Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục con người toàn diện vào việc giáo dục đức, trí, thể, mỹ cho học sinh...

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.13 KB, 91 trang )

MỞ ĐẦU
1.

Lí do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh - người anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa

kiệt xuất, là người đã đặt nền móng và xây dựng nền giáo dục dân chủ mới ở
nước ta. Tư tưởng của Người về giáo dục - đào tạo, là một kho tàng những giá
trị nhân văn cao cả, tư tưởng đó không chỉ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu
sắc đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam mà còn có ý nghĩa thiết thực trong sự
nghiệp đào tạo nguồn nhân lực cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, phục vụ cho quá trình đổi mới và hội nhập hiện nay.
Có thể nói rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục là sự kế thừa, tiếp thu
biện chứng, có chọn lọc, sáng tạo từ các tiền đề: truyền thống văn hoá của dân
tộc, triết lý giáo dục trong tư tưởng giáo dục phương Đông và phương Tây.
Nhưng tiền đề quan trọng nhất, tái tạo nên sự phát triển về chất trong tư tưởng
giáo dục Hồ Chí Minh đó chính là chủ nghĩa Mác - Lênin. Trên cơ sở đó và
cùng với quá trình hoạt động thực tiễn cách mạng sinh động, phong phú, trong
và ngoài nước qua nhiều thời kỳ, Hồ Chí Minh đã đưa ra những quan điểm có
tính toàn diện, hết sức sâu sắc, mới mẻ, tiến bộ và hiện đại về vai trò, mục đích,
nội dung và phương pháp giáo dục có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, nhất
là trong bối cảnh mới, thời đại của hội nhập và phát triển.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục có nội dung về giáo dục con
người toàn diện - một tư tưởng nhân văn đặc sắc. Đây là sự tiếp nối và nâng cao
những giá trị tinh tuý nhất tư tưởng nhân văn của truyền thống Việt Nam và thế
giới. Tư tưởng giáo dục con người toàn diện của Hồ Chí Minh đã góp phần to
lớn vào việc đào tạo cho dân tộc Việt Nam những người con ưu tú, đủ đức đủ tài
đưa đất nước vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách để giành những thắng lợi
to lớn, làm thay đổi địa vị dân tộc trên trường quốc tế. Mà đối tượng cần giáo

1




dục trước tiên là thế hệ trẻ, là đoàn viên thanh niên - những người quyết định
vận mệnh, tương lai của dân tộc.
Mục đích cao cả của Hồ Chí Minh - mục đích mà Người nguyện suốt đời
phấn đấu - là mong cho dân tộc, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Đối với Người: nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc
lập cũng chẳng có nghĩa lý gì. Suốt đời, Hồ Chí Minh mong muốn xây dựng một
xã hội mới về chất, cao hơn hẳn xã hội cũ - xã hội xã hội chủ nghĩa. Và để xây
dựng chủ nghĩa xã hội, theo Người, “trước hết cần có những con người xã hội
chủ nghĩa”. Đào tạo con người xã hội chủ nghĩa không có con đường nào khác
ngoài giáo dục tri thức khoa học và lý tưởng, đạo đức xã hội chủ nghĩa. Đó là
nền giáo dục nhằm phát triển con người toàn diện, vừa “hồng” vừa “chuyên”
trong thời đại mới.
Hồ Chí Minh là bậc “đại trí, đại nhân, đại dũng” là điển hình của con
người Việt Nam toàn diện về thể lực, đạo đức, trí tuệ, tài năng, là hình mẫu sinh
động con người của hiện tại và tương lai. Vì vậy, việc nghiên cứu và vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục con người toàn diện không chỉ cần thiết về lí
luận mà còn nhằm làm cho mọi người hiểu và tiếp thu tư tưởng quan trọng này
của Người, trên cơ sở đó noi gương Người, phấn đấu vươn lên, hoàn thiện bản
thân mình, tạo tiền đề cho sự phát triển xã hội.
Trong thực tế, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục con người toàn diện
đã, đang và sẽ cho chúng ta những chỉ dẫn quý báu, sáng suốt để xây dựng thành
công chiến lược con người trong điều kiện mới, nhằm đào tạo cho đất nước
những con người mới có đủ tài năng, đạo đức, sức khoẻ, đưa đất nước đi lên chủ
nghĩa xã hội. Tư tưởng đó không chỉ là cơ sở lý luận cho việc xác định chiến
lược đào tạo con người, chủ trương, đường lối chỉ đạo phát triển nền giáo dục
Việt Nam của Đảng ta qua các thời kỳ cách mạng, mà còn là những bài học,
những kinh nghiệm thực tiễn giáo dục hết sức sinh động, thiết thực và hiệu quả
2



đối với người làm công tác giáo dục nói riêng, ngành giáo dục nói chung hiện
nay. Vì vậy, nghiên cứu, làm sáng tỏ giá trị khoa học và ý nghĩa của tư tưởng Hồ
Chí Minh về giáo dục con người toàn diện, tìm ra những cách thức, biện pháp
đúng đắn để thực hiện tốt hơn tư tưởng đó trong thực tiễn là vấn đề có ý nghĩa
quan trọng đối với sự phát triển của đất nước.
Trường THPT Yên Mỹ, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên với lịch sử gần 50
năm xây dựng và trưởng thành, nhà trường đã trải qua nhiều khó khăn để đạt
được những thành tựu trong sự nhiệp “trồng người”. Quá trình đó, mặc dù có
nhiều khó khăn và biến động trong mỗi giai đoạn lịch sử với những mức độ khác
nhau nhưng nhà trường luôn quan tâm tới mục tiêu, chất lượng giáo dục, đặc
biệt là giáo dục toàn diện. Quy mô giáo dục và chất lượng đào tạo của nhà
trường ngày càng phát triển. Tuy nhiên, hiện nay mặt trái của nền kinh tế thị
trường đã tác động đến một bộ phận giáo viên và học sinh, mặt khác một số hạn
chế của nội dung chương trình, phương pháp giáo dục đã ảnh hưởng đến chất
lượng giáo dục toàn diện cho học sinh. Vì vậy, việc điều tra thực trạng giáo dục
toàn diện của trường và đề ra giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục là
vấn đề cần được quan tâm, nghiên cứu.
Từ những lý do trên đây, tác giả nhận thấy việc nghiên cứu đề tài: “Vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục con người toàn diện vào giáo dục
học sinh Trường THPT Yên Mỹ, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên hiện nay”,
làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình là một việc cần thiết và có ý nghĩa.
2. Tình hình nghiên cứu.
2.1 Những công trình nghiên cứu về giáo dục nói chung.
Vấn đề giáo dục là vấn đề được Đảng, Nhà nước ta rất quan tâm vì nó
quyết định sự đi lên và phát triển của đất nước. Chính vì vậy, mà có rất nhiều tác
giả quan tâm, nhiên cứu và viết về vấn đề này, một số công trình, như:

