Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Những giải pháp góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trên địa bàn quận 12 đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.02 MB, 85 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

PHẠM HUỲNH LAN VI

NHỮNG GIẢI PHÁP GÓP PHẦN CHUYỂN
DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ TRÊN
ĐỊA BÀN QUẬN 12 ĐẾN NĂM 2010

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2006


1

LỜI MỞ ĐẦU
* Tính thiết thực của đề tài:
Ngày nay, bất kể quốc gia nào, theo thể chế chính trị gì, sau khi giành được độc
lập, tự do cho Tổ quốc đều tập trung cho phát triển kinh tế xã hội, đây là vấn đề cốt lõi
của mọi quốc gia. Đối với Việt nam, phát triển kinh tế – xã hội càng đặc biệt quan trọng
vì Đảng và nhân dân quyết tâm chọn con đường xây dựng CNXH trong điều kiện các
nước XHCN trên thế giới đang gặp nhiều khó khăn, khủng hoảng và chủ nghĩa đế quốc
luôn tìm mọi cách để xoá bỏ công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta.
Với mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” trong
điều kiện kinh tế còn nhiều lạc hậu, yếu kém, việc phát triển kinh tế xã hội ở nước ta là cả
một quá trình phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân. Để phát triển đất nước, Đảng đã nhận
thức vấn đề cốt lõi là phải thực hiện chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế quốc dân theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thực tiễn đã chứng minh, với cơ cấu kinh tế hợp lý và
phù hợp, nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể trong những năm qua.
* Mục đích của luận văn:


Quận 12 là một quận ven thành phố, được hình thành tháng 4 năm 1997 từ huyện
Hóc Môn tách ra, với tốc độ đô thị hoá khá nhanh, cơ sở hạ tầng còn thấp kém, do đó Đại
hội Đại biểu Đảng bộ lần I (Nhiệm kỳ 1997 – 2000) và lần II (Nhiệm kỳ 2001 – 2005) đã
đề ra: “Thực hiện cơ cấu kinh tế công – nông nghiệp – thương mại – dịch vụ, đồng thời
khẩn trương chuẩn bị mọi điều kiện để chuyển sang cơ cấu kinh tế công nghiệp – thương
mại – dịch vụ – nông nghiệp vào những năm sau”. Đến Đại hội Đại biểu Đảng bộ lần III
(Nhiệm kỳ 2006 – 2010) xác định: “ Đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế trên cơ sở khai
thác tốt nhất lợi thế của quận, thu hút đầu tư bên ngoài, thực hiện chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng dịch vụ – công nghiệp – nông nghiệp”. Thực hiện Nghị quyết của
Đảng, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân quận 12 đã cố gắng vượt qua những khó khăn về
cơ sở vật chất, giữ vững tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm, góp phần vào chuyển dịch
cơ cấu kinh tế của quận. Tuy nhiện, bên cạnh những thành tựu đã đạt được về kinh tế,
cũng còn bộc lộ nhiều khó khăn, hạn chế, cơ cấu kinh tế có chuyển dịch nhưng chưa
được rõ nét, chưa tạo được động lực để phát triển kinh tế bền vững. Vấn đề đặt ra là làm
thế nào để góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn quận 12 theo hướng tích cực


2

. Đó chính là lý do và mục đích mà chúng tôi chọn đề tài luận văn “Những giải pháp góp
phần chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trên địa bàn quận 12 đến năm 2010”.
* Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện luận văn này, chúng tôi vận dụng phương pháp duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử, thống kê mô tả và phân tích tổng hợp; quan điểm và đường lối của
Đảng về phát triển kinh tế của thành phố Hồ Chí Minh nói chung và của quận 12 nói
riêng; những quy định của Luật và các văn bản dưới luật; những tài liệu chính thức của
phòng Thống kê, phòng Kinh tế, phòng Lao động thương binh xã hội, phòng Giáo dục,
Hội Nông dân và Uy ban nhân dân quận 12; những học thuyết kinh tế của Mác - Lê nin
vận dụng vào điều kiện thực tế ở Việt nam. Đặc biệt là phương pháp nghiên cứu trong
quản trị kinh doanh là môn học rất hữu ích giúp chúng tôi trong việc thu thập, phân loại,

xử lý số liệu, tài liệu và rút ra những nhận định, đánh giá và dự báo.
* Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn này đề cập đến tình hình phát triển kinh tế trên địa bàn quận 12, từ đó
đưa ra những giải pháp cơ bản để thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế trên địa bàn quận 12 theo hướng tích cực.
* Kết quả nghiên cứu:
Hiện nay, đa số các địa phương trên phạm vi lãnh thổ Việt nam đều phát triển kinh
tế trên cơ sở hạ tầng thấp kém, diện tích đất nông nghiệp còn nhiều, việc chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế theo hướng tích cực còn diễn ra chậm. Vì vậy, chúng tôi mong muốn
qua luận văn này có thể chuyển tải một số nội dung quan trọng về cơ cấu ngành kinh tế,
từ việc phân tích đánh giá thực trạng kinh tế quận 12 để đưa ra một số giải pháp cơ bản,
cũng như những kiến nghị góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế của quận 12 nói riêng và kinh tế của các điạ phương nói chung theo hướng tích
cực.
Do phạm vi nghiên cứu và thời gian có hạn, bài viết khó tránh khỏi sai sót, chúng
tôi rất mong nhận được sự thông cảm và góp ý chân thành của quý thầy cô và các bạn.


3

CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CƠ CẤU KINH TẾ
1.1. KHÁI NIỆM VỀ CƠ CẤU KINH TẾ:
Cơ cấu (hay kết cấu) là một khái niệm mà triết học duy vật biện chứng dùng để chỉ
cách thức bên trong của một hệ thống, biểu hiện sự thống nhất của các mối quan hệ qua
lại vững chắc giữa các bộ phận đó.
Cơ cấu kinh là số lượng các ngành chuyên môn hoá và mối quan hệ tỷ lệ giữa các
ngành chuyên môn hoá với nhau của một nền kinh tế với những điều kiện kinh tế – xã hội
nhất định và trong một khoảng thời gian nhất định.
Cơ cấu kinh tế không chỉ phản ánh sự phân chia tỷ lệ về lượng mà còn biểu hiện
sự khác nhau về chất của một nền kinh tế. Chẳng hạn, ở một nền kinh tế trong đó công

nghiệp chiếm tỷ trọng cao, thường cũng là nền kinh tế có năng suất và thu nhập bình
quân đầu người cao hơn một nền kinh tế có tỷ trọng công nghiệp thấp hơn. Mức độ liên
kết kinh tế giữa các bộ phận cũng là một tiêu chuẩn đánh giá trình độ phát triển của một
nền kinh tế.
1.2. NỘI DUNG VỀ CƠ CẤU KINH TẾ:
Mỗi lọai cơ cấu kinh tế phản ánh những nét đặc trưng của các bộ phận và các cách
mà chúng quan hệ với nhau trong quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân. Trên bình
diện vĩ mô, có một số lọai cơ cấu sau:
1.2.1. Cơ cấu kinh tế được phân chia theo các quan hệ sản xuất trong nền kinh
tế: phản ánh mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất xã hội, trong đó
nổi bật là quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất. Các mối quan hệ này biểu hiện ra bên
ngòai bề mặt xã hội với tư cách là các thành phần kinh tế khác nhau. Do đó người ta còn
gọi cơ cấu này là cơ cấu các thành phần khác nhau của nền kinh tế quốc dân. Nghiên cứu
cơ cấu các quan hệ sản xuất sẽ cho thấy các xu hướng vận động của từng lọai thành phần
kinh tế trong quá trình phát triển nền sản xuất xã hội.
1.2.2. Cơ cấu kinh tế dựa trên nền tảng tái sản xuất xã hội: phản ánh mối quan
hệ của các bộ phận cấu thành quá trình tái sản xuất xã hội, bao gồm nhiều yếu tố, nhiều
quá trình, đó là các yếu tố đầu vào của sản xuất (sức lao động, đối tượng lao động, tư liệu
lao động) và các khâu trong vòng tuần hòan (sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng).


