MỤC LỤC
NỘI DUNG
Trang
1.CƠ SỞ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP
2
1.1. Sự cần thiết hình thành giải pháp
2
1.2. Tổng quan các vấn đề liên quan đến giải pháp
3
1.3. Mục tiêu của giải pháp
4
1.4. Các căn cứ đề xuất giải pháp
5
1.5. Phương pháp thực hiện, đối tượng và phạm vi áp dụng
5
2. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG GIẢI PHÁP
6
2.1. Quá trình hình thành nên giải pháp
6
2.2. Những cải tiến cho phù hợp với thực tiễn.
6
2.3. Nội dung của giải pháp mới
8
3. HIỆU QUẢ CỦA GIẢI PHÁP
11
3.1. Thời gian áp dụng giải pháp
11
3.2. Hiệu quả đạt được
12
3.3 Khả năng triển khai, áp dụng giải pháp
12
3.4 Kinh nghiệm thực tiễn khi áp dụng giải pháp
12
4. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ
13
4.1. Kết luận.
13
4.2. Đề xuất, khuyến nghị.
13
Tài liệu tham khảo
15
1. CƠ SỞ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP
1.1. Sự cần thiết hình thành giải pháp.
Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học, đã được xác định trong nghị
quyết TW4 Khóa VII (01/1993) nghị quyết TW 2 khóa VIII (12/1996) được thể
chế hóa trong Luật Giáo dục (12/1998).
Luật giáo dục điều 24 đã ghi “phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy
tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của
từng lớp học, môn học bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn kỹ năng vận dụng kiến
thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho
học sinh.
Tiếp tục thực hiện theo chương trình dạy học theo tinh thần linh hoạt, sáng
tạo, phù hợp với thực tiễn, giáo dục từng địa phương, từng lớp học từng nhóm đối
tượng học sinh trong lớp (CV 896 BGD-ĐT – GDTH) được ban hành nhằm đổi
mới phương pháp dạy học theo hứng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh.
Nhưng thực tế cho đến nay nhiều người vẫn chưa xem việc đổi mới phương
pháp dạy học là vấn đề cần quan tâm hoặc quan tâm chưa đúng mức.
Mặt khác trong quá trình giảng dạy đối với học sinh tiểu học nói chung, đối
với phân môn tập đọc nói riêng, người dạy chưa đặc biệt chú ý rèn cho học sinh
một kỹ năng quan trọng. Đó là “Kỹ năng đọc”. Từ đó kỹ năng đọc của học sinh trở
nên hạn chế, đôi khi đọc các em phải dừng lại để đánh vần, dẫn đến tình trạng thụ
động, nhàm chán, lười học do mất kiến thức cơ bản
Theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy và học, phân môn Tập đọc là môn
học rất cần phải tạo điều kiện cho học sinh tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng
tạo trong mọi hoạt động học tập và rút kinh nghiệm và thực hành dưới sự hướng
dẫn của giáo viên.
Với tầm quan trọng và thực tế trên, việc rèn kỹ năng đọc theo hướng tích cực
hóa hoạt động học tập trong quá trình giảng dạy phân môn Tập đọc là một nhân tố
góp phần vào việc giáo dục học sinh (HS) là một việc làm thực tiễn, có ý nghĩa sâu
sắc. Trong kinh nghiệm này tôi xin đề xuất một số biện pháp rèn kỹ năng đọc cho
học sinh thông qua việc “Các giải pháp xây dựng bài tập rèn kỹ năng đọc cho
học sinh lớp 2 theo hứơng tích cực hóa hoạt động học tập”.
1.2. Tổng quan các vấn đề liên quan đến giải pháp
Xây dựng những cơ sở lý luận của việc rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 2
theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập.
Nghiên cứu khảo sát thực trạng trẻ lớp 2 hiện nay nói chung, học sinh lớp 2A
Trường Tiểu học ………….nói riêng. Về kỹ năng đọc cũng như tính tích cực , tự
giác, sáng tạo… của học sinh trong quá trình học tập.
Xây dựng, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy – học
phân môn tập đọc theo hướng lấy học sinh làm trung tâm
1.3. Mục tiêu của giải pháp
Phân môn Tập đọc có vị trí rất quan trọng trong chương trình học Tiểu học
nói chung. Tập đọc là bài học khởi đầu giúp học sinh chiếm lĩnh tri thức, chiếm
lĩnh công cụ (năng lực đọc, nghe, nói, viết) từ đó mở rộng cánh cửa cho học sinh
nắm lấy kho tàng tri thức của loài người.
Quá trình dạy học gồm 2 mặt có quan hệ mật thiết với nhau: Hoạt động dạy
của giáo viên và hoạt động học của học sinh. Người giáo viên là chủ thể của hoạt
động dạy với hai chức năng truyền đạt và chỉ đạo tổ chức. Người học sinh là đối
tượng (khách thể) của hoạt động dạy nhưng lại là chủ thể của hoạt động học tập
với hai chức năng tiếp thu và tự chỉ đạo, tự tổ chức.
Hoạt động học tập của học sinh chỉ có thể đạt hiệu quả nếu học sinh tiến
hành các hoạt động học tập một cách tích cực, chủ động, tự giác với một động cơ
nhận thức sâu sắc. Bằng hoạt động học tập, mỗi học sinh tự hình thành và phát
triển nhân cách của mình mà không ai có thể làm thay được.
