TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA KINH TẾ PHÁT TRIỂN
TÊN ĐỀ ÁN :
MỐI QUAN HỆ GIỮA LÃI SUẤT VÀ QUY MÔ VỐN
ĐẦU TƯ. VẬN DỤNG PHÂN TÍCH ĐÁNH GIÁ TÌNH
HÌNH ĐẦU TƯ CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 20002010
GVHD : Nguyễn Khánh Duy
SVTH : Trịnh Thị Xuân Hiền
NĂM 2012
LỜI CẢM ƠN
٭٭٭
Viết một chuyên đề tốt nghiệp là một trong những việc khó khăn mà chúng em
phải hoàn thành từ trước đến nay. Trong quá trình thực hiện đề tài, em đã gặp nhiều
khó khăn và bỡ ngỡ. Nếu không có sự giúp đỡ và sự động viên của chân thành của
nhiều người em khó có thể hoàn thành tốt chuyên đề tốt nghiệp này.
Đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến thầy Nguyễn Khánh Duy, người
đã trực tiếp hướng dẫn, tạo điều kiện cho em có cơ hội được tìm hiểu sâu sắc những
kiến thức trong lĩnh vực K i n h t ế . Bằng kiến thức chuyên môn sâu rộng cùng sự
nhiệt tình, cô đã giúp em sáng tỏ nhiều vấn đề và đặc biệt đã hướng dẫn em hoàn
thành chuyên đề tốt nghiệp này và cho em nhiều ý kiến quý báu.
Em xin chân thành cảm ơn đến các cô chú anh chị tại cơ quan đã chỉ dạy em trong
quá trình thực tập.
Trên con đường góp nhặt những kiến thức quý báu của ngày hôm nay, các Thầy
Cô trường Đại học kinh tế TP. HCM là những người đã cho em những kiến thức quý báu
như ngày hôm nay. Cuối cùng em xin chúc quý Thầy Cô, Anh Chị sức khỏe, công tác tốt.
Em xin chân thành cảm
GIỚI THIỆU CHUNG
1. Lý do chọn đề tài:
Phát triển kinh tế bền vững là đích hướng tới của mọi quốc gia trên thế giới hiện
nay, dù quốc gia đó theo những thể chế xã hội khác nhau. Việt Nam cũng không nằm
ngoại lệ, từ khi giải phóng đến nay Việt Nam luôn kiên định với mục tiêu phát triển nền
kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa nhằm rút ngắn khoảng cách với các
nước khác. Thế nhưng để làm được như vậy thì Việt Nam cần phải có một tiềm lực kinh
tế vững mạnh. Đặc biệt trong nền kinh tế bất ổn như hiện nay, vấn đề vốn là yếu tố quan
trọng được chính phủ và các nhà đầu tư quan tâm bởi nó tác động mạnh mẽ tới nền kinh
tế Việt Nam.
Trong khi đó, bản thân vốn đầu tư chịu tác động của rất nhiều các nhân tố, trong
đó lãi suất là một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến quy mô vốn đầu tư. Vậy
bản chất lý luận trên ra sao và thực trạng mối quan hệ trên ở Việt Nam như thế nào?
Những vấn đề trên đòi hỏi việc nghiên cứu mối quan hệ giữa lãi suất tiền và và qui mô
vốn đầu tư dưới góc độ lý luận và thực tiễn là hết sức cần thiết.
Thế nhưng hiện nay có rất ít đề tài nghiên cứu một cách sâu sắc vấn đề trên chủ
yếu là các nghiên cứu đơn lẻ về thực trạng lãi suất hoặc thực trạng tình hình đầu tư tại
Việt Nam. Chính vì vậy trong phạm vi đề tài này, với các kiến thức về tài chính kết hợp
với kinh tế học nhằm đưa ra mối quan hệ của hai nhân tố trên để từ đó có thể đưa đến một
cái nhìn tổng quát về thực trạng đầu tư Việt Nam trong giai đoạn 2000-2010, đồng thời
nhận định xu hướng phát triển Việt Nam trong những năm tiếp theo.
Tôi xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Khánh Duy đã giúp đỡ tôi trong thời
gian qua để hoàn thiện bài nghiên cứu này. Do thời gian nghiên cứu và kiến thức là có
hạn nên bài còn có những thiếu sót, tôi rất mong nhận được sự góp ý của các bạn để bài
viết được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
2.
Câu hỏi nghiên cứu:
Lãi suất tác động như thế nào tới quy mô đầu tư ?
Mối quan hệ giữa lãi suất và quy mô đầu tư ra sao ?
Diễn biến đầu tư tại Việt Nam trong giai đoạn 2000-2010 ra sao ?
Các biện pháp gì để ra nhằm thúc đẩy đầu tư tại Việt Nam ?
3.
Phương pháp nghiên cứu.
Sử dụng phương pháp định tính nhằm đưa ra mối quan hệ giữa lãi suất và quy mô
vốn đầu tư với nguồn tài liệu về Kinh Tế Học
Sử dụng phương pháp thống kê mô tả và phương pháp OLS để nhận định tình hình
đầu tư tại Việt Nam trong giai đoạn 2000-2010 với nguồn số liệu tại Tổng cục thống kê
Việt Nam.
4.
Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu quy mô đầu tư Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2000-2010 dựa vào
dữ liệu của Tổng cục thống kê Việt Nam, ngân hàng nhà nước Việt Nam
5.
Ý nghĩa thực tiễn :
-
Nghiên cứu này nhằm giúp cho mọi người thấy được mối quan hệ của lãi suất cho
vay và quy mô vốn đầu tư đồng thời cho thấy tầm quan trọng của vốn đối với đầu tư ra
sao. Và chính phủ muốn thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam thì phải có một hệ thống tài chính
ổn định và một cơ chế hợp lý nhằm giúp các doanh nghiệp Việt Nam mở rộng quy mô
đầu tư cũng như thu hút một lượng lớn nguồn vốn nước ngoài.
PHẦN 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
I)
Lãi suất:
1) Khái niệm về lãi suất :
-
Theo quan điểm của Marx: Lãi suất là một phần giá trị thặng dư mà nhà tư bản sản
xuất phải trả cho nhà tư bản tiền tệ về việc đi vay vốn. Marx đã đồng nhất lãi suất với tỉ
suất lợi tức. (Nguồn:Giáo trình Kinh tế học Chính trị Mác – Lê nin (tái bản), Hội đồng
Trung ương, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2005)
-
Theo các nhà kinh tế học cổ điển coi lãi suất là một hiện tượng thực tế, được xác
định bởi áp lực của năng suất - cầu về vốn cho mục đích đầu tư - và tiết kiệm.
