BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
PHAN ĐỨC THIỆN
GIẢI PHÁP NHẰM KHUYẾN KHÍCH ĐẦU TƯ
VỐN MẠO HIỂM VÀO QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI
CÔNG NGHỆ TẠI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP.Hồ Chí Minh, năm 2004
i
MỤC LỤC
MỤC LỤC.......................................................................................................................i
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ..............................................................................iv
DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ HÌNH VẼ .................................................................... v
LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................................................1
U
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ VỐN MẠO HIỂM VÀO QUÁ TRÌNH ĐỔI
MỚI CÔNG NGHỆ
1.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ VỐN MẠO HIỂM.........................................3
1.1.1 Khái niệm đầu tư vốn mạo hiểm......................................................................3
1.1.2 Mô hình tổ chức của công ty đầu tư vốn mạo hiểm ........................................5
1.1.3 Hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm ...............................................................7
1.2 VAI TRÒ CỦA VỐN ĐẦU TƯ MẠO HIỂM TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI
MỚI CÔNG NGHỆ....................................................................................................9
1.2.1 Khái niệm về quá trình đổi mới công nghệ .....................................................9
1.2.2 Vai trò của vốn đầu tư mạo hiểm trong quá trình đổi mới công nghệ...........11
1.2.3 Vai trò của đầu tư vốn mạo hiểm vào quá trình đổi mới công nghệ đối với sự
tăng trưởng kinh tế..................................................................................................14
1.3 KINH NGHIỆM THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ MẠO HIỂM VÀO QUÁ
TRÌNH ĐỒI MỚI CÔNG NGHỆ TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA ............................16
1.3.1 Trung Quốc ....................................................................................................16
1.3.2 Ấn Độ.............................................................................................................18
1.3.3 Mỹ..................................................................................................................20
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1.............................................................................................23
ii
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN ĐẦU TƯ VỐN
MẠO HIỂM VÀO QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ TẠI VIỆT NAM
2.1 THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ TẠI VIỆT NAM.........24
2.1.1 Quan điểm và chính sách đổi mới công nghệ tại Việt Nam ..........................24
2.1.2 Thực trạng nguồn tài chính cho hoạt động đổi mới công nghệ .....................25
2.2 THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ VỐN MẠO HIỂM TẠI VIỆT NAM TRONG
THỜI GIAN QUA ....................................................................................................28
2.2.1 Giai đoạn từ 1991 – 2002 ..............................................................................28
2.2.2 Giai đoạn từ 2002 đến nay.............................................................................32
2.3 NHỮNG YẾU TỐ CHỦ YẾU ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ
VỐN MẠO HIỂM VÀO QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ TẠI VIỆT
NAM...........................................................................................................................34
2.3.1 Giai đoạn thành lập công ty đầu tư mạo hiểm ...............................................34
2.3.2 Giai đoạn thực hiện đầu tư.............................................................................36
2.3.3 Giai đoạn kết thúc doanh vụ ..........................................................................41
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2.............................................................................................43
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP NHẰM KHUYẾN KHÍCH ĐẦU TƯ VỐN MẠO HIỂM VÀO
QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ TẠI VIỆT NAM
3.1 QUAN ĐIỂM , CƠ SỞ VÀ ĐỊNH HƯỚNG CỦA GIẢI PHÁP.....................44
3.1.2 Quan điểm đề xuất giải pháp .........................................................................44
3.1.2 Cơ sở đề xuất giải pháp .................................................................................45
3.1.3 Định hướng của giải pháp..............................................................................49
iii
3.2 GIẢI PHÁP NHẰM KHUYẾN KHÍCH ĐẦU TƯ VỐN MẠO HIỂM VÀO
QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ .................................................................51
3.2.1 Hoàn thiện môi trường thể chế khuyến khích phát triển hình thức đầu tư vốn
mạo hiểm.................................................................................................................51
3.2.2 Nâng cao năng lực đổi mới công nghệ quốc gia ...........................................63
3.2.3 Phát triển nguồn nhân lực cho hoạt động đầu tư vốn mạo hiểm ...................66
3.2.4 Phát triển các mạng lưới hỗ trợ hoạt động đầu tư vốn mạo hiểm..................51
3.2.5 Nhà nước hỗ trợ tài chính cho hoạt động đầu tư vốn mạo hiểm ...................51
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3.............................................................................................69
KẾT LUẬN ...................................................................................................................70
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................................71
PHỤ LỤC.......................................................................................................................74
iv
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CNH-HĐH:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNPM:
Công nghệ phần mềm
CNTT:
Công nghệ thông tin
DNNN:
Doanh nghiệp nhà nước
DNPM:
Doanh nghiệp phần mềm
FDI:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GDP:
Tổng sản phẩm quốc nội
KCNC:
Khu công nghệ cao
KHCN:
Khoa học và công nghệ
MPDF:
Chương trình phát triển dự án Mê Kông
NSNN:
Ngân sách nhà nước
OECD:
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
R&D:
Nghiên cứu và phát triển
TCTD:
Tổ chức tín dụng
TTCK:
Thị trường chứng khoán
VMH/VC:
Vốn mạo hiểm
WB:
Ngân hàng Thế giới
XDCB:
Xây dựng cơ bản
v
DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ HÌNH VẼ
Trang
Bảng 1: Vai trò của nhà đầu tư vốn mạo hiểm trong chu kỳ sống công nghệ. .........13
Bảng 2: Đầu tư cho hoạt động KHCN giai đoạn 1996-2002 ....................................25
Bảng 3: Vốn mạo hiểm gia tăng mới 1991-1995 ......................................................29
Hình 1: Tổ chức đầu tư mạo hiểm theo mô hình công ty hợp danh hữu hạn ..............5
Hình 2: Chu kỳ sống của công nghệ ..........................................................................12
Hình 3: Vốn đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam 1991-2002 ...........................................28
Hình 4: Vốn mạo hiểm gia tăng mới tại Việt Nam 1995-2002 .................................30
Hình 5: Vốn đầu tư mạo hiểm một số nước Châu Á 1996 - 1999 ............................31
1
LỜI MỞ ĐẦU
Toàn cầu hóa và cách mạng khoa học kỹ thuật đang có những tác động mạnh mẽ
đến sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Không nằm ngoài sự tác động đó
Việt Nam đang có những chính sách chủ động nhằm đón bắt những cơ hội cho việc
nâng cao nâng lực cạnh tranh trong quá trình hội nhập quốc tế. Nghị quyết Đại hội lần
thứ IX của Đảng xác định “nước ta có thể và cần thiết phải rút ngắn quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; nắm bắt, ứng dụng rộng rãi những thành tựu mới nhất của
khoa học - công nghệ hiện đại”. Hội nghị Trung ương 6 (khóa IX) cũng đã nhấn mạnh
“Khuyến khích phát triển các doanh nghiệp dựa vào công nghệ mới… Buộc các doanh
nghiệp phải thực sự cạnh tranh bằng hiệu quả, bằng ứng dụng khoa học và công nghệ,
bằng năng lực sáng tạo và đổi mới”. Tuy nhiên đầu tư vào quá trình đổi mới công
nghệ, nhất là trong các lĩnh vực công nghệ cao, luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro và đòi hỏi cần
hai yếu tố then chốt: những doanh nghiệp có tinh thần mạo hiểm và đổi mới, các các
định chế tài chính sẳn sàng trợ cho các dự án có mức độ rủi ro cao.
