CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Sơn Dương, ngày 25 tháng 5 năm 2016
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ NGHỊ TẶNG DANH HIỆU CHIẾN SỸ THI ĐUA CẤP CƠ SỞ
Năm học 2015 - 2016
* Sơ yếu lý lịch
- Họ và tên: LỤC VĂN QUYẾT
- Ngày tháng năm sinh: 15/4/1980
- Trình độ chuyên môn: Đại học Vật lý; chức vụ: Phó hiệu trưởng
- Tổ chuyên môn: Tự nhiên
- Trường: TH&THCS Lâm Xuyên
- Nhiệm vụ được phân công: Phụ trách chuyên môn khối THCS
- Danh hiệu thi đua đã đạt được:
Năm 2012 – 2013: Lao động tiên tiến.
Năm 2013 – 2014: Lao động tiên tiến.
Năm 2014 – 2015: Lao động tiên tiến.
1. Tên sáng kiến
Một số biện pháp nâng cao chất lượng sinh hoạt chuyên môn theo nghiên
cứu bài học ở THCS Lâm Xuyên
2. Mô tả ý tưởng
a) Hiện trạng và nguyên nhân chủ yếu của hiện trạng.
- Thực trạng
Trường TH&THCS Lâm Xuyên là một trường liên cấp nằm trên địa bàn xã
Lâm Xuyên, huyện Sơn Dương tỉnh, Tuyên Quang. Xã Lâm Xuyên là một xã đặc
biệt khó khăn. Cơ sở hạ tầng của xã còn thiếu thốn, đi lại khó khăn. Cơ sở vật chất
đầu tư cho ngành giáo dục còn nhiều hạn chế và thiếu thốn.
Năm học 2015 - 2016 khối THCS có 4 lớp với tổng số 121 học sinh. Cơ sở
vật chất phục vụ cho nhà trường đủ thực hiện 1 ca.
Ban giám hiệu nhà trường hiện nay có 03 đồng chí: Hiệu trưởng, 01 phó
hiệu trưởng (phụ trách chuyên môn khối THCS). 01 phó hiệu trưởng (phụ trách
chuyên môn khối Tiểu học).
1
Đội ngũ giáo viên khối THCS gồm 11 đồng chí, trong đó số giáo viên trực
tiếp giảng dạy là 09 người. Trình độ chuyên môn Đại học 03 đồng chí (Ban giám
hiệu 02 đồng chí, giáo viên 01 đồng chí); Cao đẳng 08 đồng chí.
Khối THCS gồm 02 tổ: Tổ tự nhiên: 05 đồng chí; Tổ xã hội: 06 đồng chí.
Nhiều năm qua, công tác sinh hoạt chuyên môn (SHCM) ở trường
TH&THCS Lâm Xuyên đã được tổ chức thực hiện và duy trì thường xuyên (02
lần/tháng). Sinh hoạt chuyên môn không chỉ giúp mỗi giáo viên nâng cao năng lực
chuyên môn cho bản thân mà SHCM còn là môi trường để tình đồng nghiệp nảy
nở và phát triển giữa tất cả giáo viên, giúp họ hỗ trợ lẫn nhau trong công tác; hình
thành môi trường học tập tốt đẹp cũng như truyền thống, bản sắc văn hóa riêng của
mỗi nhà trường.
SHCM ở các nhà trường hiện nay thường diễn ra theo hai hình thức: tổ chức
theo các chuyên đề và dự giờ trao đổi kinh nghiệm về bài học.
Ở hình thức thứ nhất, SHCM bao gồm việc triển khai học tập các văn bản
chỉ đạo về chuyên môn của cấp trên, tập huấn phương pháp dạy học và thường do
ban giám hiệu (BGH) triển khai, xếp loại thi đua tháng… Bên cạnh đó là việc tổ
chức trao đổi, thảo luận, học tập các nội dung cụ thể gắn với nhiệm vụ năm học và
đặc điểm tình hình cũng như điều kiện thực tế của mỗi nhà trường như: Nâng cao
chất lượng hiệu quả công tác chủ nhiệm lớp, kinh nghiệm dạy một dạng bài, kiểu
bài nào đó, kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi, phụ đạo học sinh yếu kém...
Những nội dung này thường được giao cho các giáo viên có kinh nghiệm và năng
lực chuyên môn tốt xây dựng thành các báo cáo chuyên đề hay sáng kiến kinh
nghiệm.