Dạy học là con đường thuận lợi nhất, giúp học sinh trong khoảng thời gian ngắn
nhất, có thể nắm được một khối lượng kiến thức cần thiết. Nó được tiến hành một
cách có tổ chức có kế hoạch. Giúp học sinh phát triển một cách có hệ thống, năng
lực hoạt động trí tuệ và tư duy sáng tạo. Từ đó giúp học sinh có hành động đúng
đắn trong học tập.
1.4. Các căn cứ đề xuất giải pháp
Tiếng Việt là môn học có vai trò đặc biệt quan trọng ở bậc Tiểu học, là
phương tiện chủ yếu để học sinh tiếp thu kiến thức của các môn học khác. Môn
Tiếng Việt ở Tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực ngôn ngữ cho học sinh thể
hiện ở bốn kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết. Do đó, môn Tiếng Việt có một vị trí rất
quan trọng đối với học sinh Tiểu học.
Môn Tiếng Việt là một công cụ hữu hiệu trong hoạt động và giao tiếp của học
sinh, giúp học sinh tự tin và chủ động hoà nhập các hoạt động học tập trong trường
học, giúp học sinh hình thành và rèn luyện các kỹ năng cơ bản ở Tiểu học, đồng
thời nó chi phối kết quả học tập của các môn học khác.
1.5. Phương pháp thực hiện, đối tượng và phạm vi áp dụng
1.5.1. Phương pháp nghiên cứu:
Thực hiện nghiên cứu đề tài này tôi tiến hành nghiên cứu các phương pháp
sau.
1.5.2. Phương pháp điều tra.
Thông qua việc trao đổi bàn bạc giáo viên với học sinh, phụ huynh nhằm mục
đích nắm bắt thu thập những tài liệu, thông tin và tình hình thực tế có liên quan đến
nội dung đề tài cần nghiên cứu.
Trao đổi với giáo viên sau một giờ tập đọc phải đạt được những yêu cầu gỡ ?
Trao đổi với phụ huynh về vấn đề học ở nhà của các em học sinh những tồn tại của
con em họ, ý kiến của phụ huynh về môn học này.
1.5.3. Phương pháp quan sát
Thông qua các tiết dự giờ, các giờ giảng trên lớp của giáo viên mà tôi quan
sát được, kháo sát thí điểm một số lớp trong tiết học, biết được khả năng tiếp thu
bài của các em học sinh, biết được cách đọc của các em, bên cạch đó tiếp thu học
hỏi được kinh nghiệm hay của giáo viên, và phát hiện ra những hạn chế trong quá
trình giảng dạy của giáo viên .
1.5.4. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết.
Đọc sách nghiên cứu tài liệu tìm ra những kiến thức có liên quan đến vấn đề
cần nghiên cứu, từ đó giúp cho kết quả của đề tài được năng cao, được mở rộng và
có tính khả thi trong các năn học tiếp theo.
1.5.5. Phương pháp thực nghiệm khoa học .
Thông qua các tiết dạy thể nghiệm để chứng minh cho các biện pháp đề xuất
là đúng đắn và các biện phát đó có tính giáo dục cao khi áp dụng chất lượng được
nâng lên rõ rệt.
1.5.6. Phạm vi áp dụng
Trên cơ sở học sinh lớp 2 nói chung, học sinh lớp 2A Trường Tiểu học
Nguyễn Thanh Đằng nói riêng – hướng tác động vào việc, rèn kỹ năng đọc cho học
sinh lớp 2, theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập. Làm cơ sở cho việc thực
hiện và nghiên cứu.
2. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG GIẢI PHÁP
2.1. Quá trình hình thành nên giải pháp.
Trong Trường Tiểu học Tiếng Việt là môn học quan trọng , có nhiệm vụ hình
thành năng lực ngôn ngữ cho học sinh, được thể hiện qua bốn dạng hoạt động:
nghe – nói – đọc – viết. Trong đó tập đọc là phân môn đảm nhiệm việc hình thành
và phát triển cho học sinh kỹ năng quan trọng. Kỹ năng đọc. Vì vậy việc tìm hiểu
một liệu pháp, để nâng cao hiệu quả giờ dạy phân môn tập đọc, là một việc làm
hết sức cần thiết của người giáo viên tiểu học.
2.1.1 Quan điểm về hoạt động đọc và kỹ năng đọc
Đọc là một hoạt động tiếp nhận thông tin thông qua kênh chữ. Hoạt động đọc
chỉ xảy ra khi người đọc tiếp nhận được nội dung, kiến thức trong bài đọc. Mà
người đọc dùng mắt, nhìn, miệng đọc , tâm để cảm thụ, phân tích nội dung thông
tin vừa đọc. Có khi hình thức đọc sau.
2.1.2. Đọc thành tiếng
Là hình thức đọc phát ra âm thanh
+ Phát âm đúng
+ Ngắt nghỉ hơi hợp lý
+ Cường độ đọc vừa phải (không đọc to quá hay đọc lí nhí).