Hình thức đầu tư vốn mạo hiểm đã xuất hiện từ lâu trên thế giới và đã được
minh chứng là nguồn vốn thích hợp tài trợ cho quá trình đổi mới công nghệ. Tuy nhiên
đây vẫn là vấn đề khá mới tại Việt Nam. Một số công trình nghiên cứu gần đây như:
nghiên cứu của Kenny về vai trò của đầu tư vốn mạo hiểm vào quá trình đổi mới tại
Mỹ và mô hình đầu tư vốn mạo hiểm tại Israel (2003), Nghiên cứu vai trò của vốn đầu
tư mạo hiểm đối với lĩnh vực CNTT Ấn Độ, đối với hoạt động KHCN Trung Quốc
(2002)… đã đúc kết những kinh nghiệm thực tiễn từ các quốc gia có nền công nghiệp
đầu tư vốn mạo hiểm phát triển và cả các quốc gia đang tạo dựng những nền móng đầu
tiên cho sự phát triển một ngành công nghiệp đầu tư vốn mạo hiểm.
Tuy nhiên đầu tư vốn mạo hiểm và đổi mới công nghệ là hai khái niệm có phạm
vi rất rộng. Do đó đề tài chỉ hạn chế ở hình thức đầu tư vốn mạo hiểm theo nghĩa hẹp,
tức đầu tư vào các dự án khởi sự, có tỷ suất sinh lợi tiềm năng và có tính đổi mới cao.
Bên cạnh đó hoạt động đầu tư mạo hiểm chủ yếu được nghiên cứu ở phạm vi các nhà
đầu tư mạo hiểm là định chế có tổ chức. Còn quá trình đổi mới công nghệ (sau đây gọi
tắt là quá trình đổi mới) liên quan đến một chuỗi các hoạt động tương tác với nhau bao
2
gồm các quá trình ươm tạo công nghệ, phát triển công nghệ, ứng dụng và thương mại
hóa kết quả của quá trình đổi mới. Do đó đề tài nghiên cứu và đưa ra các giải pháp đặt
trong mối quan hệ với hệ thống đổi mới công nghệ của quốc gia.
Trên cơ sở tiếp cận các mô hình đầu tư đổi mới công nghệ dựa trên nguồn vốn
đầu tư mạo hiểm từ các nước phát triển và đang phát triển, luận văn sẽ phân tích thực
trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm tạo môi trường thuận lợi khuyến khích đầu tư
vốn mạo hiểm vào quá trình đổi mới công nghệ phù hợp với bối cảnh Việt Nam hiện
nay. Để giải quyết các vấn đề trên luận án có kết cấu gồm ba phần như sau:
Chương 1: Tổng quan về đầu tư vốn mạo hiểm vào quá trình đổi mới công nghệ.
Chương 2: Thực trạng và những yếu tố tác động đến đầu tư vốn mạo hiểm vào
quá trình đổi mới công nghệ tại Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp nhằm khuyến khích đầu tư vốn mạo hiểm vào quá trình
đổi mới công nghệ tại Việt Nam.
3
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ VỐN MẠO HIỂM VÀO QUÁ
TRÌNH ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ
1.1 Cơ sở lý luận về đầu tư vốn mạo hiểm
1.1.1 Khái niệm đầu tư vốn mạo hiểm
Đầu tư vốn mạo hiểm đã xuất hiện từ lâu trên thế giới và chưa có một chuẩn
mực chung để định nghĩa chính xác thuật ngữ này. Theo Josept W.Bartlett
[32]
thì kỷ
nguyên đầu tư mạo hiểm bắt đầu từ 1946 khi Georges Doriot và các đồng sự đã thành
lập tổ chức Nghiên cứu và phát triển Mỹ (ARD), công ty đầu tư mạo hiểm đầu tiên
đúng với nghĩa của nó.
Ngày nay ở Mỹ thuật ngữ đầu tư mạo hiểm để chỉ việc đầu tư cổ phần vào các
công ty công nghệ cao còn non trẻ, các công ty có tiềm năng tăng trưởng cao. Ở châu
Á, thuật ngữ này đề cập đến việc đầu tư vốn cổ phần vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ,
chưa được niêm yết và ở mức độ nào đó, có sự tham gia của các nhà đầu tư vào quá
trình quản lý công ty [28].
Một định nghĩa hẹp khác theo MPDF thì đầu tư mạo hiểm có liên quan đến việc
đầu tư vốn cổ phần tư nhân trung hạn vào các công ty nhận vốn chưa trưởng thành. Các
công ty này đang trong giai đoạn phát triển còn non trẻ và quy mô nhỏ nên mức độ rủi
ro có xu hướng cao. Do vậy, các chuyên gia quản lý vốn mạo hiểm sẽ hy vọng tìm
kiếm được các khoản thu nhập vốn tiềm năng lớn [1].
Như vậy đầu tư mạo hiểm là hình thức đầu tư vốn cổ phần có các đặc điểm sau:
(1) là việc đầu tư vốn cổ phần vào các dự án có ý tưởng mới và có tính đổi mới, do đó
việc đầu tư mang tính rủi ro cao nhưng hàm chứa tiềm năng tăng trưởng lớn, (2) làm
tăng giá trị doanh nghiệp được đầu tư không những bằng tài sản hữu hình mà tài sản vô
hình là chủ yếu, do đó yếu tố then chốt trong quá trình đầu tư là con người, (3) là
khoản đầu tư mang tính kiên nhẫn do đó nhà đầu tư mạo hiểm phải có tầm nhìn chiến
lược dài hạn khi đầu tư.
Nhìn chung hầu hết các khoản đầu tư trong nền kinh tế đều bao hàm các yếu tố
4
trên. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường hành vi đầu tư thể hiện việc đánh đổi giữa
rủi ro và lợi nhuận. Một nguyên tắc cơ bản được thừa nhận là rủi ro của một danh mục
đầu tư càng cao thì tỷ suất sinh lợi đòi hỏi càng lớn. Thường các nhà đầu tư mạo hiểm
đòi hỏi một tỷ suất sinh lợi trên khoản tiền đầu tư vào các doanh nghiệp khởi sự từ
30%-40% hoặc cao hơn, vì khả năng thất bại của các doanh nghiệp này thường ở mức
tối thiểu là 50%
. Do vậy khác với nhà đầu tư bình thường, nhà đầu tư mạo hiểm
[34]
chấp nhận rủi ro cao và đóng vai trò chủ động trong dự án đầu tư .
