1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của chuyên đề
Trong điều kiện kinh tế thị trường và trình độ phát triển của xã hội ở nước
ta hiện nay, sự hình thành và phát triển nhân cách ở người nông dân đã có
những cơ sở và tiền đề để thực hiện. Tình hình và điều kiện hoạt động ở cấp
độ vĩ mô toàn xã hội đang mở ra những khó khăn mới. Một mặt, kinh tế hàng
hóa tạo ra những cơ sở khách quan cho phép người nông dân nhất là lớp trẻ,
từng bước vượt ra những quan niệm, những thành kiến, những cách đánh giá,
những lề thoái lạc hậu và bảo thủ vốn là những áp bức nặng nề của tâm lý xã
hội cũ đối với sự phát triển của cá nhân và nhân cách. Mặt khác, mức độ tự ý
thức, tự khẳng định của cá nhân nông dân đang ở quá trình hình thành những
nét tính cách mới. Sự tự lựa chọn tự quyết định tự chịu trách nhiệm ít bị chi
phối bởi ý kiến của xã hội cũ để lại vốn là những vật cản trên con đường phát
triển của cá tính và nhân cách đang trở thành những dấu hiệu đặc trưng trong
thanh niên nông thôn ngày nay.
Ngày nay với sự phát triển vượt bật của khoa học kỹ thuật, công nghệ cùng
với những chính sách của nhà nước đối với nông dân càng làm cho người
nông dân có những tâm tư nguyện vọng mới. Cơ sở vật chất có sự thay đổi
đáng kể sẽ ảnh hưởng đến tính cách và đặc điểm tâm lý của người nông dân.
Đó là điều mà hiện nay các cấp chính quyền và cả những người dân vùng ven
đô rất quan tâm.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế và
cơ cấu lao động theo hướng thu hẹp tỷ trọng sản xuất nông nghiệp và nâng cao
tỷ trọng sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Trong khi đó, người nông dân lại
thiếu đất, thiếu vốn, trình độ học vấn thấp, không có ngành nghề... Vì vậy,
nhiều nơi người nông dân phải rời bỏ quê hương đi kiếm sống, hiện tượng di
dân tự do từ nông thôn ồ ạt ra thành phố trong những năm qua chứng minh
cho điều đó. Hiện nay, Hà Nội có khoảng 500 ngàn và thành phố Hồ Chí Minh
có khoảng 1,5 triệu dân tự do, không có hộ khẩu. Ra thành phố, nhiều người
không kiếm được việc làm, một số phải đi làm thuê bằng đủ các nghề, thậm
chí có số trở thành tội phạm và sa vào tệ nạn xã hội. Chính trong bối cảnh này
2
ở người nông dân dễ nảy sinh tâm lý làm thuê, tâm lý chán chường, bất mãn...
Hiện nay, đa số sinh viên xuất thân từ nông dân, tốt nghiệp các trường đại
học, cao đẳng không muốn về quê công tác. Họ bám trụ ở thành phố để kiếm
tiền với bất cứ nghề gì dọn phòng, bưng bê ở nhà hàng, bốc vác ở kho bãi… Ở
đây, tâm lý kiếm tiền, đua đòi, thích cuộc sống xa hoa đã lộ ra khá rõ. Do áp
lực lớn của công nghiệp hóa và đô thị hóa. Ở vùng ven đô điển hình là thành
phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, Cần Thơ... trong một thời gian rất ngắn
một bộ phận lớn nông dân nghiễm nhiên trở thành thị dân, mặc dù họ không
được chuẩn bị về mặt tâm lý, học vấn, văn hóa. Họ có một số tiền lớn do được
đền bù giải tỏa, do bán đất... nhưng không biết làm gì. Một số sử dụng tiền và
kinh doanh, một số dùng tiền mua sắm xe cộ, ăn chơi cờ bạc, đánh đề, cá
cược... Ở đây, đã hình thành lối sống xài sang, hợm hĩnh, và cuối cùng lại,
trắng tay, rơi vào thất nghiệp.
Không những thế, nông dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng rừng núi do hoàn
cảnh sống khó khăn, ít được hưởng phúc lợi xã hội, làm ăn thua lỗ, chán
chường với cuộc sống và tìm đến với các trò mê tín dị đoan, tín ngưỡng tôn
giáo mới. Trong điều kiện tác động mạnh của các quy luật kinh tế thị trường,
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và giao lưu văn hóa thì một bộ phận
dân cư trong đó có nông dân có tâm lý sùng ngoại, có lối sống thực dụng, sùng
bái đồng tiền, coi nhẹ các giá trị văn hóa truyền thống cũng là điều dễ hiểu.
Như vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển từ nền kinh tế
nông nghiệp lên nền kinh tế công nghiệp. Dưới góc độ tâm lý, đó cũng là quá
trình chuyển từ tâm lý tiểu nông lên tâm lý công nghiệp. Đó là cuộc cải biến
mang tính khoa học và cách mạng trong đời sống tâm lý của người nông dân.
Vì vậy, có thể nói đây là vấn đề rất cấp thiết đòi hỏi cần có sự quan tâm đặc
biệt trong giai đoạn mà nước ta thực hiên công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Làm rõ đặc điểm tâm lý của nông dân vùng ven đô trong giai đoạn công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đưa ra một số kiến nghị, đề xuất nhằm phát huy những yếu tố tích cực và
hạn chế những yếu tố tiêu cực trong tâm lý nông dân vùng ven đô thị.
3
3. Đối tượng nghiên cứu
Tâm lý của nông dân Việt Nam trong giai đoạn nước ta đang thực hiện quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
4. Phạm vi nghiên cứu
Tâm lý của nông dân vùng ven đô thị Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong thời gian thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở những vùng kinh
tế trọng điểm, và khu vực có nền nông nghiệp có nhiều thay đổi, những vùng
ven đô xung quanh thành phố lớn như Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hà
Nội…
5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh,chuyên đề sử dụng những phương pháp nghiên cứu chủ
yếu sau đây:
- Phương pháp thống kê so sánh.
- Phương pháp khảo sát…
- Thu thập và xử lý thông tin, tổng hợp, phân tích các tài liệu, dữ liệu.
- Dựa trên cơ sở thực tiễn để đưa ra nhận định về vấn đề. Trên cơ sở đó đưa
ra nhận xét, đánh giá, từ đó có kiến nghị, đề xuất cho vấn đề đã nêu.
6. Bố cục chuyên đề
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm hai chương:
Chương 1. Những đặc điểm tâm lý nông dân vùng ven đô thị thời
kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
Chương 2. Một số kiến nghị, đề xuất
4
Chương 1: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ CỦA NÔNG DÂN
VÙNG VEN ĐÔ THỊ THỜI KỲ
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
1.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển tâm lý
nông dân vùng ven đô thị trong giai đoạn hiện nay
1.1.1. Văn hóa cộng đồng làng xã
Làng là một đơn vị kinh tế có ruộng công, ruộng tư, rừng, đồi, ao, hồ…
trước đây làng tự soạn ra qui ước, qui chế, hương ước của mình, trong đó ghi
cả những quyền hạn và nhiệm vụ của các thành viên trong làng. Đất được
phân chia như thế nào, được bao nhiêu, mấy năm sẽ chia lại một lần, người
nông dân được quyền canh tác bao lâu, phải nộp bao nhiêu thóc cho làng …
tất cả đều do làng quy định. Mỗi làng có một lảnh thổ riêng xung quanh là
những luỹ tre. Đó là một thành lũy rất kiên cố, đốt không cháy, trèo không
được, đào không qua. Việc trao đổi với thế giới bên ngoài thông qua cổng
làng. Gần cổng làng thường có một cây đa, khói hương nghi ngút, đó là nơi
hội tụ của thánh thần. Bên trong của làng có một cái đình, đó là biểu tượng
của làng về mọi phương diện. Tính biệt lập ở các làng mạnh đến nỗi mỗi làng
có thể được coi như một quốc gia thu nhỏ với một luật pháp riêng được gọi là
hương ước và luật tục và một triều đình riêng với hội đồng kỳ mục là cơ quan
lập pháp, lý dịch là cơ quan hành pháp. “Phép vua thua lệ làng” là một truyền
thống thể hiện mối quan hệ dân chủ đặc biệt của nhà nước phong kiến với làng
xã Việt Nam.
