MỤC LỤC
Trang
1
MỞ ĐẦU
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ XÂY DỰNG ĐỘI
NGŨ CÁN BỘ TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP
CƠ SỞ
1.1. Đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị cấp cơ sở
1.2. Xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở
1.3. Kinh nghiệm các địa phương trong nước về xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức cấp cơ sở
7
7
20
31
Chương 2: THỰC TRẠNG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CẤP CƠ
SỞ Ở TỈNH HÀ GIANG
2.1. Thực trạng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở của tỉnh Hà Giang hiện nay
2.2. Thực trạng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở tỉnh
Hà Giang hiện nay
2.3. Đánh giá chung
36
36
47
58
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU XÂY DỰNG
VÀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ Ở TỈNH
HÀ GIANG
61
3.1. Mục tiêu và phương hướng xây dựng đội ngũ cán bộ cấp
cơ sở ở tỉnh Hà Giang
3.2. Những giải pháp chủ yếu xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ
61
sở ở Hà Giang hiện nay
64
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
87
90
CÁC CHỮ VIẾT TẮT ĐƯỢC DÙNG TRONG LUẬN VĂN
Bảo hiểm xã hội
:
BHXH
Bảo hiểm y tế
:
BHYT
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
:
CNH, HĐH
Hệ thống chính trị
:
HTCT
Kinh tế thị trường
:
KTTT
Quản lý kinh tế
:
QLKT
Quản lý hành chính nhà nước
:
QLHCNN
Uỷ ban nhân dân
:
UBND
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Cơ cấu các chức danh cán bộ cấp xã
Bảng 2.2: Cơ cấu độ tuổi cán bộ cấp cơ sở
Bảng 2.3: Trình độ học vấn phổ thông của cán bộ cấp cơ sở
Bảng 2.4: Trình độ chuyên môn của cán bộ cấp cơ sở
Bảng 2.5: Nội dung đào tạo chuyên môn của cán bộ cấp cơ sở
Bảng 2.6: Trình độ lý luận chính trị của cán bộ cấp xã
Bảng 2.7: Công tác quy hoạch cán bộ cấp cơ sở
Bảng 2.8: Tình hình tuyển chọn các chức danh cán bộ cấp cơ sở
Bảng 2.9: Thực trạng cán bộ, công chức cấp xã trong độ tuổi được
đào tạo
Bảng 2.10: Công tác đào tạo cán bộ cấp cơ sở
Trang
43
44
44
45
45
46
49
50
52
53
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cán bộ là khâu then chốt, trọng yếu của công tác xây dựng hệ thống
chính trị từ Trung ương đến cơ sở. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Cán bộ là
cái gốc của mọi công việc", "công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ
tốt hay kém". Vì thế, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng tới yêu cầu xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức đồng bộ, toàn diện. Trong đó, xây dựng đội
ngũ cán bộ cấp cơ sở được coi là vấn đề mấu chốt, có vai trò rất quan trọng
trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã
hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư.
Chính vì vậy, Nghị quyết Hội nghị lần thứ V Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa IX về đổi mới và nâng cao chất lượng của hệ thống chính
trị, phường, thị trấn là một trong ba vấn đề cơ bản và bức xúc cần tập trung
giải quyết ở cơ sở xã, phường, thị trấn đã xác định: xây dựng đội ngũ cán
bộ cơ sở có năng lực tổ chức vận động nhân dân thực hiện đường lối của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm, thạo việc, tận tụy với dân, biết
phát huy sức dân, không tham nhũng, không ức hiếp dân, trẻ hóa đội ngũ,
chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính
sách đối với cán bộ cơ sở.
Trong những năm gần đây, đội ngũ cán bộ cấp cơ sở đã có bước phát
triển về chất lượng. Tuy nhiên, đội ngũ này vẫn bộc lộ những yếu kém, bất
cập về kiến thức, năng lực, trình độ trước những yêu cầu của tình hình, nhiệm
vụ mới. Bên cạnh đó, trước tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, một bộ
phận cán bộ cấp cơ sở suy thoái về phẩm chất đạo đức, quan liêu, hách dịch,
cửa quyền, vi phạm dân chủ, tham nhũng, lãng phí, ... bị kỷ luật, thậm chí bị
truy tố, xét xử theo pháp luật. Những điều đó đã làm ảnh hưởng không nhỏ
2
đến uy tín, hiệu quả lãnh đạo, quản lý cũng như làm giảm sút lòng tin của
nhân dân đối với Đảng và Nhà nước; đồng thời đặt ra đòi hỏi bức thiết phải
đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ cấp
cơ sở.
Đối với Hà Giang là một tỉnh miền núi biên giới cực Bắc của Tổ quốc,
có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, an ninh - quốc phòng của
đất nước. Qua nhiều năm xây dựng Hà Giang đã có một đội ngũ cán bộ cấp
cơ sở vững mạnh, có phẩm chất, năng lực, phương pháp, phong cách công tác
tốt, nhạy bén, năng động, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của tình hình
mới. Tuy nhiên, với đặc điểm của một tỉnh miền núi, ngoài những bất cập của
đội ngũ cán bộ cấp cơ sở nói chung thì Hà Giang cũng còn có những hạn chế,
yếu kém riêng. Do đó, quán triệt quan điểm "hướng về cơ sở" của Nghị quyết
Hội nghị Trung ương V khóa IX "Về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống
chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn", đồng thời xuất phát từ đòi hỏi thực tiễn
của quá trình xây dựng và phát triển tỉnh Hà Giang hiện nay, tác giả chọn đề
tài: "Xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở tỉnh Hà Giang trong giai đoạn
hiện nay" làm luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề cán bộ nói chung, cán bộ cấp cơ sở nói riêng là nội dung được
nhiều nhà lãnh đạo, các cấp ủy đảng và các nhà khoa học quan tâm nghiên
cứu. Trong số các bài viết đã đăng trên các tạp chí, các đề tài, công trình
nghiên cứu, các luận văn, luận án đã công bố, liên quan đến các vấn đề cán
bộ; nhiều công trình, bài viết đã có những đóng góp, những lý giải, những
kiến nghị hết sức sâu sắc, có giá trị thực tiễn cao như:
- Nhóm đề tài về những yêu cầu đối với cán bộ cơ sở: Học viện
Nguyễn Ái Quốc: "Mẫu hình và con đường hình thành người cán bộ lãnh đạo
chính trị chủ chốt cấp cơ sở", 1992; Tiến sĩ Phan Văn Tích (chủ biên): "Xác
định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở (xã, phường,
3
thị trấn)", Nhánh đề tài KT-XH.05-11-06, 1993; Bùi Đình Phong: "Tư tưởng
Hồ Chí Minh về vai trò của đạo đức cách mạng và sự thống nhất giữa đức và
tài", Tạp chí Lý luận chính trị, số 1/2003; Trần Văn Phòng: "Tiêu chuẩn đạo
đức của người cán bộ lãnh đạo chính trị hiện nay", Tạp chí Lý luận chính trị,
số 5/2003...