3



Nguyễn Cảnh Toàn: Bàn về giáo dục Việt Nam, Nxb Lao động, HN,
2002. Đây là cuốn sách tuyển chọn những bài viết của GS. Nguyễn Cảnh Toàn
về nhiều vấn đề giáo dục của Việt Nam. Những bài viết sâu sắc, triết lý, của một
người tâm huyết với nền giáo dục nước nhà, am hiểu về nền giáo dục. Ông đã
viết một số quan điểm của mình, ông quan niệm “...Tư duy và nhân cách quan
trọng hơn kiến thức... Người thầy dở là người chỉ đem kiến thức cho học trò,
người thầy giỏi là người biết đem đến cho họ cách tự tìm ra kiến thức...”
Những vấn đề giáo dục hiện nay - Quan điểm và Giải pháp, Nxb Tri
Thức, HN, 2007. Cuốn sách gồm các bài quan trọng về các vấn đề mấu chốt và
cấp bách của giáo dục do các tác giả trong và ngoài nước viết đã hoặc chưa được
công bố trên các phương tiện truyền thông. Phần thứ nhất của cuốn sách bao
gồm một số bài viết mang tính dẫn luận. Trong phần này trích dẫn phát biểu của
Enistein về giáo dục và ý kiến hết sức quan trọng của Đại tướng Võ Nguyên
Giáp về đổi mới có tính cách mạng nền giáo dục và đào tạo nước nhà. Tiếp đó
giới thiệu với độc giả các ý kiến trả lời phỏng vấn về các vấn đề giáo dục của
Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đã đăng trên các báo trong thời gian gần
đây, và phần thảo luận về quan điểm và đề xuất giải pháp.
GS.TS. Dương Thiệu Tống: Suy nghĩ về giáo dục truyền thống và hiện
đại, Nxb Trẻ, HN, 2003. Trong cuốn sách này, các bài khảo luận được xếp đặt
theo 3 phần chính. Phần 1: Nền văn hóa giáo dục Lạc Việt gồm bài viết được
trích ra từ tập "khảo luận về nền văn hóa giáo dục Lạc Việt". Phần 2: Đạo đức
người thầy trong nền văn hóa Việt Nam gồm một số bài viết về người thầy giáo
Việt Nam. Phần 3: Một số vấn đề thời sự giáo dục Việt Nam cho đến năm 2003
liên quan đến nhiều chủ đề giáo dục được xã hội quan tâm trong các năm 20002003 chẳng hạn các vấn đề: đầu tư giáo dục, dạy và học, giáo dục trẻ em hư,
đánh giá, đo lường và thi cử.

4



Phạm Minh Hạc: Giáo dục thế giới đi vào thế kỷ XXI, Nxb. CTQG, HN,
2002. Cuốn sách tập trung trình bày xu thế phát triển giáo dục trên thế giới, giới
thiệu một số nét đặc trưng về cải cách giáo dục, kinh nghiệm quản lý giáo dục,
nguồn kinh phí dành cho giáo dục của một số nước trên thế giới...Đặc biệt cuốn
sách còn đi sâu giới thiệu nền giáo dục của một số nước như Pháp, Đức, Hoa
Kỳ, Hàn Quốc, Malaixia, Inđônêxia...
2.2 Những công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục.
Tiêu biểu có những công trình sau:
Đào Thanh Hải - Minh Tiến (sưu tầm, tuyển chọn): Tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục, Nxb Lao Động, HN, 2005. Cuốn sách được tác giả sưu tầm và
tuyển chọn, thể hiện khá đầy đủ nội dung tư tương Hồ Chí Minh về giáo dục,
bao gồm: nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục….
Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng: Hồ Chí Minh về giáo dục và
đào tạo, Nxb Lao động - Xã hội, HN, 2007. Sách gồm 3 phần: phần thứ nhất,
tập hợp những công trình của các nhà nghiên cứu khoa học về tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục – đào tạo. Phần thứ hai: cung cấp một cách đầy đủ và hệ thống
tư liệu quý gồm những bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác
giáo dục – đào tạo. Phần thứ ba: giới thiệu những bài nói, bài viết của các nhà
lãnh đạo Đảng, Nhà nước và một số nhà khoa học nước ta trong nghiên cứu, học
tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục – đào tạo.
GS. Song Thành: Hồ Chí Minh - nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Lí luận chính
trị, HN, 2009. Trong cuốn sách này, Song Thành đã dành một chương nói về
“Tư tưởng về sự nghiệp giáo dục – đào tạo và bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho
đời sau”. Tác giả đã đưa ra nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục – đào
tạo: giáo dục là một sự nghiệp rất quan trọng đối với sự phát triển của một đất
nước và phải xây dựng một nền giáo dục phù hợp với yêu cầu đất nước…Tiếp
theo là tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, đây
5



