Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

RỒNG TRONG tâm THỨC VIỆT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (887.12 KB, 17 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
NỘI DUNG ................................................................................................... 2
1. Lịch sử hình thành hình tượng con rồng trong nền Mĩ thật Việt Nam 2
2. Đặc điểm Rồng Việt Nam ................................................................... 2
3. Hình tượng Rồng qua các triều đại phong kiến Việt Nam .................. 3
KẾT LUẬN ................................................................................................. 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 16


MỞ ĐẦU
Đối với người Việt, con rồng đã ăn sâu trong tâm trí của mỗi người, rồng
được xem là thủy tổ của dân tộc. Người dân Việt dù đi bất cứ nơi đâu cũng
tự hào mình là con rồng cháu tiên. Còn theo truyền thuyết của người Hoa,
rồng là con vật rất cổ xưa và linh thiêng. Rồng tượng trưng cho vận may và
là biểu tượng của sức mạnh và uy quyền. Các triều đại phong kiến Trung
Quốc đã lấy con rồng làm biểu tượng cho các bậc quân vương từ rất sớm,
thời Trần Thủy Hoàng và họ cho rằng vua chúa là sự hoá thân của rồng nơi
trần gian.
Trong cuộc sống người Hoa cũng thích rồng, hình tượng rồng có nhiều trong
các trò chơi dân gian vào những dịp lễ tết, hội hè, khai trương như múa lân,
rồng…với hy vọng Lân, rồng mang lại mang lại vận may trong làm ăn, mua
bán, mang lại hạnh phúc ấm no cho gia đình. Con rồng trong dân gian của
người Trung Quốc là sự kết hợp 36 bộ phận tiêu biểu của 36 con vật có gốc
Totem của các bộ tộc người Trung Hoa cổ xưa.
Riêng ngừơi Việt, rồng là con vật gắn liền với thực tại, đem lại mưa thuận
gió hòa, đem lại sự màu mỡ, phì nhiêu cho đất đai. Rồng được xem là con
vật linh thiêng, biểu trưng cho uy quyền và hạnh phúc. Trong việc xây dựng
cung điện, lăng tẩm, đình chùa, miếu mạo…đều được các nhà địa lý xem xét
tới long mạch và được trang trí nhiều rồng. Trong chế độ phong kiến, rồng


có liên quan đến vua chúa như Long bào, Long sàng…nhiều địa danh sông
núi cũng được gắn liền với rồng như: Thăng Long, cầu Hàm Rồng, Cửu Long
Giang…
Rồng là biểu tượng của sự cao quý, của sức sống vĩnh hằng và sức mạnh vũ
trụ nên hình tượng rồng được sử dụng nhiều trong kiến trúc cung đình, đình
chùa, trang phục vua chúa… Hình tượng con rồng cũng thay đổi theo dòng
lịch sử qua các triều đại. Việc xác định phong cách thể hiện con rồng qua các
thời kỳ sẽ là một căn cứ để xác định niên đại công trình kiến trúc nào đó.
Trong thời đại phong kiến Việt Nam nối tiếp nhau cũng đều lấy rồng làm
biểu tượng cho thế lực và uy quyền của quân vương. Do vậy, hình tượng
rồng không ngừng được sáng tạo, thay đổi kiểu dáng…trong qúa trình ấy
rồng cũng luôn gắn bó với dân tộc trong các thời kỳ dựng nước và giữ nước.
Hình tượng con rồng của người Việt qua mỗi triều đại có những nét riêng,
phong cách riêng. Điều đó thể hiện rất rõ trên tranh vẽ, gốm, điêu khắc, sơn
mài…

1


NỘI DUNG
1. Lịch sử hình thành hình tượng con rồng trong nền Mĩ thật Việt
Nam
Từ xa xưa con Rồng đã có trong tâm thức người Việt, nhiều huyền thoại về
rồng, với biểu hiện linh thiêng. Rồng là điểm hội tụ với ý nghĩa vũ trụ và
nhân sinh. Người Việt có nguồn cội Lạc Hồng (Lạc Long Quân và Âu Cơ).
Rồng là biểu tượng vật linh trong tín ngưỡng văn hoá dân gian. Rồng được
sáng tạo thành hình tượng nghệ thuật và có mặt trong các thời kỳ nghệ thuật
truyền thống của các vương triều tự chủ.
Người Việt sống tại vùng sông nước nên từ xưa họ đã tôn sùng cá sấu như
một con vật linh thiêng, vì chúng đại diện cho sự trù phú và sức mạnh, thời