Vậy tại sao các doanh nghiệp khởi sự có tiềm năng trưởng nhanh như vậy không
tự tìm nguồn tài trợ từ các định chế tài chính truyền thống khác. Trên thực tế các tổ
chức tín dụng và thị trường chứng khoán đều bị ràng buộc bởi những quy định và
thông lệ nhằm bảo vệ công chúng đầu tư [30]. Thật vậy một khoản vay tài trợ cho dự án
khởi sự hàm chứa mức độ rủi ro lớn, do đó ngân hàng thường đòi hỏi mức lãi suất
được hoàn trả rất cao và người đi vay cần phải có tài sản cụ thể để đảm bảo cho khoản
nợ. Rõ ràng một doanh nghiệp khởi sự ngoài tài sản vô hình là “ý tưởng” thì hầu như
không có đủ tài sản cụ thể để thế chấp. Hơn nữa cho dù nhà đầu tư có tài sản từ gia
đình hoặc người thân để thế chấp, thì khoản đầu tư này có mức độ rủi ro rất cao do sự
kết hợp của rủi ro kinh doanh vốn có của giai đoạn khởi sự và rủi ro tài chính do mức
lãi suất đi vay cao để tài trợ cho dự án này. Chính vì vậy việc tài trợ cho dự án từ
nguồn vốn vay tỏ ra không thích hợp. Mặt khác doanh nghiệp khởi sự cũng không thể
tiếp cận với thị trường chứng khoán để huy động vốn cổ phần vì chưa có thành tích về
doanh thu, lợi nhuận và uy tín để phát hành cổ phiếu.
Như vậy nguồn vốn đầu tư mạo hiểm tỏ ra thích hợp hơn cho các dự án khởi sự
vì những nhà đầu tư mạo hiểm chấp nhận rủi ro cao. Chính vì mức độ rủi ro kinh doanh
cao, nhà đầu tư mạo hiểm rất thận trọng trong việc xem xét năng lực kinh doanh và
năng lực công nghệ của bên nhận vốn. Bên cạnh đó khi cung cấp vốn cổ phần với mức
độ rủi ro cao, nhà đầu tư mạo hiểm cũng đồng thời cung cấp kỹ năng và kinh nghiệm
quản lý cần thiết cho sự tăng trưởng của doanh nghiệp và do đó họ trở thành nhà quản
lý chiến lược của công ty. Điều này cho thấy bên cạnh vốn, vấn đề then chốt trong quá
trình đầu tư mạo hiểm chính là yếu tố con người.
5
1.1.2 Mô hình tổ chức của công ty đầu tư vốn mạo hiểm
1.1.2.1 Hình thức tổ chức của công ty đầu tư mạo hiểm
Hoạt động đầu tư mạo hiểm thường được thực hiện bởi các công ty đầu tư vốn
mạo hiểm, các tổ chức này được thể chế hoá thành định chế tài chính phi ngân hàng có
chức năng tập trung những nguồn vốn từ các nhà đầu tư riêng lẻ trong nền kinh tế và
thành lập nên một quỹ lớn để đầu tư mạo hiểm trong giai đoạn trung hoặc dài hạn.
Theo IFC [38] công ty đầu tư mạo hiểm thường được tổ chức theo các mô hình: công ty
hợp danh hữu hạn, công ty cổ phần, các công ty con của các tổ chức tài chính hoặc các
tập đoàn kinh tế.
Công ty hợp danh hữu hạn (limited partnership): theo hình thức này các nhà đầu
tư sẽ góp vốn của mình vào quỹ mạo hiểm được quản lý bởi những nhà đầu tư
mạo hiểm chuyên nghiệp còn được gọi là thành viên quản lý vốn hay nhà sáng
lập quỹ. Những thành viên này quản lý danh mục đầu tư của quỹ và chịu trách
nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của mình. Còn các thành viên góp vốn khác
thường là các cá nhân, công ty bảo hiểm, quỹ hưu bổng, các tập đoàn công
nghiệp sẽ chịu trách nhiệm hữu hạn ở phần vốn góp của mình.
Hình 1: Tổ chức đầu tư mạo hiểm theo mô hình công ty hợp danh hữu hạn
Thành viên TNHH/
Các nhà đầu tư bên ngoài
Vốn
Vốn & Lãi/Lỗ
Quỹ đầu tư
mạo hiểm
Chia lãi / hoàn vốn
. IPO
. Sáp nhập
. Thu mua
Vốn
Kết thúc
Phí quản lý
Công ty quản lý quỹ/
Thành viên trách nhiệm
vô hạn, nhà sáng lập.
Vốn
Cổ phần
Quản lý và kiểm soát
Danh mục đầu tư
6
Công ty cổ phần (Corporation): theo mô hình này các thành viên góp vốn chỉ
chịu trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn đầu tư. Trong đó các cổ đông nắm một
tỷ lệ cổ phần đáng kể sẽ có đủ điều kiện tham gia hội đồng quản trị với tư cách
cổ đông sáng lập, còn lại là cổ đông thường. Thực hiện mô hình này các cổ đông
vẫn có thể dễ dàng kiểm soát hoạt động của công ty thông qua vai trò chủ động
của hội đồng quản trị và khả năng lựa chọn công ty quản lý quỹ. Mô hình này
cũng cho phép quỹ đầu tư mạo hiểm được hình thành dưới dạng quỹ đóng hoặc
quỹ mở.
Các công ty con của các tổ chức tài chính hoặc các tập đoàn kinh tế (corporate
subsidiaries): theo mô hình này các tổ chức tài chính hoặc các tập đoàn công
nghiệp sẽ thành lập các công ty đầu tư mạo hiểm nhằm mục tiêu đầu tư vào các
dự án khởi sự, thúc đẩy đổi mới công nghệ và đa dạng hóa sản phẩm của công
ty mẹ từ đó làm tăng giá trị chung của tập đoàn. Nhìn chung quy mô vốn của
quỹ loại này không lớn và nắm giữ một phần nhỏ trong ngành công nghiệp đầu
tư mạo hiểm.
1.1.2.2 Nguồn vốn của quỹ đầu tư mạo hiểm
Mức độ tập trung nguồn vốn vào các quỹ đầu tư mạo hiểm từ các chủ thể tham
gia thị trường vốn phụ thuộc nhiều yếu tố khác nhau như uy tín của các thành viên sáng
lập quỹ, mức độ ưa thích rủi ro của nhà đầu tư, môi trường đầu tư, việc phát triển các
định chế tài chính khác như các quỹ hưu trí và các quỹ đầu tư khác… Thông thường
nguồn vốn của quỹ đầu tư mạo hiểm được huy động từ thị trường vốn trung và dài hạn
vì việc thu hoạch của quỹ đầu tư khi doanh vụ kết thúc thường sau 3 năm, do đó các
nhà đầu tư vào quỹ mạo hiểm là những nhà đầu tư kiên nhẫn chờ đợi những “vụ thắng
lớn” hoặc sẵn sàng gánh chịu những tổn thất trong tương lai [38].
Nguồn vốn cho quỹ đầu tư mạo hiểm chủ yếu được huy động từ các tập đoàn
công nghiệp, các công ty bảo hiểm, các quỹ hưu trí, các ngân hàng, nhà nước và các cá
nhân. Ở châu Á vốn góp của chính phủ, các định chế tài chính, các tập đoàn công
nghiệp vào quỹ mạo hiểm chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu nguồn vốn của quỹ.