- Tốc độ đọc vừa phải (không ê , a, ngắt ngứ hay liến thoắng)
2.1.3. Đọc thầm và hiểu nội dung
+ Đọc không thành tiếng, không mấp máy môi
+ Hiểu được nghĩa của các từ ngữ trong văn cảnh (bài đọc); nắm được nội
dung của câu, đoạn hoặc bài đã đọc.
2.1.4. Yêu cầu về kiến thức – kỹ năng đối với phân môn tập đọc lớp 2
Đọc có ý thức hơn lưu loát hơn, thể hiện rõ hơn, những phản ứng cảm xúc,
tình cảm, thông qua bài đọc (CV896 BGDĐT – GDTH), học sinh cần đạt yêu cầu
tối thiểu sau:
+ Đọc đúng, không ngắc ngứ
+ Tốc độ đọc
. Giữa học Kỳ I : 35 tiếng / phút
. Cuối học kỳ I : 40 tiếng / phút
. Giữa học Kỳ II : 45 tiếng / phút
. Cuối học kỳ II : 50 tiếng / phút
2.1.5. Suy nghĩ về việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay
Thực hiện đổi mới phương pháp dạy học một yếu tố vô cùng quan trọng được
các cấp quản lý giáo dục quan tâm và đưa lên vị trí hàng đầu, trong sự nghiệp giáo
dục. Nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả dạy – học giáo dục tiểu học. Để phù hợp
với xu hướng phát triển của đất nước. Để thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp
dạy học ở tiểu học chúng ta cần lưu ý tiến hành đổi mới một cách đồng bộ và hiệu
quả một số vấn đề sau:
2.1.5.1. Công tác quản lý
Quán triệt chủ trương của ngành về đổi mới phương pháp dạy học, nhằm nâng
cao nhận thức cho cán bộ quản lý giáo dục đặc biệt là giáo viên trực tiếp giảng dạy
trên lớp, như: tổ chức các giờ học, các hoạt động giáo dục diễn ra một cách nhẹ
nhàng, tự nhiên – hiệu quả và chất lượng.
Tăng cường hoạt động kiểm tra chuyên môn dự giờ rút kinh nghiệm đánh giá
xếp loại theo chuẩn 14. Bên cạnh đó thường tổ chức cho giáo viên giao lưu trao đổi
học hỏi rút kinh nghiệm giảng dạy trong và ngoài trường.
Thường xuyên kiểm tra đánh giá, xếp lại học sinh theo tinh thần đổi mới
(QĐ30).
2.1.5.2. Đội ngũ giáo viên
Cần từng bước chuẩn hóa đội ngũ giáo viên. Nhằm trang bị cho giáo viên
những kiến thức cơ bản cụ thể về đổi mới phương pháp dạy học thông qua các
hoạt động sau:
+ Tổ chức tạo điều kiện cho giáo viên học chuẩn và tiêu chuẩn
+ Xây dựng các chuyên đề giáo dục PT
+ Đổi mới nâng cao sinh hoạt chuyên môn, sinh hoạt tổ khối,…
2.1.5.3.Cơ sở vật chất
Trang bị đầy đủ SGK, sách tham khảo của giáo viên , đồ dùng học tập , thiết
bị dạy – học.
- Trở về với mỗi giáo viên hiện nay, việc đổi mới phương pháp dạy học là
một vấn đề đang thu hút và tác động đến từng cá nhân. Mỗi tiết dạy để đảm bảo sự
thành công, thì việc đổi mới phương pháp dạy học phải được đặt, lên vị trí hàng
đầu đó là “kim chỉ nam” cho việc dạy học ngày nay.
2.1.6. Đôi điều về tính tích cực và phương pháp dạy học tích cực.
2.1.6.1. Tính tích cực là gì? (TTC)
Tính tích cực là một phẩm chất vốn có của con người trong đời sống xã hội.
Tính tích cực của con người biểu hiện trong hoạt động đặc biệt trong những hoạt
động chủ động của chủ thể. Học tập là hoạt động chủ đạo của trẻ ở lứa tuổi đi học.
Tính tích cực nhận thức trong hoạt động học tập liên quan trước hết với động
cơ học tập. Động cơ đúng tạo ra hứng thú. Hứng thú là tiền đề của tự giác, hứng
thú và tự giác là hai yếu tố tâm lý tạo nên tính tích cực.
Tính tích cực học tập biểu hiện ở những dấu hiệu như : hăng hái trả lời câu
hỏi của giáo viên, bổ sung các câu trả lời của bạn; thích phát biểu ý kiến của mình
trước những vấn đề nêu ra, hay nêu thắc mắc , đòi hỏi giải thích những vấn đề
chưa đủ rõ, chủ động vận dụng kiến thức , kỹ năng đã học để nhận thức vấn đề
mới…
2.1.6.2. Phương pháp tích cực là gì?
- Phương pháp tính tích cực là một thuật ngữ được rút gọn; được dùng ở
nhiều nước, để chỉ những phương pháp giáo dục – dạy học theo hướng phát huy
tính tích cực, chủ động sáng tạo của người học.
2.1.6.3. Những dấu hiệu đặc trưng của phương pháp tích cực (TTC)
- Dạy học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh
- Dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học
- Tăng cường học tập cá thể phối hợp với học tập hợp tác.
- Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò.