Làng Việt Nam thời hiện đại đã có những sự thay đổi nhất định so với làng
trung và cận đại. Có những đặc điểm của làng cổ còn giữ được, nhưng cũng có
những đặc điểm ngày nay hầu như không thể tìm thấy. Truyền thống gia tộc
tuy vẫn còn giữ được ảnh hưởng, nhưng do ngày nay, người dân nông thôn có
xu hướng thoát li ra các thành phố lớn hoặc di cư đến những vùng khác có
điều kiện sinh sống làm ăn thuận lợi hơn, nên vai trò của gia đình đã dần dần
nổi trội hơn. Cũng do việc di cư mà thành phần dân cư của làng xã ngày nay
đa dạng hơn, tính chất cùng huyết thống cũng đã bị giảm mạnh. Các khái niệm
như giáp, đinh, tráng nay không còn nữa do nó hoàn toàn không phù hợp với
5
nông thôn hiện đại. Các khái niệm dân chính cư hay dân ngụ cư tuy rằng vẫn
có thể hiện diện ở một vài nơi, nhưng chắc chắn nó không còn là một đặc
điểm đặc trưng của nông thôn ngày nay. Các chức sắc, chức dịch cũ nay đã bị
xóa bỏ. Vai trò của chính quyền xã hiện nay được công nhận là nằm trong hệ
thống quản lý nhà nước đã và đang dần làm mất đi vai trò của hệ thống chính
quyền làng theo kiểu cũ. Vai trò của trưởng làng, trưởng thônhay trưởng bản
thực ra không lớn lắm. Các hương ước và lệ tục ngày nay tuy còn có ảnh
hưởng nhất định tới công việc của làng, nhưng luật pháp nhà nước mới là yếu
tố quyết định chính trong quan hệ cộng đồng. Về mặt cấu trúc, làng ngày nay
đã thưa dần hình ảnh của lũy tre làng, cổng làng, giếng nước làng. Đình làng
không còn đóng vai trò quan trọng như trước đây, nó chỉ còn thuần túy là nơi
để thờ cúng hay giao lưu, gặp gỡ trong những ngày lễ hội.
Việc làng xã Việt Nam được tổ chức theo huyết thống, địa bàn cư trú,
truyền thống nam giới và hành chính như ở phần trên đã nêu làm cho làng có
tính cộng đồng và tự trị rất cao. Tính cộng đồng làm cho các thành viên trong
làng đều hướng tới nhau, còn tính tự trị làm cho các làng trở lên biệt lập với
nhau. Tính dị biệt, tự trị dẫn đến các hệ quả sau: "tự cung tự cấp", mỗi làng cố
gắng đáp ứng đầy đủ nhu cầu của làng, óc bè phái, cục bộ, gia trưởng, tôn ti...
Do tính cộng đồng cao mà làng Việt Nam có xu hướng nhấn mạnh vào tính
đồng nhất, hệ quả của nó là: đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, tính tập thể cao, dân
chủ địa phương... nhưng lại thủ tiêu vai trò cá nhân, tạo ra thói dựa dẫm, ỷ lại
vào tập thể và đố kị không muốn ai hơn ai.
Bằng hoạt động cộng đồng và giao tiếp trong nội bộ cộng đồng một cách
dai dẳng và khép kín thể hiện qua các phương diện kinh tế xã hội, chính trị xã
hội, văn hoá xã hội làng nổi lên như một chủ thể tập thể người đứng ra tổ chức
mọi sinh hoạt cộng đồng cho mọi người dân trong làng, người duy trì và giữ
gìn cho mọi sinh hoạt được đều đặn tiếp nối. Và như thế một tâm lý cộng đồng
thuộc về mọi người dân trong làng đã hình thành và tồn tại. Tính cộng đồng
trong hoạt động, trong giao tiếp diễn ra trong mọi lĩnh vực hoạt động sống của
mọi người dân trong làng. Mặt khác, do giới hạn trong một địa bàn nhỏ hẹp, ý
thức thường ngày trong làng xã chỉ thu hẹp trong phạm vi giữa người nông
dân với nhau. Bởi thế, ngoài những chuyện về mùa màng, thời tiết, tất cả
6
những sự kiện lớn nhỏ xảy ra trong làng đều trở thành những mẫu chuyện thời
sự được dân làng nhỏ to, bàn luận mỗi khi gặp gỡ. Những lời bàn tán, bình
luận ấy đã tạo nên dư luận của làng. Dư luận làng không phải bao giờ cũng có
nội dung giống nhau, mà lắm khi cũng khác nhau và không phải bao giờ cũng
cùng mang thái độ khách quan thống nhất… Người nông dân gửi gắm vào đó
những ý kiến, nhận định chủ quan của bản thân, của dòng họ mình, phe giáp
mình. Tuy nhiên, dư luận làng cũng có vai trò quan trọng trong đời sống hàng
ngày của người nông dân. Trước hết, nó có chức năng điều hòa các mối quan
hệ xã hội trong làng. Trên cơ sở phán xét, đánh giá các sự kiện, hiện tượng
trong đời sống hang ngày, nó cổ vũ và khích lệ những ai tuân thủ các chuẩn
mực, làm tốt những việc phải làm, nó ngăn ngừa và răn đe những việc nên
tránh, điều chỉnh hành vi và cách xử sự của mọi người.
Cùng với chức năng điều hòa hành vi là chức năng giáo dục của ý thức
thường ngày. Khi giáo dục chưa phát triển, trình độ dân trí còn thấp thì ý thức
thường ngày đóng vai trò là người hướng dẫn cách thức hành xử của mỗi
thành viên. Dư luận làng tác động vào ý thức người nông dân, chi phối ý chí
cá nhân, điều chỉnh cho nó phù hợp với ý chí chung của mọi người sao cho
khớp với các chuẩn mực của cộng đồng. Đa số các thành viên trong làng đều
quan tâm tới những đánh giá tốt hay xấu để sửa chữa sai lầm, bổ sung những
thiếu sót, đáp ứng cao hơn những đòi hỏi của làng xã đối với bản thân. Cá
nhân trong làng phải hành động và ứng xử phù hợp với “đất lề quê thói”, vươn
tới trở thành một kiểu loại nhân cách theo cơ chế và khuôn mẫu định sẵn. Nếu
ai có những hành vi ứng xử khác lạ, lệch chuẩn tất sẽ được nhắc nhở, uốn nắn.
Sự khắc nghiệt của dư luận làng dưới tác động của tư tưởng phong kiến và
làng được chấp nhận trong ý thường ngày đã không làm cho cá nhân người
nông dân có thể phát triển cao hơn để có thể sớm có tính cá tính, có nhân cách.
Người nông dân luôn luôn phải trông trước, nhìn sau trong ứng xử để “ăn ở
cho tròn”, phòng khi người ngoài trông vào, dân làng cười chê, họ hàng quở
trách.
Bởi vậy, trong cuộc sống làng xã, “cái tôi” của người nông dân luôn bị che
khuất sau “cái cộng đồng”, “cái chúng ta”. Họ không được quyền tự do hành
động theo suy nghĩ, mong muốn, ước nguyện của cá nhân mình. Mọi hành vi
7
của họ đều phải thông qua sự thẩm định của những đánh giá thuộc số đông bà
con trong họ tộc, lối xóm. Mọi cử chỉ của họ phải tuân thủ theo, dựa theo ý
muốn của những người xung quanh, ít có tính quan sát, tính hoài nghi, tính
phê phán, ít có tính độc lập, tính chủ động, tính khẳng định của cá nhân và do
đó đã làm hạn chế sự phát triển của lý trí.
Từ những phần trình bày trên, có thể nêu ra một nhận định chung là tính
cộng đồng của làng vừa là sự thể hiện, vừa là sản phẩm của cộng đồng kinh tế,
cộng đồng địa, cộng đồng lịch sử, cộng đồng chính trị, xã hội, cộng đồng văn
hóa, thổ ngữ, cộng đồng tín ngưỡng… Và thông qua hoạt động cộng đồng và
giao tiếp cộng đồng đã tạo nên những đặc điểm chung về tâm lý, về ý thức và
tự ý thức của mọi người dân trong làng nói chung và nhu cầu, ý chí, tình cảm,
năng lực, tính cách… ở mỗi nông dân nói riêng. Những yếu tố này sẽ tác động
vào cách nhìn nhận cũng như tính cách của người nông dân vùng ven đô,
những yếu tố tích cực lẫn tiêu cực sẽ nảy sinh từ đây.
1.1.2. Công nghiệp hóa, đô thị hóa nông thôn vùng ven đô thị
Đô thị hoá là một quá trình tập trung dân cư đô thị. Đồng thời đó là quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất nông nghiệp giảm, sản
xuất phi nông nghiệp tăng. Bộ mặt đô thị ngày càng hiện đại, không gian đô
thị mở rộng. Đô thị hóa nông thôn là một quá trình phát triển tất yếu của một
quốc gia, đặc biệt đối với nước ta là nước đang trong giai đoạn đầu của công
cuộc công nghiệp hóa đất nước.
Những thay đổi về kinh tế, xã hội đời sống vật chất, tinh thần của người
dân đô thị được nâng cao. Mở cửa hội nhập và giao lưu làm cho người dân
ven đô tiếp cận nhiều điều mới lạ. Họ học tập được kinh nghiệm làm ăn sinh
sống của dân cư các vùng khác đến. Tiếp cận với khoa học kỹ thuật, với cung
cách làm ăn mới, nhận thức họ mở mang, giao tiếp ứng xử tế nhị, lịch lãm
hơn, tự tin hơn. Những phong tục tập quán lạc hậu, tuỳ tiện được rũ bỏ dần.
Ngày nay, thanh niên vùng ven đã quen với lối sống mới, với các tác phong
công nghiệp. Họ lao vào học tập văn hoá, rèn luyện tay nghề, làm việc có
năng suất, chất lượng hơn, chính vì thế thu nhập cũng cao hơn. Mức độ chi
tiêu cũng tăng lên, việc chi tiêu cũng hợp lý hơn. Tỷ lệ chi cho nhà, thiết bị, đồ
dùng tăng, chi phí cho ăn uống giảm.