-
Theo quan điểm của John Maynard Keynes lập luận rằng lãi suất là một hiện
tượng tiền tệ phản ánh mối quan hệ giữa cung và cầu về tiền. Cung tiền được xác định
một cách ngoại sinh, cầu tiền phản ánh các nhu cầu đầu cơ, phòng ngừa và giao dịch về
tiền. (Nguồn: Sách lịch sử các học thuyết kinh tế- Nguyễn Văn Trình, Nguyễn Tín Dũng,
Vũ Văn Nghinh, NXB Đại học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2000)
-
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học lượng cầu tài sản: Thế giới tiền mặt gồm
hai loại: tiền mặt và cổ phiếu, trái phiếu. Theo họ lãi suất là chi phí của việc giữ tiền và
các tài sản tài chính.
-
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại: Lãi suất là chi phí cho việc sử
dụng vay vốn, sử dụng các dịch vụ tài chính.
-
Theo quan điểm của ngân hàng thế giới : Lãi suất là tỉ lệ phần trăm của tiển lãi và
tiền vốn vay.
-
Nói chung lãi suất là giá của vốn, chi phí phải trả cho việc thuê vốn. Trong nền
kinh tế luôn có chủ thể dư thừa vốn, cùng lúc đó có những người có cơ hội đầu tư sinh lời
rất cần vốn nhưng lại thiếu vốn và thị trường tài chính ra đời làm thông suốt quá trình
chuyển vốn từ người thừa vốn sang người cần vốn. Các chủ thể qua quan hệ vay mượn
tín dụng hoặc mua bán các công cụ nợ đều đạt được mục đích của mình. Người thừa vốn
vừa thu lại vốn vừa có khoản lợi tức sinh lợi trong khi người cần vốn có cơ hội đầu tư.
Do vậy trong thị trường tài chính, lãi suất được hiểu theo nghĩa chung nhất là giá cả
của tín dụng, vì nó là giá của quyền được sử dụng vốn vay trong một khoảng thời gian
nhất định, mà người sử dụng phải trả cho người cho vay; là tỷ lệ của tổng số tiền phải trả
so với tổng số tiền vay trong một khoảng thời gian nhất định. Hay nói cách khác lãi suất
là giá mà người vay phải trả để được sử dụng tiền không thuộc sở hữu của họ và là lợi tức
người cho vay có được đối với việc trì hoãn chi tiêu.
-
Lợi tức là một phạm trù kinh tế gắn liền với sự vận động của tín dụng và do bản
chất của tín dụng quyết định. Lợi tức tín dụng là thu nhập mà người cho vay nhận được ở
người đi vay trả cho việc sử dụng tiền vay. Thực chất, lãi suất được biểu hiện bằng quan
hệ tỷ lệ giữa lợi tức tín dụng và tổng số tiền vay trong một thời gian nhất định.
Cơ chế xác định lãi suất:
Tài chính gián tiếp
(Ngân hàng thương mại)
Ngân hàng trung
ương
(Lãi suất)
Chủ thể cho
vay
Chủ thể đi
mượn
Tài chính trực tiếp
(Lãi suất)
2) Các đặc điểm lãi suất:
Là một công cụ để tính lợi nhuận nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất hoặc tinh thần của cả
bên cho vay và bên vay, lãi suất có những đặc điểm cơ bản sau đây:
-
Thứ nhất, lãi suất được phát sinh chủ yếu trong các hợp đồng vay tài sản: Qua
nghiên cứu có thể thấy lãi suất có thể xuất hiện trong các hợp đồng đầu tư, cho thuê tài
chính hoặc các hợp đồng khác và là cơ sở để tĩnh lãi. Tuy nhiên, lãi suất chủ yếu vẫn
được tồn tại trong các hợp đồng vay bởi lẽ trong hợp đồng vay bên vay chỉ phải trả lại tài
sản vay sau một thời hạn nhất định do đó phải có một tỉ lệ xác định để tính lãi tương ứng
với thời hạn vay. Hơn nữa, nếu trong các hợp đồng khác như thuê tài chính, đầu tư thì cơ
sở để tính lãi còn dựa trên nhiều yếu tố khác như chi phí bỏ ra, công sức đóng góp… còn
trong hợp đồng vay thì cơ sở để tính lãi chủ yếu vẫn là lãi suất do các bên thoả thuận
hoặc do pháp luật quy định.
-
Thứ hai, lãi suất không được phát sinh một cách độc lập, nó chỉ phát sinh do thoả
thuận của các bên sau khi đã thoả thuận được số vay gốc. Bản chất của lãi suất là một tỉ
lệ nhất định mà bên vay phải trả cho bên cho vay dựa vào số tiền vay gốc trong một thời
hạn nhất định. Do đó, sẽ không thể có tỉ lệ đó nếu như không tồn tại số tiền gốc mà các
bên thoả thuận được trong hợp đồng vay tài sản.
-
Thứ ba, lãi suất được tính dựa trên số vay gốc và thời hạn vay (thời gian vay).
Như đã phân tích ở trên, lãi suất tỉ lệ thuận với vốn gốc và thời hạn vay. Do đó, tương
ứng với số nợ gốc nhiều hay ít, thời hạn vay dài hay ngắn mà các bên có thể thoả thuận
mức lãi suất cho phù hợp.
3)
Các loại lãi suất cơ bản:
Có nhiều cách phân chia lãi suất thành các dạng khác nhau tuỳ thuộc vào nguồn sử dụng,
theo giá thực, theo phương pháp tính lãi, thời gian…
3.1) Phân loại theo loại hình tín dụng: Lãi suất được chia thành các loại:
-
Lãi suất tín dụng thương mại : Áp dụng khi các doanh nghiệp cho vay dưới
dạng mua bán chịu hàng hoá
-
Lãi suất tiền gửi : tức là tỉ lệ phần trăm lãi suất trên số tiền bạn gửi vào ngân hàng
hay là các tổ chức tín dụng nào đó. Mức phần trăm này thường là áp dụng cho 1 năm còn
nếu muốn tính ra 1 tháng thì lấy số % đó chia cho 12 tháng.
-
Lãi suất cho vay : là loại lãi suất quy định tỷ lệ lãi mà người đi vay phải trả cho
người đi vay. Về mặt lý thuyết cũng như thực tiễn, mức lãi suất cho vay khác nhau phụ
thuộc tỷ suất lợi nhuận bình quân của đối tượng đi vay. Tuy nhiên với đối tượng là công
cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, lãi suất phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố khác như chính
trị, xã hội,... của một quốc gia trong từng thời kỳ. Đối với đầu tư phát triển, lãi suất cho
vay rất quan trọng nhằm kích thích sự phát triển vốn đầu tư trên tất cả các lĩnh vực
-
Lãi suất chiết khấu : Áp dụng khi ngân hàng cho khách hàng vay dưới dạng hình
thức chiết khấu thương phiếu hoặc các giấy tờ có giá trị chưa đến hạn thanh toán của
ngân hàng.