Còn ở Mỹ nguồn vốn mạo hiểm được huy động chủ yếu từ các quỹ tư nhân và các nhà
đầu tư cá nhân
[34]
. Bên cạnh đó chính phủ ngày càng có những tác động tích cực vào
7
thị trường vốn đầu tư mạo hiểm thông qua việc cung cấp các khoản vay giá rẻ cho có
công ty kinh doanh nhỏ (SBIC) để các công ty này đem cho các doanh nhân mà họ
thấy xứng đáng vay lại [22] hoặc góp vốn trực tiếp cho các quỹ đầu tư mạo hiểm với tư
cách như là một cổ đông nhưng được tư nhân quản lý một cách chuyên nghiệp. Sự can
thiệp của chính phủ sẽ có những tác động tích cực đến sự phát triển của thị trường vốn
đầu tư mạo hiểm và đến lược nó thúc đẩy sự ra đời của các doanh nghiệp khởi sự. Như
vậy các nguồn tài trợ cho quỹ đầu tư mạo hiểm rất đa dạng. Tính đa dạng cũng như tỷ
trọng của từng loại nguồn vốn của quỹ phụ thuộc vào sự phát triển của thị trường tài
chính, sự phát triển của các định chế tài chính, sự phát triển của các ngành công nghệ
cao và sự quan tâm của nhà đầu tư tư nhân cũng như của chính phủ đối với hoạt động
của quỹ đầu tư mạo hiểm ở từng quốc gia.
1.1.3 Hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm
Khi tổ chức đầu tư mạo hiểm được định hình và thu hút đủ lượng vốn theo mục
tiêu ban đầu thì quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ mở ra kênh đầu tư mới đầy hấp dẫn cho các
doanh nghiệp tiềm năng và cho chính bản thân nhà đầu tư mạo hiểm. Thông thường
hoạt động đầu tư mạo hiểm tập trung vào các lĩnh vực công nghệ mới có hàm lượng
chất xám cao như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học...vì nó hội đủ các yếu tố
hấp dẫn nhà đầu tư mạo hiểm bao hàm cả mức độ rủi ro cao và tỷ suất sinh lợi kỳ vọng
lớn. Theo IFC [38] hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm trải qua các giai đoạn sau:
¾ Thẩm định kế hoạch đầu tư và định giá: ban đầu nhà đầu tư mạo hiểm đánh
giá sơ bộ kế hoạch đầu tư. Sau khi các yếu tố tổng quan được xem xét nhà đầu tư mạo
hiểm tiến hành thẩm định chi tiết và định giá thông qua việc xem xét: năng lực của đội
ngũ quản lý, đặc điểm của sản phẩm, công nghệ được sử dụng và rủi ro của nó, tiềm
năng của thị trường. Giai đoạn này rất quan trọng đối với nhà đầu tư mạo hiểm, nó
quyết định sự thành bại của doanh vụ thông qua việc phán đoán và kinh nghiệm của
nhà quản lý quỹ đối với các kế hoạch kinh doanh đề nghị đầu tư.
Trong giai đoạn này mỗi công ty đầu tư mạo hiểm đều có chính sách riêng đối
với tập danh mục đầu tư của mình, tuỳ thuộc vào mục tiêu hoạt động và cam kết đối
với các nhà đầu tư. Đối với các quốc gia có thị trường vốn đầu tư mạo hiểm và thị
trường công nghệ phát triển thì việc đầu tư vốn mạo hiểm vào các giai đoạn vốn mồi và
8
giai đoạn khởi sự là phổ biến. Đối với các quốc gia đang phát triển hoặc có thị trường
vốn đầu tư mạo hiểm sơ khai thì thường các nhà đầu tư mạo hiểm thường lựa chọn
danh mục gồm các doanh nghiệp hướng về xuất khẩu hoặc đang trong giai đoạn mở
rộng và có nhiều tiềm năng phát triển để hạn chế rủi ro.
¾ Tham gia quản lý hoạt động của dự án: sau khi hợp đồng có hiệu lực, nhà đầu
tư mạo hiểm cùng với doanh nghiệp tham gia quản lý dự án và ra các quyết định liên
quan đến toàn bộ quá trình hoạt động của doanh nghiệp nhằm giảm thiểu những khoản
lỗ và tối đa hóa lợi nhuận của dự án. Ở giai đoạn này vai trò của nhà đầu tư mạo hiểm
rất quan trọng trong việc gia tăng giá trị của doanh nghiệp thông qua một đội ngũ quản
lý chuyên nghiệp. Chính mức độ thành công trong quá trình tham gia quản lý của nhà
đầu tư mạo hiểm cùng với năng lực công nghệ của doanh nghiệp sẽ quyết định đến
mức độ thu hồi vốn khi doanh vụ kết thúc. Thông thường các nhà đầu tư mạo hiểm đều
có vị trí ở hội đồng quản trị nhằm mục tiêu giám sát và đưa ra các quyết định quan
trọng trong quá trình hoạt động của đối tác được đầu tư.
¾ Thanh lý doanh vụ: tùy theo hợp đồng ban đầu, sau 3-7 năm nhà đầu tư mạo
hiểm sẽ tiến hành “bán” khoản vốn góp trong doanh nghiệp của mình cho các nhà đầu
tư khác để thu hồi vốn và kết thúc doanh vụ. Để tối đa hoá giá trị của quỹ, nhà đầu tư
mạo hiểm thường kết thúc doanh vụ vào lúc doanh nghiệp ở giai đoạn tăng trưởng với
tỷ suất sinh lợi hiện tại và kỳ vọng rất hấp dẫn các nhà đầu tư khác. Lối ra cho nhà đầu
tư mạo hiểm lúc này thường là: cùng với doanh nghiệp phát hành cổ phần ra công
chúng (IPOs), sáp nhập với công ty khác hoặc bị mua bởi công ty khác, bán lại cổ phần
cho các nhà đầu tư khác hoặc cho chính doanh nghiệp được tài trợ.
Ở những quốc gia có thị trường chứng khoán phát triển và chính phủ tạo điều
kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát hành cổ phiếu, thì lối ra tốt nhất
cho nhà đầu tư mạo hiểm thường là IPOs. Đối với những quốc gia có nền công nghệ
cao phát triển mạnh mẽ, thì cách thứ hai sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp công nghệ cao
quy mô nhỏ hoạt động thành công sáp nhập với các tập đoàn công nghiệp lớn thông
qua mức giá chuyển nhượng rất hấp dẫn cho các nhà đầu tư mạo hiểm. Còn ở các nước
có những điều kiện nghiêm ngặt về việc phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng hoặc
ở những nước có thị trường chứng khoán kém phát triển thì phương thức bán lại cổ
9
phần cho các nhà đầu tư khác hoặc cho chính doanh nghiệp được tài trợ là lối ra khả dĩ
nhất cho các nhà đầu tư mạo hiểm. Lối thoát cho các nhà đầu tư khi doanh vụ kết thúc
là yếu tố quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn đầu tư mạo
hiểm vì nó giúp nhà đầu tư mạo hiểm thu hồi được vốn và lãi theo kế hoạch ban đầu và
từ đó dòng vốn này sẽ tiếp tục tìm kiếm các cơ hội đầu tư mạo hiểm vào các dự án có
tiềm năng tăng trưởng cao khác.
1.2 Vai trò của vốn đầu tư mạo hiểm trong quá trình đổi mới công nghệ
1.2.1 Khái niệm về quá trình đổi mới công nghệ
Theo Frederick Betz [16] toàn bộ quá trình đổi mới công nghệ bao gồm việc phát
minh, phát triển và đưa vào thị trường sản phẩm mới, quy trình mới hoặc dịch vụ có
chứa công nghệ mới. Cũng theo ông các hoạt động đổi mới công nghệ được thực hiện
dưới nhiều hình thức khác nhau như: đổi mới căn bản, đổi mới dần dần, đổi mới có hệ
thống và sử dụng công nghệ thế hệ mới. Trong đó đổi mới căn bản tạo ra năng lực chức
năng hoàn toàn mới không phải là sự kế thừa năng lực công nghệ hiện tại mà bắt đầu từ
những kiến thức mới nhất về khoa học. Kết quả của quá trình đổi mới căn bản sẽ mang
lại nhiều cơ hội cho sự phát triển các ngành nghề mới trong xã hội.