- Nhóm đề tài về nội dung, phương pháp, cách thức xây dựng đội
ngũ CB cấp cơ sở: Hồ Bá Thâm: "Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán
bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã hiện nay", Luận án Tiến sĩ Triết học, 1994; Phó
Giáo sư, Tiến sĩ Trần Xuân Sầm chủ biên: "Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán
bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị thời kỳ đổi mới", Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998; Phạm Công Khâm: "Xây dựng đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp xã vùng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long hiện nay",
Luận án tiến sĩ Triết học, 2000; Trần Duy Hưng: "Xây dựng đội ngũ cán bộ
chủ chốt của hệ thống chính trị cấp huyện ở thành phố Hà Nội trong giai
đoạn hiện nay", Luận văn thạc sĩ Lịch sử, 2002; Nguyễn Mậu Dựng: "Xây
dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng bộ các cấp ở Tây Nguyên
hiện nay", Luận án tiến sĩ Lịch sử, 2000; Nguyễn Căn Côi: "Xây dựng đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên trong giai
đoạn hiện nay", Luận văn thạc sĩ lịch sử, 2002; Phan Thị Thúy Vân: "Xây
dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp phường ở thành phố Cần Thơ hiện nay Thực trạng và giải pháp", Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, 2005; Vĩnh
Trọng: "Qui hoạch cán bộ lãnh đạo quản lý cơ sở", Tạp chí Xây dựng Đảng,
số 1 và 2/2004; Trần Trung Trực: "Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt hệ
thống chính trị cấp xã ở huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh giai
đoạn hiện nay", Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, 2005...
Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có luận văn, luận án nào nghiên cứu về
đội ngũ cán bộ cấp cơ sở của tỉnh Hà Giang trong giai đoạn hiện nay, từ đó,
đưa ra những giải pháp thiết thực, khả thi nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ
4
này, đáp ứng với yêu cầu ngày càng cao của tình hình mới. Vì vậy, tác giả
chọn nghiên cứu đề tài này trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các công trình trên
nhằm hệ thống lại những kiến thức đã học và góp phần nhỏ bé, đáp ứng đòi
hỏi thực tiễn của sự nghiệp xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ cấp cơ sở
của tỉnh Hà Giang.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích:
Làm rõ cơ sở, lý luận, phân tích đánh giá thực trạng, đề xuất giải pháp
xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị cấp cơ sở của
tỉnh Hà Giang đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.
- Nhiệm vụ:
+ Nghiên cứu và luận chứng nhằm làm rõ hơn những căn cứ lý luận về
xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở trong giai đoạn hiện nay.
+ Nghiên cứu thực trạng đánh giá kết quả, hạn chế và nguyên nhân của
quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở của tỉnh Hà Giang giai đoạn
2000 - 2009.
+ Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở của tỉnh Hà Giang trong giai đoạn tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng: nghiên cứu xây dựng và phát triển là đội ngũ cán bộ của hệ
thống chính trị cấp cơ sở đối với các chức danh được quy định tại khoản 3
điều 4 - Luật cán bộ, công chức.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về lý luận: Luận văn tập trung phân tích những vấn đề liên quan đến
đội ngũ cán bộ của hệ thống trị cấp cơ sở và những quan điểm, nội dung xây
dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở hiện nay, đặc biệt đối với tỉnh Hà Giang có
nhiều nét đặc thù riêng so với nhiều địa phương trong cả nước.
5
+ Về thực tiễn: Luận văn tập trung phân tích thực trạng đội ngũ cán bộ
cấp cơ sở và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở của tỉnh Hà Giang
(bao gồm các chức danh theo quan điểm của Nghị quyết Hội nghị Trung ương
5 khóa IX, Nghị định 114/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ và Quyết
định 04/2004/QĐ-BNV ngày 16/01/2004 của Bộ Nội vụ về tiêu chuẩn đối với
cán bộ công chức xã, phường, thị trấn) - Gồm: đội ngũ cán bộ chuyên trách và
công chức ở cấp cơ sở.
+ Về thời gian: Khảo sát thực trạng từ năm 2000 - 2009; đề xuất giải
pháp đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; sử dụng các phương pháp phân tích,
tổng hợp; phương pháp lôgíc và lịch sử kết hợp với phương pháp điều tra xã
hội học, đặc biệt coi trọng phương pháp tổng kết thực tiễn.
6. Đóng góp của luận văn
- Góp phần làm rõ thêm cơ sở khoa học, quan điểm và quan niệm về
xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở hiện nay.
- Khảo sát đánh giá đúng thực trạng cả về số lượng và chất lượng đội
ngũ cán bộ cấp cơ sở của tỉnh Hà Giang hiện nay.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu, thiết thực, khả thi
góp phần nâng cao chất lượng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở
của tỉnh Hà Giang trong giai đoạn tới.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
cho các Huyện, Thành uỷ, ủy ban nhân dân huyện, thành phố, các đoàn thể
chính trị của các huyện, thành phố; cho đảng ủy, UBND, các đoàn thể chính
trị cấp xã, phường, thị trấn ở tỉnh Hà Giang trong công tác cán bộ, công tác
xây dựng Đảng và xây dựng HTCT; Luận văn còn có thể sử dụng làm tài liệu
6
tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập về công tác cán bộ,
công tác xây dựng Đảng và xây dựng HTCT cấp xã, phường, thị trấn ở các
Trung tâm bồi dưỡng Chính trị và Trường Chính trị tỉnh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về xây dựng đội ngũ cán bộ trong
hệ thống chính trị cấp cơ sở.