-
Lãi suất liên ngân hàng: Là lãi suất mà ngân hàng áp dụng khi cho nhau vay trên
thị trường liên ngân hàng .
-
Lãi suất cơ bản : là lãi suất được các ngân hàng sử dụng làm cơ sở để ổn định
mức lãi suất kinh doanh của mình.
-
Lãi suất tín dụng Nhà nước: áp dụng khi nhà nước đi vay các chủ thể khác nhau
trong xã hội dưới hình thức phát hành tín phiếu hoặc trái phiếu.
-
Lãi suất tín dụng tiêu dùng: áp dụng khi doanh nghiệp cho người tiêu dùng vay
phục vụ cho nhu cầu cá nhân.
3.2) Phân loại theo giá thực :
-
Lãi suất danh nghĩa: được xác định cho mỗi kỳ hạn gửi hoặc vay thể hiện trên
giấy tờ. Nó là lãi suất chưa điều chỉnh ảnh hưởng của lạm phát hay nói cách khác đây là
lãi suất đã bao gồm cả những tổn thất do lạm phát gây ra do sự gia tăng của mức giá
chung.
-
Lãi suất thực: là lãi suất xác định giá trị thực của khoản lãi được trả và thu
được.Lãi suất thực được đo lường bằng chênh lệch giữa lãi suất danh nghĩa với tỷ lệ lạm
phát dự kiến hay tỷ lệ lạm phát kỳ vọng (expected inflation rate).
Công thức đơn giản của cách tính lãi suất thực là:
Lãi suất thực = Lãi suất danh nghĩa - tỷ lệ lạm phát kỳ vọng
Còn công thức Fisher đầy đủ là:
1+i =(1+r)(1+E(I))
Với i là lãi suất danh nghĩa, r là lãi suất thực, và E(I) là lạm phát kỳ vọng hay lạm phát
ước tính.
Trên thực tế các ngân hàng, các quỹ tín dụng thường áp dụng công thức Fisher để tính lãi
suất thực, lãi suất danh nghĩa và tỷ lệ lạm phát nhằm thẩm định các dự án cho vay đối với
các doanh nghiệp.
3.3) Phân loại theo phương pháp tính lãi :
-
Lãi đơn : Phương thức tính lãi theo lãi đơn là phương thức tính toán mà tiền
lãi sau mỗi kỳ không được nhập vào vốn để tính lãi cho kỳ sau. Tiền lãi của mỗi
kỳ đều được tính theo vốn gốc ban đầu và đều bằng nhau.
Lãi đơn = số tiền lãi / số tiền gốc * 100%
Lãi đơn chủ yếu dùng trong đầu tư ngắn hạn.
-
Lãi kép: Phương thức tính theo lãi kép là phương thức tính toán mà tiền lãi sau
mỗi kỳ được nhập vào vốn để đầu tư tiếp và sinh lãi cho kỳ sau. Thông thường, đối
với các giao dịch tài chính, lãi suất được sử dụng là lãi kép.
Công thức :
I= (1+i)^1/t -1
I lãi suất tại thời điểm t.
i : Lãi suất đơn hàng năm.
t : chu kỳ tính lãi suất.
3.4) Phân theo loại tiền và vàng :
Lãi suất nội tệ : Là loại lãi suất áp dụng để tính toán cho đồng nội tệ. Ví dụ như
-
Việt Nam đồng nội tệ là Việt Nam Đồng ( VND) thì lãi suất tiền gửi là 14%/ năm.
Lãi suất ngoại tệ : Là loại lãi suất áp dụng để tính toán cho đồng ngoại tệ. Hiện
-
nay lãi suất tiền gửi của Đola (USD) tại Việt Nam là : 5%/năm
Lãi suất vàng : Là loại lãi suất áp dụng để tính toán cho gửi và vay vàng. Các
-
ngân hàng Việt Nam hiện nay đang áp dụng 2%/ năm
3.5) Phân loại theo độ dài thời gian :
Lãi suất ngắn hạn : Là loại lãi suất áp dụng cho khoản huy động và khoản vay
-
dưới 1 năm.
Lãi suất trung hạn: Là loại lãi suất áp dụng cho khoản huy động và khoản vay có
-
thời hạn từ 1đến 5 năm.
Lãi suất dài hạn: Là loại lãi suất áp dụng cho khoản huy động và khoản vay có
-
thời hạn trên 5 năm.
4) Vai trò của lãi suất :
-
Lý thuyết và thực tiễn cho thấy lãi suất rất quan trọng trong nền kinh tế vi vĩ mô
của một quốc gia. Ở các nước tư bản phát triển phải mất gần trăm năm để tích lũy vốn từ
sản xuất và tiêu dùng. Còn đối với Việt Nam là một nước nhỏ đang trên đường tiến tới
trở thành một nước công nghiệp hóa hiện đại hóa vào năm 2020 thì vấn đề vốn rất quan
trọng. Vì vậy chính sách lãi suất rất quan trọng đối với việc huy động vốn nhàn rỗi để đầu
tư sản xuất và phát triển.
4.1) Lãi suất tác động đến vi mô: lãi suất là cơ sở để các doanh nghiệp, cá nhân
đưa ra quyết định của mình như chi tiêu hay gửi tiết kiệm, đầu tư vốn tích lũy vào các
danh mục khác...Khi lãi suất thấp thì quá trình đi vay được đẩy mạnh nhưng khi lãi suất
cao lợi tức thu lại từ quá trình tiết kiệm được đầy mạnh hơn nên tiết kiệm tăng.
4.2) Lãi suất ảnh hưởng đến vĩ mô:
-
Lãi suất là công cụ tối ưu để điều tiết nên kinh tế.
+
Lãi suất thấp=> kích thích đầu tư, kích thích tiêu dùng=>tăng tổng cầu=>sản
lượng tăng, giá tăng, thất nghiệp giảm=> nội tệ có xu hướng giảm giá so với ngoại tệ.
Lãi suất cao=> hạn chế đầu tư, hạn chế tiêu dùng=> giảm tổng cầu=> sản lượng
+
giảm, giảm giá, thất nghiệp tăng => nội tệ có xu hường tăng giá so với ngoại tệ.
+
Lãi suất là công cụ đo lường tình trạng của nền kinh tế:
Trong giai đoạn đang phát triển cuản nền kinh tế lãi suất có xu hướng tăng do cng
cầu quỹ cho vay tăng trong đó tốc độ tăng của cầu lớn hơn tốc độ tăng của cung. Ngược
lại trong giai đoạn suy thoái của nền kinh tế lãi suất có xu hướng giảm.