2.2. Những cải tiến cho phù hợp với thực tiễn.
2.2. 1. Sự hạn chế trong quá trình giảng dạy phân môn Tập đọc lớp 2 qua
việc rèn kỹ năng đọc cho học sinh
Thực tế cho thấy đến nay phần lớn giáo viên trực tiếp giảng dạy trên lớp nói
chung và giảng dạy phân môn Tập đọc nói riêng chỉ chú trọng về mặt hình thức là
giảng dạy đầy đủ , không sót kiến thức, ổn định được in trong sách giáo khoa. Mà
chưa quan tâm đến vấn đề cốt lõi của phân môn Tập đọc là việc rèn kỹ năng quan
trọng cho học sinh : “Kỹ năng đọc”. Hơn nữa giáo viên chưa thật sự đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh
nghĩa là mọi hoạt động dạy học diễn ra không nhằm phát huy tính tích cực của
người học, mà tập trung vào phát huy tính tích cực của người dạy.
Đành rằng để dạy theo PPTC thì giáo viên phải nổ lực nhiều so với dạy theo
phương pháp thụ động. Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Rõ ràng,
cách dạy chỉ đạo cách học nhưng ngược lại, thói quen học tập của trò có ảnh hưởng
tới cách dạy của thầy. Có trường hợp học sinh đòi hỏi cách dạy tích cực hoạt động
nhưng giáo viên chưa đáp ứng được. Cũng như có trường hợp, giáo viên hăng hái
áp dụng PPTC nhưng thất bại vì HS chưa thích ứng vẫn theo lối học tập thụ động.
* Tóm lại : Từ thực trạng trên cho thấy quá trình dạy học như thế chưa phát
huy được tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh; không phát huy được khả
năng tìm tòi, khám phá của các em, chưa khuyến khích, phát triển năng lực – năng
khiếu sở trường của cá nhân học sinh. Làm cho hiệu quả giáo dục không đạt chất
lượng như mong muốn.
2.2.2. Hiệu quả học tập và kỹ năng đọc của học sinh trong quá trình học
phân môn tập đọc.
Thực trạng không mấy lạc quan về kết quả đọc còn thấp của học sinh, cũng
như sự thiếu tự giác và lơ là của các em hiện nay. Các em thường mắc khá nhiều
lỗi đọc. Cụ thể là các lỗi cơ bản sau:
2.2.3. Lỗi phát âm lệch chuẩn chữ viết
Khi đọc HS thường phát âm không chính xác cả âm đầu lẫn phần vần và
thanh điệu.
Chẳng hạn : đọc r thành g (bối rối – bối gối, rập rình – gập gình) , đọc phụ
âm qu thành v (quảng cáo - vảng cáo) đọc âm ê trong vần kéo dài thành i ê (mếu
máo – miếu máo, đều – điều) đọc âm o thành âm o (trong xanh – trông xanh) đọc
âm y thành i ( may mắn – mai mắn, bàn tay – bàn tai,..) đọc vần oan thành on
(hoàn toàn – hòn tòn,..) âm cuối n thành ng (củi mùn – củi mùng; bắn súng – bắng
súng ) ; t thành c (ánh mắt – ánh mắc) … nguyên nhân lỗi phát âm lệch chuẩn này
là do học sinh chịu ảnh hưởng tiêu cực từ thể âm của môi trường sinh sống
2.2.4. Lỗi đọc không đúng trọng âm:
Học sinh sử dụng cách đọc không có điểm nhấn hoặc nhấn giọng vào những
tiếng không có trọng âm, khiến cho giọng đọc trở nên đều đều, buồn tẻ hoặc làm
cho nội dung thông báo bị hiểu sai lệch. Nguyên nhân của hiện tượng này, là do
các em chưa xác định được các từ ngữ đảm nhiệm vai trò thông báo chính trong
câu ; chưa biết phân biệt đâu là yếu tố trọng âm trong một từ. Đây là một lỗi đọc,
mà đa số học sinh thường mắc phải.
2.2.5. Lỗi ngắt giọng không đúng chỗ
Ngắt giọng không chính xác ở các câu văn dài, có cấu tạo ngữ pháp phức tạp
(ngắt giọng ngẫu hứng theo nhịp thở (còn gọi là ngắt giọng sinh lý). Khi đọc thơ,
học sinh thường đọc theo áp lực của nhạc thơ, tách rời đọc với hiểu.
2.2.6. Lỗi đọc không đúng ngữ điệu, không diễn cảm
Học sinh không thể hiện đúng các kiểu câu khi đọc do nhầm lẫn về hình thức
diễn đạt .
