lãng phí lớn
nhất là mất công đào tạo mà không làm tăng được số cán bộ có trình độ học vấn đáp
ứng nhu cầu xã hội đang đặt ra. Việc quản lý đào tạo cũng chưa được chặt chẽ. Đôi
khi việc đào tạo không phải vì nâng cao trình độ mà là để tìm cách nhận bằng, nhận
giấy chứng nhận hợp thức hóa tiêu chuẩn cán bộ. Trong khi đó, nội dung chương
trình nhìn chung vẫn nặng về lý luận chính trị và trùng lặp, chưa đi sâu vào khoa
học hành chính, kỹ năng nghiệp vụ quản lý nhà nước, quản lý kinh tế.
Bên cạnh đó, thái độ của các cán bộ được cử đi học cũng cần phải được nhìn
nhận cho đúng. Cũng chính vì quan niệm công tác ở cấp xã phụ thuộc vào cơ chế
Đảng cử, dân bầu không có tính ổn định lâu dài. Hầu hết các cán bộ cấp xã đều từ

18


chối đi đào tạo, bồi dưỡng vào các thời điểm diễn ra cuộc bầu cử, hoặc diễn ra Đại
hội Đảng bộ và đi đào tạo tập trung dài hạn.
Công tác đào tạo đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã phường là một yêu cầu
vừa cơ bản, vừa cấp bách. Nếu không đào tạo thì không thể có đội ngũ cán bộ công
chức cấp xã phường đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đổi mới, CNH, HĐH
đất nước; không thể trẻ hóa được đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã phường.
Do quan niệm chưa đúng vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ cấp xã phường,
cho rằng nếu đưa đi đào tạo khi về công tác không trúng cử thì lãng phí nên công
tác đào tạo cán bộ cấp xã phường chưa được quan tâm đúng mức. Thông thường cứ
chờ sau khi bầu cử xong, cán bộ cấp xã phường trúng cử mới được đưa đi đào tạo,

bồi dưỡng. Từ năm 1998 khi có Nghị định số 09/1998/NĐ-CP quy định bốn chức
danh chuyên môn, các địa phương đã quan tâm đào tạo các chức danh này, nhưng
cũng chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ.
Hai là: Cơ chế tuyển dụng, bổ nhiệm đội ngũ cán bộ cấp xã phường
Việc tuyển dụng, bổ nhiệm đội ngũ cán bộ cấp xã phường hầu như chưa gắn
với việc thi tuyển, lựa chọn về chuyên môn, nghiệp vụ. Đối với các chức danh cán
bộ chủ chốt ở cấp xã đều thông qua cơ chế: Đảng cử, dân bầu. Chính vì điều đó đã
dẫn đến tình trạng, có khá đông cán bộ cấp xã phường chưa được đào tạo qua bất
cứ một chuyên môn nàoBên cạnh đó, kết quả bầu cử phụ thuộc rất nhiều vào trình
độ dân trí, dân cư ở địa phương. Yếu tố dòng họ trong nông thôn Việt Nam cũng có
ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả bầu cử. Còn đối với cán bộ chuyên trách và không
chuyên trách thì việc tuyển chọn cũng không đặt ra các tiêu chí bắt buộc là phải có
trình độ chuyên môn nghiệp vụ phù hợp với công việc được giao. Do đó, có khá
đông cán bộ chuyên trách mà không có trình độ, năng lực phù hợp với đòi hỏi của
nhiệm vụ được giao. Việc tuyển dụng cán bộ cấp xã hầu như chỉ dựa vào sự nhất chí
của đồng chí Bí thư Đảng ủy và đồng chí Chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn.
Với cơ chế tuyển dụng, bổ nhiệm như vậy, khó tránh khỏi tuyển dụng những
người yếu kém về năng lực, phẩm chất dễ bị "lọt lưới" ảnh hưởng đến chất lượng
đội ngũ cán bộ.
Ba là: Chế độ, chính sách và vị thế của người cán bộ chính quyền cấp xã
phường
Đây là một yếu tố tác động rất nhiều đến chất lượng của đội ngũ cán bộ
chính quyền cấp xã phường. Trước ngày 01/7/2003, cán bộ chính quyền cấp xã
phường không được coi là công chức nhà nước. Mặc dù chính quyền cấp xã