là vấn đề cấp thiết, cực kỳ quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam vì
vậy mà cần có nội dung và phương pháp bồi dưỡng cho phù hợp.
TS. Vũ Văn Gầu và TS. Nguyễn Anh Quốc: Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự
nghiệp phát triển giáo dục, Nxb CTQG, HN, 2005. Tác giả đã đưa ra nội dung
tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục khá đầy đủ từ nguồn gốc tới nội dung tư
tưởng bao gồm: vai trò và mục đích của giáo dục, nội dung giáo dục, phương
pháp giáo dục và đặc điểm giáo dục. Và cuối cùng là tư tưởng Hồ Chí Minh với
sự nghiệp giáo dục hiện nay.
TS. Nguyễn Hữu Công: Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người
toàn diện, Nxb CTQG, HN, 2010. Tác giả đã cho chúng ta tiếp cận nội dung tư
tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện: phát triển về thể lực, sức
khỏe; phát triển về trí tuệ; phát triển, nâng cao năng lực thẩm mỹ; phát triển về
mặt đạo đức. Và để phát triển con người toàn diện thì các yếu tố kinh tế, chính
trị, văn hóa rất quan trọng. Đồng thời, tác giả cũng đưa ra quan điểm Hồ Chí
Minh về con đường hình thành và phát triển con người toàn diện.
Đoàn Nam Đàn: Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên, Nxb
CTQG, HN, 2002. Cuốn sách trình bày những vấn đề cơ bản về nguồn gốc, quá
trình hình thành tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên, việc
vận dụng tư tưởng giáo dục thanh niên của Người trong điều kiện hiện nay và
những biện pháp nhằm phát triển toàn diện, phát huy mọi năng lực của thanh
niên phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Văn Tùng: Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên, Nxb
Thanh niên, HN, 2002. Công trình nghiên cứu mang tính lí luận và thực tiễn về:
những luận điểm cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên và công tác
thanh niên qua các thời kì cách mạng; bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, chí khí và
đạo đức cách mạng, nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa học kĩ thuật và

6



quân sự….cho thanh niên. Và một số phương pháp, phương châm giáo dục, bồi
dưỡng thanh niên trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
TS. Trần Văn Miều và Nguyễn Việt Hùng: Hồ Chí Minh về bồi dưỡng thế
hệ cách mạng cho đời sau, Nxb Thanh niên, HN, 2010. Cuốn sách giới thiệu
192 câu hỏi - đáp về: thân thế - sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tư tưởng
Hồ Chí Minh về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, Đảng Cộng sản Việt
Nam vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau,
tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
tính cho đến nay rất phong phú với nhiều góc tiếp cận khác nhau. Song theo
khảo cứu của tác giả thì đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu một
cách đầy đủ và hệ thống về việc “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
con người toàn diện vào giáo dục học sinh Trường THPT Yên Mỹ, huyện Yên
Mỹ, tỉnh Hưng Yên hiện nay”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1 Mục đích nghiên cứu.
Đề tài làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục con người toàn diện:
đức, trí, thể, mỹ và vận dụng vào giáo dục học sinh Trường THPT Yên Mỹ toàn
diện theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu.
Để đạt được mục đích đề ra, khóa luận tập trung giải quyết những nhiệm
vụ sau:
- Làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục con người toàn diện “đức, trí,
thể, mỹ”.
- Phân tích thực trạng giáo dục toàn diện của Trường THPT Yên Mỹ.

7



- Đề ra phương hướng, giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo
dục con người toàn diện vào Trường THPT Yên Mỹ một cách hiệu quả, thiết
thực.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4.1 Đối tượng nghiên cứu.
Đề tài tập trung nghiên cứu về tình hình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về giáo dục con người toàn diện vào giáo dục học sinh Trường THPT Yên Mỹ,
huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên hiện nay.
4.2 Phạm vi nghiên cứu.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục có nhiều nội dung, trong khuôn khổ
khóa luận chủ yếu tập trung nghiên cứu về giáo dục con người toàn diện: đức,
trí, thể, mỹ trong tư tưởng của Người.
- Nghiên cứu thực trạng giáo dục toàn diện ở Trường THPT Yên Mỹ.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
5.1 Cơ sở lý luận
Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
của Đảng ta về giáo dục.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lich sử. Đồng thời, đề tài còn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu khoa học cụ thể, như: phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phân
tích, tổng hợp, so sánh, điều tra xã hội học, thống kê….
6. Đóng góp của đề tài.
- Đề tài góp phần hệ thống vấn đề giáo dục con người toàn diện trong tư
tưởng Hồ Chí Minh.

8


- Đề tài chỉ ra những giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo

dục con người toàn diện ở một trường THPT cụ thể (Trường THPT Yên Mỹ,
huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên).
7. Kết cấu đề tài.
Ngoài phần: mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, đề
tài kết cấu thành hai chương:
Chương 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục con người toàn diện: Đức,
Trí, Thể, Mỹ.
Chương 2. Trường THPT Yên Mỹ hiện nay giáo dục học sinh toàn diện
theo tư tưởng Hồ Chí Minh