Một định nghĩa khác theo OECD thì “Đổi mới công nghệ sản phẩm và qui trình
là việc thực hiện được sản phẩm và qui trình mới về mặt công nghệ hay đạt được tiến
bộ đáng kể về mặt công nghệ đối với sản phẩm và qui trình. Đổi mới được thực hiện
nếu đổi mới đó đã được ra thị trường (đổi mới sản phẩm) hoặc được sử dụng trong sản
xuất (đổi mới quy trình). Đổi mới gắn với một chuỗi các hoạt động khoa học, công
nghệ, tổ chức, tài chính và thương mại”.
Động cơ cho quá trình đổi mới công nghệ có thể được lý giải dựa trên nhiều
quan điểm khác nhau. Đứng dưới góc độ của các nhà doanh nghiệp thì đổi mới công
nghệ giúp họ có cơ hội chiếm lĩnh thị trường hoặc tạo ra nhu cầu mới cho người tiêu
dùng. Khi đó động cơ chính của các doanh nghiệp là khả năng có được lợi nhuận lớn
nhất bao hàm cả sự sẳn sàng chấp nhận rủi ro về sự thua lỗ. Nếu nhìn trên quan điểm
tổng thể thì chính sách đổi mới công nghệ của quốc gia xuất phát từ các mục tiêu tăng
trưởng và phát triển kinh tế trong giai đoạn trung hoặc dài hạn nhằm nâng cao năng lực
10
cạnh tranh của quốc gia trong quá trình hội nhập quốc tế. Trên thực tế việc đầu tư đổi
mới công nghệ diễn ra xuất phát cả từ đòi hỏi của nhu cầu thị trường lẫn nhu cầu thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế của quốc gia. Đó là quá trình đổi mới công nghệ theo mô hình
hỗn hợp giữa mô hình công nghệ đẩy và mô hình sức kéo của thị trường. Thực vậy nhu
cầu của thị trường là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp tích cực tham gia vào quá
trình đổi mới công nghệ và ngược lại các chính sách đổi mới công nghệ lại có vai trò
quan trọng trong việc dẫn dắt thị trường và tạo ra nhu cầu mới cho thị trường.
Để quá trình đổi mới công nghệ diễn ra một cách liên tục và hiệu quả đòi hỏi nỗ
lực tập thể rất lớn từ tất cả các thành viên trong cộng đồng theo một quy trình có hệ
thống. Do đó đầu tư đổi mới công nghệ là một quá trình mang tính chiến lược đòi hỏi
sự kiên nhẫn và năng lực sáng tạo cao của các cá nhân tham gia nhằm mục đích cuối
cùng là tạo ra những sản phẩm dựa trên nền tảng công nghệ mới có giá trị kinh tế xã
hội cao. Tuy nhiên do tính mới của sản phẩm từ quá trình đổi mới công nghệ nên việc
đầu tư này luôn tiềm ẩn rủi ro ở mức rất cao. Rủi ro, nói một cách tổng quát, là những
khả năng không chắc chắn về khoản thu nhập hoặc lợi ích thu được trong tương lai từ
những khoản tiền đầu tư trong hiện tại. Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến mức độ
không chắn chắn đối với sự thành công của dự án đầu tư đổi mới công nghệ tùy thuộc
vào sự thay đổi của môi trường kinh tế xã hội và chính từ bản thân cơ cấu tổ chức của
doanh nghiệp. Một số yếu tố ảnh hưởng đến mức độ rủi ro kinh doanh của doanh
nghiệp trong quá trình đổi mới công nghệ bao gồm:
-
Rủi ro trong quá trình thiết kế sản phẩm: trong giai đoạn này yếu tố về sự
không chắc chắn của công nghệ và của thị trường rất lớn. Thật vậy các ý tưởng về công
nghệ mới của doanh nghiệp chưa được kiểm chứng thực tế và trên thị trường không có
hoặc có rất ít thông tin cụ thể về nhu cầu sản phẩm của quá trình đổi mới công nghệ.
-
Rủi ro trong quá trình tích hợp công nghệ và sản xuất sản phẩm: trong quá
trình này doanh nghiệp sẽ khó khăn trong việc tích hợp các hệ thống công nghệ khác
nhau trong quá trình nghiên cứu, thử nghiệm và sản xuất sản phẩm mới. Rủi ro của quá
trình tích hợp công nghệ và sản xuất sản phẩm mới xuất phát từ sự thay đổi nhanh
chóng của công nghệ trên thị trường. Điều này ảnh hưởng đến việc tích hợp từng phần
công nghệ vào toàn bộ hệ thống công nghệ, giữa công nghệ cũ và công nghệ mới, giữa
11
hệ thống công nghệ và nguồn nhân lực hiện tại, giữa khả năng đáp ứng nguồn nguyên
liệu với hệ thống công nghệ…
-
Rủi ro trong quá trình đưa sản phẩm mới vào thị trường: ở giai đoạn này sự
không chắc chắn của yếu tố công nghệ và thị trường đã giảm xuống nhưng doanh
nghiệp sẽ đối đầu với việc cạnh tranh thay thế các sản phẩm cũ hiện có trên thị trường.
Bên cạnh đó doanh nghiệp cũng đương đầu với rất nhiều rủi ro trước các đối thủ cạnh
tranh tiềm năng. Ngoài ra doanh nghiệp còn phải tập trung đối phó và giải quyết các
vấn đề như quyền sở hữu công nghiệp hay bí mật thương mại, sự thay đổi của các quy
định có liên quan đến vấn đề môi trường, các tiêu chuẩn trong công nghiệp, trách
nhiệm pháp lý về sản phẩm của doanh nghiệp đối với người tiêu dùng và xã hội...
Để hạn chế các rủi ro phát sinh trong quá trình đổi mới công nghệ, các doanh
nghiệp cần có một cơ cấu tổ chức thích ứng linh hoạt với những biến động từ môi
trường bên ngoài và chính bên trong bản thân doanh nghiệp. Tuy nhiên thường các
doanh nghiệp khởi sự được xây dựng trên nền tảng công nghệ mới lại chưa có đủ kinh
nghiệm cũng như kỹ năng quản lý cần thiết để tối ưu hóa hoạt động của mình. Hơn nữa
các doanh nghiệp này hầu như rất thiếu thông tin từ các thị trường và thậm chí khó có
thể tiếp cận các nguồn lực tài chính ban đầu cho quá trình đổi mới công nghệ do mức
độ rủi ro cao của dự án. Có nhiều nguồn tài trợ cho dự án tùy thuộc vào mức độ ưa
thích hoặc khả năng chịu đựng rủi ro từ quá trình đổi mới công nghệ của các nhà đầu
tư. Trong đó vốn đầu tư mạo hiểm tỏ ra cần thiết và thích ứng với nhu cầu vốn cho quá
trình đầu tư đổi mới công nghệ. Thậy vậy các nhà đầu tư vốn mạo hiểm là những người
sẳn sàng chấp nhận rủi ro và có nhiều kinh nghiệm trong việc quản lý rủi ro. Hơn nữa
nguồn lực tài chính và kinh nghiệm quản lý của các nhà đầu tư mạo hiểm trong các dự
án của doanh nghiệp khởi sự sẽ bù đắp sự thiếu hụt nguồn vốn cũng như nguồn nhân
lực quản lý cho các doanh nghiệp phát triển dựa trên nền tảng của quá trình đổi mới.