8
Đời sống nông dân được cải thiện đáng kể gốp phần nâng cao trình độ
cũng như nâng cao kết cấu hạ tầng từ đó giúp đất nước đi lên nhanh chóng.
Tuy nhiên lại tồn tại nhiếu vấn đề cần phải giải quyết, đặc biệt là đối với nông
dân vùng ven đô thị. Quá trình đô thị hoá vùng ven đô có sự chuyển dịch
mạnh về cơ cấu kinh tế rất rõ nét. Vì vậy, kinh tế các vùng ven đã phát triển
nhanh chóng theo xu hướng chung là công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp,
thương mại, dịch vụ ngày càng chiếm vị trí then chốt. Sản xuất nông nghiệp
giảm dần về diện tích và ngày càng đi vào chuyên canh, sản xuất theo kiểu
hàng hoá.
Công nghiệp hóa, đô thị hóa đã đem lại những thuận lợi nhất định cho nông
dân. Công tác xóa đói giảm nghèo được đẩy mạnh bằng nhiều hình thức, biện
pháp, đến cuối năm 2005, tỉ lệ hộ nghèo còn 7%. Đã kết hợp tốt các nguồn lực
của nhà nước và nhân dân, xây dựng nhiều công trình kết cấu hạ tầng kinh tế,
văn hóa, xã hội cho các vùng nông thôn, miền núi, vùng dân tộc. Thu nhập
bình quân trên đầu người tăng lên, công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân
dân đạt nhiều kết quả. Hoạt động văn hóa, thông tin, báo chí… có tiến bộ trên
một số mặt. Cuộc vận động “Toàn dân xây dựng đời sống văn hóa”, một số
hoạt động trong phong trào nông dân được thực hiện có hiệu quả. Cùng với
đó, trình độ của nông dân ngày càng tăng lên, kết quả xóa mù chữ và phổ cập
giáo dục tiểu học, việc phổ cập giáo dục trung học cơ sở đã được triển khai
tích cực. Quy mô giáo dục ngày càng được mở rộng và trình độ dân trí đã
được nâng lên rõ rệt. Các trường sư phạm từ trung ương đến địa phương ngày
càng được củng cố và phát triển. Chất lượng dạy nghề có chuyển biến tích
cực. Bước đầu đã hình thành mạng lưới dạy nghề cho lao động ở nông thôn,
gắn dạy nghề với tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo.
Bên cạnh đó, khoa học và công nghệ ngày càng tiến bộ và đã từng bước
đưa vào phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội. Nhiều thành tựu công nghệ
mới đã được ứng dụng trong các lĩnh vực nông nghiệp… đã tạo ra nhiều sản
phẩm và dịch vụ mới có chất lượng cao phục vụ ngày càng đầy đủ nhu cầu của
người nông dân. Văn hóa xã hội cũng tiến bộ trên nhiều mặt, việc gắn kết giữa
phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội ngày càng chuyển biến tích
cực, chỉ số phát triển con người được nâng lên. Công tác chăm sóc sức khỏe
9
người dân được chú trọng. Hoạt động y tế dự phòng được đẩy mạnh hơn. Một
số dịch bệnh đã bị đẩy lùi. Mạng lưới y tế, đặc biệt là y tế cơ sở được củng cố
và phát triển, hầu hết các xã, phường đều trong cả nước đều có trạm y tế, trên
65% trạm có bác sĩ. Hoạt động văn hóa, thông tin đa dạng hơn, góp phần nâng
cao đời sống văn hóa của nông dân vùng ven đô, làm tăng hiệu quả công tác
giáo dục chính trị, tư tưởng, phổ biến pháp luật. Hoạt động báo chí, phát
thanh, truyền hình được đổi mới về nội dung tăng quy mô, mở rộng phạm vi
tới các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và ra nước ngoài.
Điều này đã tác động không nhỏ trong việc hình thành trong tâm lý nông dân
nhiều đặc điểm tích cực, tạo điều kiện phát triển nông nghiệp nông thôn,
nhanh chóng hoàn thành tốt quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tuy nhiên, quá trình đô thị hóa nông thôn hiện nay tập trung mạnh tại các
đô thị lớn và diễn ra không đồng đều giữa các vùng ven đô thị trong cả nước.
Chất lượng và trình độ đô thị hóa nông thôn vùng ven đô còn thấp. Cơ sở hạ
tầng xã hội và kỹ thuật đô thị còn yếu kém về chất lượng phục vụ so với yêu
cầu. Định hướng phát triển không gian khu vực được đô thị hóa chưa rõ nét,
đặc biệt còn phát triển một cách tùy tiện, mang nặng tính hình thức đô thị,
chưa thực sự giải quyết vấn đề cốt lõi của đô thị hóa đối với khu vực dân cư
hiện có: chưa gắn kết chất lượng đô thị với giữ gìn bản sắc, kiến trúc truyền
thống trên cơ sở đảm bảo điều kiện tiện nghi cuộc sống đô thị cho người nông
dân và đảm bảo phù hợp về cảnh quan đô thị.
Trong quá trình phát triển, ở những vùng ven đô đã phát sinh nhiều vấn đề
mới là đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, bình quân mỗi năm từ 800 ha
đến 1.000 ha, số dân nông thôn có chiều hướng tăng cả tự nhiên lẫn cơ học,
lao động cũng tăng. Đó là chưa nói đến các vấn đề xã hội khác như: ô nhiễm
môi trường, các tệ nạn xã hội… Việc thu hẹp đất canh tác đang tiềm ẩn những
nguy cơ. Chỉ trong vòng ba năm từ 2001 - 2004, diện tích đất trồng lúa của cả
nước đã giảm 338 ngàn ha. Thực tế trong những năm gần đây cho thấy sự mở
rộng không ngừng không gian đô thị với việc thu hẹp diện tích đất canh tác
nông nghiệp. Dẫn tới một bộ phận không nhỏ nông dân vùng ven đô phải
chuyển đổi nghề nghiệp. Nhưng thực tế không phải người nông dân nào cũng
hội đủ năng lực để sẵn sàng chuyển đổi "phương thức sản xuất" của mình. Do
10
đó, không ít nông dân bị đẩy vào cảnh khốn khó vì không có đất canh tác.
Tình trạng này, cùng với sự gia tăng về dân số, lao động thiếu việc làm vốn
còn chưa giải quyết được sẽ làm tăng thêm đội quân thất nghiệp cùng với
nhiều tệ nạn xã hội khác phát sinh.
Diện tích đất nông nghiệp ở các vùng ven giảm sút như vậy là do nhiều
nguyên nhân. Trước hết là do tốc độ đô thị hoá nhanh. Tốc độ đô thị hóa ở
Việt Nam khá nhanh: 20,5% (1997), 23,6% (1999) và nay là trên 25%, đất
nông nghiệp đã được sử dụng vào mục đích khác như: xây cất nhà máy xí
nghiệp, xây dựng nhà ở, công trình phúc lợi. Một số là do những cư dân giàu
có mua bán sang nhượng chiếm giữ đất lưu thông khá nhiều, và vì sản xuất
nông nghiệp thu nhập thấp, bấp bênh làm cho nhiều hộ nông dân chuyển sang
kinh doanh bằng nghề khác. Chỉ quy mô, mức độ mỗi nơi có khác đôi chút mà
thôi còn về hình thức thì không có gì khác cho mấy. Dù vẫn biết phát triển thì
tất yếu phải thu hẹp đất nông nghiệp để mở mang, nhưng sao người nông dân
vẫn cảm thấy hối tiếc.
Những năm sau đổi mới, khi kinh tế phát triển, hầu hết các vùng ven đều
chăm lo đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng: như làm mới nâng cấp sửa chữa
đường giao thông. Hệ thống cấp thoát nước được chú ý: nạo vét, xây kè, kênh,
hệ thống cống xả được khôi phục… Ngoài ra các vùng đều chú ý lắp đặt thêm
đường ống nước sạch, cải tạo lưới điện trung thế, hạ thế cho các khu dân cư…
Đặc biệt là các vùng quan tâm xây dựng mở mang trường học, bệnh viện, nhà
ở, khu vui chơi… nhằm cải thiện đời sống nhân dân. Tuy nhiên, hiện tượng
nông dân bỏ đất để ra thành phố kiếm sống vẫn ngày càng nhiều.