4

Nếu cơ cấu các quan hệ sản xuất phản ánh mặt xã hội, thì cơ cấu tái sản xuất phản
ánh mặt vật chất, kỹ thuật của quá trình họat động kinh tế. Giả định trong điều kiện xã
hội về cơ bản là như nhau thì cơ cấu tái sản xuất sẽ quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế.
1.2.3. Cơ cấu kinh tế thể hiện ở mối quan hệ của tổ chức – quản lý nền kinh tế
quốc dân: phản ánh mối quan hệ của các hình thức tổ chức quản lý ở vi mô và vĩ mô của
các họat động kinh tế, bao gồm tập hợp các cấp quản lý, các cơ chế vận hành, các biện
pháp tổ chức và quản lý kinh tế. Nghiên cứu cơ cấu tổ chức – quản lý nền kinh tế thường

thông qua các chỉ tiêu tổng hợp để vạch ra một hệ thống tổ chức và quản lý kinh tế một
cách hợp lý cho mỗi giai đọan phát triển.
1.2.4. Cơ cấu kinh tế phân theo vùng – lãnh thổ: phản ánh những mối liên hệ
kinh tế giữa các vùng lãnh thổ của một đất nước trong họat động kinh tế. Thường người
ta phân tích những thế mạnh hiện thực và tiềm năng của từng vùng để từ đó hình thành
nên tổng sơ đồ phân bố lực lượng sản xuất nhằm phát huy tới mức cao nhất sức mạnh
kinh tế của từng vùng và tòan bộ nền kinh tế.
1.2.5. Cơ cấu kinh tế theo các ngành kinh tế: sự phát triển nền sản xuất xã hội từ
kinh tế tự nhiên tới kinh tế hàng hóa cũng có nghĩa là xuất hiện những ngành sản xuất
độc lập nhau, dựa trên những đối tượng sản xuất khác nhau. Cơ cấu ngành kinh tế biểu
hiện ra dưới các hình hình thức ngành lớn (ngành cấp I): nông nghiệp, công nghiệp, dịch
vụ; các phân ngành (ngành cấp II): chăn nuôi, trồng trọt … trong nông nghiệp; cơ khí,
luyện kim, năng lượng … trong công nghiệp… Nghiên cứu lọai cơ cấu này nhằm tìm ra
những cách thức duy trì tính tỷ lệ hợp lý của chúng và những lĩnh vực cần ưu tiên tập
trung các nguồn lực có hạn của quốc gia trong mỗi thời kỳ để thúc đẩy sự phát triển của
tòan bộ nền kinh tế quốc dân một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất.
1.2.6. Cơ cấu kinh tế được phân theo quy mô của các doanh nghiệp: phản ánh
những mối liên hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp với nhau trong các hoạt động kinh tế,
bao gồm các doanh nghiệp có quy mô lớn, quy mô vừa và quy mô nhỏ.
Việc phân chia các lọai cơ cấu kinh tế như trên không phải là cách phân chia duy
nhất, lại càng không phải chỉ có từng ấy lọai cơ cấu kinh tế. Đối với đề tài này chúng tôi
chỉ tập trung vào những vấn đề của cơ cấu ngành kinh tế.
1.3. CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ:
Quá trình phát triển kinh tế cũng đồng thời là quá trình làm thay đổi các lọai cơ
cấu kinh tế nói trên, kể cả những quan hệ tỷ lệ về số lượng lẫn chất lượng. Sự thay đổi về


5

số lượng và chất lượng của cơ cấu kinh tế, đặc biệt là cơ cấu ngành phản ánh trình độ

phát triển của sức sản xuất xã hội, trong thời kỳ công nghiệp hóa nó phản ánh mức độ đạt
được (kết quả) của quá trình công nghiệp hóa.
Ngày nay, người ta coi chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một trong những nội dung trụ
cột phản ánh mức độ phát triển của nền kinh tế. Thực tế cho thấy có những quốc gia tuy
đạt mức độ tăng trưởng kinh tế cao nhưng cơ cấu của nền kinh tế vẫn ít có sự thay đổi,
thậm chí có sự tách rời giữa khu vực sản xuất công nghiệp hiện đại với các khu vực nông
nghiệp lạc hậu, vì vậy khu vực nông nghiệp với đông đảo nông dân nghèo khó vẫn không
được sẻ chia những thành quả của tăng trưởng kinh tế.
Trong quá trình phát triển, tỷ trọng của khu vực công nghiệp và dịch vụ trong
GDP và trong tổng nguồn lao động xã hội tăng, trong khi tỷ trọng của nông nghiệp giảm,
đồng thời dân cư thành thị tăng, dân cư nông thôn giảm. Sự thay đổi cơ cấu kinh tế phản
ánh mức độ thay đổi của phương thức sản xuất theo hướng ngày càng hiện đại, những
khu vực có năng suất lao động cao, giá trị gia tăng lớn có tốc độ phát triển cao hơn và
thay thế dần những khu vực sản xuất-kinh doanh có năng suất lao động và giá trị gia tăng
thấp.
Do nội dung của quá trình công nghiệp hóa là chuyển tòan bộ nền sản xuất xã hội
từ một nền sản xuất nhỏ dựa trên kỹ thuật thủ công truyền thống lên một nền kinh tế sản
xuất theo lối công nghiệp dựa trên nền tảng của công nghệ kỹ thuật hiện đại, nên có thể
thấy trong thời kỳ công nghiệp hóa cơ cấu kinh tế có sự thay đổi rất mạnh mẽ. Dù quá
trình công nghiệp hóa diễn ra với bất cứ hình thức nào thì sự thay đổi cơ cấu đáng kể nhất
của quá trình này là sự thay đổi tỷ trọng của sản xuất nông nghiệp truyền thống, năng
suất thấp vốn chiếm phần lớn trong nền kinh tế sang một nền kinh tế có tỷ trọng lao động
công nghiệp (nhất là công nghiệp chế biến) có năng suất cao hơn. Lẽ đương nhiên, cùng
với quá trình phát triển nền sản xuất công nghiệp dựa trên kỹ thuật công nghệ hiện đại,
một khu vực dịch vụ hiện đại cũng ra đời và ngày càng phát triển. Đặc biệt, từ một vài
thập kỷ gần nay, sự phát triển của khu vực dịch vụ được xem là một trong những đặc
trưng mới của xu hướng phát triển thế giới – xu hướng phát triển của kỷ nguyên hậu công
nghiệp, khiến cho cách tiếp cận vấn đề cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu trong quá trình công
nghiệp hóa có những thay đổi không nhỏ.
1.4. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU

NGÀNH KINH TẾ TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA:


6

Mặc dù sự biến đổi cơ cấu kinh tế tuân thủ những xu hướng chung, song không có
nghĩa là giống nhau đối với mọi nước. Do đặc điểm riêng của quá trình lịch sử phát triển
của các điều kiện tự nhiên và kinh tế – xã hội … xu hướng biến đổi của cơ cấu kinh tế sẽ
được thể hiện thông qua hình thái đặc thù trong từng giai đoạn lịch sử phát triển của mỗi
nước. Vì vậy, khi xác định chính sách kinh tế, cần phải phân tích những nhân tố ảnh
hưởng đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế. Tùy từng mục tiêu nghiên cứu và từng góc độ tiếp cận mà người ta có thể phân
chúng thành những tổ hợp khác nhau, chẳng hạn: những nhân tố bên trong và bên ngòai,
những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp …
Ở phạm vi bài viết này, chúng tôi đề cập đến các nhân tố sau:
1.4.1. Các nguồn lực tự nhiên:
Tài nguyên thiên nhiên là cơ sở xuất phát tự nhiên quan trọng để hình thành cơ cấu
kinh tế của các nền kinh tế trên thế giới, điều kiện chung của sản xuất – tư liệu sản xuất
và tư liệu tiêu dùng. Do đó, ảnh hưởng của tự nhiên đến cơ cấu kinh tế là tất yếu. Tài
nguyên thiên nhiên có ảnh hưởng quan trọng đến phát triển và phân bố đến các ngành
khai thác và chế biến tài nguyên. Tuy vậy, ngày nay tài nguyên thiên nhiên không phải là
nhân tố cơ bản tác động đến cơ cấu kinh tế và sự biến đổi của nó. Các nhân tố kinh tế –
xã hội gồm các nguồn lực lao động, vốn, trình độ khoa học công nghệ, nhu cầu thị trường
… phản ánh trình độ phát triển của một quốc gia, các nhân tố tác động của quốc tế và
chính sách phát triển của quốc gia đó mới là nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế và quá
trình biến đổi cơ cấu kinh tế.
1.4.2. Nguồn lực con người:
Quy mô nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quan trọng góp phần hình
thành cơ cấu kinh tế. Để cho các họat động kinh doanh đạt được hiệu quả kinh tế theo

quy mô, trong những điều kiện về khoa học công nghệ nhất định, cần phải có một lực
lượng lao động thích hợp.
* Chất lượng nguồn nhân lực: trong nguồn lực con người cần đặc biệt quan tâm về
chất lượng nguồn nhân lực (sức khỏe, phẩm chất, đạo đức, trình độ tay nghề, kỹ năng lao
động và kiến thức). Vì vậy, đối với nguồn nhân lực, chất lượng nguồn lao động là yếu tố
quan trọng nhất để hình thành cơ cấu kinh tế, đặc biệt đối với những ngành, những lĩnh
vực đòi hỏi lao động qua đào tạo, tay nghề cao.