Chương 2: Thực trạng xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở tỉnh Hà Giang.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp chủ yếu xây dựng và phát triển
đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở tỉnh Hà Giang.
7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ
1.1. ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ
1.1.1. Hệ thống chính trị cấp cơ sở
* Quan niệm về hệ thống chính trị cấp cơ sở
Phạm trù hệ thống chính trị (HTCT) ra đời trong thời kỳ hiện đại. Ở Việt
Nam từ Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (1989) Đảng ta mới dùng khái niệm
HTCT với nội hàm là một chỉnh thể về cấu trúc theo chiều ngang bao gồm:
Đảng Cộng sản Việt Nam; Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội. Về cấu trúc theo quan hệ
dọc bao gồm các mối quan hệ trong hệ thống được thành lập giống nhau ở cả
4 cấp hành chính: Trung ương, tỉnh (thành phố trực thuộc Trung ương), huyện
(quận, thị, thành phố thuộc tỉnh) và xã (phường, thị trấn) [24].
Theo quan niệm này, HTCT Việt Nam gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam
(đóng vai trò cầm quyền) Nhà nước; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
chính trị - xã hội cùng các mối quan hệ giữa chúng trong việc phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong quá trình
thực hiện quyền lực của nhân dân theo định hướng XHCN.
Như vậy, hệ thống chính trị ở cơ sở là một bộ phận cấu thành của hệ
thống chính trị Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nên nó có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, hệ thống chính trị cơ sở là cấp thấp nhất trong hệ thống chính
trị ở Việt Nam hiện nay. Đây là đặc điểm nhìn từ góc độ quan hệ thứ bậc
mang tính pháp lý của chỉnh thể hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay. Song
không phải cấp thấp nhất là cấp kém quan trọng nhất. Mà thậm chí, xét theo
khía cạnh thực thi đường lối chính sách của Đảng và nhà nước thì đây lại là
cấp quan trọng nhất. Bởi vì, mọi chủ trương, đường lối của Đảng và chính
sách, pháp luật của Nhà nước có thực hiện đựơc hay không lại là ở cơ sở.
8
Thứ hai, hệ thống chính trị ở cơ sở có bộ máy đơn giản nhất và cán bộ
biên chế được hưởng lương, sinh hoạt phí thấp nhất.
Theo các quy định hiện hành thì hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường,
thị trấn được biên chế và hưởng lương không quá 25 người. Các mối quan hệ
ở đây không phải là không phức tạp. Tính phức tạp ở đây được tác động bởi
các yếu tố gia tộc, dòng họ, tôn giáo, văn hoá, truyền thống…
Thứ ba, hệ thống chính trị ở cơ sở là cấp có đội ngũ cán bộ biến động
nhất, ít chuyên nghiệp nhất, trình độ học vấn, trình độ lý luận chính trị và
chuyên môn thấp nhất.
Đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị ở cơ sở biến động nhất là vì do cơ
chế họ không được biên chế cố định mà chủ yếu lệ thuộc vào lá phiếu bầu
chọn trong các cuộc bầu cử nên thời gian này làm cán bộ, thời gian sau làm
dân thường. Tâm lý không ổn định, chi phối lớn đến từng người ở từng thời
kỳ khác nhau. Dẫn đến việc họ ít được chuyên môn hoá, ít được đào tạo cơ
bản và họ cũng còn nặng tâm lý ngại học tập lý luận và chuyên môn nghiệp
vụ theo xu hướng tâm lý “quan nhất thời, dân vạn đại”. Phần lớn những người
được đào tạo cơ bản cả về lý luận và chuyên môn nghiệp vụ thì họ tìm cách
thoát ly khỏi xã, phường, thị trấn để lại hệ thống chính trị ở cơ sở với đội ngũ
cán bộ nổi bật đặc điểm này.
Thứ tư, hệ thống chính trị ở cơ sở là cấp trực tiếp nhất chịu sự chi phối
của nhân dân.
Mọi đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước quán triệt, triển khai
đến dân đều qua cấp cơ sở. Vì vậy, nó là cấp gần dân nhất và thể hiện tính
nhân dân một cách rõ ràng, trực tiếp nhất. Song đây là cấp đầu tiên đối mặt
với những yêu cầu bức xúc của dân chúng với những mâu thuẫn, thậm chí cả
những xung đột nảy sinh trong đời sống dân cư.
Thứ năm, hệ thống chính trị ở cơ sở nhất là ở cơ sở nông thôn là cấp mà
quan hệ dòng họ, văn hoá làng xã, quan hệ dân tộc, tôn giáo tác động mạnh nhất.
9
Hệ thống chính trị ở cơ sở là cấp mà quan hệ dòng họ, văn hoá làng xã có
thể tác động mạnh nhất có ảnh hưởng đáng kể đến quan hệ nội bộ trong tổ
chức và hiệu quả hoạt động của HTCT ở cơ sở nông thôn. Trong quan hệ với
dân, cán bộ ở cơ sở nông thôn có thể bị chi phối, ràng buộc rất lớn bởi quan
hệ họ hàng, thân tộc, bởi các truyền thống, phong tục, tập quán, lối sống làng
xã. Do đó, phải hết sức chú ý khắc phục tư tưởng dòng họ, bè phái, lợi dụng
quyền lực theo kiểu “một người làm quan cả họ được nhờ”…
Những đặc điểm trên của hệ thống chính trị ở cơ sở, phản ánh một mặt ở sự
thống nhất, duy nhất của cả hệ thống chính trị được tổ chức và hoạt động theo
tính thống nhất về mục tiêu và nguyên tắc. Mặt khác nó cũng phản ánh nhiều
mâu thuẫn. Vấn đề là phát hiện mâu thuẫn và có những giải pháp cụ thể xử lý
những mâu thuẫn một cách cụ thể để đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị ở
cơ sở đáp ứng vị trí, vai trò quan trọng của nó trong từng giai đoạn cách mạng.