kỳ này vùng đất người Việt sống còn rất nhiều cá sấu. Họ đã thần thánh hóa
loài cá sấu lên thành con Giao Long mà người Trung Hoa gọi sau này, một
cách thức tô điểm cho hình hài con cá sấu nhiều chi tiết tưởng tượng và cũng
nhiều ý nghĩa hơn. Con rồng này tồn tại cùng tâm thức của người Việt trong
suốt thời Văn Lang - Âu Lạc. Rất có thể từ con Giao Long này mà người
Trung Hoa đã tạo ra con rồng Trung Hoa của họ.
Trong cả thiên niên kỉ bị đô hộ bởi Trung Hoa, trong hoàn cảnh chung của
chính sách Hán hóa, hình ảnh con rồng Việt Nam phát triển theo các xu
hướng giống với con rồng của người Hán. Đến khi giành được độc lập, hình
tượng con Rồng sáng tạo không chỉ mang tính ứng dụng trang trí trong
Hoàng cung, các ngôi chùa, cung điện mà còn có giá trị cái đẹp tạo hình.
Hình tượng Rồng phát triển ở các vương triều, mỗi thời đều có đặc điểm
phong cách đặc trưng. Cơ sở nhận diện hình tượng trên các phần thể hiện:
Đầu Rồng (mắt, mũi, mồm, râu, bờm, sừng); hình dáng thân Rồng (các khúc
uốn lượn); các chi tiết (vây, móng, đuôi) và đối chiếu với niên đại di tích để
xác định Rồng các thời.
2. Đặc điểm Rồng Việt Nam
Hình tượng Rồng được sáng tạo, thể hiện phong phú, chiếm vị trí quan trọng
trong các hợp thể kiến trúc (hoàng cung hay chùa, miếu, đền, đình). Các
vương triều đều lấy hình tượng Rồng là biểu tượng quyền uy của vương
triều. Từ thời Lý, thời Trần, thời Lê sơ phong cách Rồng nhất quán hoặc tập
trung rõ đặc trưng (ở đầu và khúc uốn). Từ thời Mạc đến thời Nguyễn hình
Rồng có nhiều biến đổi và đa dạng. Nét tiêu biểu tập trung ở các di tích trung
tâm. Những văn bia phát triển, ta biết được xuất xứ nội dung, niên đại là
những giá trị để ta xác định thời đại các chạm khắc hình Rồng. Các hình
tượng Rồng thời sau một mặt kế thừa thời trước, mặt khác muốn tìm ra những

2



cái riêng về phong cách của vương triều mình. Những nét đặc trưng tiêu biểu
của hình tượng Rồng ở các thời được nhận diện với sự so sánh, đối chiếu để
xác định phong cách nghệ thuật. Hình Rồng mỗi vương triều đều có đặc
điểm và phong cách trong sự phát triển của nghệ thuật tạo hình truyền thống.
Nó không chỉ ở sử dụng mà còn là dấu ấn quan niệm thẩm mỹ, sắc thái dân
gian mang đặc thù dân tộc.
Nhìn chung, Rồng Việt Nam luôn có những mô-típ rõ ràng đặc trưng:
 Thân rồng uốn hình sin 12 khúc, đại diện 12 tháng trong năm, biểu
trưng cho sự thay đổi thời tiết năm tháng, sự trù phú và phồn vinh của
nền văn hóa nông nghiệp lúa nước. Thân mềm mại uốn lượn thể hiện
sự biến hóa và khả năng thay đổi, dịch chuyển thiên nhiên của con
rồng cai quản thời tiết, mùa màng. Trên lưng có vây nhỏ liền mạch và
đều đặn.
 Đầu rồng là phần rất đặc biệt, hoàn toàn khác rồng Trung Hoa. Nó có
bờm dài, râu cằm, không sừng (như rồng Trung Hoa). Mợng Rồng trang nghiêm, râu bờm và sừng nổi cao dũng
mãnh uy quyền. Những chạm khắc trìu tượng hình rồng uốn khúc ở mặt
ngoài thành bậc đá của điện Lam Kinh (Thanh Hóa), Điện Kính Thiên, Đàn
Nam Giao (Hà Nội) trong khung tam giác vuông viền hình hoa chanh, đều
chạm hoa văn hoa sen, hoa cúc và lá cách điệu, mây xoắn cuộn, nổi ở giữa
là hình đao ngọn lửa (gọi là mây đao lửa). Còn thấy hình Rồng 4 móng kết
với hình mây hoa lá trên các văn bia (Văn Miếu). Những chạm khắc hình
Rồng và các mô típ Mây đao lửa, hoa văn với nét chạm sắc sảo, điêu luyện,
bố cục chặt chẽ với đặc trưng riêng, tiêu biểu phong cách thời Lê Sơ.
Rồng Lê sơ xuất hiện khi Nho giáo và văn hóa Trung Hoa thâm nhập mạnh
mẽ vào nước ta. Rồng lúc này trở thành biểu trưng cho vua, cho quyền thế
vương triều, nên ít nhiều chịu ảnh hưởng bởi biểu tượng rồng bên Trung
Hoa.