7

* Xu hướng nhân khẩu học: xu hướng biến động nhân khẩu có ý nghĩa khá quan
trọng đối với việc hình thành cơ cấu của nền kinh tế. Tác nhân này biểu hiện cả ở hai
khía cạnh: cung và cầu. Ở khía cạnh cung, xu hướng biến động dân số sẽ quyết định xu
hướng biến động của quy mô lực lượng lao động xã hội. Còn xu hướng biến động cầu sẽ
có ảnh hưởng không nhỏ tới quy mô và cơ cấu nhu cầu thị trường.
1.4.3. Nguồn vốn:
Nhân tố kinh tế quan trọng luôn ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế của một quốc gia là quy mô nguồn vốn đầu tư. Do hạn chế về quy mô và mức
độ phân tán lớn, khuynh hướng thị trường của sự hình thành cơ cấu kinh tế là số lượng
các doanh nghiệp sẽ tập trung nhiều hơn ở những ngành cần ít vốn đầu tư, khả năng thu
hồi vốn nhanh và công nghệ trình độ thấp. Điều đó được minh chứng bởi tỷ trọng cao của
những lĩnh vực như thương mại bán lẻ quy mô nhỏ (tiểu thương), các ngành công nghiệp
dệt may, giày dép, đồ chơi, công nghiệp lắp ráp điện tử, sơ chế nông sản, cung cấp dịch
vụ dân sinh thường nhật … trong giai đọan đầu của quá trình công nghiệp hóa của nhiều
nền kinh tế mới (NIEs). Tuy nhiên, trong thời đại ngày nay không phải chỉ đơn giản như
vậy. Sự tác động của tòan cầu hóa, tính chất, mức độ can thiệp của nhà nước vào nền
kinh tế, trước hết qua chính sách đầu tư có một ý nghĩa rất to lớn đối với sự chuyển dịch
cơ cấu của nền kinh tế.
1.4.4. Dung lượng thị trường:

Độ lớn của dung lượng thị trường là một trong những nhân tố rất có ý nghĩa đối
với sự di chuyển các nguồn lực được phân bổ vào các lĩnh vực sản xuất khác nhau.
Thông thường dung lượng thị trường (lượng cầu) được quyết định bởi quy mô dân số và
mức thu nhập. Khi mức thu nhập của dân cư còn thấp, hầu hết nguồn thu nhập chỉ được
dùng để chi cho những mặt hàng thiết yếu, trước hết là lương thực – thực phẩm. Nhưng
khi thu nhập của dân cư tăng lên, cơ cấu tiêu dùng của dân cư cũng bắt đầu thay đổi theo
hướng tỷ lệ chi tiêu cho mặt hàng tiêu dùng thiết yếu giảm đi tương đối, trong khi tỷ lệ
chi tiêu cho những sản phẩm cao cấp hơn tăng lên. Như vậy, những dấu hiệu chuyển dịch
cơ cấu cầu có khả năng thanh tóan có tác động dẫn dắt hướng đầu tư kinh doanh của các
nhà đầu tư, từ đó tác động không nhỏ đến sự hình thành cơ cấu kinh tế.
1.4.5. Thói quen tiêu dùng:
Tính ưa thích theo thói quen tiêu dùng một số lọai sản phẩm nào đó đòi hỏi các
nhà đầu tư phải nghiên cứu để tìm cách đáp ứng và vì thế, tình trạng thỏa dụng của người


8

tiêu dùng đã trở thành một trong những chỉ tiêu tác động vào sự hình thành cơ cấu kinh
tế.
Những cách phân loại trên tạo điều kiện hiểu rõ và đánh giá đúng ảnh hưởng của
từng loại nhân tố. Khi phân tích cần phải đánh giá đúng cả lợi thế và hạn chế, thời cơ và
thách thức mà các nhân tố đó mang đến với những phạm vi và mức độ tác động sâu sắc
khác nhau đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
1.4.6. Các nhân tố về cơ chế chính sách:
Với tư cách là một lọai nhân tố độc lập, cơ chế chính sách thực sự có tác động rất
mạnh đến xu hướng vận động tổng quát của sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Lịch sử kinh tế Việt nam đã minh chứng rất rõ điều này.
Tóm lại, quá trình chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế chịu tác động của nhiều nhân
tố. Trong điều kiện hiện nay, dưới tác động của quá trình tòan cầu hóa, thị trường hóa và
tiến bộ khoa học công nghệ diễn ra nhanh chóng, bản thân những nhân tố tác động đến sự

chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng không ngừng biến đổi và hàm chứa những nội dung kinh
tế không hòan tòan giống nhau. Vì vậy, khi đánh giá mức độ tác động của từng nhân tố
cũng như tổng hợp các nhân tố đó, cần phải nhìn nhận chúng như những quá trình “động”
để xem xét xu hướng tác động dài hạn lên quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
1.5. SỰ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ TRONG MỘT SỐ MÔ
HÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ:
1.5.1. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong mô hình công nghiệp hoá kiểu
“cổ điển”:
Những nước công nghiệp hoá kiểu “cổ điển” là những nước đi đầu trong cuộc cách
mạng công nghiệp thế kỷ XVII – XVIII và ngày nay là những nước công nghiệp phát
triển nhất gồm: Anh, Pháp, Mỹ.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của mô hình công nghiệp hoá kiểu cổ
điển có những đặc điểm đặc trưng:
- Cuộc cách mạng trong lĩnh vực nông nghiệp xãy ra trước, trở thành một trong số
những tiền đề tiên quyết cho sự ra đời của cách mạng công nghiệp (hay công nghiệp
hoá).
- Trình tự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là công nghiệp nhẹ – công nghiệp nặng
– giao thông vận tải và bưu điện – nông nghiệp và cuối cùng là lĩnh vực dịch vụ và lưu
thông. Do tuân thủ trình tự trang bị kỹ thuật nêu trên, công cuộc công nghiệp hoá và


9

chuyển dịch cơ cấu ngành đã diễn ra một cách từ từ, tiệm tiến và đã kéo dài hàng trăm
năm.
- Sự chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp đã không gây ra những
căng thẳng quá mức về vấn đề thất nghiệp, nguyên nhân là do quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế đã diễn ra một cách từ từ, mặt khác nhờ vào quá trình di cư quy mô lớn của
thời kỳ đó từ lục địa châu Au sang những vùng đất mới.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong mô hình công nghiệp hoá kiểu “cổ điển” đã

diễn ra “như một quá trình lịch sử tự nhiên” để lại một hình mẫu “chuẩn mực” cho những
nước đi sau trong sự nghiệp công nghiệp hoá.
1.5.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong mô hình công nghiệp hoá theo
cơ chế kế hoạch hoá tập trung:
Mô hình công nghiệp hoá trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung là mô hình công
nghiệp hoá XHCN, do Liên xô và các nước XHCN trước đây tiến hành. Mô hình này có
những đặc trưng nổi bật:
- Nhà nước trực tiếp tiến hành công nghiệp hoá bằng cách tập trung ưu tiên cao độ
cho sự phát triển công nghiệp nặng ngay trong giai đoạn đầu của thời kỳ công nghiệp
hoá.
- Việc duy trì tính cân đối giữa các ngành của quá trình công nghiệp hoá được tính
toán dựa trên các chỉ tiêu hiện vật.
- Quá trình công nghiệp hoá và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế được đẩy nhanh
bằng cách áp dụng nhiều biện pháp hành chính phi kinh tế.
Kết quả của quá trình công nghiệp hoá theo mô hình kế hoạch hoá tập trung, trong
giai đoạn đầu nền công nghiệp tăng trưởng với tốc độ nhanh, nhưng sau đó chuyển sang
tình trạng trì trệ, buộc các nước phải tiến hành cải cách toàn diện nền kinh tế. Nguyên
nhân là do:
Việc tập trung cao độ mọi nguồn lực để ưu tiên phát triển công nghiệp nặng đã buộc
phải cắt giảm đầu tư cho các lĩnh vực khác, nhất là nông nghiệp, làm cho nông nghiệp trở
thành khu vực đầu tiên của nền kinh tế bị rơi vào tình trạng thiểu năng.
Trong trường hợp các nguồn lực bên trong luôn bị thiếu hụt thì sự trợ giúp bên
ngoài trở thành nguồn thay thế quan trọng đảm bảo cho quá trình công nghiệp hoá. Song,
mức trợ giúp dường như không bao giờ đủ và hiệu quả của cách thức hoạt động trợ giúp
không cao. Vì vậy, sau giai đoạn gia tăng nhanh chóng đầu tiên của việc xây dựng cơ bản