19


phường được Hiến pháp 1992 xác định là một cấp hành chính trong hệ thống chính
quyền của Nhà nước ta. Cán bộ cấp xã phường không được hưởng lương trong

ngân sách nhà nước và lương thì gọi là phụ cấp được lấy từ ngân sách xã ra để chi
trả. Đã có nhiều trường hợp, khi ngân sách xã quá thiếu thì khoản phụ cấp của các
cán bộ cấp xã phường bị nợ lại. Thậm chí có xã nợ phụ cấp cán bộ xã phường hàng
năm trời mới trả. Bên cạnh đó, hoạt động của chính quyền cấp xã phường cũng bị
xem nhẹ. Có khá nhiều xã (nhất là các xã thuộc vùng sâu, vùng xa) chỉ làm việc
buổi chiều, còn buổi sáng thì tham gia lao động sản xuất cùng gia đình. Vị thế của
người cán bộ cấp xã phường một thời gian khá dài bị xem nhẹ đã có ảnh hưởng
không nhỏ tới chất lượng của đội ngũ cán bộ cấp xã phường. Hầu như nếu có cơ hội
được đi học ở các trường chuyên nghiệp thì rất ít có người quay trở về công tác tại
xã phường. Trong khi đó, các cán bộ cấp xã phường khi được cử đi học nâng cao
trình độ, thì xu hướng chung là tìm mọi cách để được chuyển công tác lên cấp cao
hơn như cấp quận huyện, cấp tỉnh thành phố. Bên cạnh đó, khi thấy có cán bộ cấp
xã phường có năng lực, công tác tốt thì huyện cũng đưa lên công tác tại quận
huyện. Đã có khá nhiều đồng chí cán bộ cấp xã công tác rất tốt ở cương vị Bí thư
Đảng ủy, Chủ tịch UBND xã phường, nhưng khi được đưa lên huyện làm cán bộ
quận huyện thì hầu như không phát huy được sở trường của mình, nhiều người lại
được đưa trở về địa phương, nhưng lúc này thì uy tín của họ đã không còn được như
trước nữa và hầu như cũng không phát huy được tác dụng.
Chế độ, chính sách và vị thế quá thấp của cán bộ cấp xã phường làm cho
người cán bộ cấp xã phường không an tâm trong công tác, không có lòng nhiệt tình
đối với công việc mà mình được giao, không có chí tiến thủ. Đồng thời, địa bàn cấp
xã không có sức hút đối với những người có năng lực, có trình độ học vấn và nhất là
đối với đội ngũ sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng về công tác tại cấp xã
phường.
Bốn là: Công tác quản lý, kiểm tra, giám sát đội ngũ cán bộ chính quyền cấp
xã phường
Đánh giá khách quan có thể nói, thời gian 10 năm sau đổi mới, đội ngũ cán
bộ chính quyền cấp xã phường có bước đổi mới, tiến bộ rõ nét. Phần lớn anh chị
em đều được đào tạo, bồi dưỡng; đều ở độ tuổi tương đối trẻ, nhiệt tình, có trách
nhiệm trong công việc, vì thế tình hình cơ sở tương đối ổn định. Sau đó do tác động

tiêu cực của cơ chế thị trường, nhất là một thời gian dài thiếu quan tâm đến cơ sở,
buông lỏng công tác quản lý, kiểm tra, giám sát đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã

20


phường dẫn đến tình trạng một bộ phận không nhỏ sa sút về phẩm chất đạo đức và
tinh thần, trách nhiệm; quan liêu, tham nhũng, tiêu cực phát sinh làm giảm sút chất
lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã phường. Một trong những bài học kinh
nghiệm từ sau sự kiện này là cần tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát
đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã phường.
Tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát đội ngũ cán bộ chính quyền
cấp xã phường mới nắm được thực trạng chất lượng và những biến động của đội
ngũ này để xây dựng chiến lược và qui hoạch cán bộ cấp xã phường; kịp thời khen
thưởng những thành tích, tiến bộ và xử lý những sai phạm, tạo lập lòng tin của nhân
dân đối với chính quyền. Mặt khác, tăng cường quản lý, kiểm tra, luân chuyển cán
bộ, thay thế những cán bộ yếu kém, tăng cường cán bộ có chất lượng cho những nơi
phát sinh điểm nóng, mất đoàn kết nội bộ, hoặc phong trào mọi mặt đều yếu.