* Vai trò của hệ thống chính trị cấp cơ sở
HTCT ở cơ sở bao gồm xã, phường, thị trấn. Nước ta có trên 10.000 đơn
vị cơ sở, trong đó có gần 9.000 xã. Với con số đó, cấp cơ sở được gọi chung
là cấp xã.
Đến thời điểm hiện nay, nước ta vẫn là một nước nông nghiệp với địa
bàn nông thôn rộng lớn. Kinh tế nông thôn chủ yếu vẫn là kinh tế nông
nghiệp, đặc biệt là nông nghiệp sản xuất nhỏ và thuần nông, lực lượng sản
xuất kém phát triển. Quá trình phân công và phân công lại lao động xã hội
còn đang diễn ra, hơn 70% sức lao động và hơn 80% dân cư đang ở nông
thôn. Nông dân vẫn còn là diện mạo đặc trưng trong bức tranh cơ cấu xã hội dân cư ở nước ta với trên 60 triệu người và 12 triệu hộ gia đình. Họ sinh sống
và làm ăn ở trên 9.000 đơn vị cơ sở (tính cả xã và thị trấn) với 86.000 thôn,
làng, ấp, bản, phum, sóc.
Hiện nay, chúng ta có trên 2 triệu cán bộ cơ sở ở nông thôn từ xã tới
thôn, có hưởng lương và phụ cấp sinh hoạt phí từ nguồn ngân sách nhà nước,
10
mỗi năm chi khoảng 2.400 tỷ đồng. 50% đảng viên và hơn 20% số tổ chức cơ
sở Đảng trong tổng số 2 triệu 60 vạn đảng viên của Đảng là đảng viên nông
dân và tổ chức Đảng ở nông thôn [49, tr.313-314].
Do đó, HTCT ở cơ sở, đặc biệt ở nông thôn có một vị trí và vai trò rất
quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, đối với việc đảm bảo và giữ
vững ổn định chính trị - xã hội để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Để giữ vững ổn định chính trị - xã hội phải đặc biệt chú trọng và chăm lo
sự ổn định và phát triển ở cơ sở, nhất là nông thôn. Rõ ràng, nếu để sự yếu
kém của HTCT ở cơ sở nông thôn xảy ra thì hệ quả tất yếu dẫn đến mất ổn
định chính trị - xã hội. Thực tế vừa qua ở nước ta cho thấy sự cần thiết, bức
xúc của việc củng cố, xây dựng và phát triển cơ sở đã đến lúc đặt ra phải có
giải pháp kiện toàn để tạo sự chuyển biến tích cực của HTCT ở cơ sở nông
thôn. Kinh nghiệm lịch sử và bài học của ông cha ta về việc an dân, trị quốc,
cũng như kinh nghiệm đấu tranh cách mạng qua các thời kỳ do Đảng lãnh đạo
đã cho thấy: việc giữ dân, giành dân có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự bền
vững của chế độ. Chính quyền trong lòng dân, cơ sở xã hội của chế độ là lòng
dân, là sức mạnh đồng thuận xã hội của dân chúng từ cơ sở. Do vậy để ổn
định chính trị và phát triển xã hội, nhất thiết phải sớm khắc phục những yếu
kém của HTCT ở cơ sở, phải xây dựng HTCT ở cơ sở trở thành HTCT thực
sự của dân, do dân và vì dân. Có một HTCT được lòng dân, được dân tin, dân
yêu mến, dân giúp đỡ, dân ủng hộ và dân bảo vệ từ cơ sở thì ổn định chính trị
sẽ được đảm bảo, mục tiêu của đổi mới sẽ được thực hiện thắng lợi.
Với một nước phổ biến là nông nghiệp, nông thôn và nông dân thì cần
phải lưu ý tới một triết lý được rút ra từ thực tiễn là: “Nông thôn là biển,
thành thị là thuyền, biển lặng - thuyền yên”. Phát triển toàn diện và chăm lo
tới cuộc sống vật chất và tinh thần của nông dân, đẩy mạnh xoá đói giảm
nghèo và khắc phục sự phân hoá giàu nghèo đang diễn ra ở nông thôn, đảm
11
bảo dân chủ và công bằng xã hội đối với nông dân. Đó không chỉ là những
nhiệm vụ đặt ra hàng ngày đối với HTCT ở cơ sở nông thôn, mà còn là thước
đo đánh giá sự chuyển biến của HTCT ở cơ sở nông thôn. Như vậy, vai trò
của hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn đối với sự ổn định chính trị và phát
triển kinh tế - xã hội là thực hiện tập trung nhất ở việc bảo đảm vai trò lãnh
đạo chính trị của Đảng, tăng cường quản lý của Nhà nước theo đường lối của
Đảng đối với kinh tế, phát huy quyền làm chủ của nhân dân mọi mặt trong đời
sống thực tế.
Dân chủ hoá đời sống xã hội nông thôn, thực hiện có hiệu quả Pháp lệnh
dân chủ ở cơ sở và đưa Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 - khoá IX về đổi
mới và nâng cao chất lượng HTCT ở cơ sở xã, phường, thị trấn vào cuộc sống
- đó là giải pháp cơ bản, lâu dài để tạo ra ở nông thôn một cộng đồng xã hội
đồng thuận, đoàn kết, dân chủ và ngày càng ổn định, phát triển. Theo Chủ tịch
Hồ Chí Minh: dân chỉ biết đến giá trị của dân chủ, của độc lập tự do khi dân
được ăn no, mặc ấm. Nước nhà có độc lập tự do mà dân chúng vẫn đói rét,
nghèo nàn, lạc hậu thì độc lập tự do đó phỏng có ích gì. Phải làm cho dân có
ăn, có mặc, có chỗ ở, được học hành, được chăm sóc sức khỏe, được hưởng tự
do và hạnh phúc. Chỉ có thực hành dân chủ rộng rãi mới là chiếc chìa khoá
vạn năng để giải quyết mọi khó khăn.