10

cho công nghiệp, làm thay đổi tỷ trọng công nghiệp, nông nghiệp trong nền kinh tế quốc

dân, sự thay đổi cơ cấu theo chiều hướng vừa tạo lập được đã dần dần chậm lại, thậm chí
dừng hẳn, do chỗ quá trình trên không tạo lập được những mối liên kết mới giữa các
ngành.
1.5.3. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong mô hình công nghiệp hoá thay
thế nhập khẩu:
Mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu với tư tưởng chủ đạo là thay thế
những mặt hàng trước đây phải nhập khẩu bằng sản xuất trong nước, đã từng là một trào
lưu phổ biến ở hầu hết các nước thuộc thế giới thứ ba sau khi giành độc lập chính trị vào
những thập niên đầu tiên sau Đại chiến thế giới thứ II.
Với quyết tâm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ để kỳ vọng vĩnh viễn thoát khỏi
ách nô lệ thực dân, đã khiến cho – xét trên một số khía cạnh – mô hình này lại có nhiều
điểm tương đồng với mô hình công nghiệp hoá kế hoạch hoá tập trung. Mặt khác, để duy
trì mô hình này các nước áp dụng những chính sách bảo hộ “đặc trưng cho chính sách
công nghiệp hoá hướng nội” như chính sách bảo hộ mậu dịch, chính sách tỷ giá hối đoái
làm trình quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế bị ngưng trệ.
1.5.4. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong mô hình công nghiệp hoá hướng
về xuất khẩu:
Mô hình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu ngày càng được biết đến do kết quả
tăng trưởng “thần kỳ” của các nước Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông và Singapore, với
đặc điểm là quy mô nhỏ, thị trường trong nước không lớn, nghèo tài nguyên nhưng
nguồn lao động dồi dào và chất lượng cao. Mô hình này có một số đặc điểm đặc trưng
sau:
- Quá trình công nghiệp hoá bắt đầu tư việc tập trung khai thác thế mạnh của nền
kinh tế, tạo ra những lĩnh vực phát triển có lợi thế so sánh trên thị trường thế giới.
- Toàn bộ hệ thống chính sách đều chủ yếu nhằm khuyến khích việc tăng cường
xuất khẩu.
Thực tiễn cho thấy, những quốc gia đi theo mô hình công nghiệp hoá hướng về xuất
khẩu đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế và thay đổi cơ cấu hết sức nhanh chóng. Tuy
nhiên, bản thân các chính sách thúc đẩy công nghiệp hoá hướng ngoại phụ thuộc quá mức
vào sự biến động của thị trường thế giới.



11

Tóm lại, tuy đến nay cách giải quyết vấn đề công nghiệp hoá và chuyển dịch cơ cấu
ngành ở các quốc gia trên thế giới hết sức đa dạng và các kết quả đạt được cũng rất khác
nhau. Nhưng việc lựa chọn một chính sách công nghiệp hoá thích hợp với điều kiện cụ
thể của mỗi quốc gia hiện vẫn là một thách thức to lớn đối với cả các nhà nghiên cứu lẫn
những nhà hoạch định chính sách ở các nước đang phát triển, đặc biệt là trong bối cảnh
mới của kinh tế quốc tế hiện nay.
1.6. SỰ CẦN THIẾT PHẢI CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ Ở
VIỆT NAM:
Đổi mới, mở cửa nền kinh tế, trên thực tế nền kinh tế Việt nam đang từng bước hội
nhập với tiến trình kinh tế phát triển hiện đại của thế giới. Chính sự hội nhập này là một
đột biến khiến nền kinh tế nhanh chóng thoát khỏi khủng hoảng, đạt được mức tăng
trưởng khá cao.
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là một trong những nội dung chủ yếu của chiến
lược phát triển kinh tế – xã hội. Nó phản ánh trình độ, tính chất và hiệu quả của sự phát
triển. Đảng ta đã coi trọng xây dựng, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và coi nó là nội
dung cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Từ năm 1991 trở lại đây, kinh tế Việt nam liên tục tăng trưởng với tốc độ khá và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, đạt dược một số kết quả chủ yếu:
Cơ cấu ngành của nền kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá và từng
bước hiện đại hoá: tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP tăng từ 28,88% (năm
1986) lên 39,94% (năm 2003), dịch vụ tăng từ 33,06% lên 38,05%, nông lâm nghiệp và
thủy sản giảm từ 38,06% xuống còn 22,01%.
Cơ cấu kinh tế đã hướng mạnh vào từng bước xây dựng nền kinh tế tự chủ đi đôi
với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Tỷ lệ huy động vốn đầu tư trong GDP tăng từ 34%
(2001) lên 36,2% (2004). Nhà nước dành khối lượng vốn lớn đầu tư vào xây dựng cơ sở
hạ tầng: sân bay, bến cảng, giao thông đường bộ, đầu tư có trọng điểm vào một số ngành

quan trọng góp phần trang bị kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân như: điện lực, luyện kim,
cơ khí, sản xuất vật liệu xây dựng, hoá chất, công nghiệp điện tử,...
Việt nam đã tham gia vào nhiều tổ chức kinh tế và thương mại quốc tế. Kim ngạch
xuất khẩu tăng từ 2,404 tỷ USD năm 1990 lên 26 tỷ USD năm 2004. Tốc độ tăng xuất
khẩu bình quân năm đạt 18,6% (1996-2000); 12,1% (2001-2003); 30% (2004). Cơ cấu
mặt hàng xuất khẩu có sự thay đổi đáng kể từ chỗ trước đây chủ yếu là hàng nông sản


12

nay 70% là hàng công nghiệp; từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và cả nền
kinh tế vào môi trường cạnh tranh.
Cơ cấu các ngành sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ chuyển dịch theo
hướng phát triển nhiều ngành nghề, sản phẩm, đảm bảo tăng trưởng liên tục, phát huy lợi
thế so sánh và gắn với đáp ứng nhu cầu thị trường.
Tuy nhiên cơ cấu ngành kinh tế Việt nam trong những năm đổi mới vừa qua còn
bộc lộ một số tồn tại yếu kém:
Một là, cơ cấu ngành kinh tế của Việt nam chuyển dịch chậm. Trãi qua 17 năm
(1986-2003), cơ cấu công nghiệp trong GDP bình quân mỗi năm tăng 0,69%, dịch vụ
0,29%, nông nghiệp bình quân mỗi năm giảm 0,94%. Cơ cấu kinh tế của nước ta năm
2002 chỉ tương đương với cơ cấu kinh tế của các nước trong khu vực vào những năm
1980 và lạc hậu hơn cơ cấu năm 2001 của những nước này: tỷ trọng nông lâm-thủy sản
của Philippin là 15%; Indonesia là 16%, của Thái lan là 10%, tỷ trọng dịch vụ của
Malaysia là 44%, Indonesia là 44%, Thái lan 48,9%, Philippin là 47,3%.
Hai là, mối quan hệ hợp tác và liên kết kinh tế giữa các ngành và các doanh nghiệp
chưa phát triển. Sự thiếu hợp tác và liên kết sẽ dẫn đến hiện tượng trùng lắp, làm hạn chế
khả năng cạnh tranh, không phát huy hết được tiềm năng của các ngành, các doanh
nghiệp. Trong khi đó một số sản phẩm, một số lĩnh vực không có doanh nghiệp đầu tư.
Ba là, cơ cấu ngành kinh tế còn lạc hậu, các ngành công nghệ cao chưa phát triển
và tỷ trọng trong GDP còn thấp. Các ngành công nghiệp có trình độ công nghệ cao, hiện

đại như điện tử, tin học mới chỉ chiếm vài phần trăm giá trị sản xuất công nghiệp. Sản
phẩm công nghiệp chủ yếu là lắp ráp các linh kiện, phụ tùng điện tử nhập khẩu ( chiếm
50-70% giá trị). Tốc độ đổi mới công nghệ trong công nghiệp chỉ đạt khoảng 10%/năm.
Khâu nghiên cứu phát triển sản phẩm mới của nhiều doanh nghiệp còn yếu nên các sản
phẩm làm ra không đáp ứng được yêu cầu thay đổi nhanh của thị trường.
Bốn là, hiệu quả của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế chưa cao. Khu vực dịch vụ
tỷ trọng liên tục giảm: 1995: 44,06%, 2000: 38,74%, 2003: 38,23% GDP. Sản phẩm công
nghiệp còn mang nặng tính gia công lắp ráp là chính, do đó giá trị gia tăng còn thấp, còn
phụ thuộc quá lớn vào ngành khai thác tài nguyên, khoáng sản như than đá, dầu khí.
Công nghiệp chế ở trình độ thấp chưa phát triển chế biến sâu. Kim ngạch xuất khẩu chủ
yếu là nguyên liệu thô như dầu thô, than đá, nông lâm thủy sản chưa qua chế biến hoặc
mới sơ chế như gạo, cà phê, rau quả, cao su, hạt tiêu, hạt điều, chè, lạc, thủy sản.