9



Hình 3: Đôi rồng đá thềm trước Điện Kính Thiên (thời Lê Sơ)

 Rồng thời Mạc (TK XVI)
Hình tượng Rồng thời Mạc kế thừa rồng truyền thống Lý, Trần, và cả rồng
thời Lê sơ. Đặc điểm chung là: thân mập, uốn lượn đều đặn, bờm kéo dài
uốn theo xuống nửa lưng, mây đao lửa điểm xuyết trên thân, sóng cuộn dưới
bụng, chân ngắn, lông khủyu sợi đơn uốn xoắn. Đầu rồng có sừng hai chạc,
hai mắt lồi, mũi sư tử, mồm thú nhô ra phía trước. Các chân Rồng thường
chạm 4 móng. Hình tượng rồng phát triển trên các chạm khắc Chùa và Đình
làng. Còn hình: Rồng, phượng, lân trang trí trên gạch chùa Ông, chùa Trăm
gian, và chùa Bối Khê… Hoặc Gốm đất nung: Rồng, Phượng, con Xô, con
Kìm là gắn trên bờ nóc, bờ giải, các đầu đao, tầu mái: cung điện, đình, chùa.
Hiện còn thấy hai đầu rồng: có sừng hai chạc, mắt lồi, tai to, mồm sư tử cao
0.85cm trên hai bờ mái ở chùa Mui (Hà Tây cũ). Hình Rồng mây trang trí
trên gốm dáng uốn lượn, thân hình khỏe chắc. Đình là công trình to lớn, đòi
hỏi nhu cầu thẩm mỹ với giá trị nghệ thuật. Những thành phần kiến trúc gỗ
vốn nặng nề, thô mộc của kết cấu Kiến trúc gỗ. Ta thấy chạm đề tài Tứ linh,
như các đầu dư chạm “Đầu Rồng ngậm ngọc”, đầu bẩy, các kẻ hiên chạm
các đề tài như: Rồng cuốn thủy, Cá hóa Rồng. Các cốn, các vì nóc chạm
Rồng, Lân. Bức chạm gỗ “Rồng Nho học” ở đình Vân Sa (Ba vì, Sơn Tây)
độc đáo, thể hiện Rồng bố đang cầm bút nho chỉ bảo, các Rồng con giơ sách
dâng lên, nhằm ca ngợi việc học hành. Thể hiện rõ bàn tay (người) cầm bút,
tay dâng sách rất rõ. Hình tượng Rồng được nhân hóa, đó là nét mới rồng
gắn với đời thường. Những chạm khắc ở đình Thổ Hà (Bắc Giang), đình Tây
Đằng (Ba Vì, Sơn Tây), đình Lỗ Hạnh (Bắc Giang) thể hiện Rồng và các vật
linh. Tượng Rồng thành bậc (đá) chùa Nhân Trai (Hải Phòng) uốn lượn đều
đặn, sừng quặp ra sau, bờm kéo dài uốn xuống lưng. Bia chùa Trà Phương
10



chạm khái quát Rồng Phượng. Các hình Long - Lân chùa Trăm gian, chùa
Đậu, chùa Bối Khê thể hiện những bố cục sinh động, khối hình khỏe khoắn,
đậm tính cách dân gian. Bia đá thời Mạc phát triển, Rồng trang trí trên trán
bia, diềm bia, các góc của bia.