Chẳng hạn: Đọc các câu hỏi tu từ như: câu hỏi thông thường, đọc câu cảm
như câu hỏi, đọc lên giọng máy móc ở các từ cuối câu hỏi. Khiến cho một cuộc trò
chuyện tâm tình được thể hiện như một cuộc cải vã. Một số giáo viên, do cách hiểu
chưa thật chính xác, khái niệm đọc diễn cảm. Nên khi đọc mẫu đã cố gắng uốn
gịong một cách cầu kỳ, khiến giọng đọc trở nên thiếu độ trung thực cần thiết. Học
sinh vì làm theo mẫu, nên cũng đọc thái quá như vậy
Tóm lại: xuất phát từ thực trạng nêu trên , cho thấy hiệu quả giờ học phân
môn tập đọc thông qua kỹ năng đọc của học sinh còn nhiều hạn chế, như thế chưa
phát huy tính tích cực hoạt động học tập, sáng tạo mang tính sáng tạo, tự giác của
học sinh. Thể hiện qua kết quả khảo sát chất lượng đầu năm của lớp 2A như sau:
Tổng số học
Đọc tốt
Đọc khá
Đọc TB
Đọc yếu
sinh
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Tỷ lệ
Trên Dưới
trung trung
bình
bình
35
2
%
Chất lượng cho thấy học sinh đọc mức độ trung bình trở lên chưa cao; tỉ lệ
học sinh đọc yếu còn nhiều cũng như sự thiếu tự giác, và lơ là của các em hiện
nay. Tất yếu dẫn tới câu hỏi : chúng ta có thể làm gì để nâng cao khả năng đào tạo
trình độ đọc cho HS? Đây không chỉ là vấn đề nghiên cứu lý thuyết thuần túy về
đọc mà còn liên quan đến việc phát triển mục đích và phương pháp đào tạo, giáo
dục việc đọc cho học sinh tiểu học hiện nay.
Với thực trạng nêu trên, trong khuôn khổ bài viết này, tôi xin đề cập việc sửa
lỗi đọc cho học sinh lớp 2 bằng một hoạt động bỗ trợ, đó là : sử dụng tổ hợp bài
tập (BT) rèn kỹ năng đọc cho học sinh trong giờ tập đọc.
2.3. Nội dung của giải pháp mới
2.3.1. Vị trí , vai trò của giáo viên trong phương pháp dạy tập đọc theo
hướng đổi mới
Đổi mới phương pháp dạy – học là vấn đề được đặt lên vị trí hàng đầu được
các cấp quản lý giáo dục đặc biệt quan tâm. Vì nó là một trong những nhân tố quan
trọng quyết định đến chất lượng và hiệu quả giáo dục. Vì vậy mỗi giáo viên chúng
ta trực tiếp giảng dạy cần xác định rõ chính xác, nắm vững về việc đổi mới sao cho
phù hợp với tình hình, năng lực của học sinh. Nghĩa là giáo viên không đóng vai
trò truyền thụ kiến thức cho học sinh bằng các phương pháp như : thuyết trình
giảng giải, song song đó là học sinh chỉ tiếp thu kiến thức một cách thụ động. Mà
được vận dụng bằng các phương pháp sao cho giáo viên là người tổ chức, hướng
dẫn học sinh bằng các câu hỏi gợi ý, gợi mở – song song đó là học sinh tích cực
tham gia hoạt động học tập một cách tích cực nhằm tiếp thu bài một cách chủ động
và hiệu quả hơn. Muốn làm được công việc trên thì bản thân giáo viên phải nổ lực
nhiều so với phương pháp dạy học thụ động và phải kiên trì vận dụng phương pháp
đổi mới nhằm tạo cho các em thích ứng dần với phương pháp học tập chủ động
một cách vừa sức, từ thấp đến cao. Trong đổi mới phải có sự hợp tác của thầy và
trò, sự phối hợp giữa hoạt động dạy và hoạt động học thì mới thành công.
→Như vậy khi nhấn mạnh vai trò chủ thể nhận thức, cảm thụ của học sinh.
Phương pháp dạy học theo hướng đổi mới. Giáo viên không chỉ đơn giản là truyền
đạt tri thức mà còn hướng dẫn hành động với phương pháp dạy học trên thì vai trò
của giáo viên không những không bị hạ thấp mà còn được đề cao với tư cách là
người gợi mở, hướng dẫn, cố vấn, trọng tài trong hoạt động học tập của học sinh.
2.3.2. Bài tập rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 2 theo hứơng tích cực hoá
hoạt động học tập
2.3.2.1. Bài tập luyện chính âm (còn gọi là bài tập (BT) luyện phát âm
đúng).
Đây là loại BT dễ thực hiện nhưng ít xuất hiện trong SGK nên ít được giáo
viên sử dụng. Hình thức bT có thể là tìm (gạch dưới, đóng khung, liệt kê) những từ
ngữ khó đọc trong bài.
Cách thực hiện : Để đổi mới cho phù hợp với tình hình năng lực thực tế học
sinh của lớp, ta không nên chọn và ghi sẵn các từ ngữ khó cho học sinh luyện đọc.
Và sau khi cho học sinh thực hiện BT, GV không đọc mẫu, yêu cầu HS đọc từ ngữ,
câu có chứa tiếng HS hay mắc lỗi rồi GV mới chữa, hoặc GV đọc mẫu những từ
ngữ, câu có chứa tiếng trong đó có âm vần HS hay đọc lẫn rồi yêu cầu học sinh đọc
theo
* Bài tập minh họa
VD : Chọn trong đoạn 1 của bài “Sự tích cây vú sữa” (TV2, Tập 1 , Trang 96)
những tiếng có thanh hỏi và thanh ngã rồi viết vào 2 dòng dưới đây
- Những tiếng có thanh hỏi:………………………………………….
- Những tiếng có thanh ngã :………………………………………….