9


NỘI DUNG
Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC CON NGƯỜI
TOÀN DIỆN: ĐỨC, TRÍ, THỂ, MỸ
1.1 Một số khái niệm
1.1.1 Khái niệm giáo dục
“Giáo dục” theo Từ điển mở Wiktionary, là quá trình hoạt động có ý thức,
có mục đích, có kế hoạch nhằm bồi dưỡng cho người ta những phẩm chất đạo
đức, những tri thức cần thiết về tự nhiên và xã hội.
Theo Từ điển Tiếng Việt (Nxb Đà Nẵng, 2004) thì “giáo dục” là “quá
trình hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch nhằm bồi dưỡng cho người
ta những phẩm chất đạo đức, những tri thức cần thiết về tự nhiên và xã hội, cũng
như những kĩ năng, kĩ xảo cần thiết trong đời sống”.
Theo giáo trình “Giáo dục học đại cương” (Khoa tâm lý - giáo dục, Học
viện Báo chí và Tuyên truyền, HN, 2007) thì khái niệm “giáo dục” hiểu theo hai
nghĩa: Nghĩa rộng, giáo dục là bao gồm tất cả những quá trình tác động có mục
đích, có kế hoạch của môi trường tự nhiên và môi trường xã hội ( như nhà
trường, gia đình, đoàn thể, cơ quan văn hóa giáo dục…), nhằm hình thành các

sức mạnh thể chất, sức mạnh tinh thần, thế giới quan, bộ mặt giáo dục và thẩm
mỹ của con người. Như vậy, giáo dục theo nghĩa rộng bao gồm quá trình tác
động có mục đích, có kế hoạch của môi trường tự nhiên, của nhiều yếu tố giáo
dục, nhằm chuẩn bị cho người học có đủ điều kiện tham gia vào đời sống xã hội.
Nghĩa hẹp, giáo dục là một quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch nhằm
hình thành ở người học những quan điểm, niềm tin, những phẩm chất, hành vi
đạo đức, đồng thời bồi dưỡng tình cảm, năng lực thẩm mỹ và năng lực rèn luyện
thể chất. Và giáo trình cũng đưa ra “giáo dục” là một hiện tượng xã hội đặc biệt,
nảy sinh và tồn tại mãi mãi cùng với xã hội loài người, là quá trình người giáo
dục truyền đạt cho người được giáo dục những kinh nghiệm lịch sử - xã hội, giá
10


trị văn hóa và người được giáo dục lĩnh hội những kinh nghiệm đó để tham gia
vào xã hội và lao động sản xuất.
John Dewey - nhà giáo dục, nhà triết học thực dụng Mỹ cũng đề cập đến
việc truyền đạt, nhưng ông nói rõ hơn mục tiêu cuối cùng của việc giáo dục, dạy
dỗ. Theo J. Dewey, cá nhân con người không bao giờ vượt qua được qui luật của
sự chết, và cùng với sự chết thì những kiến thức, kinh nghiệm mà cá nhân mang
theo cũng sẽ biến mất. Tuy nhiên, tồn tại xã hội lại đòi hỏi phải những kiến thức,
kinh nghiệm của con người phải vượt qua được sự khống chế của sự chết để duy
trì tính liên tục của sự sống xã hội. Giáo dục là “khả năng” của loài người để
đảm bảo tồn tại xã hội. Hơn nữa, J. Dewey cũng cho rằng, xã hội không chỉ tồn
tại nhờ truyền dạy, nhưng còn tồn tại chính trong quá trình truyền dạy ấy.
Một cách tiếp cận khác, từ “giáo dục” trong tiếng Anh là "education".
Đây là một từ gốc Latin ghép bởi hai từ: "Ex" và "Ducere" _ "Ex-Ducere". Có
nghĩa là dẫn ("Ducere") con người vượt ra khỏi ("Ex") hiện tại của họ mà vươn
tới những gì thiện hảo, tốt lành hơn, hạnh phúc hơn. Cách định nghĩa này có tính
nhân bản cao hơn. Trong định nghĩa này, sự hoàn thiện của mỗi cá nhân mới là
mục tiêu sâu xa của giáo dục, người giáo dục (thế hệ trước) có nghĩa vụ phải dẫn

hướng, phải chuyển lại cho thế hệ sau tất cả những gì có thể để làm cho thế hệ
sau phát triển hơn, hạnh phúc hơn.
Như vậy, giáo dục là một hiện tượng xã hội có mục đích, có tổ chức, có kế
hoạch, có kiểm tra đánh giá và được sự tham gia của cộng đồng. Nhằm truyền
đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội của các thế hệ loài người…dẫn con
người vượt ra khỏi hiện tại của họ mà vươn tới những gì thiện hảo, tốt lành hơn,
hạnh phúc hơn.
1.1.2 Khái niệm giáo dục toàn diện

11


“Toàn diện” theo Từ điển mở Wiktionary có nghĩa chỉ đầy đủ các mặt,
không thiếu mặt nào. Trái với toàn diện là phiếm diện, chỉ nhìn một mặt hay
nhìn nhiều mặt nhưng không bao quát hết các mặt của sự vật hiện tượng.
Quan điểm toàn diện của chủ nghĩa Mác- Lênin, trong nhận thức và
hành động thực tiễn đòi hỏi chủ thể phải có quan điểm toàn diện trong việc xem
xét giải quyết một vấn đề trong thực tiễn: Quan điểm toàn diện đòi hỏi phải nhìn
thấy về sự vật như là một chỉnh thể của tất cả các mặt, các thuộc tính, các mối
liên hệ trong bản thân sự vật hiện tượng và giữa sự vật hiện tượng đó với những
sự vật hiện tượng khác, với môi trường xung quanh… Thực chất của quan điểm
toàn diện là trong khi chú ý xem xét tất cả các mặt của sự vật, tư duy phải phát
hiện được, phản ánh được những mặt chủ yếu, bản chất, quan trọng nhất của sự
vật một cách dãn đều bình quân, không biết đâu là bản chất của sự vật. Từ việc
nắm được bản chất của sự vật chúng ta cùng nhìn thấy các mặt khác của sự vật
một cách sâu sắc trong chỉnh thể của tất cả các mặt. Thực hiện quan điểm toàn
diện góp phần khắc phục bệnh phiến diện, một chiều chỉ thấy một mặt mà không
thấy nhiều mặt hoặc có khi tuy có chú ý đến nhiều mặt nhưng không nhìn thấy
được mặt bản chất của sự vật.
Vậy giáo dục toàn diện là giáo dục toàn diện không thiếu mặt nào, bao

gồm cả trí thức, đạo đức, thể lực, thẩm mỹ để đào tạo ra những con người toàn
diện, phát triển đồng đều mọi năng lực.
1.1.3 Tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh
Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về giáo dục luôn có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Trong sự
nghiệp đào tạo nguồn nhân lực cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh” ở nước ta, tư tưởng đó của Người càng có ý nghĩa thiết thực.