Người nông dân ở các vùng ven đô thị nước ta di chuyển ồ ạt tới các thành
phố với một tốc độ chưa từng thấy. Đối với các nước đang phát triển đây là
vấn đề lớn, đặc biệt là nước ta, dân cư ở các thành phố đang tăng lên với tỷ lệ
nhanh hơn nhiều so với tăng trưởng trong khu vực sản xuất. Hiện nay, các nhà
kinh tế đã bắt đầu phải thừa nhận sự tồn tại cần thiết của khu vực thứ ba. Cụ
thể là khu vực không chính thức. Khu vực này bao gồm các hoạt động không
hoàn toàn là bất hợp pháp, nhưng thường không được sự chấp nhận của xã hội
và hầu hết các hoạt động này đều không đăng ký với nhà nước. Chẳng hạn
như: đứng đường, bán hàng rong, mài dao, viết thư, thu lượm đồng nát, đánh
11
giày, sơn đông mãi võ... Thực tế những hiện tượng này đã và đang diễn ra ở
nước ta, tuy chưa nhận thấy rõ nhưng trong thời gian không xa sẽ thể hiện rất
rõ rệt. Bởi vậy đòi hỏi các ngành chức năng cần phải có chính sách hổ trợ và
cải thiện hợp lý đối với khu vực ven đô này. Đăc biệt là đối với nông dân vùng
ven đô, đây là lực lượng có nguy cơ xảy ra hiện tượng này nhiều nhất. Một khi
đã thất nghiệp, không có ruộng đất thì người nông dân phải tìm công việc nào
đó đem lại thu nhập cho bản thân khi đó tức nhiên sẽ phải chuyển lên các
thành phố lớn. Vì vậy, trong thời gian đến các cấp chính quyền cần có sự quan
tâm hơn nữa đến đời sống của nông dân, đặc biệt là vùng ven đô thị, đây là
vùng chịu ảnh hưởng nhiều nhất của quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa.
1.1.3. Những chính sách kinh tế của nhà nước đối với nông dân vùng ven
đô trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Đi liền với làng xã và quá trình đô thị hóa, các chính sách của Đảng và Nhà
nước cũng ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý của người nông dân trong giai
đoạn mới. Bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập với thế
giới, nông dân, nông nghiệp và nông thôn nước ta đứng trước những thách
thức nghiệt ngã bởi nền nông nghiệp vẫn là nền sản xuất nhỏ, kém phát triển,
kỹ thuật sản xuất phổ biến vẫn còn thủ công, lạc hậu, nông sản hàng hóa chưa
nhiều, sức cạnh tranh còn kém so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Thu nhập và đời sống của nông dân vùng ven đô còn thấp, tỉ lệ nghèo đói
chiếm khá cao, trình độ dân trí của dân cư nông thôn còn hạn chế. Vì thế
những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều biện pháp nhằm giúp nông
dân cải thiện đời sống. Chương trình giống cây trồng, vật nuôi đã góp phần
hình thành những vùng sản xuất lớn tập trung, chất lượng cao, nâng cao năng
suất cây trồng, vật nuôi. Chương trình khuyến nông đã chuyển giao các tiến
bộ kỹ thuật, đào tạo nghề, hướng dẫn kỹ thuật cho nông dân, tích cực hỗ trợ
cho người dân xóa đói giảm nghèo.
Theo báo cáo giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội nhờ tập trung đầu
tư phát triển của nhà nước, cùng với sự đóng góp của nhân dân, cơ sở hạ tầng,
điều kiện vật chất ở các vùng nông thôn ven đô đã được cải thiện đáng kể.
Trong đó, đầu tư cho giao thông nông thôn, thủy lợi, nước sinh hoạt luôn được
chú trọng và tăng cường. So với năm 2000, cả nước đã có 156 công trình thủy
12
lợi lớn hoàn thành và đưa vào sử dụng, tăng diện tích tưới, tiêu, ngăn mặn, cấp
nước cho công nghiệp, dân sinh. Nguồn vốn nước ngoài và các tổ chức quốc
tế đã đóng góp đáng kể vào việc hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp và phát triển
nông thôn. Tính đến hết năm 2005 có trên 900 dự án đầu tư trực tiếp trong lĩnh
vực nông, lâm, ngư nghiệp, với tổng vốn đăng ký trên 3,7 tỷ USD. Chính phủ
đã ký kết với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế 3 dự án tài trợ cho phát trển
sản xuất, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nông nghiệp, nông thôn
với tổng số tiền 373 triệu USD...
Tạo việc làm cho lao động nông nhiệp, nông thôn là vấn đề được nhà nước
hết sức quan tâm trong thời gian qua, với việc thực hiện nhiều chương trình
mục tiêu quốc gia, hiện mỗi năm có khoảng 1,4 - 1,5 triệu lao động (mà phần
lớn là lao động nông thôn) được tạo việc làm, tỷ lệ sử dụng thời gian lao động
ở khu vực nông thôn đến nay đã đạt hơn 80%. Nhằm thúc đẩy việc tiêu thụ
nông sản cho nông dân, trong những năm qua, Chính phủ đã ban hành các
chính sách bình ổn giá, mua tạm trữ một số hàng nông sản, quy hoạch và triển
khai đầu tư xây dựng hệ thống chợ... Bên cạnh đó, Chính phủ quyết định và
chỉ đạo thực hiện chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia, áp
dụng các cơ chế, chính sách xuất nhập khẩu đã góp phần quan trọng tăng
nhanh kim ngạch xuất khẩu, trong đó nhiều mặt hàng nông sản chủ lực tăng
trưởng cao.
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng và các Chương
trình hành động của Chính phủ, của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
và Hội Nông dân Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010 thống nhất ban hành Nghị
quyết liên tịch về việc: hỗ trợ nông dân phát triển kinh tế nông nghiệp và xây
dựng nông thôn mới giai đoạn 2006 - 2010. Động viên, hỗ trợ, tư vấn hội viên,
nông dân thi đua phát triển sản xuất, đẩy mạnh tham gia ứng dụng khoa học
công nghệ, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, kinh tế nông
thôn, đồng thời nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất, tạo việc
làm, tăng thu nhập, xóa đói, giảm nghèo, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Nâng cao nhận thức và trình độ cho hội
viên, nông dân và cán bộ Hội Nông dân các cấp về chủ trương, chính sách,
pháp luật, kiến thức văn hóa, khoa học, trình độ sản xuất và tay nghề, giúp
13
nông dân vươn lên làm giàu chính đáng, hạn chế tình trạng di dân tự do, tăng
cường khối đoàn kết. Tạo môi trường bồi dưỡng, đào tạo nông dân vùng ven
đô để thích nghi với cơ chế thị trường, có kiến thức, tay nghề sản xuất và năng
lực quản lý, kinh doanh, đáp ứng yêu cầu của nền nông nghiệp sản xuất hàng
hóa có chất lượng cao.
Đẩy mạnh ứng dụng và chuyển giao khoa học công nghệ mới vào sản xuất,
thúc đẩy phong trào xây dựng cánh đồng, trang trại, gia trại, hộ gia đình đạt
hiệu quả kinh tế cao ở nhiều vùng, nhiều địa phương trong cả nước. Tăng
cường tập huấn kỹ thuật và chuyển giao khoa học công nghệ mới vào sản
xuất, đạt 50 triệu đồng/ha ở nhiều vùng trong cả nước. Xây dựng mô hình
chuyển giao khoa học công nghệ mới trong sản xuất nông, lâm nghiệp, kinh tế
hợp tác xã, phát triển ngành nghề, chế biến, bảo quản nông lâm sản và dịch vụ
nông thôn. Phối hợp hướng dẫn, vận động nông dân đẩy mạnh chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, ứng dụng khoa học công nghệ thông qua chương trình khuyến
nông, tích cực tham gia phong trào xây dựng nông nghiệp nông thôn. Phát
triển câu lạc bộ khuyến nông, nhóm nông dân cùng sở thích, làm hạt nhân
trong việc xây dựng mô hình trình diễn, chuyển giao khoa học và vận động
nông dân phát triển, nhân rộng. Tổng kết, nhân rộng mô hình sản xuất có hiệu
quả, đặc biệt là những điển hình làm kinh tế giỏi ở nông thôn. Tăng cường xây
dựng mô hình phát triển nghề truyền thống, nghề mới, chế biến, bảo quản
nông, lâm sản và dịch vụ...