* Giải đáp: (?) bỏ, ở, mỏi (~) nghĩ
VD 2 : Đọc thầm đoạn 2 của bài “Câu chuyện bó đũa” (TV2 – tập 1 tr112) ghi
lại những tiếng có phụ âm đầu g, r vào chỗ trống.
- g………
- r ………
*Giải đáp
+ g : gọi, gái, gãy
+ r : rồi, rất, rể , ra
VD 3 : đọc thầm đoạn 2 của bài “Chuyện bốn mùa” (TV 2 – Tập 2 – Trang 5)
và ghi lại những tiếng có chứa ao, au.. rồi điền vào chỗ trống dưới đây
+ au:……………..
+ ao :………….
* Giải đáp
+ au : cháu
+ ao : nào, cao
VD 4 : Đọc đoạn 1 của bài “Mùa xuân đến” (TV 2, tập 2 , Tr 17) vô ghi lại
những tiếng có chứa i, y vào chỗ trống dưới đây :
+ i : ………..
+ y : …………
* Giải đáp
+ i :thì , trời, lại
+ y :Ngày, nảy, đầy, bay, nhảy, gáy
Với dạng bài tập này sẽ giúp cho học sinh nhanh chóng hiểu và phát âm chính
xác các tiếng / từ khó dễ lẫn mà nguyên nhân chính là do học sinh chịu ảnh hưởng
tiêu cực từ thổ âm của môi trường mình sinh sống.
2.3.2.2. Bài tập luyện đúng trọng tâm
Đây là kiểu bài tập giúp HS đọc rõ, nhấn giọng hay kéo dài, những từ chìa
khóa của bài đọc
* Cách thực hiện : Khi đến phần hướng dẫn học sinh đọc đoạn. Theo cách dạy
thông thường, giáo viên ghi sẵn câu hoặc đoạn vào băng giấy hoặc bảng phụ. Dùng
các ký hiệu ( /; //) ngắt, nghỉ hoặc gạch chân các từ cần nhấn giọng … với cách
hướng dẫn trên thì chưa phát huy được tính tự giác, chủ động của học sinh . Vì học
sinh chỉ làm theo mẫu có sẵn. Nó mang tính chất áp đặt, chưa khơi dậy được ở học
sinh óc sáng tạo, cũng như sự đam mê hứng thú trong học tập.
→ Với hình thức luyện đọc trên tôi thay thế bằng cách xây dựng BT luyện
đúng trọng âm.
VD 1 : Ghi dấu ↑ dưới tiếng cần nâng cao giọng và dấu bằng ( = ) dưới tiếng
cần hạ thấp giọng khi đọc các câu sau :
. Bạn là ai? Vì sao bạn khóc?
Tôi là cá sấu. Tôi khóc vì chả ai chơi với tôi (quả tim khỉ, TV 2, tập 2, tr.51).
* Giải đáp
Bạn là ai? ↑ vì sao bạ n khóc? ↑
Tôi là cá Sấu . Tôi khóc vì chả ai chơi với tôi
VD 2 : Gạch dưới các từ cần nhấn giọng khi đọc 4 dòng thơ sau của bài Mẹ
(TV 2, tập 1 , Tr 101)
Lặng rồi / cả tiếng con ve /
Con ve cũng mệt / vì hè nắng oi //
Những ngôi sao / thức ngoài kia /
Chẳng bằng mẹ / đã thức vì chúng con//
* Giải đáp
Lặng rồi / cả tiếng con ve /
Con ve cũng mệt / vì hè nắng oi //
Những ngôi sao / thức ngoài kia /
Chẳng bằng mẹ / đã thức vì chúng con//
* Cách tiến hành
Khi hướng dẫn học sinh luyện đọc giáo viên không ghi sẵn mà yêu cầu học
sinh nêu cách đọc của cá nhân. Cuối cùng giáo viên kết luận cách đọc rồi hướng
dẫn các em đọc theo yêu cầu.
Qua đó hướng dẫn HS nâng dần lên khả năng biết đọc ngắt nghỉ trong câu
văn, câu thơ,… cũng là căn cứ để xác định những chỗ cần luyện ngắt giọng trong
bài.
2.3.2.3. Bài tập luyện đọc ngắt giọng đúng chỗ
Khi dạy HS đọc văn bản, cần tạo điều kiện cho học sinh nắm được cơ chế
ngắt giọng, đó là đảm bảo nghĩa của từ, cụm từ, đảm bảo cấu trúc ngữ pháp của
câu. Dạy đọc các bài văn xuôi, chỗ ngắt giọng phải trùng hợp với ranh giới ngữ
đoạn. Dạy đọc một bài thơ, chỗ ngắt nhịp phải tương ứng với chỗ kết thúc một tiết
đoạn. Đọc sai chỗ ngắt giọng phản ánh một cách hiểu sai nghĩa, hoặc ít ra là một
cách đọc không để ý đến nghĩa. Vì vậy, đọc đúng ngữ điệu nói chung, ngắt giọng
đúng nói riêng vừa là mục đích của dạy đọc thành tiếng vừa là phương tiện giúp
HS chiếm lĩnh nội dung bài đọc. Để làm được điều đó giáo viên cho học sinh thực
hiện một số dạng bài tập sau:
Bài tập minh hoa
Bài tập 1: Khi dấu ngắt (/ , nghỉ //) hơi cần thiết để đọc diễn cảm đoạn thơ
sau:
Ai yêu các nhi đồng
Bằng Bác Hồ Chí Minh
Tính các cháu ngoan ngoãn
Mặt các cháu xinh xinh
(Trích trong bài Thư Trung Thu, TV 2 , tập 2 , tr.10).