-
Do vậy, thông thường nhìn vào xu hướng biến động của lãi suất ta thấy được tình
trạng của nền kinh tế.
-
Chính vì vậy với một mức lãi suất hợp lý, sẽ kích thích các nhà đầu tư vay vốn mở
rộng và phát triển sản xuất kinh doanh cho xã hội, tăng thu nhập quốc dân, hạn chế thất
nghiệp tăng mức sống của người đó tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển.Và khi nền
kinh tế phát triển, thu nhập quốc dân tăng, sẽ tác động trở lại kích thích đầu tư phát triển
5) Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất:
5.1) Ảnh hưởng của cung cầu tiền tệ:
-
Chính phủ thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ: Khi ngân hàng trung ương muốn
kiềm chế lạm phát, sẽ thực hiện một chính sách thắt chặt tiền tệ thông qua công cụ của nó
(thay đổi tăng mức dự trữ bắt buộc, giảm lãi suất chíết khấu, giảm hạn mức tín dụng).
Chính phủ thực hiện chính sách nói lỏng tiền tệ: Khi ngân hàng trung ương lo sợ sắp có
suy thoái sẽ tăng mức cung tiền bằng cách bơm tiền vào lưu thông qua các công cụ của
chính sách tiền tệ, lãi suất có xu hướng giảm.
5.2) Ảnh hưởng của lạm phát dự tính:
-
Như ta đã biết chi phí thực của việc vay tiền được đo một cách chính xác hơn bằng
lãi suất thực là lãi suất danh nghĩa trừ đi lạm phát dự tính. Do đó ở một lãi suất cho trước,
lạm phát dự tính tăng lên, chi phí thực hiện vay tiền giảm xuống dẫn tới cầu vay tiền
tăng. Mặt khác lạm phát tăng lên thì lợi tức dự tính của khoản tiền giảm xuống, lập tức
người cho vay chuyển lượng tiền vào một thị trường khác như ngoại hối, bất động sản...
dẫn đến cung tiền cho vay giảm. Chính vì thế để điều tiết nền kinh tế khi lạm phát dự tính
tăng thì lãi suất cũng tăng theo.
Lãi suất
S1
Cầu
S
Hình 1:
Mối quan hệ lãi suất và tiền vay
D1
cung
D
Tiền vay
-
Tóm lại khi lạm phát dự tính tăng, lãi suất tăng. Điều này có ý nghĩa quan trọng
đối với dự đoán lãi suất khi nền kinh tế có lạm phát tăng. Trên cơ sở đó nhà nước phải có
một chính sách hợp lý đối với lãi suất và kiềm chế lạm phát.
5.3) Hoạt động thu chi của nhà nước:
-
Ngân sách nhà nước vửa là nguồn cung tiền vừa là nguồn cầu tiền đối. Do đó sự
thay đổi thu chi ngân sách nhà nước là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất.
-
Ngân sách bội chi hay thu không kịp sẽ làm tăng lãi suất bằng cách phát hành trái
phiếu nhằm thu hút lượng vốn dư thừa của người dân để đảm bảo quá trình hoạt động của
nhà nước. Mặt khác bội chi ngân sách cũng ảnh hưởng đến tâm lý người dân về mức gia
tăng lạm phát gây ra áp lực tăng lạm phát.
-
Trường hợp bội thu ngân sách sẽ dẫn đến lãi suất giảm do sự vận động ngược lại
với bội chi ngân sách.
5.4) Ảnh hưởng của nền kinh tế:
-
Ảnh hưởng của cung tiền vay : Khi nền kinh tế ổn định và phát triển, của cải
tăng lên, công chúng chỉ muốn giữ một số tiền nhất định đủ cho nhu cầu sử dụng, họ
muốn đầu tư vào những tài sản có lợi tức cao hơn như đầu tư vào chứng khoán. Bởi khi
nền kinh tế ồn định, thị trường chứng khoán trở nên ổn định hơn và chứng khoán trở
thành tài sản hấp dẫn. Do vậy cung tiền vay tăng lên, lãi suất cho xu hướng giảm.
-
Ảnh hưởng của cầu tiền vay : Khi nền kinh tế đang phát triển nhanh nhất là trong
giao đoạn phát đạt của một chu kỳ kinh doanh, các công ty càng có ý định vay vốn và
tăng nợ nhằm đầu tư cho các khoản sinh lời. Cầu tiền vay tăng lên khiến lãi suất có xu
hướng tăng.
Do vậy trong nền kinh tế ổn định và phát triển, nhà nước nên sử dụng các công cụ
lãi suất đề tăng vốn đầu tư vào các lĩnh vực cần phát triển cho sự cân đối của nền kinh tế.
5.5) Ảnh hưởng bởi mức độ rủi ro của dự án.
-
Với những dự án có mức độ rủi ro cao, khả năng thu hồi vốn thấp khi đó mức lãi
suất cho vay của ngân hàng đối với các dự án này sẽ ở mức cao hơn mức lãi suất cho vay
thông thường của các ngân hàng. Ngược lại với những dự án đầu tư có mức độ rủi ro
thấp, khả năng thành công của dự án lớn, khả năng thu hồi vốn của các ngân hàng lớn khi
đó lãi suất cho vay của ngân hàng với các dự án này sẽ thấp.
5.6) Ảnh hưởng bởi chính sách chính phủ:
-
Chính phủ các nước có thể thông qua mức lãi suất để điều chỉnh cơ cấu kinh tế của
một vùng, miền, hay địa phương nào đó. Để phát triển một ngành kinh tế của một vùng
miền nào đó chính phủ có thể dùng chính sách lãi suất ưu đãi, để hộ trợ địa phương hay
vùng miền đó phát triển ngành nghề kinh tế mà chính phủ mong muốn. Chính phủ có thể
áp dụng mức lãi suất thấp hơn mức lãi suất trên thị trường rất nhiều đối với những ngành
nghề, những vùng miền mà chính phủ mong muốn phát triển.Ví dụ trong năm 2008,
chính phủ Việt Nam thực hiện gói kích cầu bằng hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức cá nhân
vay vốn trung và dài hạn thực hiện đầu tư mới để phát triển sản xuất- kinh doanh theo
quyết định 443/QĐ-TTg ngày 4/4/2009 với mức lãi suất là 4%/ năm.