13

Để phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp và để đẩy
nhanh quá trình hội nhập, phân công hợp tác quốc tế, nước ta cần phải có những giải
pháp thiết thực để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, trong đó cần chú ý đến các giải pháp: coi trọng và nâng cao chất lượng quy
hoạch, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt nam, đổi mới đào tạo và sử dụng
nguồn nhân lực, đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ.
Việt nam cần tiếp tục công cuộc đổi mới mô hình phát triển và chính sách kinh tế
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chỉ có thế, mới khiến cho nền kinh tế dần dần
cơ cấu lại trên cơ sở xác lập và phát triển được một hệ thống các lĩnh vực kinh tế đáp ứng
được yêu cầu của quy luật phát triển hiện đại: tăng trưởng cao lâu bền, hội nhập với tiến
trình phát triển hiện đại của thế giới và chuyển nền kinh tế từ nông nghiệp chậm phát
triển sang nền kinh tế công nghiệp hiện đại. Có như thế công nghiệp mới có thể được
chuyển đổi, xác lập thành lĩnh vực mũi nhọn, đầu tàu, trụ cột của quá trình tăng trưởng
cao lâu bền và thực hiện được sứ mạng lịch sử của mình trong cơ cấu lại nền kinh tế và

thay đổi cơ bản trong phương thức sản xuất của nền kinh tế.


14

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 12 TỪ NĂM 1997 ĐẾN NAY
2.1. ĐẶC ĐIỂM VÀ CÁC NGUỒN LỰC TỪ YẾU TỐ TỰ NHIÊN:
2.1.1. Vị trí địa lý:
Quận 12 là một trong những quận mới được thành lập theo Nghị định số 03/CP
ngày 06/01/1997 của Chính phủ nước Công hòa Xã hội chủ nghĩa Việt nam và chính thức
đi vào hoạt động kể từ ngày 01/4/1997 theo đề nghị của UBND thành phố Hồ Chí Minh
nhằm phục vụ cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của thành phố Hồ Chí Minh.
Quận 12 được tách ra từ 7 xã của huyện Hóc môn cũ có truyền thống Cách mạng
của quê hương 18 thôn vườn trầu, vườn cau đỏ, chiến khu Thạnh Lộc - An Phú Đông,
bao gồm 10 phường.
Quận 12 nằm ở phía Tây Bắc Thành phố Hồ Chí Minh về hướng Tây Ninh,
Kampuchia. Ranh giới được xác định bởi: phía Đông giáp Quận Thủ Đức, tỉnh Bình
Dương, xã Nhị Bình huyện Hóc Môn; phía Tây giáp xã Bà Điểm, xã Tân Xuân huyện
Hóc Môn; phía Bắc giáp xã Đông Thạnh huyện Hóc Môn và phía Nam giáp quận Bình
Thạnh, quận Gò vấp và quận Tân Phú.
Với vị trí địa lý như trên, Quận 12 có nhiều thuận lợi trong việc phát triển kinh tế
– xã hội. Là cửa ngõ phía Tây Bắc thành phố nối liền với Tây Ninh và Kampuchia bằng
tuyến đường Xuyên Á, trong tương lai Quận 12 có khả năng trở thành đầu mối quan
trọng của thành phố Hồ Chí Minh trong việc giao thương với các nước ASEAN bằng
đường bộ, tạo điều kiện cho Quận 12 phát triển mạnh về thương mại – dịch vụ. Là quận
ven vừa tiếp giáp với các huyện ngoại thành, vừa tiếp giáp với các quận trung tâm thành
phố Hồ Chí Minh, Quận 12 trong tương lai sẽ trở thành vùng đệm quan trọng góp phần
phát triển kinh tế – xã hội khu vực Tây Bắc Thành phố.
Từ đặc điểm vị trí địa lý tạo cho quận 12 ba khu vực phát triển kinh tế – xã hội

tương đối rõ nét.
- Khu vực I: bao gồm các phường Đông Hưng Thuận, Trung Mỹ Tây và Tân Thới
Nhất là khu vực đang có tốc độ đô thị hóa nhanh.
- Khu vực II: bao gồm các phường Tân Chánh Hiệp, Tân Thới Hiệp và Hiệp
Thành và một phần Thới An là khu vực đang từng bước đô thị hóa.


15

- Khu vực III: bao gồm các phường An Phú Đông, Thạnh Lộc và Thạnh Xuân và
một phần phường Thới An là khu vực nông nghiệp đang chuẩn bị các tiền đề cho quá
trình đô thị hóa.
2.1.2. Tài nguyên thiên nhiên:
Tài nguyên đất:
2.1.2.1.
Quận 12 được hình thành trên cơ sở tách ra từ huyện Hóc Môn, bao gồm 10
phường với tổng diện tích đất tự nhiên là 5.277 ha, chiếm 2,5% so với tổng diện tích tự
nhiên của Thành phố Hồ Chí Minh.
Đặc điểm địa chất đã tạo cho Quận 12 thành hai vùng phát triển tương đối rõ nét:
- Vùng phía Đông rạch Bến cát bao gồm 03 phường Thạnh Lộc, An Phú Đông và
Thạnh Xuân địa hình thấp, nhiều kênh rạch, sức chịu nén yếu, đất phù sa trên nền phèn
với diện tích 2.385 ha chiếm tỉ lệ 45,81%.
- Phía Tây rạch Bến cát gồm 07 phường còn lại có nền đất cao, sức chịu nén tốt,
đất xám với diện tích 2.821 ha chiếm tỉ lệ 54,19%.
Sự phân bố tài nguyên đất đã ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế của quận 12
trong những năm qua và những giai đoạn sắp tới, cụ thể:
Vùng phía Đông rạch Bến Cát với nền đất thấp nhiều sông rạch thuận lợi cho việc
phát triển kinh tế vườn, hình thành những vùng trồng cây ăn trái kết hợp với nuôi cá, tạo
thành khu du lịch sinh thái nhất là những vùng ven sông Sài Gòn. Hiện tại đây là khu vực
phát triển nông nghiệp chủ yếu của quận 12.

Vùng đất phía Tây rạch Bến cát có nền đất chịu lực tốt thuận lợi cho việc xây
dựng và phát triển các công trình có qui mô lớn như: khu thương mại dịch vụ và các khu
nhà ở mật độ cao; chi phí đầu tư cho các công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội thấp
như giao thông, trường học, trạm y tế.
2.1.2.2. Tài nguyên nước
* Nước mặt:
Nguồn nước mặt trên địa bàn quận 12 khá phong phú do một hệ thống sông rạch
cung cấp. Các sông, kênh rạch chính: sông Sài Gòn, sông Vàm Thuật, rạch Bến Cát, Bến
Thượng, Cầu Dừa, Trần Quang Cơ. Ngoài ra còn nhiều kênh rạch tập trung các phường
Thạnh Lộc, Thạnh Xuân, An Phú Đông. Hệ thống kênh rạch phân bố chủ yếu ở khu vực
phía Đông rạch Bến Cát. Tài nguyên nước mặt tạo thuận lợi cho phát triển sản xuất nông
nghiệp và du lịch sinh thái.
* Nước ngầm:


16

Nước ngầm ở Quận 12 cũng khá phong phú phân bố khá rộng tại các phường
thuộc khu vực phía Tây rạch Bến cát có độ sâu từ 30 - 100 mét, phổ biến 20 - 50 mét.
Nước ngầm đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nước sinh hoạt sản xuất cho một
bộ phận lớn dân cư và các cơ sở trên địa bàn.
Trong những năm gần đây nguồn nước bị ô nhiễm nặng cả về nước mặt lẫn nước
ngầm do chất thải của các xí nghiệp công nghiệp trên địa bàn cũng như các vùng lân cận.
Hầu hết các kênh xuyên qua Quận 12 đều bị ô nhiễm, nhất là kênh Tham Lương. Nhiều
vùng sản xuất nông nghiệp trên địa bàn Quận 12 bị ô nhiễm như Thạnh Lộc, Thạnh
Xuân, An Phú Đông và một phần phường Thới An. Đây là vấn đề khó khăn nhất hiện nay
về nguồn nước phục vụ sản xuất nông nghiệp và nước sinh hoạt và cũng là nguyên nhân
gây ra bệnh dịch. Ngoài ra, bãi rác Thành phố nằm trên xã Đông Thạnh, huyện Hóc Môn
cũng là mối đe dọa nghiêm trọng đến mạch nước ngầm không chỉ trên địa bàn huyện Hóc
Môn mà cả quận 12 và các khu vực lân cận.