1.2.2 Vai trò của vốn đầu tư mạo hiểm trong quá trình đổi mới công nghệ
Nhà đầu tư mạo hiểm đóng vai trò quan trọng việc cung cấp các nguồn lực tài
chính và kinh nghiệm quản lý đối với các giai đoạn của quá trình đổi mới công nghệ.
Các giai đoạn này có thể biểu diễn qua đường cong dạng hình chữ S cổ điển. Đường
cong này thể hiện quá trình phát sinh và phát triển của công nghệ hay nói cách khác nó
12
thể hiện chu kỳ sống của công nghệ. Theo Bob Zider
[30]
các nhà đầu tư mạo hiểm
thường tránh né giai đoạn đầu và giai đoạn cuối của chu kỳ. Theo ông ở giai đoạn đầu
mức độ không chắn chắn của công nghệ và của nhu cầu của thị trường còn lớn, còn ở
giai đoạn cuối thì tốc độ tăng trưởng đã giảm đi rõ rệt vì doanh nghiệp chịu sức ép cạnh
tranh rất lớn từ các đối thủ trên thị trường.
Hình 2: Chu kỳ sống của công nghệ
Khả năng sinh lợi
Giai đoạn chín muồi
Giai đoạn tăng trưởng
Giai đoạn thâm nhập
Chi phí đầu tư
Nguồn: [15]
Trong thực tế việc đầu tư vào giai đoạn nào của chu kỳ sống công nghệ là tùy
thuộc vào thái độ của nhà đầu tư đối với rủi ro. Nếu việc đầu tư ở giai đoạn đầu của
chu kỳ sống công nghệ thì nhà đầu tư mạo hiểm sẽ có được cơ hội nhận được những
“phần thưởng” xứng đáng để bù đắp những rủi ro mà họ có thể gánh chịu trong quá
trình đầu tư so với các giai đoạn khác. Tuy nhiên các nhà đầu tư mạo hiểm đều có điểm
chung là chỉ tập trung đầu tư vào những phân ngành tăng trưởng cao vì họ có cơ hội
nhận được “phần thưởng” hấp dẫn khi doanh vụ kết thúc. Để hưởng được những phần
lợi nhuận xứng đáng từ doanh vụ, các nhà đầu tư mạo hiểm rất năng động trong vai trò
là người quản lý chiến lược của quá trình đầu tư đổi mới công nghệ. Với vai trò đó nhà
đầu tư mạo hiểm sẽ thực hiện các chức năng tài chính và chức năng phi tài chính trong
các giai đoạn của chu kỳ sống công nghệ như sau:
13
Bảng 1: Vai trò của nhà đầu tư vốn mạo hiểm trong chu kỳ sống công nghệ.
Nội dung
Vai
hoạt động
trò
Chức năng tài chính
Chức năng phi tài chính
GIAI ĐOẠN XUẤT HIỆN (KHỞI SỰ)
- Triển khai
- Hình thành vốn mồi.
- Xem xét kế hoạch kinh doanh.
- Đánh giá nhóm quản lý của
doanh nghiệp.
doanh nghiệp và thẩm định kế
- Bắt đầu hoạt
động R&D và
sản xuất thử.
TỔ CHỨC - XÚC TÁC
thành lập
hoạch kinh doanh.
- Tư vấn các vấn đề pháp lý
thành lập doanh nghiệp.
- Cấp nguồn vốn ban - Tuyển chọn nhân lực quản lý.
đầu.
- Tư vấn xây dựng các quy trình,
thủ tục kiểm soát quá trình hoạt
động của doanh nghiệp. .
- Tư vấn phát triển ý tưởng.
GIAI ĐOẠN CỦNG CỐ (PHÁT TRIỂN)
- Tìm người cùng đầu - Tư vấn xác định lại chiến lược
ban đầu: ra
tư.
loạt sản phẩm
đầu tiên.
- Mở rộng sản
HỖ TRỢ
- Phát triển
xuất.
phát triển của doanh nghiệp.
- Tổ chức marketing.
- Tìm người cùng đầu - Hỗ trợ việc mở rộng sản xuất.
tư.
- Tìm nhà quản lý bổ sung.
- Thanh lý,
kết thúc đầu
tư
THANH LÝ
- Quảng bá thương hiệu.
- Thu xếp các khoản hỗ - Tư vấn các vấn đề phát hành cổ
trợ tài chính cho IPO.
phiếu lần đầu ra công chúng.
- Cho vay để mua lại - Hoặc hỗ trợ việc mua bán/sáp
công ty.
Nguồn: Tổng hợp theoKenny và OECD [36] [37].
nhập với các công ty khác.
14
1.2.3 Vai trò của đầu tư vốn mạo hiểm vào quá trình đổi mới công nghệ đối với
sự tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là một bộ phận quan trọng của đời sống kinh tế xã hội và là
một trong những chỉ tiêu then chốt để đánh giá sự phát triển của một quốc gia. Có
nhiều yếu tố tác động đến sự tăng trưởng của nền kinh tế và tùy vào từng giai đoạn lịch
sử các yếu tố đó được ưu tiên xem xét ở các mức độ khác nhau. Nếu như trước đây
tăng trưởng chủ yếu dựa vào tỷ lệ tiết kiệm, tích lũy tư bản và vốn vật chất, thì ngày
nay tăng trưởng chủ yếu dựa vào nguồn nhân lực, công nghệ, thể chế chính trị và
truyền thống văn hóa
[24]
, trong đó tiến bộ của khoa học công nghệ chính là động lực
của tăng trưởng kinh tế, của tăng năng suất lao động và cải thiện lâu dài mức sống [27].
Có nhiều mô hình khác nhau đề cập đến mối quan hệ giữa phát triển công nghệ
với tăng trưởng kinh tế. Theo Cobb-Douglas thì sản lượng Y = A K a L
(1-a)
, với A là
yếu tố thay đổi công nghệ, K là dòng chảy của các dịch vụ vốn từ lượng vốn, L là số
ngày làm việc của lao động, a là tỷ trọng đóng góp của vốn và (1-a) là phần đóng góp
từ lao động.Trong mô hình này A là tham số quan trọng và cũng là một số đo tốt về
nhân tố năng suất tổng hợp sản xuất (TFP) [8].