Tổ chức các phong trào thi đua hành động cách mạng trong nông dân, tôn
vinh, khen thưởng cá nhân, tập thể có thành tích xuất sắc trong phát triển nông
nghiệp, nông thôn. Phối hợp chỉ đạo và đẩy mạnh phong trào nông dân thi đua
sản xuất, kinh doanh giỏi, chuyển đổi kinh tế tốt, đoàn kết giúp nhau xóa đói
giảm nghèo và làm giàu, đưa phong trào phát triển mạnh mẽ, rộng khắp, bền
vững và đem lại hiệu quả thiết thực. Đưa nhanh các tiến bộ khoa học kỹ thuật
mới, giới thiệu những kinh nghiệm giỏi, cách làm mới cho nông dân học tập
và ứng dụng. Biểu dương các tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến trong sản
xuất và công tác hội trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Các chính sách xã hội cũng đã được hoạch định để đáp ứng, các lợi ích,
tâm tư và nguyện vọng của nông dân. Thực tế, các chính sách kinh tế, chính
14
sách xã hội của nước ta đang được đổi mới và cải tiến không ngừng vì dưới
ánh sáng tiến bộ của xã hội, của thành tựu khoa học, kỹ thuật ngày càng nhiều
và soi sáng ngày càng rộng, thì nhu cầu của nông dân ngày càng phong phú
hơn, đa dạng. Chính sách xã hội ở nông thôn đang bao trùm lên các mặt của
họat động sống ở người nông dân: điều kiện lao động, cuộc sống gia đình,
giáo dục, y tế… Thực tiễn xã hội chỉ ra rằng, điều kiện kinh tế hạn hẹp, đời
sống nông dân chưa được nâng cao, nhưng khi chính sách xã hội một phần
đáp ứng được nhu cầu, tâm tư, nguyện vọng của người nông dân, giải quyết
tốt các quan hệ người - người có liên quan đến dân chủ, công bằng xã hội, đời
sống riêng của con người thì cũng có thể tạo nên được những động lực nhất
định cho sự nghiệp phát triển đất nước.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang hướng vào đối tượng là nông dân,
chính sách xã hội cũng đã một phần đáp ứng được nhu cầu của họ. Muốn kinh
tế nông nghiệp, nông thôn phát triển thì phải dựa vào những yếu tố chính trị,
xã hội vững chắc. Khi xã hội nông thôn thật sự dân chủ, điều kiện sống và lao
động của nông dân được cải thiện, nâng cao thì mới đảm bảo sự phát triển bền
vững về kinh tế. Chính vì vậy, chính sách xã hội đối với nông dân hiện nay
cần phải được quan tâm đúng mức ở mỗi cấp, mỗi địa phương, với những mục
tiêu cụ thể, bằng các chủ trương, các chương trình, dự án phát triển kinh tế xã hội nông nghiệp, nông thôn như: phát triển cơ sở hạ tầng, quy hoạch,
chuyển đổi, mở rộng sản xuất, chính sách chuyển giao khoa học công nghệ,
đầu tư vốn, đảm bảo điều kiện lao động, lợi ích cho người nông dân, có như
vậy thì trong tương lai nông dân mới có điều kiện đẩy nhanh sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Với những thay đổi cả về kinh tế lẫn xã hội như vậy, đời sống nông dân đã
không ngừng thay đổi. Nhưng thực tế hiện nay, các chính sách kinh tế ấy chưa
thực hiện được nhiều gây nên tâm lý lo lắng cho nông dân. Họ sợ rằng những
chính sách kinh tế, xã hội ấy chỉ là lý thuyết suông khó mà thực hiện hoặc
không phù hợp với tình hình địa phương. Những chính sách hỗ trợ phát triển
nông nghiệp, nông thôn vùng ven đô của nhà nước tuy đã phát huy kết quả
lớn, nhưng vẫn chưa thâm nhập sâu vào cuộc sống do còn nhiều vướng mắc
và còn mang tính hình thức. Các hoạt động khoa học, công nghệ chưa dự báo
15
được nhiều vấn đề của sản xuất, định hướng chưa thật rõ trong hỗ trợ sản xuất
và phát triển thị trường, trợ giúp sản xuất nông nghiệp để chủ động thực hiện
lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế. Chỉ được đáp ứng khoảng 40% nhu cầu vay
vốn của các tổ chức kinh tế và hộ gia đình, tỷ lệ hộ nông được vay vốn khoảng
70%. Chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hóa thông qua hợp
đồng chưa được triển khai rộng rãi, chưa nhận được sự hưởng ứng mạnh từ
các doanh nghiệp, còn nhiều khó khăn về chế tài xử lý các trường hợp doanh
nghiệp phá bỏ hợp đồng mua sản phẩm của nông dân khi giá nông sản ở mức
thấp... Vẫn còn nhiều hộ nông dân chưa thoát khỏi đói nghèo, chăm sóc y tế,
giáo dục, văn hoá… với bà con nông dân vẫn còn phải nỗ lực lớn để vượt qua.
Những điệp khúc “Được mùa mất giá” luôn thường trực trên đôi vai người
nông dân nước ta. Điều này đặt ra cho các ngành chức năng nhiều vấn đề cần
phải giải quyết trong thời gian tới để đưa nông dân vùng ven đô thoát khỏi
những tình trạng bức xúc. Có như vậy thì chúng ta mới có thể thực hiện thành
công quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá một cách nhanh chóng và triệt
để.
1.1.4. Đời sống nông dân vùng ven đô thị trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước
Một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng sâu, rộng đến tâm lý người
nông dân vùng ven nói riêng và nông dân nói chung, nó tác động trực tiếp đến
tâm lý của họ đó là đời sống của người nông dân. Bước vào thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng không
ngừng vào phát triển đời sống nông dân, đặc biệt là nông dân vùng ven đô thị.
Bởi lẽ, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa có tác động mạnh mẽ đối với
đời sống của người nông dân vùng ven đô thị về nhiều mặt. Công nghiệp hóa,
đô thị hóa đem lại nhiều lợi ích thiết thực đối với đời sống nông dân, gốp phần
nâng cao sản lượng lương thực, cải biến về giống vật nuôi cây trồng, ứng dụng
những thành tựu khoa học công nghệ vào cuộc sống… Tất cả các khía cạnh
xoay quanh đời sống của nông dân đều được cải thiện đáng kể đem lại cuộc
sống mới cho người nông dân vùng ven đô thị, người chịu ảnh hưởng nhiều
của quá trình xây dựng đất nước, và là người đi đầu trong các cải biến của đất
nước. Kinh tế phát triển kéo theo sự phát triển của tất cả các mặt: chính trị,
16
văn hóa, xã hội… đem lại nhiều hiệu quả trong công tác cải biến đời sống
người dân. Tỉ lệ hộ đói nghèo giảm rõ rệt, kết cấu hạ tầng tiếp tục được đầu tư
nhiều hơn. Đời sống nông dân không chỉ ở vùng ven đô mà trên cả nước, vùng
sâu vùng xa, vùng dân tộc thiểu số có bước cải thiện đáng kể.
Với sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật và công nghệ, ứng
dụng những phát minh, sáng chế vào nông nghiệp. Hoạt động sản xuất của
nông dân đã có đổi thay không còn quá phụ thuộc vào thời tiết hay những yếu
tố khách quan. Không còn “bán mặt cho đất bán lưng cho trời” như ngày xưa,
bây giờ câu nói này được hiểu theo một cách hoàn toàn mới. Việc chủ động
tìm ra những việc làm mới, giống cây trồng, vật nuôi mới đã đáp ứng ngày
càng đầy đủ nhu cầu người nông dân vùng ven đô thị. Nhiều nông dân có
hướng làm giàu, đã được hổ trợ và đạt được một số thành tựu đáng kể. Vấn đề
y tế, chăm sóc sức khỏe cho nông dân được đặc biệt quan tâm, thành lập nhiều
cơ sở y tế ở làng xã, một số xã đã có bác sĩ, tuổi thọ của người dân ngày càng
nâng cao. Bên cạnh đó, giáo dục được cải thiện không ngừng, chính sách của
nhà nước về giáo dục đã có chuyển biến đáng kể, trình độ học vấn của người
nông dân ngày càng nâng cao. Số học sinh đậu đại học ở những vùng quê, thị
trấn ngày càng nhiều, các chương trình phổ cập giáo dục được thực hiện có
hiệu quả. Cải thiện đáng kể vấn đề việc làm cho nông dân, nhiều trung tâm
dạy nghề được thành lập thu hút được sự quan tâm của nhiều con em người
nông dân, hàng năm giải quyết được một lực lượng lao động đáng kể gốp
phần cải thiện đời sống nông dân. Mặt khác, với công nghiệp hóa, đô thị hóa
các nhu cầu khác của nhân dân cũng không ngừng được đáp ứng, nhu cầu về
thông tin, văn hóa, sinh hoạt lễ tết… ngày càng được cải thiện. Những thành
quả đạt được trong thời gian qua đã gốp phần tạo cho nông dân có được lòng
tin tưởng đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đưa nông
dân thoát khỏi những lề thói lạc hậu, giúp cải thiện tính thụ động của nông
dân. Đưa nông dân vùng ven đô ngày càng tiếp thu với cuộc sống của thành
thị, tính kỷ luật trong lao động tạo cơ sở để thực hiện thành công quá trình
phát triển đất nước.
Bên cạnh những yếu tố tích cực đó, quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa
đã nảy sinh không ít vấn đề xã hội bức xúc. Đặc biệt là vấn đề nông dân
17
không có đất để sản xuất, đã dẫn đến nảy sinh nhiều vấn đề về kinh tế, xã hội.
Theo cách tính của các nhà khoa học: thời gian lao động thực tế của người
nông dân Việt Nam trong những năm qua chỉ là 80%, còn lại 20% là thời gian
thất nghiệp rồi mỗi năm lại có thêm khoảng 600.000 thanh niên nông thôn
bước vào tuổi lao động cần có việc làm. Nếu cộng thì tổng số người thất
nghiệp ở nông thôn trong những năm tới sẽ là một con số vô cùng lớn. Vẫn
còn nhiều hộ nông dân chưa thoát khỏi đói nghèo. Những chăm sóc về y tế,
giáo dục, văn hoá… chưa đáp ứng được nhu cầu của nông dân vùng ven đô.