12


Theo GS. Song Thành thì “tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục là một vấn
đề rộng lớn, bao quát các vấn đề từ mục tiêu, nguyên lý, phương châm giáo dục;
nội dung, phương thức, phương pháp giáo dục cho đến tổ chức, quản lý, xây
dựng đội ngũ, chủ trương, chính sách đối với giáo dục - đào tạo được Người
quan tâm cũng rất rộng: từ mẫu giáo, vỡ lòng, phổ thông, chuyên nghiệp, đại
học cho đến người lớn tuổi, người già”.1
Tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh không bó hẹp trong việc giáo dục tri
thức, học vấn cho con người, mà có tính bao quát, sâu xa, nhưng vô cùng sinh
động, thiết thực, nhằm đào tạo ra những con người toàn diện, vừa “hồng” vừa
“chuyên”, có tri thức, lý tưởng, đạo đức sức khoẻ, thẩm mỹ...
Những tư tưởng giáo dục lớn lao và sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ
lâu là nền tảng, là phương hướng của chiến lược trồng người, chiến lược phát
triển giáo dục ở nước ta trong hơn nửa thế kỷ qua và đã giành được những thắng
lợi cực kỳ to lớn. Và trong giai đoạn hiện nay, khi tình hình thế giới có nhiều
phức tạp, quá trình toàn cầu hoá, nguy cơ tụt hậu kinh tế... thì nó càng có ý
nghĩa to lớn, vì giáo dục là một trong những nhiệm vụ hàng đầu đào tạo ra
những con người có trí tuệ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đưa đất nước ngày càng
phát triển.

1.1.4 Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục con người toàn diện.
Quan điểm Hồ Chí Minh về giáo dục con người toàn diện được hình
thành và phát triển từ những giá trị tư tưởng giáo dục, đào tạo, phát triển con
người trong lịch sử dân tộc ta và tiếp thu tư tưởng phát triển con người toàn diện
của chủ nghĩa Mác- Lênin. Hồ Chí Minh tiếp thu, kế thừa những tư tưởng đó
trên tinh thần “ cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ. Cái gì cũ mà không xấu, nhưng

1

GS. Song Thành: Hồ Chí Minh – Nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Lí luận chính trị, HN, 2009, tr.642

13


phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lí. Cái gì cũ tốt, thì phải phát triển
thêm”2.
Tiếp thu những quan điểm đó, Hồ Chí Minh nhìn nhận, tiếp cận con người
toàn diện Việt Nam trên tất cả các mặt chủ yếu cấu thành nên phẩm chất, năng
lực của nó, đó là: Thể lực, trí tuệ, thẩm mỹ, đạo đức. Điều này thể hiện qua
nhiều bài nói, bài viết của Người như: Đời sống mới (3- 1947); và nhất là trong
bài Gửi các em học sinh trên báo Nhân dân (24- 10- 1955), trong thư gửi này,
Hồ Chí Minh đã đứng trên quan điểm Đức, Trí, Thể, Mỹ để nhìn nhận con người
toàn diện và đặt ra yêu cầu phải rèn luyện, giáo dục, đào tạo, phát triển con
người theo đúng tiêu chí đó. Người viết: “đối với các em, việc giáo dục gồm có:
- Thể dục: để làm cho thân thể khoẻ mạnh, đồng thời cần giữ vệ sinh riêng
và vệ sinh chung.
- Trí dục: ôn lại những điều đã học, học thêm những tri thức mới.
- Mỹ dục: để phân biệt được cái gì đẹp, cái gì không đẹp.
- Đức dục: là yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, yêu
trọng của công(5 cái yêu)” 3

Tư tưởng này tiếp tục được Hồ Chí Minh khẳng định trong Báo cáo về dự
thảo Hiến pháp sửa đổi tại kì họp thứ 11, Quốc hội khoá I nước Việt Nam Dân
chủ cộng hoà (1959). Người viết: “Nhà nước chú trọng đặc biệt việc giáo dục
thanh niên về đức dục, trí dục và thể dục”4
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục toàn diện là một vấn đề nằm trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, bao gồm nội dung giáo dục toàn diện: đức, trí,
thể, mỹ;... nhằm giáo dục, đào tạo những con người có tài, có đức, có sức khỏe,

2
3

4

Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb.CTQG, HN, 2002, t.5, tr.94
Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb. CTQG, HN, 2002, t.8, tr.74
Hồ Chí Minh: toàn tập, Nx,b. CTQG, HN, 2002, t.9, tr.593