Hình 4: Hình rồng trên lư hương thời Mạc

 Rồng thời Lê Trung Hưng (TK XVII)
Thời này phục hưng những giá trị nghệ thuật truyền thống nhà Lê. Hình rồng
là mô típ tiêu biểu, đặc trưng, thoát khỏi hình thức khuôn mẫu, để trở về
nguồn, với ý nghĩa giá trị sáng tạo mới. Hình Rồng với đầu nhô, có sừng, hai
râu mép dài uốn lượn duỗi ra phía trước, tạo dáng rồng thêm sinh động. Rồng
kết hợp hoa văn mây lửa vẽ men xanh lưu loát. Kỹ thuật vẽ men màu và kỹ
thuật đắp nổi trên gốm điêu luyện. Đặc điểm hình Rồng cũng có thay đổi.
Đầu Rồng đơn giản, thường chỉ thấy râu cằm thưa nhọn, bờm ngắn tỏa hình
quạt. Mào Rồng thanh mảnh uốn lượn kéo dài ra phía trước, hoặc rủ xuống
hai bên. Các hình mây đao lửa thường vút lên từ đầu các chân Rồng. Hình
Rồng với mây đao lửa vẫn duy trì nhưng ở cuối thế kỷ XVII các mây đao
lửa có chiều hướng ngắn lại, và thưa. Độ uốn lượn của đao mây ít lại, thường
chỉ còn hai khúc uốn rồi bắt sang chiều ngang của đao mây. Ngoài hình
11


tượng rồng còn xuất hiện các loài vật hóa rồng như ngựa hóa rồng (còn gọi
là Long Mã) hay cá hóa rồng. Thậm chí, cả cây trúc cũng hóa rồng. Rồng
còn đi sâu vào kiến trúc đình làng dân dã và đã bị “giải thiêng” phần nào khi
trên các mảng chạm rồng lại có cảnh trai gái đang tình tự, tiên cưỡi rồng, các
con vật như thạch sùng, rắn leo trèo trên râu rồng. Tại đình Thổ Hà – Bắc
Giang, hình ảnh rồng đang “phủ” thú như một minh chứng rằng đến giai

đoạn này rồng đã đi sâu vào dòng văn hóa dân gian mà bớt đi tính vương
quyền.

Hình 5: Lư hương trang trí hình rồng thời Lê Trung Hưng (thế kỉ XVII)

 Rồng thời Lê Mạc (TK XVIII)
Hình Rồng thân ngắn và các khúc uốn thường chỉ 3 đến 4 lần cong uốn, chỉ
làm to khúc uốn liền đầu, các khúc sau thường ngắn và thuôn gần thẳng về
đuôi. Chân Rồng 4 móng. Hình mây đao lửa gần như mất. Mây chuyển sang
các hình dải thưa vắt vào chân Rồng, điển hình như: “Hai Rồng chầu mặt
trời” chạm đá bia chùa Chuông 1711 (Kim Thi - Hưng Yên), và chạm đá bia

12


đền Din (Nam Dương - Nam Ninh - Nam Định). Hoặc hình Rồng biến thành
hình mây, như: “Hai Rồng mây hóa chầu mặt trời” chạm đá bia chùa Côn
Sơn 1788 (Chí Linh - Hải Dương).

Hình 6: Rồng thời Lê Mạc (TK XVIII)

 Rồng thời Nguyễn (TK XIX - đầu TK XX)
Rồng thời Nguyễn đã trở lại với vẻ đẹp uy nghi tượng trưng cho sức mạnh
thiêng liêng hình tượng rồng ngậm chữ thọ, hai rồng chầu mặt trời, chầu hoa
cúc, chầu chữ thọ thể hiện sự hiếu thảo của con cháu đối với ông bà cha mẹ.
Thời Nguyễn, các tác phẩm văn hóa nghệ thuật đã gắn liền với hình tượng
rồng và cho đến hiện nay nó vẫn được bảo tồn vô số. Rồng được chạm khắc
lên vàng bạc, những chiếc bình phong và trấn phong vô giá hình tượng rồng
trên những vật phẩm đó được tạo hình với nhiều kiểu dáng: uốn khúc cong,
ngồi xổm, nằm sấp, nằm ngửa… Tuy có nhiều hình dáng sôi động vậy nhưng