Mặt khác vấn đề giá cả đang là nỗi lo của toàn thể nông dân vùng ven đô. Tuy
rằng giá nông sản tăng nhưng người nông dân ở đây vẫn thật sự rơi vào khủng
hoảng. Những hàng rào kỹ thuật dựng lên ngày càng nhiều ở các nước khác
cũng đang là rào cản đối với hàng nông sản xuất khẩu của chúng ta.
Đô thị hóa đang mang lại những chuyển biến mạnh mẽ trong đời sống
người nông dân vùng ven đô thị. Những cơ hội phát triển, những khoản tiền
lớn từ đền bù giải phóng mặt bằng, từ “bán đất” đã cải thiện đáng kể đời sống
vật chất cũng như tinh thần cho những con người vốn chỉ quen với nguồn thu
nhập hạn hẹp từ nghề nông nặng nhọc. Nhưng kéo theo nó, lối sống hưởng
thụ, sống tranh thủ cũng đã và đang len lỏi vào nhiều gia đình vốn ấm êm làm
hư hỏng, làm héo mòn tương lai một bộ phận không nhỏ cư dân các vùng ven
đô này, đặc biệt là lớp thanh, thiếu niên vừa bước vào tuổi trưởng thành.
Nông thôn Việt Nam hiện nay vẫn tồn tại những vấn đề xã hội bức xúc,
nan giải sau 20 năm qua. Đó là vấn đề khoảng cách giàu - nghèo và bất bình
đẳng xã hội, tình trạng thiếu việc làm, giá cả, di dân tự phát, xung đột xã hội
gia tăng, trí và quan trí thấp, dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe yếu kém, đời
sống văn hóa có nhiều biểu hiện tiêu cực, xuống cấp, năng lực quản lý xã hội,
kết cấu hạ tầng thấp kém, môi trường bị ô nhiễm và suy thoái ở mức báo động.
Xu hướng phân hóa giàu nghèo gia tăng trong nội bộ khu vực nông thôn, đặc
biệt là giữa nông thôn với đô thị. Con số về chênh lệch giàu nghèo giữa nông
thôn - thành thị lên tới trên 6,9 lần chứ không phải con số 3,5 lần như vẫn
nhắc đến.
Thiếu hụt nhất ở khu vực này là tri thức và thông tin khoa học hiện đại
không được chuyển giao một cách có hệ thống. Người nông dân thiếu kiến
18
thức, nên khó chuyển giao được khoa học, công nghệ để họ thực sự làm chủ
đời sống. Điều này tiếp tục đặt họ vào thế bất lợi hơn nữa. Bên cạnh đó, sức
ép trong chi tiêu cho giáo dục, đời sống, áp lực của tình trạng gia tăng ô nhiễm
và suy thoái môi trường đã đến mức báo động. Làng nghề và các khu công
nghiệp nông thôn gây ô nhiễm đất, nước và không khí rất nặng, làm suy thoái
tài nguyên môi trường do khai thác tự phát, không theo quan điểm phát triển
kinh tế, xã hội bền vững. Khu vực đô thị, công nghiệp là nguồn gây ô nhiễm
và suy thoái môi trường nặng nề hơn và cư dân ven đô lại là những người trực
tiếp chịu hậu quả.
1.2. Tâm lý nông dân vùng ven đô thị trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước
1.2.1. Lo lắng về đất đai bị thu hồi trong quá trình đô thị hóa
Ảnh hưởng ngày càng nhiều của quá trình đô thị hóa, ruộng đất của người
dân ngày càng hạn hẹp trong khi lao động nông thôn ngày càng nhiều. Đất
ruộng được chuyển thành các khu quy hoạch kinh tế, là nơi để phát triển thành
lập các khu đô thị, trung tâm mua bán… tạo nên sự lo lắng đối với giải quyết
việc làm cho nông dân. Thiếu đất, mất ruộng đời sống nông dân rơi vào cảnh
khó khăn, tiền đền bù tuy có nhưng trình độ khả năng chuyển dịch cơ cấu việc
làm của người nông dân là rất khó. Một phần do trình độ nhận thức của nông
dân về công nghiệp hoá, đô thị hoá chưa đầy đủ, chuẩn bị chưa hoàn thiện cho
quá trình này, một mặt thông tin chính sách chưa đến với nông dân một cách
đầy đủ, chưa đem lại hiệu quả rộng và sâu sắc. Nông dân ngày càng lo ngại
khi bước vào thời kỳ hiện đại hoá đất nước.
Một bộ phận nông dân do không đủ đất sản xuất, thất nghiệp, khiến đời
sống ngày càng khó khăn... Bên cạnh một số hộ gia đình giàu lên nhờ đền bù
đất thì cũng không ít gia đình lâm vào cảnh "trắng tay". Hầu hết các gia đình
sử dụng tiền đền bù vào việc mua sắm các phương tiện cho sinh hoạt như mua
ti vi, xe máy và xây nhà... thậm chí có gia đình còn cho con cái ăn chơi tiêu
xài dẫn đến tệ nạn xã hội trong khu vực nông thôn ngày càng gia tăng. Nông
dân rơi vào tình trạng loay hoay tìm kiếm công việc mới, kiếm tiền nuôi sống
bản thân và gia đình. Họ nảy sinh tâm lý làm thuê chán chường, bất mãn…
điều này đang có xu hướng xảy ra ở nhiều địa phương vùng ven đô. Ra thành
19
phố là một vấn đề nhưng nếu không có việc làm thi sẽ ra sao. Tất nhiên là phải
đi làm thuê bằng đủ các nghề, thậm chí có số trở thành tội phạm và sa vào tệ
nạn xã hội.
Mỗi ngày trải qua cuộc sống người nông dân lại càng khó khăn, mà theo sự
phát triển của đất nước thì đã cải thiện không ngừng. Một mặt, các chính sách
của nhà nước đã tạo công ăn việc làm cho nhiều nông dân vùng ven đô, tuy
nhiên thực tế hiện nay là tình trạng thất nghiệp ngày càng tăng lên. Quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đem lại cho người dân cuộc sống mới, có nhiều
thay đổi thuận lợi đáng kể nhưng nhiều nông dân lại rơi vào tình trạng mất
việc làm sau khi thu hồi đất. Tuy nhận được tiền đền bù để chuyển đổi kinh tế
nhưng thực tế hiện nay tình trạng thất nghiệp ngày càng nhiều đặc biệt là đối
với thanh niên ở các vùng ven đô. Người nông dân chỉ quen với cấy cày, trồng
trọt, không có trình độ tay nghề gì, sau khi được bồi thường một số tiền từ
ruộng đất, họ trở thành những kẻ thất nghiệp. Ai cũng biết, thanh niên nông
thôn ngoại thành khi đô thị hoá đã bị những dòng chảy xã hội không lành
mạnh tha hoá, trở thành những kẻ nghiện ngập, chơi bời, cờ bạc, lô đề... mà
nguyên nhân chủ yếu là do nhàn cư vi bất thiện. Ai cũng biết, một số doanh
nghiệp "nhảy" vào xây dựng khu công nghiệp với hàng ngàn lời hứa sẽ tạo
công ăn, việc làm cho thanh niên bản địa. Thế nhưng, sau vài năm khi khu
công nghiệp, nhà máy hoàn thành đi vào hoạt động thì người nông dân vẫn
chưa được bố trí việc làm với đủ các lý do khác nhau.
Nhiều chính sách hổ trợ nông dân, chính sách về thuế, khuyến nông, đào
tạo tay nghề cho nông dân, xuất khẩu lao động… đã đem lại nghề nghiệp đáng
kể cho người nông dân. Tuy nhiên, hiệu quả thực tế của những biện pháp nêu
trên vẫn còn cách xa nhu cầu. Những năm qua, Chính phủ đã dành nhiều ưu
tiên giải quyết việc làm cho người dân có đất bị thu hồi, giải quyết việc làm
cho gần 10 nghìn lao động bị thu hồi đất, nhưng chưa đáp ứng nhu cầu ngày
càng tăng cao của nông dân. Khoa học kỹ thuật phát triển vượt bậc, các công
trình khoa học cũng như công nghệ đã không ngừng cải thiện hoạt động sản
xuất của người dân, đặc biệt là nông dân vùng ven đô. Các máy móc, thiết bị
ngày càng được sử dụng nhiều trong hoạt động sản xuất của nông dân. Nhưng
một bộ phận không nhỏ nông dân vùng ven đô không thể thực hiện được quá
trình chuyển đổi lao động chân tay sang máy móc. Năng suất các loại nông
20
sản đều tăng không ngừng, tuy nhiên chỉ tập trung vào một số vùng, chưa thực
sự phổ biến, nông dân vẫn đang thực sự gặp khó khăn trong việc ứng dụng
khoa học công nghệ vào sản xuất.