Tóm lại, tiếp cận và nghiên cứu hệ thống chính trị như một hệ thống
chỉnh thể các tổ chức, thiết chế, hệ thống các quan hệ và các cấp độ khác nhau
như trên cho thấy rõ được cấu trúc, bản chất và mục tiêu của hệ thống chính
trị ở nước ta. Hệ thống chính trị mà chúng ta đang đổi mới, hoàn thiện nhằm
xây dựng chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân chủ, phát huy vai trò
làm chủ của các tầng lớp nhân dân lao động. Tiếp cận và nghiên cứu hệ thống
chính trị như vậy sẽ thấy rõ được mối quan hệ máu thịt giữa hệ thống chính trị
với dân và giữa dân với hệ thống chính trị: Đảng của dân tộc, của nhân dân;
nhà nước của dân, do dân; các tổ chức chính trị- xã hội của dân và tất cả đều
12
vì dân. Như vậy, hệ thống chính trị của chúng ta đang xây dựng về thực chất
là của dân, do dân và vì dân. Từ cách tiếp cận như thế chúng ta sẽ thấy rõ vị trí,
vai trò của hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn- một cấp (cấp cơ sở) của hệ
thống chính trị duy nhất thống nhất gần dân nhất, trực tiếp vì dân nhất. Vì vậy,
mọi hoạt động của các chủ thể quyền lực trong HTCT cơ sở nông thôn là nhằm
bảo đảm thực hành dân chủ, phản ánh ý chí nguyện vọng của nhân dân tại cơ sở.
Do vậy, mọi cơ chế, quy chế thực hiện dân chủ và hoạt động của HTCT cơ sở
nông thôn phải được dân biết, dân bàn, dân tham gia, dân kiểm tra. Những căn
cứ lý luận như vậy sẽ là công cụ nhận thức quan trọng để luận văn khảo sát hệ
thống chính trị ở cơ sở nông thôn trên địa bàn tỉnh Hà Giang dưới dây.
1.1.2. Đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị cấp cơ sở
1.1.2.1. Quan niệm và đặc điểm đội ngũ cán bộ cấp cơ sở
* Quan niệm về cán bộ
Từ cán bộ xuất hiện trong đời sống xã hội nước ta từ thời kỳ chống thực
dân Pháp (dưới sự lãnh đạo của Đảng). Cho đến nay, từ cán bộ đã được dùng
với rất nhiều nghĩa khác nhau:
- Trong tổ chức đảng và đoàn thể, từ cán bộ được dùng với hai nghĩa:
một là, để chỉ những người được bầu vào các cấp lãnh đạo, chỉ huy từ cơ sở
đến Trung ương (cán bộ lãnh đạo); hai là, những người làm công tác chuyên
trách có hưởng lương trong các tổ chức đảng và đoàn thể.
- Trong hệ thống nhà nước, từ cán bộ được hiểu cơ bản là trùng với từ
công chức, chỉ những người làm việc trong cơ quan nhà nước thuộc ngành
hành chính, tư pháp, kinh tế, văn hoá và xã hội. Đồng thời, cán bộ cũng được
hiểu là những người có chức vụ chỉ huy, phụ trách, lãnh đạo (trưởng, phó
phòng, vụ, cục, v.v..).
Tại khoản 1 Điều 4 Luật Cán bộ, công chức quy định:
Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ
nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở
13
Trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi
chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh
(sau đây gọi là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân
sách nhà nước [40].
Dù có nhiều cách hiểu khác nhau về nghĩa của từ cán bộ trong các
trường hợp, các lĩnh vực cụ thể xét về cơ bản có thể quan niệm một cách
chung nhất như sau: "cán bộ là khái niệm chỉ những người có chức vụ, vai trò
và cương vị nòng cốt trong một tổ chức, có tác động, ảnh hưởng đến hoạt
động của tổ chức và các quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành,
góp phần định hướng sự phát triển của tổ chức" [56, tr.17-18].
Đối với cán bộ cấp xã được quy định tại Khoản 3 Điều 4 Luật Cán bộ,
công chức: “Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công
dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng
đầu tổ chức chính trị - xã hội” [40].
* Quan niệm về đội ngũ cán bộ cấp cơ sở
Trong đội ngũ cán bộ, có một nhóm được gọi là cán bộ cơ sở. Đó là
những người đứng đầu quan trọng nhất, có chức vụ cao nhất trong một tập
thể, được nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội trao quyền ra quyết định, có
trách nhiệm và quyền điều hành để thực hiện những nhiệm vụ của tổ chức ấy.
Đây là lực lượng nòng cốt trong đội ngũ cán bộ, là nhân tố quan trọng nhất
ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động của cả hệ thống chính trị.
Từ sự phân tích trên đây, đội ngũ cán bộ cấp cơ sở có thể quan niệm như sau:
Đó là những người đứng đầu quan trọng nhất trong hệ thống bộ máy đảng,
chính quyền, lực lượng vũ trang, mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội ở xã,
có tác dụng chính, chi phối việc chấp hành chủ trương, nghị quyết của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước thông qua việc lãnh đạo và tổ chức thực hiện
các nhiệm vụ kinh tế - xã hội trên địa bàn nông thôn mà họ phụ trách [31, tr.34].
14
Theo quan niệm trên, đội ngũ cán bộ cấp cơ sở hiện nay bao gồm: Bí thư
và Phó Bí thư Đảng uỷ xã; Chủ tịch và phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã;
Chủ tịch và phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã; Trưởng công an xã; Chỉ huy
trưởng Ban chỉ huy quân sự xã; Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc xã; Bí thư Đoàn
Thanh niên xã; Chủ tịch Hội nông dân xã; Chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ xã;
Chủ tịch Hội cựu chiến binh xã.
Theo Nghị định số: 92/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Chính
Phủ về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn, trong 13 chức danh chủ chốt
nêu trên có 11 chức danh thuộc cán bộ chuyên trách cấp xã, riêng 2 chức danh
Trưởng Công an và Chỉ huy trưởng Quân sự thuộc công chức cấp xã nhưng
do có vai trò quan trọng, thường được cơ cấu Thường vụ đảng ủy cơ sở và
thành viên ủy ban nhân dân xã. Do vậy, xét về mặt Đảng thì họ là người giữ
vai trò lãnh đạo chủ chốt.
Đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị cấp cơ sở có những đặc điểm sau:
- Phần lớn trưởng thành từ phong trào cách mạng của quần chúng ở cơ
sở. Bởi vậy, họ rất am hiểu đặc điểm tình hình chung của cơ sở, luôn có
những ý kiến phản ánh tình hình thực tế về đời sống kinh tế, chính trị, xã hội
của xã nói chung, để cùng với cấp uỷ, chính quyền địa phương đề ra chương
trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở cơ sở.