-
Nhưng thay đổi trong chính sách thuế của chính phủ cũng ảnh hưởng tới mức lãi
suất. Thuế thu nhập cá nhân và thuế lợi tức công ty luôn tác động đến lãi suất giống như
khi thuế tác động đến giá cả hàng hóa. Nếu các hình thức thuế này tăng lên cũng có nghĩa
là điều tiết đi một phần thu nhập của những cá nhân và tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng
hay những người tham gia kinh doanh chứng khoán. Thông thường ai cũng sẽ quan tâm
đến thu nhập thực tế, lợi nhuận sau thuế hơn là thu nhập danh nghĩa. Do đó, để duy trì
một mức lãi suất thực tế nhất định họ phải cộng thêm vào lãi suất cho vay những thay đổi
về thuế.
5.7) Ảnh hưởng bởi đời sống xã hội:
-
Ngoài những yếu tố được trình bày ở trên, sự thay đổi của lãi suất còn phụ thuộc
vào các yếu tố thuộc đời sống kinh tế xã hội khác. Đó có thể là sự phát triển của thị
trường tài chính với các công cụ tài chính đa dạng phong phú, hay mức độ phát triển của
các thể chế tài chính trung gian và gắn liền theo đó là sự cạnh tranh trong hoạt động cung
cấp dịch vụ của các tổ chức tín dụng này. Hiệu suất sử dụng vốn hay tỉ suất đầu tư cận
biên trong nền kinh tế trong các thời kỳ khác nhau do những thay đổi trong công nghệ
hay sự phát triển mang tính chu kỳ của nền kinh tế cũng tác động đến sự thay đổi lãi suất.
Hơn nữa tình hình kinh tế chính trị cũng như nhưng biến động tài chính quốc tế như
những cuộc khủng hoảng tài chính quốc tế, các luồng vốn đầu tư ra vào đối với các nước
….đều ít nhiều tác động tới sự thay đổi của lãi suất các nước khác .
-
Tất cả những vấn đề này gợi ý cho các nhà nghiên cứu, soạn thảo và điều hành
chính sách lãi suất phải có sự nhìn nhận và đánh giá một cách tổng thể trước khi đưa ra
bất kỳ một kết luận hoặc quyết định nào liên quan đến lãi suất. Đặc biệt là trong thời kỳ
kinh tế bất ổn hiện tại, khi tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, lạm phát, sự mất giá của đồng nội
tệ… thì vấn đề lãi suất là một vấn đề nhạy cảm mà các nước trên thế giới cũng như Việt
Nam cần phải quan tâm một cách sâu sắc và toàn diện. Một mức lãi suất hợp lý sẽ là
động lực cho phát triển kinh tế- xã hội.
II)
Vốn và quy mô vốn đầu tư:
1)
Khái niệm về vốn và quy mô vốn đầu tư :
1.1)
-
Vốn đầu tư:
“Vốn” (capital) là khái nhiệm mang tính khối tích luỹ (stock) và có thể xác định
tại một thời điểm, còn đầu tư (investment) mang tính dòng, lưu lượng (flow) trong một
khoảng thời gian.
-
Theo Tổng cục Thống Kê, “Vốn đầu tư là toàn bộ những chi tiêu để làm tăng hay
duy trì tài sản vật chất trong một thời kỷ nhất định. Vốn đầu tư thường được thực hiện
qua các dự án đầu tư và một số chương trình mục tiêu quốc gia với mục đich chủ yếu là
bổ sung tài sản cố định và tài sản lưu động”.( Nguồn: Tổng cục thống kê)
-
Định nghĩa này sát với định nghĩa của đầu tư (investment) trong kinh tế học vĩ mô,
cũng như trong hệ thống tài khoản quốc gia(SNA) của Liên Hợp Quốc mà nước ta cũng
dùng.
-
Theo luật đầu tư năm 2005, vón đầu tư là tiền và các tài sản hợp pháp khác thực
hiện các hoạt động đầu tư trực tiếp và gián tiếp.
-
Xét về phương diện toàn xã hội thì vốn đầu tư là toàn bộ giá trị nhân lực, tài lực
được bỏ thêm vào cho hoạt động của toàn xã hội trong thời gian nhất định thường là một
năm.
Căn cứ vào các hoạt động chia đầu tư thành các dạng:
+ Đầu tư cho sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ sở hạ tầng và bảo vệ môi trường;
+ Đầu tư cho sức khoẻ con người và phát triển trí tuệ văn hoá xã hội;
+Đầu tư khác như: đầu tư cho bộ máy quản lý nhà nước, an ninh quốc phòng, hợp
tác quốc tế…
1.2)
-
Quy mô đầu tư:
Trong hoạt động kinh tế, quy mô vốn đầ tư vốn đầu tư là chỉ tiêu phản ánh tốc độ
tăng trường và sức mạnh của từng doanh nghiệp và của nền kinh tế. Quy mô vốn có thể
cho ta thấy được dự án đầu tư đó là lớn hay nhỏ, có ảnh hưởng rộng hay hẹp… đến nền
kinh tế. Quy mô vốn cũng thể hiện phần nào tầm quan trọng của một dự án đầu tư.
-
Quy mô vốn đầu tư trong một thời điểm nhất định được thể hiện bằng đơn vị
thông qua lượng tiền đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh ( bao gồm tài sản cố định
và lưu động).
2)
Phân loại vốn đầu tư :
2.1) Vốn đầu tư trong nước: bao gồm vốn ngân sách nhà nước, vốn đầu tư phát
triển của nhà nước, vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, vốn khu vực kinh tế nhà
nước khác và vốn của dân cư và tư nhân.
-
Vốn ngân sách nhà nước : Là vốn từ ngân sách nhà nước, vốn tín dụng do nhà
nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và vốn đầu tư đầu tư khác của
nhà nước.
-
Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước là nguồn vốn mà các đơn vị, tổ
chức có thể đi vay với lãi suất ưu đãi hoặc không chịu lãi suất để đầu tư trong lĩnh vực
nhà nước khuyển khích ưu tiên.
-
Vốn của các doanh nghiệp nhà nước: Là nguồn vốn được hình thành trong quá
trình tích luỹ của chủ doanh nghiệp, từ lợi nhuận của doanh nghiệp trích ra hàng năm,
khấu hao tài sản cố định…
-
Vốn khu vực nhà nước khác: là nguồn vốn huy động được ngoài nguồn vốn nói
trên như biếu, tặng của các chính phủ khác, của các tổ chức cá nhân khác…
-
Vốn của dân cư và tư nhân: Phần vốn lấy từ tiết kiệm của dân cư và doanh
nghiệp hợp tác xã.