Hiện nay, một số nông dân có vốn do tiền đền bù từ việc thu hồi đất nhưng
đa số đều rơi vào cảnh mất vốn sản xuất vì không biết cách sử dụng. Một số
khác lại không có vốn sản xuất vì kinh tế khó khăn, điều kiện vật chất không
có nên rơi vào cảnh khốn cùng vì không kiếm ra nguồn vốn để chuyển đổi sản
xuất. Họ cần nhiều hơn nữa những chính sách đem lại hiệu quả thực tế, người
nông dân luôn ở trong tình trạng lo lắng vì không có khả năng trong việc
chuyển đổi ngành nghề, thật sự bế tắc khi không còn đất sản xuất. Nếu không
có sự hổ trợ thì nhất định nông dân sẽ rơi vào cảnh khốn cùng, mất lòng tin
vào chính phủ khi đó sẽ gây nhiều hậu quả quan trọng. Người nông dân khi đó
sẽ rất dễ nảy sinh tâm lý chán chán chường, mệt mỏi… rất khó để cải thiện,
điều này sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
1.2.2. Lo lắng về việc làm sau khi bị thu hồi đất
Biểu hiện rõ nhất của quá trình đô thị hóa vùng ven đô đó là sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu nghề nghiệp. Nhưng quá trình đô thị hóa nhanh, đã
làm cho người nông dân vùng ven đô không có đủ thời gian chuẩn bị để thích
ứng với những biến đổi mạnh mẽ về kinh tế - xã hội. Đô thị hóa tạo ra sự đa
dạng hóa về nghề nghiệp, giúp cho người nông dân có nhiều cơ hội lựa chọn.
Tuy nhiên, đây cũng chính là những khó khăn mà người dân ven đô đang gặp
phải. Điều này dường như là một nghịch lý, nhưng lại là một thực tế mà người
dân sống trong quá trình đô thị hóa ở Việt Nam đang phải đối mặt. Những
thay đổi về nghề nghiệp của người nông dân không diễn ra không dễ dàng.
Việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất đã làm thay đổi chức năng truyền thống
của các xã ven đô là cung cấp thực phẩm chủ yếu cho các thành phố lân cận.
Thay vào đó là các hoạt động sản xuất công nghiệp với công nghệ cao và dịch
vụ đô thị. Các hoạt động này đòi hỏi người nông dân phải có một trình độ nhất
định và phỉ được đào tạo nghề mới có thể đáp ứng được yêu cầu về tuyển
dụng lao động. Vì vậy, họ không đáp ứng được những yêu cầu tuyển dụng lao
động của các nhà máy, xí nghiệp, cơ quan trên địa bàn của họ, dẫn đến tình
trạng thừa lao động, đặc biệt là số lao động ở tuổi ngoài 40. Những khó khăn
chủ yếu trong quá trình chuyển đổi việc làm đối với người dân ở các vùng đô
thị hóa là trình độ học vấn và tay nghề thấp, thiếu vốn. Bên cạnh đó, dân cư
ven đô hàng ngày phải đối mặt với sự lao thang của giá cả, chi phí cho cuộc
21
sống ngày càng tăng mạnh. Đây cũng là một trong những mặt tiêu cực do quá
trình đô thị hóa mang lại. Sự thay đổi quyền sử dụng đất tại các xã là một
trong những yếu tố quan trọng tác động đến cơ cấu nghề nghiệp của dân cư đô
thị. Trong suốt quá thình đô thị hóa do nhu cầu sử dụng đất của thành phố để
xây dựng khu công nghiệp, khu dân cư và các mục đích phát triển đô thị khác,
nên diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp. Đây là một trong những
khó khăn của nông dân khi đất nông nghiệp bị thu hẹp nhưng họ lại chưa được
chuẩn bị tâm thế cho quá trình đô thị hóa tại địa phương. Vì vậy, giải quyết
việc làm sẽ là vấn đề khó khăn đối với người nông dân vùng ven. Số người lao
động quá tuổi tuyển dụng, trên 35 tuổi - độ tuổi khó thích nghi với môi trường
lao động mới lại chiếm tỷ lệ cao. Một mặt, nhận thức của người lao động còn
ỷ lại vào chính sách hổ trợ Nhà nước, vào tiền đền bù mà chưa tự mình tìm
kiếm việc làm. Theo số liệu tại một vài địa phương, có tỉnh có 25 - 30% số lao
động sau thu hồi đất không có việc làm hoặc việc làm không ổn định. Có tỉnh
hàng chục nghìn lao động mất việc làm.Tại một số vùng ven đô đồng bằng
sông Hồng, trước khi thu hồi đất chỉ có 10% lao động đi làm thuê, sau khi thu
hồi đất tỷ lệ này là 17%. Tình trạng này cũng đang có xu hướng tăng lên ở
miền Đông Nam Bộ và vùng đồng bằng sông cửu long. Trước đây, khu công
nghiệp hứa sẽ tuyển dụng lao động địa phương, trên thực tế, số người được
vào làm đếm trên đầu ngón tay mà thôi vì thực sự trình độ của người nông dân
không thể đáo ứng được yêu cầu.
1.2.3. Lo ngại trước những yêu cầu của quá trình hội nhập
Qua hơn một năm kể từ khi gia nhập WTO nền kinh tế nước ta tiếp tục
tăng trưởng, đời sống nhân dân nói chung, nông dân nói riêng không ngừng
được cải thiện. Tuy nhiên, những khó khăn và thách thức mà người nông dân
đang phải đối mặt cũng không phải là ít. Với những tác động của nền kinh tế
thị trường, nông dân bị đặt trước một lựa chọn bắt buộc: phải làm quen với
nền sản xuất công nghiệp cơ giới hóa và sản xuất theo định hướng cung cầu
của thị trường. Nhà nông hàng ngàn năm với lối tư duy cung cầu khép kín thật
khó một sớm một chiều để thích nghi với một lối nghĩ trước những thay đổi
cũng như đòi hỏi chóng mặt xuất phát từ thị trường. Sự hạn chế thông tin, do
các lý do về trình độ phát triển, học thức… dường như càng nâng khó khăn
của người suốt đời “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” này lên gấp bội.
Người nông dân thường thiếu khả năng ứng phó trước ảnh hưởng của giá cả
thị trường thế giới, vốn nắm bắt và giao động thường xuyên. Ngoài ra, những
22
luật lệ về chất lượng, giá cả khi muốn xuất hàng ra nước ngoài cũng tạo nên
một rào cản không nhỏ đối với người nông dân nói chung. Nông dân sẽ dễ bị
tổn thương khi đất nước hội nhập sâu và rộng vì chưa chuẩn bị gì cho cuộc
chơi. Bên cạnh đó, quá trình chuyển đổi kinh tế đòi hỏi người nông dân phải
nắm bắt được những thông tin mới phục vụ tốt cho quá trình sản xuất được.
Bởi thế mà trong nhu cầu của nông dân không thể thiếu lĩnh vực thông tin,
phương tiên truyền thanh… điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình
sản xuất, cũng như trong quá trình chuyển đổi ngành nghề của người nông dân
vùng ven đô. Đối với người nông dân vùng này, mặc dù chỉ cách xa thành thị
khoảng vài mươi km, nhưng những khái niệm về “Internet”, “tin học”, “kỹ
thuật số”… đối với họ thật sự còn quá mơ hồ.
Mặt khác, quá trình hội nhập kinh tế đặt ra nhiều yêu cầu đối với nông dân
vùng ven. Khi đô thị hóa nhanh, quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ngày
càng cao, đất nước hội nhập ngày càng sâu và rộng, không có đất sản xuất thì
chuyển đổi nghề nghiệp là điều tất yếu của nông dân. Nhưng với trình độ của
họ, khả năng của họ, những người chỉ quen với chân lấm tay bùn thì đây quả
là điều khó khăn. Vì hội nhập kinh tế đặt ra nhiều yêu cầu đối với người nông
dân ven đô, trong đó trình độ là một trong những yêu cầu quan trọng nhất. Tuy
nhiên, cần phải nói rằng giáo dục lại đang là vấn đề nan giải. Xã hội hóa giáo
dục được thực hiện nhưng lại tạo ra một mặt trái là lợi dụng đó để trục lợi, nó
không chỉ ảnh hưởng đến nền giáo dục nước nhà mà còn gây dư luận trong xã
hội, điều này cần phải ngăn cấm. Thời gian gần đây, bất chấp sự lên tiếng của
dư luận, một số trường vẫn ồ ạt mở ra các cơ sở tại chức kém chất lượng, các
trường đại học mới được tạo điều kiện được “nở bung” khi chưa có một sự
kiểm nghiệm công khai, trung thực về số lượng, chất lượng giảng viên, cơ sở
vật chất… Nếu coi giáo dục là một hàng hóa như vậy thì thật sự không thể nào
có thể phát triển được chính nó. Điều này gây ảnh hưởng không nhỏ đến tâm
lý của nông dân cũng như con em họ trong việc chọn trường để học tập,
chuyển đổi ngành nghề. Người nông dân sẽ mất lòng tin, tâm lý chán chường
hình thành, điều này ảnh hưởng rất lớn đến quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
Bên cạnh đó, trong giai đoạn hiện nay vấn đề giá cả đang là một trong
23
những yếu tố gây cho người dân vùng ven đô sự lo ngại. Chuyển đổi sản xuất
là một điều tất yếu, nhưng thật sự không phải dễ, không phải một sớm một
chiều là có thể làm ngay được. Nông dân vùng ven sau khi được nhận tiền đền
bù để chuyển đổi sản xuất thì phải bỏ một chi phí lớn cho việc trang trải cuộc
sống. Với sự tăng giá như hiện nay, tăng lên gấp hai ba lần như vậy thật sự
người nông dân vùng ven phải “đổ nước mắt”. Không những thế, trong thời
gian gần đây vấn đề này càng nghiêm trọng hơn, tất cả các mặt hàng đều tăng
chóng mặt, chi phí cho sản xuất lẫn tiêu dùng đều tăng cao gây khó khăn
không nhỏ cho quá trình chuyển đổi kinh tế của nông dân vùng ven. Họ thật
sự gặp khó khăn trước những thay đổi của thị trường, nhiều người rơi vào tình
trạng trắng tay vì loay hoay trong chuyển đổi kinh tế.