14


có trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật, có thẩm mỹ và tình yêu lao động...để
phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Như vậy, có thể nói con người toàn diện của Hồ Chí Minh hiện ra như
một thực thể vẹn toàn mà trong nó sự mạnh mẽ về mặt thể chất, sự phong phú về
trí tuệ, sự hiểu biết sâu sắc về cái hay cái đẹp, cái tốt, cái cao cả...cũng như
những phẩm chất đạo đức trong sáng, cao đẹp là những điểm cơ bản và chủ yếu
nhất. Đó là những con người mới, con người xã hội chủ nghĩa, là nhân tố quyết
định nhất tới sự thành công của cách mạng Việt Nam, tới sự đi lên và phát triển
của đất nước.
1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của giáo dục và giáo dục con

người toàn diện
1.2.1 Về vị trí, vai trò của giáo dục.
Giáo dục là một khoa học. Đó là khoa học về thiết kế, xây dựng con người
phục vụ chế độ xã hội; khoa học về cách thức, phương pháp giáo dục con người
với chất lượng tốt nhất; khoa học về xây dựng một nền giáo dục với quy mô, cơ
cấu phù hợp với xu thế phát triển của thời đại; khoa học về một nền giáo dục
phải giải quyết được những yêu cầu thực tiễn cách mạng Việt Nam đặt ra. Giáo
dục là một khoa học nên cần có những nhà khoa học, những cán bộ quản lý
không ngừng trau dồi kinh nghiệm để đưa khoa học giáo dục phát triển. Đồng
thời, cần đề ra những chính sách giáo dục đúng đắn phù hợp với điều kiện thực
tế nước ta... Để đáp ứng những yêu cầu đó thì cần phải có một hệ thống lí luận
về khoa học giáo dục thật tiến bộ, phù hợp với Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục là một khoa học không chỉ được đề cập ở phạm vi hẹp là giáo
dục tri thức, học vấn giới hạn trong nhà trường, giới hạn giữa thầy và trò, mà nội
dung giáo dục hết sức sâu rộng. Có thể nói, tư tưởng Hồ Chí Minh hết sức sâu
rộng cả về mục đích, nội dung, phương pháp.

15


Hồ Chí Minh rất đề cao vai trò của giáo dục. Người thấy được vai trò của
giáo dục trong việc cải tạo, phát triển con người, làm biến đổi con người cũ, xây
dựng con người mới. Người viết: “Thiện, ác đâu phải là tính sẵn. Phần nhiều do
giáo dục mà nên”5. Với ý nghĩa đó, ta thấy được giáo dục quyết định đến sự biến
đổi tư tưởng, tâm lý và nâng cao trình độ nhận thức của con người. Giáo dục trở
thành điều kiện, tiền đề cho việc hình thành và phát triển bản chất của con
người. Nó là “vũ khí sắc bén để giúp ta cải tạo con người”. Như vậy, Hồ Chí
Minh coi sự thay đổi bản chất con người là do giáo dục. Đó chính là sự kế thừa
truyền thống dân tộc về triết lí sống; về tác dụng, ảnh hưởng của giáo dục đối
với nhân cách con người “gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”... Và đặc biệt, theo

chủ tịch Hồ Chí Minh để giáo dục đạt kết quả cao thì cần phải giáo dục tinh thần
tự giáo dục suốt đời ở mỗi con người.
Giáo dục không chỉ có tác động mạnh mẽ tới con người mà còn có tác
động và có vai trò to lớn đối với các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội. Thông
qua hoạt động thực tiễn của con người, giáo dục có vai trò quan trọng tác động
vào các hoạt động kinh tế, văn hoá và quan hệ xã hội. Hồ Chí Minh chỉ rõ: vô
luận việc gì, đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả. Vì
vậy, chiến lược phát triển giáo dục phải gắn với hoạch định chính sách phát triển
kinh tế, văn hoá, xã hội. Trong đó, vai trò của giáo dục là cung cấp nguồn nhân
lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội. Khi điều kiện vật chất
được nâng cao sẽ tạo cơ sở cho nền giáo dục phát triển. Vì vậy, kinh tế không
phát triển thì giáo dục cũng không phát triển. Giáo dục không phát triển thì
không đủ cán bộ cho kinh tế phát triển. Hai việc đó liên quan mật thiết với nhau.
Trên thực tế cũng cho ta thấy nêu không phát triển, mở mang giáo dục thì rất
khó phát triển đất nước. Để đạt mục tiêu kinh tế - xã hội thì cần đào tạo ra những
con người có đủ năng lực, phẩm chất làm chủ xã hội chủ nghĩa.
5

Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb. CTQG, HN, 2002, t.3, tr.383.

16


Giáo dục còn được coi là một mặt trận quan trọng trong sự nghiệp cách
mạng Việt Nam. Giáo dục có vai trò nâng cao trình độ nhận thức về đường lối
chính trị của Đảng và Chính phủ; giáo dục nhất thiết phải gắn với sản xuất và
đời sống nhân dân, phát triển giáo dục phục vụ yêu cầu phát triển cách mạng, vì
theo Hồ Chí Minh “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”6
Ngoài ra, giáo dục còn có vai trò quan trọng trong việc xoá bỏ những tàn
dư của lối sống, cách suy nghĩ cổ hủ, lạc hậu của nền giáo dục thực dân phong

kiến và có ý nghĩa sâu sắc trong việc xây dựng nền giáo dục mới đào tạo những
con người toàn diện phục vụ cách mạng. Nền giáo dục mà Người quan tâm xây
dựng là nền giáo dục nhằm xoá bỏ những quan niệm khinh lao động chân tay,
trọng bằng cấp, ham vinh hoa, phú quý... đó là nền giáo dục mới vì nhân dân, vì
đất nước.
Mục đích xuyên suốt trong tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là cao cả luôn
gắn với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đó là nền giáo dục mới vì con người,
cho con người, vì hạnh phúc ấm no, tự do của nhân dân, Vì cuộc sống biết
“thưởng thức” và được làm chủ bản thân và làm chủ xã hội. Cả cuộc đời Người
đã hi sinh phấn đấu để thực hiện những mục đích cao đẹp đó, nó chi phối mọi
hoạt động của Người. Mong muốn giải phóng con người và nâng cao giá trị con
người về mặt văn hoá, nhận thức. Mục tiêu cuối cùng, cao nhất của cách mạng
Việt Nam là giải phóng con người một cách toàn diện và để đạt mục tiêu đó
trước hết ta phải thực hiện mục tiêu giáo dục là giáo dục, đào tạo ra những con
người có năng lực, có trí tuệ...
Trên đây là quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của giáo
dục. Ta thấy được giáo dục là một khoa học, có ý nghĩa to lớn trong việc xây
dựng những con người có tài năng, phẩm chất... góp phần to lớn vào sự nghiệp
6

Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb. CTQG, HN, 2002, t.4, tr.8

17


cách mạng và công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Có thể nói rằng, đây là quan
điểm rất đúng đắn, là cơ sở để Đảng và Nhà nước ta đưa ra những chính sách
giáo dục đúng đắn.
1.2.2 Về vị trí, vai trò của giáo dục con người toàn diện.
Tư tưởng giáo dục con người toàn diện của Hồ Chí Minh là tư tưởng có

nội dung sâu sắc, thể hiện ở tầm cao chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh. Bằng
thiên tài trí tuệ và lòng yêu thương, kính trọng con người, tin vào khả năng và
sức mạnh sáng tạo vô tận của con người trong sự nghiệp phục hưng nền độc lập
dân tộc và sáng tạo ra xã hội mới - xã hội chủ nghĩa trên đất nước Việt Nam, Hồ
Chí Minh luôn khẳng định vai trò quyết định của nhân dân, của con người đối
với sự phát triển lịch sử. Theo Người, đó phải là những con người được trang bị
thế giới quan khoa học, có lý tưởng cách mạng vững vàng, có tri thức toàn diện,
đạo đức trong sáng, sức khỏe dồi dào, năng lực sáng tạo cao và khả năng thích
ứng tốt. Những con người đó không xuất hiện ngẫu nhiên, tự phát mà là kết quả
tác động hợp quy luật của xã hội. Hồ Chí Minh cho rằng xã hội càng phát triển,
càng hiện đại thì tính tự giác, chủ động trong việc đào tạo, phát triển con người
ngày càng cao, nguồn lực mà xã hội dành cho vấn đề này càng phải lớn, nội
dung giáo dục, đào tạo và phát triển con người ngày càng sâu sắc và toàn diện.
Vì vậy, con người phát triển cao về mọi mặt là mục tiêu xuyên suốt của chiến
lược cách mạng Việt Nam trong bất cứ giai đoạn cách mạng nào.
Vị trí, vai trò của giáo dục toàn diện trong tư tưởng Hồ Chí Minh cũng
giữ một vai trò quan trọng như vị trí, vai trò của giáo dục:
- Vai trò to lớn trong việc cải tạo, phát triển con người, làm biến đổi con
người cũ, xây dựng con người mới.
- Giáo dục toàn diện không chỉ có tác động mạnh mẽ tới con người mà
còn có tác động và vai trò to lớn đối với các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội.

18


- Giáo dục toàn diện còn được coi là một mặt trận quan trọng trong sự
nghiệp cách mạng Việt Nam. Giáo dục có vai trò nâng cao trình độ nhận thức về
đường lối chính trị của Đảng và Chính phủ...
- Giáo dục toàn diện còn có vai trò quan trọng trong việc xoá bỏ những
tàn dư của lối sống, cách suy nghĩ cổ hủ, lạc hậu của nền giáo dục thực dân

phong kiến và có ý nghĩa sâu sắc trong việc xây dựng nền giáo dục mới đào tạo
những con người toàn diện phục vụ cách mạng.
Ngoài ra, giáo dục toàn diện còn có vị trí, vai trò riêng, rất ý nghĩa và
quan trọng đối với cách mạng Việt Nam, đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, quyết định chiều hướng đi lên của lịch sử dân tộc. Con đường cách
mạng của chúng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn rất đúng đắn, nhưng còn
lâu dài và gian khổ, đó là con đường giải phóng dân tộc đi lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Cả cuộc đời mình Người đã hi sinh, đấu tranh để thực hiện mục
tiêu đó nhằm đem lại ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Hồ Chí Minh đã
viết: “không có một chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi
ích cá nhân đúng đắn và đảm bảo cho nó được thoản mãn bằng chế độ xã hội
chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa”7. Nhưng muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội,
trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa. Đó là những con người toàn
diện cả đức và tài, có thế giới quan khoa học, có lý tưởng cách mạng vững vàng,
có tri thức toàn diện, đạo đức trong sáng, sức khoẻ dồi dào, năng lực sáng tạo
cao và khả năng thích ứng tốt. Đó thực sự trở thành động lực quyết định sự phát
triển lịch sử. Muốn có con người xã hội chủ nghĩa, theo Hồ Chí Minh, không có
con đường nào khác ngoài con đường giáo dục của nền giáo dục xã hội chủ
nghĩa. Vì vậy, mà cần xây dựng một nền giáo dục toàn diện, với nội dung tích
cực đúng đắn cả về trí tuệ, sức khoẻ, đạo đức lẫn năng lực thẩm mỹ, với nhưng
phương pháp tiên tiến, hiện đại, đáp ứng yêu cầu lịch sử đặt ra. Đặc biệt, cần chú
7

Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb. CTQG, HN, 2002, t.9, tr.291