TFP là một cách đo lường năng suất của cả vốn lẫn lao động trong một hoạt
động cụ thể hay cho cả nền kinh tế. Có nhiều yếu tố làm TFP tăng trưởng như: chất
lượng của lao động và vốn, tiến bộ công nghệ, mức độ cạnh tranh, lợi ích kinh tế nhờ
quy mô, việc tái phân bổ nguồn lực, chính sách kinh tế…, trong đó yếu tố công nghệ
đóng vai trò rất quan trọng. Thật vậy nó góp phần tăng năng suất của yếu tố lao động
và vốn, nếu việc đầu tư cho khoa học công nghệ là hiệu quả, và do đó tất yếu dẫn đến
sự tăng trưởng kinh tế cao. Do vậy khả năng chuyển đổi những tiến bộ khoa học, công
nghệ thành sản phẩm mới đã trở thành một yếu tố quyết định sự khác biệt trong nhịp
độ tăng trưởng kinh tế giữa các quốc gia [17].
Tuy nhiên việc đầu tư đổi mới công nghệ đòi hỏi phải gia tăng nguồn vốn đầu
tư. Ở các nước đang phát triển vấn đề thiếu vốn để phát triển khoa học công nghệ đáp
ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế trở thành một vòng lẩn quẩn. Thật vậy, vốn ít dẫn đến
mức đầu tư cho khoa học công nghệ thấp, từ đó dẫn đến năng suất thấp và tốc độ tăng
trưởng thấp. Đến lượt tốc độ tăng trưởng thấp tất yếu dẫn đến mức độ tích lũy vốn cho
15
nền kinh tế thấp. Để phá vỡ cái vòng lẩn quẩn đó đòi hỏi nhà nước cần có chính sách
thu hút vốn đầu tư đổi mới công nghệ một cách có hiệu quả nhất. Có nhiều nguồn vốn
khác nhau tài trợ cho việc đổi mới công nghệ. Trong đó vốn mạo hiểm là một trong
những nguồn tài trợ then chốt thúc đẩy sự phát triển khoa học và công nghệ, làm tăng
nhân tố năng suất tổng hợp TFP và do đó thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển bền
vững của nền kinh tế.
Việc thu hút vốn đầu tư mạo hiểm, nhất là từ các nguồn nước ngoài và từ khu
vực tư nhân trong nước, trước hết sẽ làm giảm áp lực về vốn đầu tư cho hoạt động đổi
mới công nghệ. Bên cạnh đó kỹ năng cũng như kinh nghiệm quản lý của nhà đầu tư
mạo hiểm sẽ dẫn đến vốn đầu tư được sử dụng có hiệu quả cho quá trình phát triển và
ứng dụng công nghệ vào các hoạt động kinh tế. Ngoài ra việc đầu tư vốn mạo hiểm vào
quá trình đổi mới công nghệ sẽ tạo cơ hội cho sự phát triển các ngành nghề mới, các
doanh nghiệp mới, do đó góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giảm tỷ lệ thất nghiệp,
thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế một cách bền vững.
Bên cạnh đó vốn đầu tư mạo hiểm cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo
mối liên kết chặt chẽ giữa các tổ chức như các định chế tài chính, các trường đại học,
các doanh nghiệp định hướng công nghệ, các tập đoàn công nghiệp và tạo thành một
“mạng lưới phức tạp” [37]. Các mắc xích trong mạng lưới này liên kết chặt chẽ nhau, hỗ
trợ nhau cùng phát triển. Sự phát triển về chiều sâu và chiều rộng của mạng lưới này
góp phần thúc đẩy sự phát triển khoa học công nghệ, đổi mới hệ thống giáo dục, phát
triển thị trường tài chính, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực phát triển
và ứng dụng công nghệ và do đó góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế của quốc
gia. Hơn nữa sự vận hành có hiệu quả của tổ chức đầu tư mạo hiểm và các tổ chức
trong mạng lưới sẽ hạn chế tình trạng thông tin bất cân xứng
[32]
, góp phần giảm thiểu
rủi ro cho các nhà đầu tư và cho cả nền kinh tế trong quá trình đổi mới.
Thậy vậy để thu hút có hiệu quả vốn đầu tư mạo hiểm vào hoạt động đổi mới
công nghệ, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ của các yếu tố trong hệ thống đổi
mới. Đối với mô hình đổi mới công nghệ dựa vào nguồn vốn đầu tư mạo hiểm thì hệ
thống này bao gồm các mạng lưới liên kết chặt chẽ với nhau tạo thành “cấu trúc xã hội
của đổi mới” [37]. Các mạng lưới chủ yếu của mô hình này bao gồm:
16
Mạng lưới các nhà đầu tư tài chính khác nhau tập trung vốn vào các quỹ
đầu tư mạo hiểm.
Mạng lưới các nhà doanh nhân, các trường đại học… thực hiện việc
nghiên cứu và đề xuất các ý tưởng mới tạo cơ hội cho việc thành lập các
doanh nghiệp định hướng công nghệ.
Mạng lưới các nhà tư vấn chuyên môn trong các lĩnh vực khác nhau cung
cấp thông tin và các dịch vụ cần thiết cho quá trình đổi mới công nghệ.
Mạng lưới các nguồn lực đầu vào cho quá trình đổi mới và đầu ra cho các
sản phẩm hoàn chỉnh.
Tóm lại hiệu quả của đầu tư vốn mạo hiểm trong quá trình đổi mới công nghệ
đối với sự tăng trưởng kinh tế là một minh chứng tiêu biểu cho quan điểm “sự đóng
góp của tài chính vào tăng trưởng dài hạn là là nâng cao năng suất nhân tố tổng hợp
của nền kinh tế chứ không phải lượng vốn” [13] trong giai đoạn hiện nay.
1.3 Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư mạo hiểm vào quá trình đổi mới công nghệ
tại một số quốc gia
1.3.1 Trung Quốc
Trước những nhu cầu phát triển kinh tế khi chuyển sang nền kinh tế thị trường,
Trung Quốc đã tiến hành nhiều chính sách cải cách mạnh mẽ nhằm vực dậy nền kinh
tế, trong đó chính sách phát triển KHCN thông qua hệ thống đổi mới có hiệu quả là vấn
đề then chốt của nền kinh tế..
Ngành công nghiệp vốn đầu tư mạo hiểm tại Trung Quốc bắt đầu giữa những
năm 1980. Trong thời gian này chính phủ Trung Quốc đã thành lập “Công ty đầu tư
mạo hiểm công nghệ cao” (1986) từ nguồn vốn nhà nước nhằm mục tiêu hỗ trợ chính
sách đổi mới công nghệ quốc gia. Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư mạo hiểm
tại Trung Quốc không ổn định, thời gian đầu do thiếu kinh nghiệm nên chính sách của
nhà nước cũng như của khu vực tư nhân đối với đầu tư vốn mạo hiểm đã thất bại.
Trong thời gian này Trung Quốc chưa có đầy đủ cơ sở hạ tầng cần thiết cho việc đầu tư
vốn mạo hiểm vào quá trình đổi mới công nghệ do:
17
Cở sở pháp lý cho hoạt động của quỹ đầu tư mạo hiểm chưa đầy đủ.
Qúa trình chuyển đổi nền kinh tế vẫn còn tồn tại những quan điểm tiêu cực
trong các định chế công.
Sự hạn chế về lối thoát cho các nhà đầu tư mạo hiểm khi kết thúc doanh vụ.
Các dịch vụ (tư vấn, pháp lý, quản trị…) hỗ trợ hoạt động đầu tư mạo hiểm
chưa phát triển.
Các nhà đầu tư mạo hiểm chưa am hiểu tập quán cũng như văn hóa kinh
doanh của người Trung Quốc.