2.2. NGUỒN NHÂN LỰC:
2.2.1. Dân số:
2.2.1.1. Tình hình dân số trên địa bàn quận 12:
Qua số liệu thể hiện trên Phụ lục 1 có thể nhận thấy dân số quận 12 tăng khá
nhanh trong giai đoạn 1997 – 2005. Quy mô dân số từ 125.582 người năm 1997 lên
303.962 người năm 2005. Mức tăng dân số chủ yếu là tăng cơ học. Tăng trưởng cơ học
trong những năm qua một phần do lao động ở các khu vực lân cận đến quận 12 tìm kiếm
việc làm, tuy nhiên, quan trọng nhất vẫn là các hộ gia đình đến định cư trên địa bàn quận
12, do đó không có sự biến động nào lớn về cơ cấu dân số theo độ tuổi.
Mặc dù tỷ lệ tăng dân số cao nhưng mật độ dân số của quận 12 vẫn còn ở mức
thấp. Mật độ dân số năm 1997 là 2.380 người/km2, đến năm 2005 là 5.760 người/km2 .
Điều này cho thấy khả năng thu hút dân số của quận 12 còn lớn cũng như những thuận
lợi trong việc bố trí lại các ngành sản xuất và phát triển cơ sở hạ tầng. Dân số quận 12
phân bố không đều, tập trung cao nhất là phường Đông Hưng Thuận (11.747 người/km2)
do có cơ sở hạ tầng tương đối phát triển và mật độ dân số thấp nhất là phường An Phú
Đông (1.901 người/km2). Mức chênh lệch dân số giữa phường có mật độ cao nhất và
phường có mật độ thấp nhất là khá lớn.
Sự gia tăng dân số trong thời gian vừa qua trên địa bàn quận 12 một mặt do chính
sách giãn dân ở các quận trung tâm, mặt khác từ các tỉnh, các huyện ngoại thành đến để
tìm kiếm việc làm. Về cơ cấu dân số theo giới tính, nam giới có xu hướng giảm trong khi


17

nữ giới có xu hướng tăng lên. Điều này có liên quan đến đặc điểm của các doanh nghiệp
trên địa bàn phù hợp với lao động nữ nhiều hơn như may, dệt, chế biến thực phẩm.
Theo số liệu thống kê cuối năm 1997, trình độ văn hóa của người lao động chủ
yếu là ở mức thấp. Cụ thể: chưa biết chữ: 2,85%; biết đọc biết viết: 5,63%; tiểu học,
trung học cơ sở: 70,87% trong đó đã tốt nghiệp THCS chiếm 33,94%; tiểu học và chưa
tốt nghiệp THCS chiếm 36,93%; phổ thông trung học: 20,48%.

Về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, lao động trên địa bàn quận 12 chủ yếu là lao
động thủ công chỉ phù hợp với một số ngành nghề không đòi hỏi trình độ chuyên môn
cao và dễ đào tạo trong ngành công nghiệp. Do đặc điểm là quận được tách ra từ huyện
ngoại thành, lao động chủ yếu sống bằng nghề nông, nên trình độ chuyên môn của lực
lượng lao động không thể đáp ứng được yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông
nghiệp sang công nghiệp và thương mại dịch vụ. Mặt khác, do di dân từ những nơi khác
đến, nhất là các tỉnh lân cận và các huyện ngoại thành, phần lớn đội ngũ lao động này có
trình độ văn hóa thấp, không có trình độ chuyên môn về một ngành nghề nhất định đã
làm.
2.2.1.2. Ảnh hưởng sự gia tăng dân số đối với sự phát triển kinh tế của quận 12
Dân số tăng nhanh sẽ tạo ra nguồn lao động ngày càng lớn và có xu hướng tăng
nhanh, đây là một trong những yếu tố nội lực cơ bản, quan trọng góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế địa phương.
Dân số tăng nhanh trong khi hệ thống hạ tầng kỹ thuật - xã hội của Quận còn thấp
kém chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu về nhà ở, đi lại, học hành, chăm sóc sức khỏe, đào tạo
nghề của người dân.
Sự chuyển dịch cơ cấu dân số từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp diễn ra ngày
càng mạnh, tình trạng nhập cư ngày càng tăng dẫn đến việc quản lý dân cư trên địa bàn
trở nên phức tạp hơn, phát sinh nhiều điểm nóng về tệ nạn xã hội, ô nhiễm môi trường và
giải quyết việc làm.
Tóm lại: Dân số quận 12 chủ yếu là dân số trẻ. Phần lớn dân số nằm trong độ tuổi
lao động. Dân số trong độ tuổi lao động chiếm 55% tổng dân số. Dân số ngoài độ tuổi lao
động chiếm 45%, trong đó từ 10 – 18 tuổi chiếm 17,14%. Đây là lực lượng có thể bổ
sung vào lực lượng lao động của quận 12 nhất là lao động trong các hộ gia đình. Tuy
nhiên, dân số từ 0 – 15 tuổi chiếm tới 29,42% có thể gây áp lực lớn cho ngành giáo dục
nhất là trong việc xây dựng trường lớp.


18


2.2.2. Lao động:
Lao động trên địa bàn quận 12 chủ yếu là lao động trẻ. Lao động trong độ tuổi
chiếm tỷ trọng lớn, năm 1997 chiếm 96,65%, năm 2005 chiếm 97% tổng số lao động và
có xu hướng gia tăng.
Trong những năm qua không có sự biến động lớn về cơ cấu lao động đang làm
việc và lao động dự trữ. Tuy nhiên, có sự chuyển dịch lao động khá rõ nét giữa các ngành
kinh tế. Lao động nông nghiệp có xu hướng giảm, lao động công nghiệp và dịch vụ tăng
lên. Điều này phù hợp với xu hướng phát triển của một quận đô thị hóa.
Lao động chưa có việc làm có xu hướng giảm cho thấy trong thời gian qua Quận
12 đã có nhiều cố gắng trong việc giải quyết công ăn việc làm theo hướng chuyển dịch cơ
cấu lao động, tạo ra nhiều chỗ làm việc mới. Ngành công nghiệp và xây dựng đã có
những đóng góp đáng kể để thu hút lao động. Năm 1999 lao động đang làm việc trong
ngành công nghiệp và xây dựng chiếm 24,9%, năm 2000 tăng lên 27,3%.
2.2.3. Khả năng thu hút lao động tại chỗ đối với các ngành kinh tế:
Sự phát triển kinh tế trên địa bàn quận 12 trong thời gian qua mặc dù đạt được
mức tăng trưởng cao nhưng phải nhìn nhận rằng các ngành kinh tế chưa có khả năng thu
hút hết lao động trên địa bàn. Nhiều chỗ làm việc mới được tạo ra nhưng còn ít so với
nhu cầu tìm kiếm việc làm. Mặt khác, trình độ văn hóa và chuyên môn của người lao
động hiện nay cũng là trở ngại đáng kể để có thể vào làm việc ở các xí nghiệp.
2.2.4. Thu nhập và mức sống dân cư :
Thu nhập bình quân của người lao động tùy thuộc vào từng ngành nghề nhưng
nhìn chung còn ở mức thấp, đặc biệt là khu vực nông nghiệp.
Biểu 2.1: THU NHẬP VÀ MỨC SỐNG DÂN CƯ TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 12
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
1. Thu nhập bình quân:
- Khu vực sản xuất kinh doanh
USD/người/năm
- Khu vực hành chính sự nghiệp
USD/người/năm