Hình thức thứ hai là dự giờ trao đổi kinh nghiệm về bài học. Trong mỗi buổi
dự giờ có sự tham gia của BGH, tổ trưởng và hầu hết giáo viên trong tổ. Sau dự
giờ tổ chuyên môn tiến hành thảo luận rút kinh nghiệm và đánh giá xếp loại tay
nghề giáo viên dạy.
Cả hai nội dung trên nhiều trường đã thực hiện khá tốt góp phần nâng cao
chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh. Tuy vậy, SHCM hiện nay còn bộc lộ
nhiều vấn đề bất cập cần phải thay đổi.
Đó là, chất lượng các buổi SHCM chưa cao. Nội dung sinh hoạt chuyên đề
chưa được chú trọng, nhất là việc phổ biến áp dụng các sáng kiến kinh nghiệm còn
nhiều hạn chế. Các báo cáo chuyên đề, SKKN được nghiệm thu xong để đấy. Đối
với công tác dự giờ và đặc biệt là việc trao đổi rút kinh nghiệm tiết học giáo viên
cũng không mấy hứng thú nên buổi thảo luận thường trầm lắng, ít ý kiến phát biểu.
- Nguyên nhân chủ yếu của hiện trạng:
Công tác quản lý chỉ đạo của ban giám hiệu chưa sát sao, thiếu sự đôn đốc
và kiểm tra thường xuyên.
Việc chuẩn bị nội dung cho các buổi sinh hoạt chuyên môn còn hời hợt,
chưa có sức thuyết phục nên không thu hút được sự quan tâm trao đổi của giáo
viên. Nội dung đưa ra trao đổi còn chưa phong phú, chưa đi sâu vào các vấn đề
2
trọng tâm đổi mới phương pháp dạy học và tháo gỡ những khó khăn cho giáo viên
trong tổ; những vấn đề mới và khó ít được mang ra bàn bạc, thảo luận.
Về dự giờ rút kinh nghiệm giờ dạy, do xuất phát từ mục đich của buổi dự giờ
là để đánh giá kĩ năng dạy học và năng lực chuyên môn của giáo viên nên tạo ra áp
lực cho cả người dạy và người dự. Người dạy sẽ chỉ ngồi nghe còn người dự trở
thành giám khảo phán xét, đánh giá.
Lí do tiếp theo nữa là xuất phát từ suy nghĩ của người dự giờ, khi được mời
phát biểu, nếu chỉ toàn khen lại sợ người khác nghĩ mình kém cỏi. Nếu có nhiều ý
kiến lại sợ làm tổn thương và ảnh hưởng đến kết quả xếp loại của đồng nghiệp.
Một số khác lại suy nghĩ họ có thể học được rất ít từ đồng nghiệp bởi hầu hết giáo
viên khi dạy đều bám sát vào sách giáo viên và các tài liệu hướng dẫn khác dành
cho giáo viên do vậy cấu trúc bài học, tiến trình lên lớp gần như giống nhau nên họ
cảm thấy nhàm chán. Họ đi dự giờ cốt để đủ số giờ theo quy định.
Việc quan sát chủ yếu là cách tổ chức lớp học, các hành động, ngôn ngữ, cử
chỉ của giáo viên. Việc chọn vị trí ngồi quan sát gian lớp học.
b) Ý tưởng
Ban giám hiệu cần có sự quan tâm đầu tư thỏa đáng cả về nhân lực, tài lực
và thời gian. Phải chủ động vào cuộc cùng với các tổ trưởng chuyên môn thảo luận
và xây dựng kế hoạch thực hiện nhiệm vụ chuyên môn; đồng thời tích cực tự học
tự bồi dưỡng để có đủ trình độ, năng lực hướng dẫn bồi dưỡng giáo viên.
Chuẩn bị nội dung cho các buổi sinh hoạt chuyên môn có chất lượng, có sức
thuyết phục, thu hút được sự quan tâm trao đổi của giáo viên. Nội dung đưa ra trao
đổi còn phong phú, đi sâu vào các vấn đề trọng tâm đổi mới phương pháp dạy học
và tháo gỡ những khó khăn cho giáo viên trong tổ; những vấn đề mới và khó ít
được mang ra bàn bạc, thảo luận.