* Giải đáp:
Ai yêu / các nhi đồng /
Bằng / Bác Hồ Chí Minh //
Tính các cháu / ngoan ngoãn /
Mặt các cháu / xinh xinh //
Bài tập 2 : Dùng gạch xiên ( / ) đánh dấu chỗ ngắt hỏi, gạch ( // )và gạch dưới
các từ ngữ cần nhấn giọng khi đọc đoạn văn sau:
Xưa có chàng trai thấy một bọn trẻ định giết con rắn nước liền bỏ tiền ra mua,
rồi thả rắn đi. Không ngờ con rắn ấy là con của Long Vương. Đền ơn chàng trai,
Long Vương tặng chàng một viên ngọc quý (Tìm ngọc, TV 21, T1 .tr 13*).
* Giải đáp
Xưa/ có chàng trai thấy một bọn trẻ định giết con rắn nước liền / bỏ tiền ra
mua, / rồi thả rắn đi.// Không ngờ / con rắn ấy là con của Long Vương//. Đền ơn
chàng trai,/ Long Vương tặng chàng một viên ngọc quý //.
* Tóm lại :
Để rèn tốt các kỹ năng đọc đã nêu. Nhằm nâng cao hiệu quả đọc cho học sinh
cần phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Giáo dục việc đọc ngay từ đầu phải hướng dẫn sự trãi nghiệm và tạo niềm
vui cho học sinh
- Giáo dục việc đọc cho học sinh cần phải khách quan khoa học, nghĩa là phải
chú trọng bản chất của hoạt động đọc và quá trình đọc
- Trong đổi mới phương pháp dạy học phải có sự hợp tác của thầy và trò, sự
phối hợp giữa hoạt động dạy và hoạt động học thì mới thành công.
- Giáo viên phải kiên trì dùng cách dạy hoạt động để dần dần xây dựng cho
học sinh phương pháp học tập chủ động một cách vừa sức, phù hợp với từng đối
tượng học sinh trong lớp mình phụ trách theo nguyên tắc từ thấp đến cao, từ dễ đến
khó, từ đơn giản đến phức tạp.
3. HIỆU QUẢ CỦA GIẢI PHÁP
3.1. Thời gian áp dụng giải pháp
Qua một số phương pháp rèn kỹ năng đọc cho học sinh đã nêu ở trên , sau khi
áp dụng với học sinh lớp 2A từ đầu năm học cho đến nay, đã thu được kết quả dạy
học chủ yếu sau:
Phần lớn học sinh trong lớp có ý thức, tự giác hơn trong quá trình luyện đọc,
cũng như quá trình học tập, các em trở nên yêu thích môn học, thích được làm việc
tích cực tham gia các hoạt động học tập.
Các em có một thói quen học tập nhất định là tích cực tham gia các hoạt động
học tập ở hầu hết các môn học.
Kết quả học tập của các em được nâng lên một cách rõ rệt, đặc biệt là kỹ năng
đọc của các em được thể hiện cụ thể như sau:
3.2. Hiệu quả đạt được
Tổng số học
Đọc tốt
Đọc khá
Đọc TB
Đọc yếu
sinh
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Tỷ lệ
Trên Dưới
trung trung
bình
bình
35
2
%
Với kết quả đạt được sau môt thời gian áp dụng biện pháp nghiên cứu, cho ta
thấy rằng đã giải quyết tốt được thực trạng thực tế nêu trên. Tôi tin tưởng rằng, các
em học sinh lớp 2A do tôi phụ trách ở năm học 20 – 20 này sẽ đủ điều kiện lên
lớp 3 để tiếp tục học tập và tiếp cận với chương trình SGK mới cũng như những
phương pháp dạy học theo hướng đổi mới của những năm học tiếp theo.
3.3 Khả năng triển khai, áp dụng giải pháp
Việc áp dụng trong Tập Viết học sinh đã phát huy hiệu quả, giúp các em nắm
vững kiến thức thực hiện tốt các yêu cầu của giáo viên.
- Học sinh tích cực, chủ động, sáng tạo trong tất cả các khâu của một tiết học
để học sinh tự phát hiện, tự giải quyết vấn đề trong bài học và tự chiếm lĩnh kiến
thức mới.
- Chất lượng học tập môn ………….của học sinh lớp tôi tiến bộ một cách rõ
rệt, đến cuối học kì I năm học 2017 - 2018 kết quả đạt như sau: 100% hs hoàn
thành môn ………………, không có học sinh chưa hoàn thành môn học. Với kết
quả trên đến cuối năm học sẽ đạt tỉ lệ như mong đợi của tôi góp phần cùng nhà
trường hoàn thành tốt nhiệm vụ năm học.