- Khu vực nông nghiệp
USD/người/năm
2. Phương tiện sinh hoạt:
- Hộ có ti vi
%
- Hộ có xe gắn máy
%
- Hộ có tủ lạnh
%
- Hộ có máy giặt
%
- Hộ có điện thoại
%
- Hộ dùng nước máy
%
- Hộ dùng nước giếng
%
Nguồn: Phòng Thống kê quận 12

Năm 1997

Năm 2004

450
350
300

665
568
428


83
70
25
5
23
30
67,3

94
91
58
25
59
30
69


19

Qua bảng phân tích trên, nhìn chung mức sống và sinh hoạt của người dân ngày
càng tăng.
2.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRÊN ĐỊA BÀN
QUẬN 12:
2.3.1. Vị trí, vai trò của quận đối với sự phát triển kinh tế của thành phố:
2.3.1.1. Giá trị sản xuất của Quận 12 so với Thành phố:
Trong những năm qua kinh tế trên địa bàn quận 12 chiếm vị trí khiêm tốn so với
Thành phố. Giá trị sản xuất trên địa bàn Quận 12 năm 1998 chỉ bằng 2,2% so với giá trị
sản xuất trên địa bàn TP.HCM; trong đó, công nghiệp chiếm 6%, nông nghiệp chiếm
4,8% và thương mại – dịch vụ chiếm 0,85%.

2.3.1.2. Vai trò của quận trong việc di dời các xí nghiệp sản xuất ra khỏi khu
vực trung tâm thành phố vào các vùng lân cận.
Quận 12 được qui hoạch khu công nghiệp Tân Thới Hiệp với diện tích khoảng 215
ha vừa nhằm mục đích thu hút đầu tư mới vừa nhằm mục đích tiếp nhận các xí nghiệp từ
các quận trung tâm của thành phố di dời đến. Do đó, trong tương lai ngành công nghiệp
trên địa bàn quận 12 đối với Thành phố có vị trí ngày càng quan trọng.
2.3.1.3. Vị trí, vai trò của Quận đối với việc giãn dân ở các quận trung tâm.
Quận 12 có vai trò to lớn trong việc thu hút lao động từ các quận trung tâm theo
chủ trương giãn dân của thành phố. Mật độ dân cư tương đối thấp có khả năng thu hút
một bộ phận lớn dân cư đồng thời các ngành kinh tế trên địa bàn quận có khả năng thu
hút lao động nhất là lao động có trình độ chuyên môn cao.
2.3.2. Tình hình phát triển kinh tế quận 12 giai đoạn 1997 – 2005:
2.3.2.1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế :
Qua số liệu tại biểu 2.2 và minh hoạ tại biểu 2.3, chúng ta có thể nhận thấy kinh tế
trên địa bàn quận 12 trong những năm qua tăng trưởng không đều. Tốc độ tăng bình quân
giai đoạn 1997–2005 là 18,33%/năm. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trên địa bàn quận 12
phụ thuộc rất nhiều vào ngành công nghiệp, nhất là công nghiệp sản xuất thực phẩm và
đồ uống, công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu (tốc độ tăng bình quân 20,24%). Do đó,
năm nào ngành công nghiệp tăng trưởng nhanh thì kinh tế trên địa bàn quận 12 tăng
trưởng nhanh, và ngược lại. Năm 1998 công nghiệp do trung ương và thành phố quản lý
trên địa bàn quận 12 chỉ tăng tăng 1,5% so với năm 1997, chậm hơn nhiều so với tốc độ
tăng chung của thành phố. Nguyên nhân là sự sụt giảm của ngành công nghiệp sản xuất


20

thực phẩm và đồ uống. Năm 1998 cơng nghiệp sản xuất thực phẩm và đồ uống giảm
3,08% so với năm 1997. Điều này ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng chung của quận.
Mặc khác, cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ thế giới và khu vực cũng làm cho các
ngành cơng nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu gặp nhiều khó khăn, kim ngạch xuất khẩu

giảm. Năm 1998 kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn quận 12 giảm 4,48%; trong đó do
quận quản lý giảm 24,86%. Các năm sau ngành cơng nghiệp trên địa bàn quận 12 tăng
trưởng khá nhanh. Khu vực dịch vụ đạt mức tăng trưởng tương đối ổn định giai đoạn
1997 – 2004. Riêng ngành nơng nghiệp tốc độ tăng bình qn hàng năm thấp, đặc biệt
năm 1998 giảm 25,96%, ngun nhân là do năm 1997 tách quận 12 ra từ huyện Hóc
Mơn, nên diện tích đất nơng nghiệp giảm. Điều này phù hợp với chủ trương phát triển và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của quận.

Biểu 2.3: Tăng trưởng kinh tế quận 12
giai đoạn 1997 - 2005
1,800,000
1,600,000
1,400,000

Giá trò sản xuất

1,200,000
1,000,000
800,000
600,000
400,000
200,000
Nôn g nghiệp
Côn g nghiệp - TTCN
Thương mại - DV

1

2


3

4

5

6

7

8

9

Năm

2.3.2.2. Thực trạng cơ cấu ngành kinh tế quận 12:
Từ bảng phân tích số liệu tại biểu 2.2 và minh hoạ tại biểu 2.4, chúng ta nhận thấy
cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch rõ nét trong những năm qua. Tỷ trọng giá trị sản xuất
(GTSX) ngành nơng nghiệp ngày càng giảm trong khi ngành cơng nghiệp và thương mại
– dịch vụ có xu hướng gia tăng. Điều này phù hợp đối với một quận có tốc độ đơ thị hóa


21

nhanh và có các cơ sở cơng nghiệp tương đối phát triển. Tăng trưởng của khu vực II và
khu vực III trong những năm qua diễn ra khơng đều dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh
tế giữa hai khu vực này cũng khơng đều. Tuy nhiên, dễ nhận thấy rằng khu vực thương
mại,dịch vụ và cơng nghiệp có xu hướng gia tăng tỷ trọng qua các năm.


Biểu 2.4: Cơ cấu kinh tế quận 12
giai đoạn 1997 - 2005

4%

55%

41%

Nông nghiệp
Công nghiệp - TTCN
Thương mại - DV

2.3.2.2.1. Ngành thương mại - dịch vụ:
* Vai trò của khu vực dịch vụ trong nền kinh tế:
Khu vực dịch vụ có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế:
Thứ nhất, phát triển nhanh lĩnh vực dịch vụ sẽ thúc đẩy phát triển kinh tế. Dịch vụ
khơng chỉ tạo ra mơi trường cho phát triển kinh tế mà bản thân dịch vụ chiếm tỷ trọng
ngày càng tăng GDP. Muốn đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, giảm thất nghiệp cần có
chiến lược phát triển lĩnh vực dịch vụ đúng đắn.
Thứ hai, phát triển lĩnh vực dịch vụ sẽ thúc đẩy q trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Trước hết phát triển các ngành dịch vụ sẽ thúc đẩy phát triển xuất khẩu, tạo điều kiện để
nâng cao giá trị gia tăng, do đó tạo vị thế cạnh tranh cho các mặt hàng xuất khẩu. Thực tế
cho thấy yếu kém của lĩnh vực dịch vụ như ngân hàng, tài chính, hải quan, cung cấp điện,
thơng tin, vận tải, tư vấn ... là một trong những yếu tố kìm hãm xuất khẩu. Khu vực dịch


22

vụ phát triển sẽ tạo điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài, một trong những yêú tố quyết