Thay đổi mục đích của việc dự giờ từ dự giờ để đánh giá sang dự giờ để học
tập, bởi dự giờ để đánh giá sẽ không thể tạo ra bầu không khí mà trong đó mọi giáo
viên có thể thoải mái bày tỏ với đồng nghiệp những ý kiến, chia sẻ những khó khăn
mà chúng ta gặp phải trong quá trình dạy học. Điều đó sẽ hạn chế việc phát triển
năng lực chuyên môn của giáo viên vì sự phát triển năng lực chuyên môn của giáo
viên gắn liền với các mối quan hệ giữa giáo viên với Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng
và giữa giáo viên với nhau. Dự giờ là dịp để chúng ta thiết kế lại bài học dựa trên
thực tế đã xảy ra trong tiết dạy minh họa. Thực tế tiết dạy minh họa giúp chúng ta
thấy rõ ý thức, thái độ, phản ứng của học sinh từ đó nghiên cứu xây dựng cách thức
đáp lại phản ứng đó, xem xét lại cách tổ chức hoạt động học tập, ra bài tập cũng
như việc hướng dẫn học ở nhà để cải tiến việc học của học sinh.
Thay đổi suy nghĩ của giáo viên về việc dự giờ. Từ chỗ SHCM để "phán
xét" lẫn nhau thành SHCM để phản hồi. Thông qua dự giờ giáo viên khác, chúng ta
cần nhìn lại chính mình trong quá khứ. Có thể chúng ta cũng đã trải qua tình huống
tương tự như vậy, chúng ta đã phản ứng thế nào khi đó và chúng ta làm thế nào với
tình huống tương tự trong tương lai.
3
Khi dự giờ đề nghị giáo viên bên cạnh việc quan sát cách tổ chức lớp học,
các hành động, ngôn ngữ, cử chỉ của giáo viên cần tập trung vào việc quan sát thực
tế học tập của học sinh, quan sát cử chỉ, thái độ, nét mặt, hoạt động của học sinh.
Do đó cũng cần lưu ý giáo viên chọn vị trí ngồi dễ quan sát nhất và phù hợp với
không gian lớp học, nên là ngồi hai bên hoặc phía trên. Người dự không nên can
thiệp vào việc học của học sinh như mượn sách vở, ghế ngồi hoặc trao đổi với
nhau làm người dạy cũng như học sinh mất tập trung.
3. Nội dung công việc
Ban giám hiệu lên kế hoạch cụ thể, chi tiết số buổi sinh hoạt chuyên môn
theo nghiên cứu bài học, phân công người thực hiện.
Bồi dưỡng giáo viên về mô hình sinh hoạt chuyên môn qua NCHB
Áp dụng mô hình “Sinh hoạt chuyên môn qua nghiên cứu bài học” tại các tổ
chuyên môn.
4. Triển khai thực hiện
4.1 Kế hoạch sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học (phó hiệu
trưởng xây dựng).
Thời gian
(Tháng/năm)
10/2015
11/2015
03/2016
04/2016
Người thực hiện
(chuyên môn)
Nguyễn Thị Minh Nguyệt
(Toán)
Đào Thị Thanh Hảo
(Văn)
Vũ Đình Thành Công
(Lịch sử)
Trần Thị Hòa
(Sinh học)
Người dự
(cùng thực hiện)
GV tổ tự nhiên + BGH
GV tổ xã hội + BGH
GV tổ xã hội + BGH
GV tổ tự nhiên + BGH
4.2 Bồi dưỡng giáo viên về mô hình sinh hoạt chuyên môn qua NCBH
(Đồng chí: Lục Văn Quyết - Phó hiệu trưởng phụ trách chuyên môn khối THCS
nghiên cứu sau đó bồi dưỡng cho toàn thể GV của khối THCS)
a. Cung cấp cho giáo viên của khối THCS các nội dung cơ bản của đổi mới
sinh hoạt chuyên môn quan nghiên cứu bài học để giáo viên nắm được ưu điểm
của việc đổi mới sinh hoạt chuyên môn theo mô hình “Nghiên cứu bài học”; đồng
thời, nhận thức rõ đổi mới sinh hoạt chuyên môn là quyết sách quan trọng nhằm
thay đổi trường học, tạo ra sự chuyển biến nhanh hơn, rõ hơn chất lượng giáo dục
toàn diện và hiệu quả giáo dục.
b. Tổ chức tập huấn triển khai mô hình sinh hoạt chuyên môn quan “Nghiên
cứu bài học”.
* Giới thiệu về mô hình sinh hoạt chuyên môn qua “Nghiên cứu bài học”:
4
Sinh hoạt chuyên môn theo NCBH là hoạt động SHCM mà ở đó giáo viên
tập trung phân tích các vấn đề liên quan đến người học như: HS học như thế nào?
HS đang gặp khó khăn gì trong học tập? nội dung và phương pháp dạy học có phù
hợp, có gây hứng thú cho HS không, kết quả học tập của HS có được cải thiện sau
khi áp dụng? và những điều cần điều chỉnh, rút kinh nghiệm sau khi thực hiện.