3.4 Kinh nghiệm thực tiễn khi áp dụng giải pháp
Nhiều năm giảng dạy và làm công tác quản lý chuyên môn dạy tiếng việt ở
bậc tiểu học núi chung và dạy tập đọc ở lớp 2 nói riêng tôi nhận thấy: Khả năng
tiếp thu môn học tiếng việt của các em cũng nhiều hạn chế so với các môn toán hay
tự nhiên xã hội, ở phân môn tập đọc lớp 2 đa phần các em đó đọc được, song một
số em đọc cũng chưa được rõ ràng, chưa biết ngắt nghỉ đúng dấu chấm, dấu phẩy,
nhiều em phát âm chưa phân biệt rõ phụ âm đầu l/n; tr/ch; s/x đặc biệt học sinh
trường tôi đang công tác thì đa số các em đọc con ngọng phụ âm l/n, về kĩ thuật
đọc chưa thể hiện được tình cảm, nội dung mà văn bản đề cập tới. Ví dụ như các
em chưa biết nhấn giọng ở từ ngữ gợi tả, những từ ngữ trọng tâm, từ chìa khoá,
trong những trường hợp sắm vai hay đối thoại các em cũng lúng túng, nhiều em
cũng thiếu tự tin trong việc thể hiện giọng đọc của mình. Đối với đối tượng học
sinh trung bình và yếu cỏc em chưa xác định được đâu là giới hạn những câu đối
thoại của mình, với thực tế trên tôi đi sâu vào nghiên cứu vấn đề rèn kỹ năng đọc
cho học sinh khối 2 với mong muốn tích lũy thêm cho bản thân những kiến thức và
kinh nghiện chỉ đạo chuyên môn nhằm đạt hiệu quả cao trong việc chỉ đạo chuyên
môn dạy và học.
4. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ
4.1. Kết luận.
Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp đặc biệt, trong đó ngôn ngữ được thể hiện ở
dạng nói và viết. Để mỗi tiết học mang lại hiệu quả cao người giáo viên phải đầu tư
thời gian một cách hợp lý nhằm lựa chọn các nội dung và phương pháp dạy học
cho phù hợp, đồng thời người giáo viên phải thực sự năng động, sáng tạo, luôn trăn
trở tìm tòi suy nghĩ, hình thức tổ chức dạy học sao cho mọi học sinh đều có niềm
say mê hứng thú trong học tập. trong quá trình dạy học phải nắm vững tâm lý học
sinh, học sinh khối 2 các em thích được động viên, khuyến khích, khen, để thực
hiện mỗi tiết dạy giáo viên cần hiểu thật rừ, nắm vững nội dung, yêu cầu cuả từng
tiết (toàn bài phải đọc giọng như thế nào? tốc độ cường độ, chỗ nào phải nhấn
giọng, hạ giọng, …..) Nắm chắc đặc trưng của phân môn tập đọc khối 2 trong giờ
học tôi phân bố thời gian theo trình tự giáo án chú trọng các yểu tố, đọc mẫu của
giáo viên, nếu giáo viên đọc mẫu tốt cũng là dạy cho học sinh được rất nhiều, đọc
câu, đoạn nhằm minh họa, hướng dẫn gợi ý giỳp học sinh tự tìm cách đọc. Trong
chương trình tiếng việt phân môn tập đọc có nhiệm vụ rõ ràng đó là rèn cho học
sinh kỹ năng đọc, nghe, nói, viết. Đọc là quá trình tiếp nhận thụng tin do đó các kỹ
năng đọc, nghe, nói, viết có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, sự tạo thành các kỹ
năng này giúp học sinh đạt kết quả cao trong giao tiếp. qua quá trình tìm hiểu công
việc tập đọc của học sinh và công tác giảng dạy của giáo viên đối với phân môn tập
đọc trong trường tiểu học đồng thời thông qua chất lượng kiểm tra cuối năm ,tôi
thấy lớp 2A, 2B có nhiều tiến bộ song kết quả chưa hẳn là cao.Với sự tìm tòi sáng
tạo trong chuyên môn, tôi cảm thấy thầy và trò còn phải cố gắng nhiều .
4.2. Đề xuất, khuyến nghị.
Trước thực tế giảng dạy trong năm học qua nhằm mục đích nâng cao chất
lượng dạy học cũng như việc rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 2 trong phân môn
tập đọc. Tôi xin đưa ra một vài kiến nghị sau:
- Khi trẻ bắt đầu đến trường, giáo viên cùng với gia đình, nhà trường, xã hội
phải giáo dục và rèn kỹ năng đọc cho các em một cách hiệu quả nhất.
- Mỗi giáo viên , cần dành nhiều thời gian hơn vào việc nghiên cứu, vận dụng
các phương pháp rèn kỹ năng đọc cho học sinh sao cho tốt hơn, hiệu quả hơn.
- Cần tổ chức, tạo điều kiện cho giáo viên tham gia học hỏi, trao đổi kinh
nghiệm giảng dạy trong và ngoài trường theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy
học.
Xác nhận của đơn vị
..................................................................................................
..................................................................................................
..................................................................................................
..................................................................................................
..................................................................................................
..................................................................................................
Bà Rịa, ngày tháng ......năm ..........
HIỆU TRƯỞNG
Bà
Bà Rịa, ngày 20 tháng 12 năm 2017
Người báo cáo