rồng vẫn giữ được vẻ oai nghiêm tượng trưng cho vẻ đẹp và quyền lực của
các vua chúa thời bấy giờ. Trên những chiếc bình phong, thường được tạo
tác thành từng đôi đối xứng, kiểu rồng chầu mặt trời, mặt trăng hay mặt rồng
nhìn thẳng thể hện ước muốn một quốc gia một đất nước phát triển hùng
cường, một dân tộc luôn luôn tôn kính với các đấng thần linh trên trời cao
cầu mong cho .mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt. Hình rồng đặc trưng
nhất phải kể đến là hình rông khắc trên Cao đỉnh trước tòa Thế Miếu trong
hoàng thành Huế đó là hình tượng phi long tại thiên (rồng bay giữa trời) với
khí thế hiên ngang, ung dung tự tại giữa mây lành, thân rồng lẫn vào mây
chỉ lộ rõ đầu đuôi và bàn chân có 5 móng vuốt, đó cũng chính là hình ảnh vị
13


hoàng đế ỏ ngôi vị cao nhất cai trị thiên hạ. Rồng thời Nguyễn được thể hiện
trên nhiều chất liệu như: sơn mài, sơn thếp, vàng bạc ngọc ngà, xương, đồ
gốm, đồ dệt thêu… mà trên chất liệu nào cũng không có ít các tác phẩm xuất
sắc, đạt được các thành tựu trên chỉ có thể lí giải rằng nguyên do, Rồng đã
trở thành đặc trưng của văn hóa Việt. Nhìn chung rồng thời này trông mạnh
mẽ, uy nghi, biểu trưng cho vương quyền phong kiến nhà Nguyễn hùng
mạnh.

Hình 7: Hình tượng Rồng thời Nguyễn

Hình 8: Hình tượng rồng thời nhà Nguyễn (1802 - 1945)

14


KẾT LUẬN
Nhìn lại lịch sử mỹ thuật truyền thống Việt Nam bằng cách sắp xếp hiện vật

nghệ thuật Điêu khắc và Trang trí từ niên đại đầu thế kỷ 11 đến đầu thế kỷ
20, tìm ra những đặc trưng tiêu biểu để xác định phong cách. Trong đó hình
tượng Rồng được sáng tạo, thể hiện phong phú, chiếm vị trí quan trọng trong
các hợp thể kiến trúc (hoàng cung hay chùa, miếu, đền, đình). Các vương
triều đều lấy hình tượng Rồng là biểu tượng quyền uy của vương triều. Từ
thời Lý, thời Trần, thời Lê sơ phong cách Rồng nhất quán hoặc tập trung rõ
đặc trưng (ở đầu và khúc uốn). Từ thời Mạc đến thời Nguyễn hình Rồng có
nhiều biến đổi và đa dạng. Nét tiêu biểu tập trung ở các di tích trung tâm.
Những văn bia phát triển, ta biết được xuất xứ nội dung, niên đại là những
giá trị để ta xác định thời đại các chạm khắc hình Rồng. Các hình tượng
Rồng thời sau một mặt kế thừa thời trước, mặt khác muốn tìm ra những cái
riêng về phong cách của vương triều mình. Những nét đặc trưng tiêu biểu
của hình tượng Rồng ở các thời được nhận diện với sự so sánh, đối chiếu để
xác định phong cách nghệ thuật. Hình Rồng mỗi vương triều đều có đặc
điểm và phong cách trong sự phát triển của nghệ thuật tạo hình truyền thống.
Nó không chỉ ở sử dụng mà còn là dấu ấn quan niệm thẩm mỹ, sắc thái dân
gian mang đặc thù dân tộc.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Lịch sử mĩ thuật Việt Nam (NXB Đại học sư phạm) - Phạm Thị Chỉnh
2.
Mĩ Thuật Thời Lê Sơ (NXB Văn Hóa 1978) - Nguyễn Đức Nùng
vi.wikipedia.org/wiki/Nghệ_thuật_Việt_Nam...
3.
/>yenthong/2010/10/2572.html
4.

/>5.
/>
16



×