Sinh hoạt chuyên môn theo NCBH không tập trung vào việc đánh giá giờ
học, xếp loại giáo viên mà nhằm khuyến khích giáo viên tìm ra nguyên nhân học
simh chưa đạt kết quả tốt từ đó có biện pháp để nâng cao chất lượng dạy học, tạo
cơ hội cho mọi đối tượng học sinh được tham gia vào quá trình học tập; giúp GV
có khả năng chủ động điều chỉnh nội dung, phương pháp dạy học cho phù hợp với
đối tượng học sinh.
Dự giờ SHCM theo NCBH: GV dự giờ chỉ quan sát, suy ngẫm về việc học
và các vấn đề liên quan đến việc học của học sinh, nghĩa là người dự giờ phải quan
sát tỉ mỉ, tinh tế, nhạy cảm việc học của từng học sinh để suy ngẫm và chuẩn bị
chia sẻ ý kiến phong phú, sâu sắc; cần chú ý quan sát mối quan hệ phản ứng của
học sinh trước nội dung bài học và hành động của giáo viên, không nên chỉ quan
sát việc dạy của giáo viên, không coi trọng việc ghi chép tiến trình bài dạy.
- Quy trình, kỹ thuật thực hiện: 4 bước .
* Phân tích, so sánh điểm khác biêt giữa mô hình sinh hoạt chuyên môn theo
“truyền thống” và mô hình sinh hoạt chuyên môn qua “Nghiên cứu bài học”
5
SHCM truyền thống
SHCM theo NCBH
- Triết lý SHCM: Chưa rõ ràng, thống - Triết lý SHCM: Mọi HS đều có cơ hội học tập, phát
nhất.
triển năng lực GV, phát triển nhà trường.
- Quan điểm chính khi dự giờ-thảo
- Quan điểm chính: Bài dạy minh họa là tình huống
luận: nhận xét, góp ý cách dạy cho
nghiên cứu, tìm tòi, phát hiện, học hỏi.
GV, thống nhất PPDH chung, học kỹ
thuật dạy học,…
- Vị trí người dự giờ: ngồi cuối lớp,
- Vị trí: đứng phía trước, 2 bên lớp học, đi lại xem HS
không quan sát việc học của HS, mà là học, quan tâm đến việc học của học sinh.
việc dạy của GV.
- Vấn đề quan tâm của người dự: việc - Vấn đề quan tâm: việc học của HS (HS học tập như thế
dạy của GV (kiến thức, ngôn ngữ, cử nào, khi nào HS học thực sự, khi nào HS không tập trung
chỉ điệu bộ của GV, kỹ thuật dạy học, vào việc học, HS nào gặp phải khó khăn gì? Nguyên
nề nếp học tập của HS, quy trình khâu nhân? GV giúp HS vượt qua khó khăn thế nào?... (7
bước, có thiếu, thừa kiến thức không, “chìa khóa” quan sát-suy ngẫm-chia sẻ).
trình bày bảng…).
- Ghi chép: Nội dung, tiến trình giờ
- Ghi chép: Tình huống học tập của HS trong bài học.
dạy, sai sót, hạn chế của GV.
- Thảo luận sau dự giờ: Đánh giá việc - Thảo luận: Suy ngẫm và chia sẻ (7 “chìa khóa”) về việc
dạy (khen- chê, chỉ ra ưu điểm-hạn
học của HS, suy đoán các nguyên nhân, đưa ra cách giải
chế), đưa ra cách dạy khác.
quyết.
- Thời lượng thảo luận: Rất ít
- Thời lượng: Không giới hạn (khoảng 2,0-2,5 giờ/buổi)
- Số lượng người nêu ý kiến: ít hơn.
- Số lượng ý kiến: nhiều hơn (có trường 100% GV phát
biểu, có GV phát biểu 2,3 lần).
- Cách nêu ý kiến: Các ý kiến đưa ra
- Thân thiện chia sẻ khó khăn/thành công của đồng
ưu điểm, tồn tại, hạn chế và cách dạy nghiệp: suy ngẫm về việc học đã quan sát được; cách dạy
khác. Không khí buổi SHCM có thể
khác (sau khi chỉ ra vấn đề và nguyên nhân).
không thân thiện, khó chia sẻ.
- BÀI HỌC là của GV dạy minh họa.
- GV là người vận dụng lý thuyết.
- GV là người nghiên cứu, phát hiện, giải quyết vấn đề.
- Sau dự giờ TTCM thống nhất cách
- BÀI HỌC là của chung mọi người.
dạy của một kiểu bài.