1.2.4. Tư duy manh mún, tản mạn, lười biếng trong suy nghĩ, thiếu ý
thức kỷ luật và khả năng khái quát
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn như đã
nêu là cuộc cải biến cách mạng sâu sắc triệt để về mọi mặt, nhất là trong đời
sống tâm lý của người nông dân. Tuy nhiên, nền kinh tế tiểu nông đã tồn tại
hàng ngàn năm ở Việt Nam cùng với chế độ phong kiến, thuộc địa nửa phong
kiến và văn hóa làng xã đã góp phần tạo nên những đặc điểm tâm lý đa dạng,
phong phú và phức tạp của người nông dân. Từ xưa đến nay, người nông dân
đã quen với lối sống khép kín sau lũy tre làng, canh tác trên mảnh đất bạc
màu, một thửa ruộng nhỏ lẽ với công cụ thô sơ, dựa trên những thói quen tập
quán nhiều đời… Chính hoàn cảnh đó đã làm nảy sinh và nuôi dưỡng tư duy
manh mún, tản mạn, thiếu khả năng tổng quát của người nông dân. Chính vì
thế mà họ chỉ thấy cái lợi trước mắt, không thấy cái lợi lâu dài, chỉ thấy lợi ích
cá nhân, không thấy lợi ích tập thể… Tuy sự phát triển của khoa học, kỹ thuật
là vô cùng lớn nhưng tâm lý của nông dân vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề của
chế độ cũ. Họ vẫn quen với lối sống ấy, ít giao lưu học hỏi lẫn nhau, tự cho
mình là giỏi là hay, thường tìm cách hạ bệ những những người có thành tích
bằng nhiều thủ đoạn, đặc điểm này đã tồn tại từ lâu đời khó mà khắc phục
ngay được. Cái nào có lợi cho bản thân, gia đình thì lao vào, không nghĩ đến
hậu quả hay lợi ích trong tương lai hay làm cái đó có lâu dài hay không thì
thường ít suy nghĩ. Chạy theo phong trào của những người trong làng xã,
24
không có tính tự động cao, chưa có đầu tư vào công việc. Bởi vậy mà khi đất
nông nghiệp bị thu hồi để phát triển sản xuất công nghiệp dịch vụ, phát triển
các khu đô thị… đời sống vẫn không mấy thay đổi mà còn tệ hơn trước. Tuy
nhận được số vốn không nhỏ từ tiền đền bù nhưng họ chỉ biết mua sắm phục
vụ cuộc sống trước mắt, tiêu xài, ăn chơi, cờ bạc, rượu chè… không nghĩ đến
sẽ chuyển ngành nghề cải thiện cuộc sống trong tương lai. Đây cũng là một
trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng thất nghiệp, các tệ nạn xã hội
ngày càng nhiều, một số còn lâm vào con đường tội phạm như hiện nay.
Không nhìn nhận về hoạt động phức tạp của thị trường, chưa hiểu về xu thế,
định hướng phát triển của đất nước, nhận thức nói chung và tư duy nói riêng
của người nông dân chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, rất đậm nét tình cảm, chủ
quan. Đó là cách nhận thức và lối suy nghĩ giản đơn, đại khái, phiến diện,
thiếu hệ thống, thiếu logic. Quá trình nhận thức hướng vào quá khứ là chính,
do sự trải nghiệm trực tiếp, chủ quan thường lấy cái cổ xưa làm chỗ dựa, lấy ý
thức của cha ông làm chân lý… tư duy họ thường dựa vài cái trực quan cái
trực tiếp là chủ yếu nên nhận thức họ kém khái quát, không nhìn ra bản chất,
quy luật, nguyên nhân, nguồn gốc bên trong của sự vật, hiện tượng. Đó là lối
tư duy kinh nghiệm, chỉ thấy cái ngắn hạn trước mắt, không nhìn xa trông
rộng, dễ bảo thủ, trì truệ, ngại đổi mới, ít sáng tạo mà nặng nề về bắt chước
làm theo. Họ xem nhẹ việc học căn bản, coi “trăm hay không bằng tay quen”
điều này cần tránh trong thời đại kinh tế tri thức hiện nay.
Đi liền với tư duy manh mún, tản mạn mang nặng cảm tính của nông dân là
thói lười biếng trong suy nghĩ và tính toán, tính ỷ lại và bảo thủ sự sùng bái
kinh nghiệm và coi thường lớp trẻ là sản phẩm lâu dài của nền kinh tế tiểu
nông mà dù muốn hay không người nông dân vẫn tiêm nhiễm. Trong nền kinh
tế tiểu nông “Lão nông tri điền” sống lâu lên lão làng, đất quê lề thói, phép
vua thua lệ làng đã trở thành thói quen ứng xử phổ biến. Hơn nữa cuộc sống
trong chế độ phong kiến, dưới sự thống trị của của chế độ đẳng cấp, tôn ti, trật
tự Nho giáo, người nông dân coi lớp trẻ như là loại “trứng khôn hơn vịt”,
“khôn ba năm, dại một giờ”… Trong khi nói về những điều cần khắc phục
trong tâm lý nông dân, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “… nông dân thường có tính
thủ cựu, rời rạc, tư hữu…”. Đi liền với biểu hiện của lối sống tiểu nông là
25
sống nặng về tình mà nhẹ về lý, vì tình họ có thể “chín bỏ làm mười” “dĩ hòa
vi quý”, “trăm cái lý không bằng một cái tình”. Cũng do nặng về tình mà trong
quan hệ thái độ ứng xử, họ có xu hướng muốn an toàn, trung dung, bình quân
chủ nghĩa. Họ thích sự yên ổn, bình yên, ngại va chạm, không muốn đổ vỡ ,
ngại thay đổi, thường nhường nhịn nhau. Họ thường không giám mạo hiểm
nhưng do thiếu cơ sở khoa học, thiếu bản lĩnh, mù quáng mà đôi khi có hành
vi ứng xử thái quá, cực đoan, độc đoán, gia trưởng. Nếu gia nhập WTO trong
bối cảnh chuyển dịch lao động, chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra với trình độ
cao thì đây quả là một điểm yếu cốt tử. Bên cạnh đó là sự an phận thủ thường,
sống theo kiểu thiết chế nhu cầu, thường bằng lòng với mình ít có nhu cầu
khám phá, sáng tạo cái mới. Họ thường có tâm lý tự ti, mặc cảm là mình “thấp
cổ bé họng” không thể làm được việc lớn, trong làm ăn thường tính toán theo
tâm lý cỏn con, tư lợi, vun vén cá nhân. Ngoài ra phải kể đến thói quen, tâm lý
bản vị cục bộ, địa phương, kéo bè kéo cánh, ít giao lưu mở rộng quan hệ nên
đã hạn chế rấy nhiều đến tầm nhìn cũng như sự phong phú về nhân cách. Ỷ lại
từ những người trực tiếp tham gia công cuộc xóa đói giảm nghèo. Vì bản thân
những người nghèo, nói họ ỷ lại và trông chờ vào Chính phủ thì không đúng
lắm, nhưng họ chưa đủ sức vượt qua những giới hạn của họ. Cho nên sự ỷ lại
này, có thể nói tự họ không “cởi” được. Mà các tổ chức xã hội của họ, các cơ
quan nhà nước, các đoàn thể quần chúng phải giúp họ tháo “ách ỷ lại”. Đây là
nguyên nhân rất lớn nếu không tập trung giải quyết thì khó mà giảm nghèo
được.
Lối sống tỉểu nông trong tính cách người nông dân Việt là hiện tượng mang
tính xã hội lịch sử, nó phản ánh điều kiện sản xuất nhỏ trong quá thình lao
động, sản xuất, đấu tranh với tự nhiên và xã hội để tồn tại. Do đó, khắc phục,
xóa bỏ nó có ý nghĩa to lớn trong phát huy nhân tố con người, tạo ra sức mạnh
nội sinh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Việc khắc phục, giúp xóa bỏ
những “Rào chắn tâm lý” làm con người dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới,
quyết tâm mạo hiểm và thành công trong sản xuất kinh doanh. Ở góc độ quản
lý xã hội, quản lý kinh tế, khắc phục lối sống tiểu nông giúp loại bỏ kiểu quản
lý “gia đình chủ nghĩa”, “đại phương chủ nghĩa” mà ở đó, quan hệ và công tác
chỉ nặng về tình cảm, kinh nghiệm chủ quan coi nhẹ đạo lý, pháp luật. Tình