2.2) Vốn đầu tư nước ngoài : Bao gồm ODA, FDI, vốn tín dụng từ các ngân hàng
thương mại quốc tế
-
Hỗ trợ phát triển chính thức (hay ODA, viết tắt của cụm từ Official Development
Assistance), là một hình thức đầu tư nước ngoài.Gói hỗ trợ ODA bao gồm có hai dạng:
dạng viện trợ không hoàn lại, dạng thứ hai là cho vay với lãi suất cực kỳ thấp
(0.75%/năm) và thời gian hoàn trả cực kỳ dài: 20 -40 năm.Vốn ODA là của các chính
phủ các nước phát triển hay của tổ chức cho chính phủ có nền kinh tế đang phát triển,
ODA của chính phủ viện trợ gọi là viện trợ song phương, nếu là tổ chức (Ngân hàng thế
giới, ngân hàng phát triển châu Á, EU) là viện trợ đa phương.
- FDI theo định nghĩa của IMF là một hoạt động đầu tư được thực hiện nhằm đạt được
những lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ của một nền kinh tế
khác nền kinh tế chủ đầu tư, mục đích của chủ đầu tư là giành quyền quản lý thực sự
doanh nghiệp.
Ngày nay Việt Nam đang thúc đẩy huy động vốn đầu tư nước ngoài nhằm nâng cao đầu
tư phát triển trên tất cả lĩnh vực kinh tế, xã hội.
3)
Vai trò của vốn đầu tư:
Vốn đầu tư rất quan trọng đối với nền kinh tế của một quốc gia. Nó đều đưa tới mục tiêu
tăng trưởng kinh tế.
Quy mô vốn đầu tư tác động đến tổng cầu
-
Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của nền kinh tế. Theo số
liệu ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm từ 24 - 28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả
các nước trên thế giới. Xét trong ngắn hạn, khi tổng cầu chưa kịp thay đổi, việc tăng quy
mô vốn đầu tư - tăng cầu đầu tư sẽ làm cho tổng cầu AD tăng (trong điều kiện các yếu tố
khác không đổi).
Công thức xác định tổng cầu AD:
AD=C + I + G + NX.
Trong đó:
C:
Tiêu dùng.
I:
Đầu tư.
G:
Chi tiêu chính phủ.
NX: Xuất khẩu ròng.
-
Xét theo hình 2: đường cầu AD dịch phải (AD→AD’), kéo theo sản lượng cân
bằng tăng theo (Q0→Q1), giá cả các yếu tố đầu vào của đầu tư tăng lên (P0→P1). Điểm
cân bằng dịch chuyển từ E0 đến E1.
Quy mô vốn đầu tư tác động đến tổng cung:
-
Tổng cung của nền kinh tế gồm hai nguồn chính là cung trong nước và cung nước
ngoài. Bộ phận chủ yếu, cung trong nước là một hàm của các yếu tố sản xuất: vốn, lao
động, tài nguyên, công nghệ….,thể hiện qua phương trình:
Q = F (K, L, T, R….).
Trong đó:
K:
Vốn đầu tư.
L:
Lao động.
T:
Công nghệ.
R:
Nguồn tài nguyên.
Như vậy, tăng quy mô vốn đầu tư là nguyên nhân trực tiếp làm tăng tổng cung của nền
kinh tế (trong điều kiện các yếu tố khác không đổi).
-
Khi thành quả đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động làm
cho tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng. Theo đồ thị ,tổng cung AS dịch chuyển
sang phải ( AS→AS’), sản lượng tiềm năng tăng từ Q1→Q2, do đó giá cả sản lượng
giảm xuống từ P1→P2. Sản lượng tăng, giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu
dùng lại là nhân tố kéo, tiếp tục kích thích sản xuất phát triển, tăng quy mô đầu tư. Sản
xuất phát triển là nguồn gốc tăng tích lũy, phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho
người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
S
P
E1
P1
P0
S'
E0
P2
D'
D
Q
0
Q
1
Q
2
Q
Hình 2: Tác động của quy mô vốn đầu tư đến tổng cung, tổng cầu
Nguồn: Economics, David Begg, 2008, NXB thống kê
-
Ngoài ra đầu tư vốn vào các hoạt động sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ sở hạ
tầng và bảo vệ môi trường có tác động trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế và hiệu quả của
vốn đầu tư cho thấy nhanh hơn, rõ ràng hơn. Vốn đầu tư vào lĩnh vực này được xem là
quan trọng nhất, đặc biệt với các nước đang phát triển. Người ta thường xem đây là đầu
tư vào kinh tế và dùng để tính các chỉ tiêu phát triển kinh tế tầm vĩ mô.
-
Đầu tư vốn cho sức khoẻ con người, phát triển trí tuệ, văn hoá xã hội và đầu tư
khác cũng có tác động không nhỏ đến tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội, dù gián tiếp
qua nguồn nhân lực và các nhân tố về môi trường đầu tư; hơn nữa tác động của đầu tư ở
các lĩnh vực này mang tính chiến lược
-
Vốn đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ sở hạ tầng và bảo vệ
môi trường, hay còn gọi là vốn đầu tư trực tiếp vào kinh tế có vai trò hết sức quan trọng.
Vốn đầu tư trực tiếp vào kinh tế có đặc điểm làm tăng thêm tài sản cho nền kinh tế, dù
đầu tư vào tài sản lưu động hay tài sản cố định, thì khoản vốn đầu tư đó đều làm tăng
thêm tài sản, mức tăng thêm đó hoặc để bù đắp phần tài sản cũ mất đi hoặc làm tăng tích
luỹ tài sản trong sản xuất kinh doanh.
Chính vì vậy cần chú ý đến vấn đề quy mô vốn đầu tư. Bởi tăng quy mô vốn đầu
-
tư và sử dụng vốn đầu tư hợp lý là những nhân tố rất quan trọng góp phần nâng cao hiệu
quả đầu tư, tăng năng suất nhân tố tổng hợp, tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh
tế….do đó nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế.
-
Biểu hiện tập trung của mối quan hệ giữa quy mô vốn đầu tư tăng thêm với mức
gia tăng sản lượng thể hiện ở công thức tính hệ số ICOR.
ICOR = (Tỷ lệ vốn đầu tư/ GDP) / Tốc độ tăng trưởng kinh tế
Theo công thức trên, nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc
vào mức tăng quy mô vốn đầu tư.
-
Quy mô đầu tư tác động đối với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Chuyển dịch cơ
cấu kinh tế được hiểu là sự thay đổi tỷ trọng của các bộ phận cấu thành nền kinh tế. Sự
dịch chuyển cơ cấu kinh tế xảy ra khi có sự phát triển không đồng đều về quy mô, tốc độ
giữa các ngành, các vùng.