* Tổ chức thực hiện SHCM theo NCBH phải thực hiện liên tục và thực
hiện theo 2 giai đoạn:
6
Giai đoạn thứ nhất: Hình thành cách dự giờ, suy ngẫm mới, xây dựng quan
hệ đồng nghiệp mới. Trong giai đoạn này, SHCM cần tập trung thực hiện các mục
tiêu sau:
Luyện tập cách quan sát và suy nghĩ về việc học của HS trong giờ học; tích
lũy, làm phong phú các hiểu biết sâu sắc về HS, về nội dung bài học và môn học.
Từ đó, GV sẽ hình thành được kỹ năng quan sát nhạy cảm, tinh tế về HS trong
công việc hàng ngày; có khả năng phán đoán nhanh nhạy, chính xác để điều chỉnh
việc dạy phù hợp với việc học của HS.
Làm thay đổi cách nhìn, cách nghĩ và cảm nhận của GV về mỗi HS trong
từng hoàn cảnh khác nhau (suy nghĩ, tình cảm, thái độ, khó khăn, mong muốn,...)
của HS trước nhiệm vụ học tập, trước bản thân, bè bạn và trước thầy cô giáo.
Hình thành thói quen lắng nghe lẫn nhau; rèn luyện cách chia sẻ ý kiến, từ
đó hình thành mối quan hệ đồng nghiệp thân thiện, cộng tác và học tập lẫn nhau.
Giai đoạn thứ hai: Tập trung phân tích các nguyên nhân, các mối quan hệ
trong giờ học và tìm biện pháp cải tiến, nâng cao chất lượng các bài học qua việc:
Đi sâu nghiên cứu, phân tích các phương án dạy học đáp ứng tốt việc học
của HS, các mối quan hệ trong lớp học, các kỹ năng cần thiết để nâng cao chất
lượng việc học của HS.
Tăng cường vận dụng, thử nghiệm những ý tưởng sáng tạo khi dạy minh
họa. Tất cả những ý tưởng sáng tạo, những hiểu biết mới về PPDH tích cực, lấy HS
làm trung tâm đều được vận dụng, trải nghiệm trong SHCM. Từ đó hình thành,
củng cố và phát triển các năng lực, kỹ năng nghề nghiệp của GV. Mỗi buổi SHCM
là một bài học thực tế cho tất cả GV và kết quả SHCM sẽ thay đổi từ từ theo quá
trình, mang tính toàn diện và bền vững.
Tổ chức, thực hiện SHCM theo NCBH trong nhà trường phải đảm bảo
5 nguyên tắc sau:
Một là Tin tưởng: Toàn thể CBGV nhà trường thực sự tin tưởng, có mong
muốn và tự giác tham gia; luôn hiểu rõ và bám sát mục đích, yêu cầu SHCM tại
trường.
Hai là Thực hành, trải nghiệm: dạy-dự-phân tích BH nhiều.
Ba là Tuân thủ: Người tham gia phải tuân thủ nghiêm túc kỹ thuật quan sát,
suy ngẫm và chia sẻ theo “Nghiên cứu bài học”.
Bốn là Thoải mái: Người tham gia cần thoải mái và thực sự mở lòng, sẵn
sàng 4 học hỏi trong khi trảo đổi, chia sẻ trong SHCM mới.
Năm là Thay đổi dần: Kiên trì và bình tĩnh, không quá kỳ vọng vào sự thay
đổi nhanh chóng về mọi mặt trong SHCM mới.
Các bước tổ chức một buổi sinh hoạt chuyên môn quan NCBH
Bước 1: Xác định mục tiêu, xây dựng kế hoạch bài học nghiên cứu
7
Xác định mục tiêu kiến thức và kỹ năng mà HS cần đạt được khi tiến hành
nghiên cứu. Mục tiêu phù hợp với trình độ của HS, năng lực chuyên môn của GV
cũng như chuẩn kiến thức, kỹ năng; tôn trọng và khuyến khích sự tự chủ, sáng tạo
của GV khi soạn bài với ý tưởng mới. GV thảo luận chi tiết, cụ thể bài học tiến
hành nghiên cứu cách giới thiệu bài học, có sử dụng tình huống có vấn đề để giới
thiệu bài học. Việc sử dụng các phương pháp dạy học và các phương tiện dạy học
thế nào cho đạt hiệu quả cao nhất, nội dung bài học chia ra những đơn vị kiến thức
nào? dự kiến tổ chức những hoạt động dạy học nào tương ứng? GV sử dụng những
câu hỏi để thúc đẩy khả năng tư duy sáng tạo của HS .