- Hầu hết đội ngũ cán bộ đều xuất thân từ nông dân, với đặc tính siêng
năng, cần cù trong lao động; điều kiện kinh tế, hoàn cảnh gia đình còn khó
khăn. Nhưng, tinh thần tham gia hoạt động công tác ở xã của họ chủ yếu bằng
lòng nhiệt tình cách mạng, một lòng, một dạ đi theo Đảng. Hiện nay, lương,
phụ cấp đối với cán bộ cấp xã rất thấp, chưa tương sứng với chức trách và
công việc mà họ đảm nhận.
- Riêng cán bộ cấp cơ sở ở các địa phương miền núi còn có đặc điểm là
con em của đồng bào dân tộc thiểu số, ... gắn với bản, làng; rất am hiểu phong
tục tập quán của dân tộc mình; khả năng giao tiếp rất tốt, nói được cả tiếng
15
Kinh và tiếng của dân tộc mình, dễ dàng trong việc nắm bắt tâm tư nguyện
vọng của đồng bào dân tộc ở cơ sở.
1.1.2.2. Vai trò của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đội ngũ
cán bộ cấp cơ sở là lực lượng giữ vai trò nòng cốt, điều hành hoạt động của
bộ máy tổ chức ở cấp xã, đồng thời là người trực tiếp lãnh đạo, tổ chức thực
hiện mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội. Vì vậy, đội ngũ cán bộ của hệ thống
chính trị cấp xã có tầm quan trọng đặc biệt và là một trong những nhân tố có ý
nghĩa chiến lược, quyết định sự thành bại của công cuộc xây dựng và phát
triển nông thôn mới.
- Cán bộ cơ sở là những người chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện đường
lối, nhiệm vụ chính trị ở đó, phân công nhiệm vụ, chỉ đạo các thành viên
của mình hoàn thành nhiệm vụ được giao phó. Cán bộ cơ sở giỏi thì sử
dụng đội ngũ cán bộ phát huy được mọi khả năng, nâng cao được hiệu quả,
chất lượng công tác. Cùng một tổ chức bộ máy tương tự, cùng một cơ chế,
chính sách giống nhau, nhưng có địa phương phát triển kinh tế - xã hội
nhanh, mọi nhiệm vụ đều thực hiện và hoàn thành xuất sắc; có địa phương
kinh tế - xã hội trì trệ, mọi nhiệm vụ bê trễ. Điều đó cho thấy vai trò quyết
định của cán bộ cơ sở.
- Đội ngũ cán bộ cấp cơ sở giữ vai trò quyết định trong việc hiện thực
hoá sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước về mọi mặt của đời sống
kinh tế - xã hội ở cơ sở. Bởi vì, cơ sở là nơi diễn ra mọi hoạt động và cuộc
sống của dân, nơi chính quyền trong lòng dân, cán bộ cơ sở nói chung và cán
bộ cấp cơ sở nói riêng sống và làm việc hàng ngày cùng với dân, có điều kiện
gần gũi trực tiếp và thường xuyên với dân. Vì lẽ đó, cán bộ cấp cơ sở hơn ai
hết là người hiểu biết rõ nhất tình hình đang diễn ra tại cơ sở, nắm được nhu
cầu, nguyện vọng của dân, những đòi hỏi bức thiết của người dân ở cơ sở
đang đặt ra.
16
- Đội ngũ cán bộ cấp cơ sở giữ vai trò quyết định trong việc quán triệt, tổ
chức thực hiện mọi quyết định của cấp uỷ cấp trên, cấp uỷ cùng cấp và mọi
chủ trương, kế hoạch, sự chỉ đạo của chính quyền cấp trên, cũng như mọi
chương trình, kế hoạch của chính quyền xã. Mắt khâu đầu tiên trong sự lĩnh
hội mọi quyết định nói trên, phải nói đến đội ngũ này và thông qua đội ngũ
này, mọi quyết định của cấp trên và cùng cấp sẽ đến được với người dân. Xuất
phát từ đặc điểm tâm lý của người dân tộc sinh sống tại các địa phương miền
núi là, kinh tế - xã hội phát triển chậm, trình độ dân trí còn thấp, khả năng am
hiểu tiếng phổ thông (tiếng Việt) rất hạn chế, cá biệt có những Bản, làng
người dân tộc H'mông, Dao... không hiểu và không nói được tiếng Kinh. Ở
những nơi đó muốn đưa mọi đường lối, chủ trương chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước đến với đồng bào, ngoài đội ngũ cán bộ này ra, khó
có thể đưa đến một cách nhanh nhất và hiệu quả nhất.
1.1.3. Yêu cầu và tiêu chuẩn đối với đội ngũ cán bộ cấp cơ sở trong
giai đoạn hiện nay
1.1.3.1. Yêu cầu chung đối với đội ngũ cán bộ cấp cơ sở
- Về phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức: Có tinh thần yêu nước sâu
sắc, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có năng lực tổ
chức vận động nhân dân thực hiện có kết quả đường lối của Đảng, chính sách
và pháp luật của Nhà nước ở địa phương. Cần kiệm liêm chính, chí công vô
tư, công tâm thạo việc, tận tụy với dân. Không tham nhũng và kiên quyết đấu
tranh chống tham nhũng. Có ý thức kỷ luật trong công tác. Trung thực, không
cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm.
- Về năng lực lãnh đạo. quản lý về chuyên môn và lý luận chính trị: Có
trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm, đường lỗi của Đảng, chính
sách và pháp luật của Nhà nước; có trình độ học vấn, chuyên môn, đủ năng
lực và sức khoẻ để làm việc có hiệu quả đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
17
1.1.3.2. Về tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ cấp cơ sở
Tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ chuyên trách cấp xã gồm: Bí thư, Phó
Bí thư Đảng uỷ hoặc Uỷ viên Thường vụ Thường trực đảng uỷ xã (nơi chưa
có Phó Bí thư Đảng ủy xã): là những người có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo
hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, cùng tập thể đảng uỷ,
lãnh đạo toàn diện đối với hệ thống chính trị ở cơ sở trong việc thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước trên địa
bàn xã, phường, thị trấn.