21


Chương 2: Thực trạng và giải pháp
2.1. Khái quát chung về phường Thượng Thanh và UBND phường
Thượng Thanh.
2.1.1 Khái quát chung về phường Thượng Thanh
Phường Thượng Thanh có diện tích đất tự nhiên là 484,4426 ha, dân số hiện
nay trên 26 nghìn nhân khẩu phân bố ở 28 tổ dân phố, trình độ dân trí không đồng
đều, nhân dân chủ yếu làm nông nghiệp và là một trong các phường có truyền thống
văn hóa – lịch sử - cách mạng lâu đời.

Thượng Thanh vốn thuộc huyện Gia Lâm trong vùng đất Long Biên. Thời
nhà Lý thuộc phủ Thiên Đức, thời nhà Trần thuộc lộ Bắc Giang, thời nhà Nguyễn
nằm trong trấn Kinh Bắc. Khi thực dân Pháp đô hộ nước ta, huyện Gia Lâm thuộc
tỉnh Bắc Ninh. Các thôn Gia Quất, Thượng Cát, Thanh Am của phường thời đó đều
là xã. Xã Gia Quất gồm hai thôn Gia Quất Thượng và Gia Quất Hạ; xã Thượng Cát
có các xóm: xóm Dinh, xóm Ba, xóm Chùa, xóm Đồng. Hai xã Gia Quất và Thượng
Cát thuộc tổng Gia Thụy. Theo cuốn "Dư địa chí Việt Nam", năm 1831 huyện Gia
Lâm có 10 tổng gồm 79 thôn sở. Tổng Gia Thụy hồi đó gồm thôn Bắc Cầu, Bắc
Biên, Yên Tân, Gia Thượng, Thượng Cát và Gia Quất. Còn xã Thanh Am thời xa
xưa gọi là Hoa Am, tên nôm là làng Đuống, đến năm 1841 đổi là Thanh Am thuộc
tổng Đặng Xá, huyện Gia Lâm. Năm 1946, để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta, cấp trên đã quyết định thành lập khu Ngọc
Thụy gồm các thôn Bắc Cầu, Bắc Biên, Yên Tân, Gia Thượng, Gia Quất Thượng,
Gia Quất Hạ, Thượng Cát, Thanh Am, phố Thượng Cát, phố Gia Lâm, làng Ái Mộ;
trực thuộc tỉnh Bắc Ninh và trực tiếp nhận lệnh trừ mặt trận Hà Nội.
Tháng 3 năm 1949, theo chủ trương thành lập Mặt trận Đường 5, đặc khu
Ngọc Thụy và huyện Gia Lâm nhập về tỉnh Hưng Yên. Cuối năm 1949, đặc khu
Ngọc Thụy nhập với huyện Gia Lâm và trở về trực thuộc tỉnh Bắc Ninh. Ngày
10/10/1954, giải phóng Thủ đô, chính quyền ta thành lập quận VIII thuộc thành phố
Hà Nội, bao gồm khu phố Gia Lâm và các xã Hồng Tiến, Việt Hưng, Long Biên và
Ngọc Thụy.
Đến năm 1955, khu Ngọc Thụy chia tách làm 2: xã Ngọc Thụy và xã Thượng
Thanh. Xã Thượng Thanh bấy giờ gồm các thôn: Gia Quất Thượng, Thượng Cát,
Thanh Am và 2 xóm Đức Hòa (Đức Giang) và Hòa Bình (xóm Đê). Theo nghị
quyết của Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, kỳ họp thứ 2, ngày 20/4/1961
và Nghị định của Thủ tướng Chính phủ ký ngày 31/5/1961, quy định địa dư hành

22



×