Bước 2: Tiến hành bài học và dự giờ
Người tiến hành dạy mẫu mô hình là 1 GV tự nguyện hoặc người được
nhóm thiết kế lựa chọn. Người dạy cần quan tâm đến tất cả các HS, không dạy
trước hoặc huấn luyện trước cho HS về nội dung bài học.
Người quan sát và ghi lại các hoạt động của HS trong giờ học gồm cả nội
dung và nội dung giảng dạy.
Vị trí quan sát và ghi các hoạt động tham gia học tập của học sinh: phía
trước hoặc hai bên lớp học, không ngồi sau HS vì không quan sát được việc học
của HS.
Kĩ thuật: kết hợp nghe, nhìn, suy nghĩ, ghi chép, quay phim, chụp ảnh… để
nhằm trả lời các câu hỏi: HS học như thế nào? HS gặp những khó khăn gì? Vì sao?
Cần phải thay đổi như thế nào để cải thiện kết quả học tập của HS?
Lưu ý khi quan sát và ghi lại hồ sơ giờ học: đứng ở vị trí thuận lợi; đặt trọng
tâm quan sát vào các biểu hiện tâm lí, thái độ, hành vi của HS trong các tình
huống, hoạt động học tập; ghi chép một cách khách quan…
Bước 3: Suy ngẫm, thảo luận về bài học nghiên cứu
Đây là công việc có ý nghĩa quan trọng nhất trong SHCM, là yếu tố quyết
định chất lượng, hiệu quả của SHCM, cho nên cần có tinh thần cộng tác, xây dựng
của người tham gia và đặc biệt vai trò, năng lực của người chủ trì. Nội dung thảo
luận và suy ngẫm: mục tiêu bài học; phương pháp dạy học; hoạt động học của học
sinh (học sinh học như thế nào, mức độ tham gia, hứng thú và kết quả học tập của
học sinh ra sao, nguyên nhân vì sao học sinh chưa tích cực tham gia vào bài học,
học chưa đạt kết quả…); đưa ra các biện pháp thay đổi cách dạy nhằm đạt được
mục tiêu bài học, tạo cơ hội học tập cho mọi học sinh. Trong đó, hoạt động học của
học sinh luôn được coi là “thước đo” để đánh giá sự thành công hay thất bại của
giờ học.
Lưu ý: Người dự giờ góp ý về giờ học theo tinh thần trao đổi, chia sẻ, lắng
nghe mang tính xây dựng; nếu giờ dạy chưa đạt được kết quả như mong muốn thì
không đánh giá cá nhân người dạy mà coi đó là bài học chung để mỗi Gv tự rút
kinh nghiệm; người chủ trì tạo không khí thân thiện, cởi mở và linh hoạt xử lí các
tình huống xảy ra trong quá trình thảo luận, tôn trọng và lắng nghe tất cả các ý
kiến của giáo viên, không áp đặt ý kiến của mình.
8
Bước 4: Áp dụng cho thực tiễn dạy học
Sau khi thảo luận tiết dạy, nếu bài học nghiên cứu vẫn chưa hoàn thiện thì
cần tiếp tục nghiên cứu, thay đổi, chỉnh sửa những nội dung chưa được sao cho
phù hợp với đối tượng học sinh lớp tiếp theo.
Chuẩn bị bài học như sau:
Cách 1: Giáo viên tự soạn/khuyến khích giáo viên tự nguyện
Cách 2: Tổ chuyên môn, nhóm giáo viên soạn nhưng người dạy vẫn là người
quyết định (thay đổi hay không thay đổi..............)
Lưu ý: Không dạy trước, không hướng dẫn học sinh trước. Có thể dạy ở bất
kỳ lớp nào ?
Khuyến kích giáo viên soạn bài với ý định sáng tạo vì học sinh chứ không vì
sách giáo khoa và nhà quản lí (chấp nhận việc giáo viên có thể thay đổi toàn bộ
ngữ liệu so với sách giáo khoa mà vẫn đảm bảo đạt chuẩn kiến thức, kỹ năng)
4.2. Áp dụng mô hình “Sinh hoạt chuyên môn qua nghiên cứu bài học”
tại các tổ chuyên môn.
a) Chuẩn bị:
Chọn bài, lớp dạy (theo phân công của BGH)
Thiết kế bài dạy (đối với nhóm giáo viên thực hiện chuyên đề);
Giáo viên khối THCS: Trước khi sinh hoạt, giáo viên đã xem trước nội dung
bài theo chuẩn kiến thức kỹ năng, nghiên cứu lại tại liệu sinh hoạt chuyên môn qua
NCBH.