Bí thư, Phó bí thư, Thường trực Đảng có các tiêu chuẩn cụ thể sau:
+ Tuổi đời: Không quá 45 tuổi khi tham gia giữ chức vụ lần đầu.
+ Học vấn: Có trình độ tốt nghiệp trung học phổ thông.
+ Lý luận chính trị: Có trình độ trung cấp chính trị trở lên.
+ Chuyên môn, nghiệp vụ: Có trình độ trung cấp chuyên môn trở lên. Đã
qua bồi dưỡng nghiệp vụ công tác xây dựng Đảng, nghiệp vụ quản lý hành
chính nhà nước, nghiệp vụ quản lý kinh tế.
Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bí thư Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ, Chủ tịch Hội Nông dân,
Chủ tịch Hội Cựu chiến binh, Phó trưởng Công an xã, Phó Chỉ huy trưởng Ban
chỉ huy quân sự xã: là cán bộ chuyên trách chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo tổ
chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của điều lệ của tổ chức đoàn
thể, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Tiêu chuẩn cụ thể:
- Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: không quá 60 tuổi đối với
nam, không quá 55 tuổi đối với nữ khi tham gia giữ chức vụ lần đầu.
- Bí thư Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh: không quá 30 tuổi khi
tham gia giữ chức vụ công tác.
- Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ, Chủ tịch Hội Nông dân: không quá 55 tuổi
đối với nam, không quá 50 tuổi đối với nữ khi tham gia giữ chức vụ lần đầu.
18
- Chủ tịch Hội Cựu chiến binh: không quá 65 tuổi khi tham gia giữ chức vụ.
Học vấn: Có trình độ tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên...
Lý luận chính trị: Có trình độ sơ cấp và tương đương trở lên.
Chuyên môn, nghiệp vụ: đã được đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn,
nghiệp vụ lĩnh vực công tác mà cán bộ đang đảm nhiệm tương đương trình độ
trung cấp trở lên.
Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân: là cán bộ chuyên trách của
Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn, chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo tổ
chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng nhân dân cấp xã, bảo đảm
phát triển kinh tế - xã hội, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn
xã, phường, thị trấn.
Tiêu chuẩn đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân:
Tuổi đời: Từ 27 tuổi trở lên, tham gia lần đầu phải đảm bảo làm việc ít
nhất hai nhiệm kỳ.
Học vấn: có trình độ tốt nghiệp trung học phổ thông.
Lý luận chính trị: có trình độ trung cấp lý luận chính trị trở lên.
Chuyên môn, nghiệp vụ: có trình độ trung cấp chuyên môn trở lên. Đã
qua lớp bồi dưỡng quản lý hành chính Nhà nước, nghiệp vụ quản lý kinh tế,
kiến thức và kỹ năng hoạt động đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã.
Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ
đạo, điều hành hoạt động của Uỷ ban nhân dân và hoạt động quản lý nhà nước
đối với các lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng đã được phân công
trên địa bàn xã, phường, thị trấn.
- Tiêu chuẩn đối với Chủ tịch và Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân:
Tuổi đời: tuổi đời của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân và Phó chủ tịch Uỷ ban
nhân là 27 tuổi , những cán bộ tham gia lần đầu phải đảm bảo làm việc ít nhất
hai nhiệm kỳ.
Học vấn: Có trình độ tốt nghiệp trung học phổ thông.
Chính trị: Có trình độ trung cấp lý luận chính trị trở lên
19
Chuyên môn, nghiệp vụ: ở khu vực đồng bằng, có trình độ trung cấp
chuyên môn trở lên. Với miền núi phải được bồi dưỡng kiến thức chuyên
môn (tương đương trình độ sơ cấp trở lên), nếu giữ chức vụ lần đầu phải có
trình độ trung cấp chuyên môn trở lên. Ngành chuyên môn phải phù hợp
với đặc điểm kinh tế - xã hội của từng loại hình đơn vị hành chính xã,
phường, thị trấn. Đã được bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý hành chính nhà
nước, quản lý kinh tế.
- Tiêu chuẩn của công chức Trưởng Công an xã.
Độ tuổi: không quá 35 tuổi khi tuyển dụng lần đầu.
Học vấn: tốt nghiệp trung học phổ thông
Lý luận chính trị: Sau khi được tuyển dụng phải có trình độ trung cấp lý
luận chính trị trở lên
Chuyên môn, nghiệp vụ: phải đạt trình độ tương đương trung cấp
chuyên môn ngành công an trở lên. Sau khi được tuyển dụng phải qua bồi
dưỡng quản lý hành chính nhà nước. Sử dụng thành thạo các trang thiết bị
phù hợp với ngành chuyên môn.
- Tiêu chuẩn của công chức Chỉ huy trưởng Quân sự
Độ tuổi: không quá 35 tuổi khi tuyển dụng lần đầu.
Học vấn: tốt nghiệp trung học phổ thông
Lý luận chính trị: sau khi được tuyển dụng phải có trình độ trung cấp lý
luận chính trị trở lên
Chuyên môn, nghiệp vụ: phải đạt trình độ tương đương trung cấp về
quân sự của sĩ quan dự bị cấp phân đội trở lên. Sau khi được tuyển dụng phải
qua bồi dưỡng quản lý nhà nước về quốc phòng cấp xã. Sử dụng thành thạo
trang, thiết bị phục vụ công tác chuyên môn.
Ngoài những tiêu chuẩn cụ thể nêu trên, những cán bộ, công chức cấp xã
công tác tại các nơi có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống phải biết ít nhất
tiếng của một dân tộc thiểu số.
20
1.2. XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ
1.2.1. Quan niệm xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở
Xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở là toàn bộ hoạt động của chủ thể có
đủ thẩm quyền và trách nhiệm pháp lý, nhằm làm nên, tạo ra một đội ngũ cán
bộ cấp cơ sở đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, có lập trường chính trị
vững vàng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương. Đồng thời còn
bao hàm cả việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở hiện có, để đội
ngũ này thích ứng với cơ chế mới, yêu cầu mới của nhiệm vụ chính trị đang
đặt ra.