Nguồn cung từ thị trường lao động cao cấp chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu của
các công ty đầu tư vốn mạo hiểm.
Tuy nhiên vốn đầu tư mạo hiểm tại Trung Quốc vẫn tiếp tục tăng đều đặn vào
những năm sau đó. Đến năm 2002 Trung Quốc có 160 công ty đầu tư mạo hiểm nội địa
và 50 công ty của nước ngoài với tổng vốn mà các quỹ đang quản lý vào năm 2001 là
khoảng 6 tỷ USD. Để thu hút vốn đầu tư mạo hiểm vào phát triển các lĩnh vực công
nghệ cao, Trung Quốc đã thực hiện một số chính sách:
Khẳng định vốn đầu tư mạo hiểm và quá trình thương mại hóa công nghệ
mới là động lực cho sự tăng trưởng và sự sống còn của nền kinh tế quốc gia.
Phát triển vườn ươm tạo và các chương trình công nghệ nhằm thúc đẩy
thương mại hóa quá trình nghiên cứu thông qua phát triển công nghệ cao và
cải thiện môi trường kinh doanh.
Giảm thiểu các thủ tục thành lập doanh nghiệp công nghệ cao và các công ty
đầu tư vốn mạo hiểm thông qua việc phân quyền cho các cấp địa phương.
Đa dạng hóa các hình thức công ty đầu tư mạo hiểm dưới các hình thức sở
hữu của nhà nước, các trường đại học, các tập đoàn công nghiệp, các công ty
đã niêm yết trên TTCK, các công ty FDI…
Ưu tiên đầu tư vốn mạo hiểm vào các lĩnh vực công nghệ cao như: điện tử và
CNTT, công nghệ sinh học, vật liệu mới, quang học, công nghệ tiết kiệm
năng lượng, công nghệ bảo vệ môi trường, năng lượng mới …
Từng bước hoàn chỉnh khuôn khổ pháp lý cho hoạt động đầu tư vốn mạo
hiểm vào các hoạt động đổi mới công nghệ thông qua việc xây dựng luật về
18
đầu tư mạo hiểm, luật về khuyến khích đầu tư vốn mạo hiểm trong các lĩnh
vực công nghệ cao…
Tóm lại chính phủ Trung Quốc đã thực hiện nhiều chính sách thu hút vốn đầu tư
mạo hiểm vào quá trình đổi mới công nghệ, mặc dù hiện nay vẫn chưa có bằng chứng
về hiệu quả của việc đầu tư này nhưng chúng là nền tảng để kích thích quá trình đổi
mới công nghệ và gia tăng năng lực cạnh tranh của Trung Quốc trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế.
1.3.2 Ấn Độ
Vốn đầu tư mạo hiểm được đề cập tại Ấn Độ từ rất sớm vào những năm 70. Tuy
nhiên vào những năm 80, nhà nước Ấn Độ mới có những chính sách can thiệp trực tiếp
nhằm phát triển hình thức đầu tư vốn mạo hiểm trong xã hội. Quá trình hình thành và
phát triển thị trường vốn đầu tư mạo hiểm và công nghệp đầu tư mạo hiểm tại Ấn Độ
trải qua 2 giai đoạn chủ yếu: giai đoạn hình thành những định chế đầu tư vốn mạo hiểm
đầu tiên được xã hội công nhận và giai đoạn tăng trưởng nhanh chóng của vốn đầu tư
mạo hiểm tại Ấn Độ.
Trong giai đoạn đầu 1986-1995, nhà nước can thiệp và kiểm soát chặt chẽ hoạt
động đầu tư vốn mạo hiểm thông qua các chính sách:
Khuyến khích nghiên cứu đổi mới và ứng dụng công nghệ mới trong các lĩnh
vực công nghiệp điện tử, phần mềm, truyền thông và các ngành công nghiệp
mới nổi thông qua chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng, chính sách phát triển
doanh nghiệp vừa và nhỏ, chính sách thuế, chính sách tài chính hỗ trợ cho
các doanh nghiệp từ các Quỹ phát triển công nghiệp, một quỹ phôi thai cho
việc hình thành quỹ đầu tư mạo hiểm ở Ấn Độ.
Xây dựng cơ sở pháp lý cho việc đầu tư vốn mạo hiểm bao gồm các vấn đề:
qui chế hoạt động của các công ty đầu tư mạo hiểm từ các tổ chức tài chính
nhà nước, khuyến khích hoạt động đầu tư mạo hiểm vào quá trình đổi mới
công nghệ, qui định về ưu đãi thuế thu nhập đối với các công ty đầu tư mạo
hiểm…
19
Cho phép tổ chức quốc tế đầu tiên (WB) tham gia vào việc xây dựng thể chế
và cung cấp nguồn vốn cho hoạt động đầu tư mạo hiểm tại Ấn Độ.
Giai đoạn từ năm 1996 đến 2000 dòng vốn mạo hiểm mới chảy vào Ấn Độ tăng
nhanh chóng. Nguyên nhân chủ yếu của việc tăng nhanh vốn đầu tư mạo hiểm trong
thời gian này là do:
Chính phủ đã ban hành các đạo luật khuyến khích đầu tư trực tiếp nước
ngoài, ban hành luật về Quỹ đầu tư mạo hiểm (1996), ban hành luật về đầu
tư vốn mạo hiểm nước ngoài (2000).
Chính phủ khuyến khích khu vực tư nhân trong nước và nước ngoài tham gia
góp vốn vào các quỹ đầu tư mạo hiểm, không có sự phân biệt đối xử với các
định chế đầu tư mạo hiểm từ nguồn vốn nhà nước ở giai đoạn trước đó.
Sự đa dạng của các hình thức tổ chức đầu tư mạo hiểm, của các nguồn vốn
đầu tư (ngân hàng, bảo hiểm, các quỹ đầu tư khác) và sự linh hoạt trong lối
thoát cho nhà đầu tư mạo hiểm là yếu tố quan trọng thúc đẩy dòng vốn mạo
hiểm tiếp tục quay trở lại đầu tư tại Ấn Độ.
Chính phủ tiếp tục xúc tiến hoạt động đầu tư vào các vườn ươm tạo công
nghệ nhằm cung cấp các dịch vụ làm tăng giá trị tài sản của các nhà đầu tư
mạo hiểm trong đối tác được tài trợ thông qua hệ thống tư vấn, thông tin, tài
chính, nguồn nhân lực…
Sự thành công của các nhà kinh doanh Ấn Độ tại thung lũng Silicon vào
những năm 80 cùng với sự bùng nổ của ngành CNTT trong giai đoạn này đã
kích thích mạnh mẽ dòng vốn đầu tư mạo hiểm chảy vào Ấn Độ.
Nguồn lao động CNTT của Ấn Độ có kỹ năng cao, thông thạo tiếng Anh và
giá nhân công rẻ góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp phần mềm từ Mỹ và
các nước phát triển chuyển sang đầu tư tại Ấn Độ và do đó kéo theo cả dòng
vốn đầu tư mạo hiểm.
Như vậy sự tăng trưởng của vốn đầu tư mạo hiểm trong thời gian này chủ yếu là
do khả năng đón bắt kịp thời cơ hội phát triển CNTT của Ấn Độ trong thời kỳ bùng nổ
nền kinh tế “dot.com” trên toàn cầu.