định tốc độ phát triển đối với các nền kinh tế đang chuyển đổi.
Thứ ba, phát triển lĩnh vực dịch vụ là xu hướng nổi trội của nền kinh tế hiện đại.
Xu hướng phát triển hiện nay trong điều kiện kinh tế tri thức là tăng tỷ trọng lĩnh vực
dịch vụ, giảm tỷ trọng các lĩnh vực khác như công nghiệp, nông nghiệp. Phát triển lĩnh
vực này sẽ hạn chế việc khai thác tài nguyên, bảo vệ môi trường, khai thác tối đa năng
lực trí tuệ của con người. Trình độ phát triển của lĩnh vực dịch vụ thể hiện trình độ cao
của nền văn minh nhân loại trong những thập kỷ tới – văn minh trí tuệ. Đó là sự phát
triển của khu vực kinh tế ảo như dịch vụ tài chính, viễn thông, vận tải, giáo dục, môi
trường ...
Nhận thức được vai trò quan trọng của lĩnh vực dịch vụ để từ đó chúng ta có cái
nhìn đúng hướng, đề ra chính sách phát triển kinh tế phù hợp với tiến trình hội nhập kinh
tế quốc tế.
* Hoạt động nội thương: một mặt đáp ứng nhu cầu tiêu dùng tại chỗ gồm những
mặt hàng phục vụ nhu cầu tiêu dùng hàng ngày của dân cư, mặt khác góp phần đáp ứng
nhu cầu đầu tư xây dựng trên địa bàn, nhất là xây dựng nhà ở. Bên cạnh đó, hoạt động
nội thương cũng đã góp phần quan trọng trong việc cung cấp các loại sản phẩm được sản
xuất trên địa bàn quận 12 đến các nơi trên địa bàn thành phố, nhất là các quận nội thành.
Quận 12 có nhiều mặt hàng có thế mạnh như cá giống, cá cảnh, cây cảnh, lài, sữa, bia,
nước ngọt, …
* Hoạt động ngoại thương: kim ngạch xuất nhập khẩu trên địa bàn quận năm
1998 đạt 31,3 triệu USD, tăng 19,1% so với năm 1997. Kim ngạch xuất khẩu đạt 12,4
triệu USD, tăng 9,7%. Kim ngạch nhập khẩu đạt 18,9 triệu USD, tăng 26,2%. Sản phẩm
xuất khẩu trên địa bàn quận 12 chủ yếu là hàng hàng may mặc, giày da,... gắn liền với các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thị trường xuất nhập khẩu chủ yếu là các nước
thuộc khu vực châu Á, Đông Âu….
Nhìn chung lĩnh vực TM – DV phát triển khá, số lượng và quy mô cơ sở TM-DV
tăng theo từng năm, tốc độ tăng bình quân 19,76%/năm. Tuy nhiên sự phân bố không
đều, ngành thương mại dịch vụ chủ yếu tập trung ở các khu vực đông dân cư và trên các
trục lộ chính, các nơi cơ sở hạ tầng thấp kém thì còn rất hạn chế.
Cụ thể một số hoạt động như sau:



23

- Ngành kinh doanh nông sản nhìn chung kinh doanh tương đối ổn định, một số
đơn vị xuất khẩu gặp thuận lợi như công ty Trường Lộc, Thạnh Lộc, sản lượng cung cấp
trong nước vẫn đảm bảo, giá cả không dao động nhiều. Tuy nhiên cũng còn một số khó
khăn là lượng hàng cung cấp không đều do thời tiết không thuận lợi, giá nông sản nội địa
vẫn còn cao hơn so với một số nước trong khu vực Đông Nam Á và Nam Mỹ nên năng
lực cạnh tranh còn thấp.
- Ngành kinh doanh sắt thép có khuynh hướng ổn định, tốc độ tăng doanh thu
không cao do giá cả nhập khẩu tăng cao, trong khi lượng dự trữ thấp nên phụ thuộc rất
lớn vào thị trường, nhu cầu xây dựng có lúc chậm lại chờ bình ổn giá. Nhà nước có sự tác
động nhằm bình ổn giá trong nước, vào những tháng cuối năm giá cả có khuynh hướng
ổn định nhưng vẫn còn ở mức khá cao.
- Ngành kinh doanh xăng dầu: hoạt động tương đối ổn định, nguồn hàng cung
ứng cho nhu cầu tiêu dùng vẫn đảm bảo. Doanh thu ngành tăng đều chủ yếu do tăng giá
bán, số lượng bán ra không biến động nhiều. Hầu hết các doanh nghiệp đều ký hợp đồng
cung cấp với đơn vị đầu mối.
- Ngành kinh doanh vàng, nữ trang: doanh số không tăng do giá vàng thế giới và
trong nước luôn biến động. Do ảnh hưởng giá vàng tăng cao nên lượng giao dịch giảm và
ảnh hưởng không nhỏ đến thị trường bất động sản do việc định giá và thanh toán thường
bằng loại tiền tệ này.
Lĩnh vực HTX: quận 12 có 14 HTX, với 4.789 xã viên.
Doanh số năm 2004: 28,69 tỉ đồng, tăng 125,9% so với năm 2003.
Tình hình kinh doanh của các HTX có chiều hướng phát triển tốt, một số HTX
tăng cường bổ sung chức năng kinh doanh nhằm mở rộng ngành nghề như HTX NN Hiệp
Thành, HTX NN Xuân Lộc, HTX VT-DL Mỹ Tường.
Trong hoạt động các HTX gặp phải những khó khăn đó là: vốn hầu hết cho hoạt
động của các HTX còn thấp; đã có Luật HTX với nhiều chính sách khuyến khích, nhưng

văn bản hướng dẫn thực hiện chưa cụ thể nên chưa có ý nghĩa thật sự trong việc tạo điều
kiện, kích thích HTX phát triển, thậm chí do chưa rõ nên cách nghĩ cách làm cũng có
khác nhau giữa các địa phương, các HTX nên đã là một trở ngại cho HTX.
Doanh thu khu vực thương mại – dịch vụ trong những năm qua đạt mức tăng
trưởng khá. Về mặt hàng kinh doanh, tạp hóa, vật liệu xây dựng, lương thực thực phẩm
tăng mạnh và chiếm tỷ trọng lớn và đạt tốc độ tăng trưởng cao. Điều này phù hợp với xu


24

hướng đô thị hóa và sự gia tăng về dân số trên địa bàn quận. Hoạt động nội thương trong
thời gian qua chủ yếu là bán buôn, bán lẻ chiếm tỷ trọng thấp. Năm 1997 tổng mức bán
buôn chiếm 72%, năm 1998 con số này là 73,1%.
Mặc dù quận 12 có nhiều sản phẩm có thế mạnh như đã nêu trên nhưng qua số liệu
trên cho thấy quy mô khu vực thương mại dịch vụ trên địa bàn quận 12 còn khá thấp.
Điều này liên quan đến năng lực kinh doanh của các công ty thương mại. Hầu hết các cơ
sở thương mại có qui mô nhỏ, kinh doanh gia đình, chủ yếu phục vụ nhu cầu tiêu dùng tại
chỗ. Các sản phẩm được sản xuất trên địa bàn chủ yếu là do các nhà sản xuất tự tiêu thụ
thông qua hệ thống đại lý phân bố trên khắp địa bàn thành phố. Các công ty thương mại
quận 12 tham gia vào việc tiêu thụ sản phẩm còn hạn chế.
Kim ngạch xuất nhập khẩu trên địa bàn quận năm 1998 đạt 31,3 triệu USD, tăng
19,1% so với năm 1997. Kim ngạch xuất khẩu đạt 12,4 triệu USD, tăng 9,7%. Kim ngạch
nhập khẩu đạt 18,9 triệu USD, tăng 26,2%. Sản phẩm xuất khẩu trên địa bàn quận 12 chủ
yếu là hàng hàng may mặc, giày da,... gắn liền với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài. Thị trường xuất nhập khẩu chủ yếu là các nước thuộc khu vực châu Á, Đông
Âu….
Hoạt động dịch vụ:
* Bưu chính viễn thông:
Quận 12 hiện chưa có Trung tâm Bưu điện mà sử dụng chung với huyện Hóc
Môn. Trên địa bàn quận hiện có 05 bưu cục phân bố tại các phường Tân Thới Hiệp,

Thạnh Lộc, Đông Hưng Thuận và đại lý bưu điện nằm rải rác các phường; bán kính phục
vụ trung bình 1,5-2 km (bình quân bán kính phục vụ trên địa bàn thành phố là 2,3km vào
năm 1995). Tuy nhiên đối với các vùng sâu, vùng xa bán kính phục vụ trung bình 4-5
km.
Nhu cầu sử dụng điện thoại trên địa bàn trong những năm gần đây tăng nhanh. Hệ
thống điện thoại đảm bảo thông tin từ thành phố xuống quận, phường; tuy nhiên tỉ lệ sử
dụng điện thoại trong dân còn nhiều hạn chế do mạng lưới điện thoại quá thưa hoặc chưa
được qui hoạch nên chưa thể đáp ứng hết nhu cầu sử dụng của người dân ngày càng
caoDịch vụ trên địa bàn quận 12 chủ yếu đáp ứng nhu cầu tại chỗ như ăn uống, phục
vụ,… Các loại hình dịch vụ có khả năng thu hút khách từ nơi khác đến như du lịch chưa
phát triển. Sự gia tăng về dân số, các cơ sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn quận 12 có
tác dụng thúc đẩy sự tăng trưởng các loại hình dịch vụ như ăn uống, khách sạn, phòng


×