Chuẩn bị các điều kiện: Bàn ghế cho các nhóm học sinh, ghế cho giáo viên
dự giờ (kê phía trên và hai bên cách gà), máy quay, máy ảnh............
Chuẩn bị về tâm thế cho học sinh: Học sinh làm quen với việc có nhiều
người dự giờ và quan sát các em học.
Thay đổi thói quen của Giáo viên: chuyển từ việc quan sát người dạy sang
quan sát người học.
b) Thực hiện tiết dạy đồng thời tổ chức cho giáo viên dự giờ các bộ môn
(yêu cầu giáo viên tìm vị trí ngồi dự hợp lí, biết cách quan sát, thu nhận thông tin
từ đó suy ngẫm, chia sẻ, tìm nguyên nhân và học được gì qua bài học của đồng
nghiệp).
c) Tổ chức thảo luận:
Giáo viên giảng dạy nêu mục tiêu, những thành công, khó khăn, trăn trở
trong quá trình thiết kế và giảng dạy.
Tổ chức phân tích chia sẻ:
Cán bộ quản lý chủ trì định hướng và tổ chức thảo luận rút kinh nghiệm, tọa
đàm trao đổi thông tin qua giờ dự (các ý kiến đóng góp cần tập trung vào những gì
9
đã quan sát được về hoạt động, thái đô, cử chỉ và những biểu hiện về sự tập trung,
hứng thú.......của học sinh trong giờ học).
Tổ chức phân tích chia sẻ, kết hợp với minh chứng từ băng hình tiết dạy.
Lưu ý: Để buổi thảo luận thành công thì người chủ trì cần có nghệ thuật điều
hành, giao tiếp, khuyến khích, tôn trọng và biết lắng nghe ý kiến, tranh luận; tránh
áp đạt, nóng vội theo hướng một chiều.....
d) Kết quả trải nghiệm.
Đối với giáo viên dạy : thoải mái, tự tin hơn vì họ không bị đánh giá nặng về
kiến thức, ngôn ngữ, cử chỉ điệu bộ, kỹ thuật dạy học, nền nếp học tập của học
sinh; không bị áp lực bởi quy trình, khâu bước, cách trình bày bảng......
Đối với giao viên dự giờ:
Từ vị trí ngồi thay đổi giúp giáo viên có điều kiện để quan sát học sinh kỹ
hơn cả về tâm lí, hành vi, thái độ,... của học sinh trong các tình huống học tập cụ
thể. Tuy nhiên đòi hỏi giáo viên dự giờ phải có khả năng: nghe, nhìn, tư duy, ghi
chép... ở mức độ cao hơn.
Người dự giờ giúp cho người dạy nhận ra những lỗ hổng trong khi thực hiện
giờ dạy như : vô tình bỏ quên học sinh, không biết học sinh có quan tâm đến bài
học không hay trách mắng học sinh mà không quan tâm xem các em có gặp phải
khó khăn và cần hỗ trợ gì?
Kiểm tra và đánh giá kiến thức học sinh là một công việc rất quan trọng của
người thầy, là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác chỉ đạo chuyên
môn trong nhà trường.
5. Kết quả đạt được.
Sau 04 tiết dạy và SHCM theo NCBH của 02 đồng chí của tổ Tự nhiên và 02
đồng chí của tổ Xã hội, các thành viên trong hai tổ cũng như người dạy và BGH rút
ra được kết quả như sau:
Ban giám hiệu giám sát được hoạt động của các tổ thông qua các buổi sinh
hoạt chuyên môn, đồng thời biết được phải tích cực tự học tự bồi dưỡng để có đủ
trình độ, năng lực hướng dẫn bồi dưỡng giáo viên. Tạo cơ hội cho Ban giám hiệu
hiểu về quy định, chính sách của ngành và công việc của mỗi giáo viên.
Nội dung cho các buổi sinh hoạt chuyên môn có chất lượng hơn, có sức
thuyết phục, thu hút được sự quan tâm trao đổi của giáo viên hơn. Nội dung đưa ra
trao đổi phong phú, đi sâu vào các vấn đề trọng tâm đổi mới phương pháp dạy học
và tháo gỡ những khó khăn cho giáo viên trong tổ.
Thay đổi được mục đích của việc dự giờ từ dự giờ để đánh giá sang dự giờ
để học tập, giáo viên có thoải mái bày tỏ với đồng nghiệp những ý kiến, chia sẻ
những khó khăn mà chúng ta gặp phải trong quá trình dạy học. Thấy được dự giờ
là dịp để giáo thiết kế lại bài học dựa trên thực tế đã xảy ra trong tiết dạy minh họa.