-
Quy mô vốn có tác động quan trọng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Ví dụ, đối với
cơ cấu ngành, quy mô vốn đầu tư từng ngành nhiều hay ít đều ảnh hưởng đến tốc độ phát
triển, đến khả năng tăng cường cơ sở vật chất của từng ngành, tạo tiền đề vật chất để phát
triển những ngành mới….do đó, làm dịch chuyển cơ cấu ngành kinh tế.
-
Như Việt Nam đang có sự chuyển dịch kinh tế từ đầu tư các ngành thuộc lĩnh vực
nông nghiệp sang đầu tư các ngành thuộc lĩnh vực công nghiệp.
4) Các nhân tố ảnh hưởng đến quy mô vốn đầu tư:
4.1) Lãi suất:
-
Lãi suất không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động thu hút vốn đầu tư - quyết định quy
mô vốn đầu tư thông qua việc ổn định kinh tế vĩ mô - mà còn tác động đến dòng chảy
các nguồn vốn đầu tư và mức lợi nhuận thu được tại một thị trường xác định.
Đối với lãi suất, về mặt lý thuyết lãi suất càng cao thì xu hướng tiết kiệm càng lớn và từ
đó tiềm năng quy mô, số lượng các nguồn vốn càng cao. Bên cạnh đó, nếu mức lãi suất
thị trường nội địa mà cao hơn tương đối so với mức lãi suất quốc tế thì còn đồng nghĩa
với tiềm năng quy mô vốn nước ngoài tăng và là công cụ hữu hình để chính phủ bảo vệ
được nguồn vốn nước mình, ngăn chặn được nạn đào thoát vốn ra nước ngoài.
-
Tuy nhiên, bản thân yếu tố lãi suất cũng có hai mặt, đó là khi tăng lãi suất cũng có
nghĩa là chi phí sử dụng vốn trong đầu tư sẽ cao hơn. Điều này sẽ làm giảm phần lợi
nhuận thực của nhà đầu tư. Dẫn đến quy mô vốn có xu hướng giảm xuống.
Vì vậy, khi sử dụng công cụ lãi suất phải hết sức cẩn trọng để xác định mức lãi suất phù
hợp, góp phần quan trọng trong việc tạo quy mô vốn phù hợp, quyết định hiệu quả huy
động vốn.
4.2) Tỷ suất lợi nhuận.
-
Tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư là chỉ tiêu phản ánh mức lợi nhuận thuần thu được từ
một đơn vị vốn đầu tư được thực hiện.Đây là một trong những chỉ tiêu quan trọng giúp
nhà đầu tư quyết định quy mô vốn đầu tư phù hợp với từng dự án đầu tư..
-
Tỉ suất lợi nhuận vốn đầu tư càng tăng, càng có nhiều cơ hội đầu tư, các doanh
nghiệp có nhiều ý định vay vốn để tăng vốn đầu tư.Nếu tỉ suất lợi nhuận vốn đầu tư trong
một ngành , một lĩnh vực,một địa phương tăng cao sẽ dẫn đến tổng số hàng hoá và dich
vụ được sản xuất ra trong nền kinh tế đó tăng lên, thu nhập quốc dân tăng. Nhưng khi vốn
đầu tư tăng dần, tỷ suất lợi nhuận biên sẽ giảm dần. Nhà đầu tư chỉ quyết định tiếp tục
đầu tư (tăng quy mô vốn) khi tỷ suất lợi nhuận lớn hơn lãi suất tiền vay
4.3) Sản lượng nền kinh tế.
-
Khi sản lượng nền kinh tế gia tăng sẽ là một nhân tố rất quan trọng ảnh hưởng đến
quy mô vốn đầu tư. Tuy nhiên tốc độ tăng của sản lượng và tốc độ tăng của vốn đầu tư
không giống nhau.
-
Mỗi sự thay đổi sản lượng nền kinh tế đều dẫn tới sự thay đổi của quy mô vốn đầu
tư cùng chiều. Nhưng sự biến động của vốn lớn hơn nhiều lần sự biến động của sản
lượng.
4.4) Chu kỳ kinh doanh :
-
Quy mô vốn đầu tư phụ thuộc vào sản phẩm đầu ra. Nhiều nhà kinh tế cho rằng
mức sản lượng này phụ thuộc vào chu kỳ kinh doanh.
-
Khi chu kỳ kinh doanh vào thời kỳ đi lên, quy mô của nền kinh tế mở rộng, nhu
cầu đầu tư gia tăng, nhu cầu về quy mô vốn tăng và ngược lại.
4.5) Các yếu tố khác:
-
Cùng với lãi suất, các quy định về thuế của chính phủ (đặc biệt là thuế thu nhập
doanh nghiệp) cũng ảnh hưởng lớn đến nhu cầu đầu tư, quyết định quy mô vốn đầu tư.
Nếu chính phủ đánh thuế cao sẽ làm tăng chi phí đầu tư, làm cho thu nhập của các nhà
đầu tư giảm, làm nản lòng các nhà đầu tư, quy mô vốn bị thu hẹp. Mặt khác chính phủ
cũng có thể khuyến khích đầu tư bằng hình thức miễm giảm thuế với những khoản lợi
nhuận dùng để tái đầu tư, do đó quy mô vốn đầu tư sẽ tăng.
-
Môi trường đầu tư cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến quy mô vốn đầu
tư. Đầu tư luôn đòi hỏi một môi trường thích hợp, nhất là trong điều kiện kinh tế thị
trường, với xu thế cạnh tranh ngày càng gay gắt. Môi trường đầu tư bao gồm nhiều yếu
tố, như thực trạng cơ sở hạ tầng, những quy định của pháp luật đầu tư, nhất là những quy
định có liên quan đến lợi ích tài chính (chế độ thuế, giá nhân công….); chế độ dất đai
(quy chế thuê mướn chuyển nhượng, thế chấp, giá cả…), các loại thủ tục hành chính, tình
hình chính trị - xã hội…. Nếu những yếu tố trên thuận lợi sẽ khuyến khích được các nhà
đầu tư và thu hút được nhiều vốn đầu tư - quy mô vốn tăng. Trong việc tạo lập môi
trường đầu tư chính phủ giữ một vai trò quan trọng, chính phủ thường quan tâm đến
những chính sách nhằm tăng được lòng tin trong đầu tư và kinh doanh.
PHẦN II
MỐI QUAN HỆ GIỮA LÃI SUẤT VỚI QUY MÔ VỐN ĐẦU TƯ
I)
Tác động của lãi suất đối với đầu tư:
-
Một trong những nhân tố quan trọng tác động đến đầu tư là lãi suất. Ở một mức
lãi suất hợp lý thì mức độ đầu tư càng cao và ngược lại.