Chủ thể xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở bao gồm: Tỉnh uỷ, những
người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị cấp tỉnh; các Huyện uỷ,
Thị uỷ, trong đó trước hết là Ban Thường vụ Huyện uỷ, Thị uỷ, và những
người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị cấp huyện; tổ chức cơ sở
đảng xã, phường, thị trấn
Theo sự phân cấp quản lý cán bộ, thì cán bộ cấp cơ sở do Ban Thường vụ
Huyện uỷ, Thành uỷ quản lý, họ hoạt động dưới sự quản lý trực tiếp của Ban
Thường vụ Đảng uỷ xã. Như vậy, cán bộ các cấp vừa là chủ thể vừa là đối
tượng của việc xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở; với vai trò là chủ thể thì
họ cần phải nêu cao tinh thần tự giác trong phấn đấu học tập, rèn luyện và
hoạt động thực tiễn để trở thành những cán bộ tốt của nhân dân, hết lòng hết
sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
- Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở đó là một khoa học về con
người, nghiên cứu và tìm ra những con người thật sự có bản lĩnh chính trị, có
phẩm chất đạo đức và năng lực đủ sức gánh vác những trọng trách của
nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.
Công tác đó bao gồm: việc xác định đường lối, chủ trương, chính sách về
cán bộ và công tác cán bộ; xác định tiểu chuẩn, cơ cấu cán bộ và đội ngũ cán
bộ, những tiêu chí nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ; và thực hiện đồng bộ các
21
khâu trong công tác cán bộ: quản lý, đánh giá, tuyển chọn, quy hoạch, đào
tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng, bảo vệ chính trị nội bộ và thực
hiện chính sách cán bộ.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở là quá trình làm chuyển biến nhận
thức của các cấp uỷ đảng ở địa phương về vị trí, vai trò tầm quan trọng của
đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ của Đảng, quán triệt quan điểm, mục tiêu
và những giải pháp trong Chiến lược cán bộ của Đảng, nhằm tạo sự thống
nhất ở các cấp trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là xây dựng được
đội ngũ cán bộ cấp cơ sở xuất phát từ đòi hỏi của việc thực hiện nhiệm vụ
chính trị ở địa phương là người có đủ phẩm chất, năng lực tuyên truyền vận
động đồng bào thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước và nhiệm vụ chính trị của cơ sở; xuất phát từ yêu cầu đổi mới hoạt động
của hệ thống tổ chức bộ máy hệ thống chính trị ở cở sở
- Xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở đồng thời với việc quán triệt và
thực hiện nghiêm túc các mục tiêu, quan điểm trong công tác cán bộ ; Đội ngũ
phải được xây dựng xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của cơ sở; phải
thực sự có chất lượng chứ không phải là sự chắp vá đơn thuần theo cơ cấu,
phải được tính toán, cân nhắc trong quá trình làm quy hoạch, tìm nguồn quy
hoạch, đưa vào quy hoạch, theo dõi giúp đỡ trong quá trình đào tạo, bồi
dưỡng và rèn luyện trong thực tiễn công tác. Trong công tác đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ này phải đào tạo có bài bản, qua trường lớp, chú ý đào tạo cả
về phẩm chất đạo đức cách mạng và năng lực lãnh đạo, quản lý, trình độ
chuyên môn nghiệp vụ và khả năng thích ứng với cơ chế mới, đáp ứng với
yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của thời kỳ mới.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở gắn với việc nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ. Đội ngũ cán bộ đó phải đáp ứng những tiêu chuẩn chung của
cán bộ, đồng thời có những quy định, những tiêu chuẩn đặc thù phù hợp với
điều kiện, hoàn cảnh ở từng địa phương, đặc biệt là địa phương miền núi.
22
Việc xây dựng đó nhằm tạo ra một cơ cấu hợp lý với tỷ lệ người dân tộc đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị. Nội dung, phương pháp, cách làm phải dân
chủ công khai, phải đảm bảo thực hiện đúng các nguyên tắc trong công tác
cán bộ, khắc phục tư duy theo nhiệm kỳ, phải được làm thường xuyên, liên
tục. Đội ngũ cán bộ cấp cơ sở khi được đưa vào quy hoạch phải được đào tạo
toàn diện cả về phẩm chất đạo đức và năng lực, trình độ mọi mặt, cả chuyên
môn nghiệp vụ và trình độ ngoại ngữ, tin học, v.v.. ; có như vậy công tác xây
dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở sẽ không lạc hậu so với thực tiễn đòi hỏi.
1.2.2. Các chủ thể tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở
1.2.2.1. Vai trò, trách nhiệm của các đảng ủy và đảng bộ xã
Là hạt nhân lãnh đạo chính trị ở cơ sở, đảng bộ xã, phường, thị trấn, đặc
biệt là cấp ủy, phải làm cho cán bộ, nắm vững nhiệm vụ để từ đó nâng cao
hơn nữa vai trò lãnh đạo của đảng bộ cơ sở đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ
trong hệ thống chính trị ở cơ sở bảo đảm có được đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu
cầu thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; khơi dậy
nguồn lực của nhân dân trong công cuộc CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Các đảng uỷ và đảng bộ xã, phường, thị trấn phải có trách nhiệm xây
dựng đội ngũ cán bộ, vững vàng về chính trị; có kiến thức, năng lực, ngang
tầm đòi hỏi của nhiệm vụ; có phẩm chất, đạo đức trong sáng, lối sống lành
mạnh, gắn bó mật thiết với nhân dân; thực sự tiêu biểu cho lực lượng tiến bộ
nhất ở cơ sở; có kế hoạch cụ thể giúp cán bộ phấn đấu vươn lên, gắn với quản
lý kiểm tra chặt chẽ cán bộ.
Cấp uỷ và người đứng đầu phải thường xuyên trực tiếp tìm hiểu tình hình
thực tế và lắng nghe ý kiến, kiến nghị của nhân dân, của các tổ chức và cá
nhân, đối với đội ngũ cán bộ. Thực hiện phong cách lãnh đạo dân chủ, nói đi
đôi với làm, khắc phục tệ quan liêu, độc đoán, tùy tiện, chủ quan và bệnh máy
móc, hình thức trong công tác.