Tiết dạy minh họa giúp giáo viên thấy rõ ý thức, thái độ, phản ứng của học sinh từ
đó nghiên cứu xây dựng cách thức đáp lại phản ứng đó, xem xét lại cách tổ chức
10
hoạt động học tập, ra bài tập cũng như việc hướng dẫn học ở nhà để cải tiến việc
học của học sinh.
Thay đổi được suy nghĩ của giáo viên về việc dự giờ. Thông qua dự giờ giáo
viên khác, giáo viên nhìn lại được chính mình trong quá khứ và thấy được có thể
chính mình cũng đã trải qua tình huống tương tự như vậy, chúng ta đã phản ứng thế
nào khi đó và chúng ta làm thế nào với tình huống tương tự trong tương lai.
Thay đổi được cách quan sát tổ chức lớp học, các hành động, ngôn ngữ, cử
chỉ của giáo viên và cần tập trung vào việc quan sát thực tế học tập của học sinh,
quan sát cử chỉ, thái độ, nét mặt, hoạt động của học sinh. Khi dự giờ giáo viên
chọn vị trí ngồi dễ quan sát nhất và phù hợp với không gian lớp học, nên là ngồi
hai bên hoặc phía trên. Rút ra được kinh nghiệm không nên can thiệp vào việc học
của học sinh như mượn sách vở, ghế ngồi hoặc trao đổi với nhau làm người dạy
cũng như học sinh mất tập trung.
Hiểu sâu, rộng hơn về học sinh và đồng nghiệp. Hình thành sự chấp nhận lẫn
nhau giữa giáo viên với giáo viên và giữa giáo viên với học sinh. Không khí tiết
dạy thay đổi, giáo viên và học sinh có mối quan hệ thân thiện hơn, tôn trọng nhân
cách học sinh; có sự hiểu biết về trò và quan tâm giúp đỡ khi các em gặp khó khăn.
Tích luỹ kinh nghiệm, nâng cao năng lực chuyên môn và đổi mới PPDH, kĩ
thuật dự giờ theo hướng dạy học tích cực, lấy việc học của HS làm trung tâm của
GV khi tham gia SHCM theo NCBH.
Tạo ra chuyển biến rõ nét về nhận thức của giáo viên, giáo viên tự tin, chủ
động, linh hoạt trong việc thiết kế bài dạy và tổ chức tiết học.
Mối quan hệ giữa giáo viên với giáo viên có sự tôn trọng, tin tưởng, lắng
nghe, học hỏi và chia sẻ.
Giáo viên tích cực, chủ động tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, trình độ
tay nghề của giáo viên ngày được nâng lên.
Giáo viên tuy luôn bận rộn nhưng vẫn luôn vui vẻ và hài hước trong mỗi
giờ dạy tạo nên không khí học tập khá sôi nổi, thay cho sự nghiêm khắc trong các
giờ giảng.
Học sinh yêu thích đến trường; tích cực tham gia vào các hoạt động học
tập. Kết quả giáo dục khối THCS được nâng lên rõ rệt. Cụ thể: Năm học 2015 –
2016 không có học sinh bỏ học (duy trì sỹ số 100%). Học lực khá giỏi chiếm
44,62%. Hạnh kiểm khá, tốt chiếm 95,4%. Học sinh giỏi cấp trường 12 em, học
sinh giỏi cấp huyện 5 em, học sinh giỏi cấp tỉnh 2 em (Hội khỏe phù đồng 01 giải
nhất, khoa học kỹ thuật 01 giải nhì)
6. Khả năng tiếp tục phát huy, mở rộng sáng kiến đã thực hiện
Với mô hình và giải pháp chúng tôi đã triển khai thực hiện tại trường có thể
vận dụng vào các trường có những điều kiện khó khăn tương đồng để nâng cao
chất lượng hoạt động tổ chuyên môn góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện. Đảm bảo cơ hội học tập thật sự, có ý nghĩa cho tất cả học sinh và cơ hội phát
triển chuyên môn cho mọi giáo viên.
11
Giáo viên thực hiện giảng dạy tại các lớp theo phương pháp đã được thực
hiện tại buổi sinh hoạt chuyên môn.
Phối hợp, chia sẻ chuyên môn với giáo viên ở trường trong cụm và toàn
huyện.
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG
HIỆU TRƯỞNG
NGƯỜI VIẾT SÁNG KIẾN
HÀ NGỌC HOAN
LỤC VĂN QUYẾT
ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN CẤP CƠ SỞ
...........................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................
12