-
Đầu tư phụ thuộc nhiều vào lãi suất vì quyết định đầu tư dựa trên cơ sở tối đa hóa
lợi nhuận trong tương lai. Các doanh nghiệp có cơ hội đầu tư khác nhau với mức kỳ vọng
vào tương lai khác nhau và dựa vào lãi suất các doanh nghiệp đưa ra quyết định đầu tư
của minh.
-
Với mục tiêu đầu tiên và quan trọng nhất của phần lớn Ngân hàng Trung ương
(NHTƯ) của các nước trên thế giới cũng như Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam là ổn định
giá trị đồng tiền của quốc gia. Lãi suất là công cụ quản lý của ngân hàng trung ương.
Trên thực tế lãi suất được công bố tại các ngân hàng là lãi suất danh nghĩa trong khi đó
triển vọng của lãi suất thực lại có ảnh hưởng đến các kỳ vọng và hoạt động chi tiêu và
đầu tư bởi trong thời kỳ lạm phát, lãi suất danh nghĩa không phải thước đo chính xác việc
vay tiền.
-
Do vậy các doanh nghiệp, cá nhân thường căn cứ vào lãi suất thực để đưa ra quyêt
định đầu tư của mình.
I=I(r)
Trong đó r là lãi suất thực tế. Mô hình chỉ ra rằng đầu tư phụ thuộc vào lãi suất.
-
Lãi suất có tác động ngược chiều với đầu tư. Khi lãi suất tăng , nhu cầu đầu tư
càng thấp và ngược lại khi lãi suất giảm đầu tư lại tăng.
-
Đặc biệt tác động của lãi suất đến đầu tư của khu vực tư là nhạy hơn so với khu
vực công bởi lẽ các doanh nghiệp nhà nước được nhiều chính sách hỗ trợ hơn do đó cũng
ảnh hưởng nhiều đến sự phân chia khu vực công và khu vực tư.
-
Bên cạnh đó các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp nước ngoài thường so
sánh mức lãi suất giữa các nước khác nhau để đầu tư. Đồng nghĩa với việc nếu lãi suất
trên thị trường nội đia thấp hơn lãi suất các nước khác, đồng nghĩa với việc thu hút vốn
đầu tư nước ngoài. Chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài rất quan trọng đối với một
quốc gia, nó giúp quốc gia đó phát triển , chính vì thế hình thành một môi trường kinh
doanh ổn định trong đó điều tiết lãi suất hợp lý rất quan trọng vì nó là công cụ thu hút
vốn đầu tư nước ngoài đồng thời ngăn chặn thất thoát vốn trong nước.
-
Lãi suất là giá cả của vốn đầu tư nên một sự thay đổi nhỏ của lãi suất sẽ tác động
đến quy mô vốn đầu tư thông qua những tác động đến giá cả , hành vi người tiêu dùng.
Tác động nay trên hai phương diện:
1)
Tác động đến chi tiêu dùng và đầu tư:
-
Lãi suất tăng khiến cho lãi suất cho vay và lãi suất gửi tiền tăng chính vì thế làm
giảm sự hấp dẫn trong việc chi tiêu dùng và đầu tư.
-
Thực tế cho thấy việc tăng lãi suất, đối với các hộ gia đình nhu cầu mua sắm tài
sản có giá trị lâu dài giảm và các hộ gia đình có xu hướng gửi tiết kiệm đề nhận một mức
lợi tức cao hơn. Còn khi lãi suất giảm, thì họ sẽ có khuynh hướng rút tiền gửi tiết kiệm và
đầu tư vào bất động sản hoặc chứng khoán để bảo vệ sức mua. Điều này sẽ tạo nên bong
bóng trên thị trường bất động sản và ngay lập tức sẽ làm cho CPI có xu hướng gia tăng.
-
Đối với các doanh nghiệp, yếu tố quan trọng khi lãi suất tăng là lãi suất cho vay
cũng tăng theo làm tăng chi phí vốn vay ngân hàng. Điều đó khiến cho các doanh nghiệp
gặp khó khăn trong việc mở rộng quy mô đầu tư. Các dự án có thể bị cắt giảm, đầu tư
vào các tài sản cố định gặp nhiều khó khăn và đòi hỏi doanh nghiệp phải có một chính
sách điều hành hiệu quả để tận đụng tối đa nguồn vốn của mình. Mặt khác khi lãi suất
giảm, các doanh nghiệp đầy mạnh quy mô đầu tư và mua sắm tài sản cố định.
2)
Tác động đến phân phối lại thu nhập :
-
Lãi suất còn có tác dụng phân phối lại nguồn thu nhập từ nơi “ thừa vốn” đến nơi “
thiếu vốn”. Giúp cho những người đang có nhu cầu cần vốn để đầu tư đồng thởi mang lại
một khoảng thu nhập cho người cho vay.
-
Trong tình hình kinh tế lạm phát như hiện nay, lãi suất là một vấn đề nhạy cảm khi
mà ngân hàng nhà nước đang hạ mức lãi suất cho vay cũng lãi suất huy động.
-
Trong thời kỳ lạm phát, cầu tiền đầu tư tăng trong khi đó cung tiền đầu tư giảm
khiến cho lãi suất cho vay và huy động tăng mạnh. Gây khó khăn trong việc huy động
vốn cho đầu tư. Tiêu biểu tình hình Việt Nam năm 2008, lãi suất huy động luôn ở mức
18% / năm trong khi lãi suất cho vay là 22%-24%/năm.
-
Khi tình hình kinh tế ổn định hơn, tình hình trên không còn diễn ra, cung tiền và
cầu tiền đều tăng kiến cho lãi suất tăng nhưng ở mức tăng vừa phải có tác dụng kích thích
sự phát triển kinh tế. Trong giai đoạn này chính phủ nên đẩy mạnh đầu tư phát triển, mở
rộng quy mô sản xuất.
-
Tóm lại lãi suất là một công cụ tài chính quan trọng của mỗi quốc gia trong việc
điều hành chính sách tiền tệ, để thực hiện mục tiêu kinh tế của mỗi nước trong mỗi giai
đoạn.
-
Quy mô vốn đầu tư phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố trong đó lãi suất là một trong
những nhân tố quan trọng quyết định quy mô đầu tư. Các nhà đầu tư thường đi vay vốn
để đầu tư, khi đó họ phải trả lãi suất cho các khoản vay đó, đó là giá cả của khoản tiền
vay. Khi lãi suất cao hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân, nhà đầu tư không thu được lợi
nhuận từ các dự án đầu tư. Khi đó sẽ có ít các nhà đầu tư vay vốn và quy mô vốn đầu tư
theo đó cũng thu hẹp . Ngược lại khi lãi suất thấp khi đó sẽ kích thích các nhà đầu tư vay