19


trọng việc giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ, đoàn viên thanh niên, vì theo
Người, thanh niên là lực lượng có ý nghĩa chiến lược, quyết định sự phát triển

hiện tại và tương lai của đất nước, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Người
luôn coi trọng và quan tâm đến thanh niên. Năm 1925, trong bài viết gửi “Thanh
niên An Nam” Người nói “Hỡi Đông Dương đáng thương hại, Người sẽ chết
mất nếu đám thanh niên già cỗi của Người không sớm hồi sinh”. Bởi khi đó
thanh niên Việt Nam hầu hết bị ru ngủ bởi chính sách ngu dân của thực dân
Pháp… Người đã nhận thức rất rõ tương lai của dân tộc phụ thuộc rất nhiều vào
lực lượng thanh niên.
Qua đây, ta có thể thấy được giáo dục toàn diện trong tư tưởng Hồ Chí
Minh có vị trí, vai trò rất quan trọng và có ý nghĩa to lớn. Nó có vai trò quan
trọng trong việc giáo dục, đào tạo ra những con người toàn diện vừa hồng vừa
chuyên, là chủ thể quyết định chiều hướng phát triển của lịch sử, quyết định sự
thành bại của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Từ đó, đòi hỏi
chúng ta cần có những chủ trương, chính sách thật đúng đắn, phù hợp nhằm
hoàn thiện, phát triển một nền giáo dục toàn diện.
1.3 Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục con người toàn diện
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục con người toàn diện là sự kế thừa
truyền thống giáo dục tốt đẹp của dân tộc và quan điểm về con người toàn diện
của chủ nghĩa Mác – Lênin. Trên cơ sở đó Người đã đưa ra nội dung giáo dục
con người toàn diện Việt Nam trong thời đại mới là gồm có: thể dục, trí dục, mỹ
dục và đức dục. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chỉ rõ, con người Việt Nam
được sự dìu dắt, giáo dục, đào tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ Chí
Minh đã trở thành yếu tố quyết định, là động lực thực sự cho sự phát triển của
cách mạng suốt mấy chục năm qua. Hơn thế nữa, đối với Hồ Chí Minh, con
người không chỉ là động lực mà còn là mục tiêu cao nhất, là cái đích hướng tới
của cách mạng Việt Nam. Chúng ta làm cách mạng là để giải phóng dân tộc, giải
20


phóng xã hội, giải phóng và phát triển con người lên một tầm cao mới, xứng
đáng là chủ thể của mọi quá trình phát triển trong xã hội mới xã hội chủ nghĩa.

Vì vậy, giáo dục con người về mọi mặt để không ngừng nâng cao trình độ, phẩm
chất, năng lực của người chiến sĩ cách mạng, của công dân, nông dân, trí thức,
thanh niên và các tầng lớp nhân dân là tư tưởng rất quan trọng, mang ý nghĩa
nhân văn sâu sắc của Hồ Chí Minh.
Mỗi con người sinh ra đều có những khả năng và năng lực nhất định
nhưng nó tồn tại dưới dạng tiềm năng, để biến nó thành hiện thực thì cần có
những điều kiện về tự nhiên và xã hội. Thực tế cho thấy các yếu tố xã hội có tác
động vô cùng to lớn đến sự phát triển toàn diện các phẩm chất, năng lực của con
người. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, sự tác động này diễn ra một cách có ý
thức, có chủ định rõ ràng nhằm tạo ra những con người toàn diện về mọi mặt,
Người viết: “làm cách mạng là phải biết toàn diện, việc gì cũng phải biết làm biết bắn súng thì súng hỏng cũng phải biết sửa” 8. Để đạt mục tiêu đó thì trong
giáo dục, đào tạo phải chú trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội
chủ nghĩa, văn hoá, kĩ thuật, lao động và sản xuất. Với quan niệm và cách nhìn
con người toàn diện như là một thể thống nhất, sự kết hợp chặt chẽ giữa các mặt
thể lực, sức khoẻ, trí tuệ, trình độ thẩm mỹ, đạo đức cách mạng...Hồ Chí Minh
cho rằng giáo dục con người toàn diện trước hết phải tập trung phát triển tất cả
các bộ phận cấu thành nên chỉnh thể đó.
- 1.3.1 Giáo dục về đạo đức
Xây dựng và phát triển đạo đức là nhu cầu tất yếu khách quan của bất cứ
xã hội nào bởi đây là vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đời sống xã
hội cũng như trong đời sống của mỗi người. Nó thể hiện sâu sắc nhất tính nhân
văn, nhân đạo, nhân bản của xã hội và mỗi con người. Thực tiễn lịch sử cho
thấy, khi con người được soi sáng bởi một lý tưởng đạo đức tiến bộ, khi sự hiểu
8

Tư liệu Bảo tàng Hồ Chí Minh, ký hiệu H. 25-C5

21



biết về cái thiện, cái ác, về lương tâm, danh dự, trách nhiệm, nghĩa vụ của họ
càng được nâng cao thì hoạt động của họ càng hướng tới phục vụ cho lợi ích
chung của cộng đồng, qua đó góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Vì vậy,
từ xưa tới nay các giai cấp, các dân tộc, các thủ lĩnh, các lãnh tụ... ở các thời đại
đều hết sức quan tâm tới giáo dục đạo đức cho mỗi thành viên trong cộng đồng,
hướng họ làm những việc có ích cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Tuy
nhiên, coi trọng đạo đức đến đâu, chú trọng đến nội dung nào của đạo đức, đề
cao những phạm trù nào, đặt đạo đức trên cơ sở thế giới quan nào lại tuỳ thuộc
vào điều kiện lịch sử và lợi ích của mỗi giai cấp, mỗi tập đoàn trong xã hội.
Tiếp nối truyền thống coi trọng đạo đức của dân tộc Việt Nam và tiếp thu
tinh hoa đạo đức nhân loại, đồng thời căn cứ vào thực tiễn cách mạng nước ta,
Hồ Chí Minh hết sức chăm lo giáo dục, bồi dưõng đạo đức mới - đạo đức cách
mạng cho mỗi con người Việt Nam, nhằm phát triển họ về mặt đạo đức, góp
phần to lớn vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Để thực hiện điều này, Người
đã đề ra và thực thi những chủ trương, biện pháp chủ yếu sau:
1.3.1.1 Giáo dục đạo đức cách mạng.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt niềm tin lớn lao vào thế hệ trẻ Việt
Nam - những người chủ tương lai của đất nước. Người khẳng định vai trò to lớn
của tuổi trẻ trong sự phát triển và trường tồn của dân tộc: Nước nhà thịnh hay
suy yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên. Trong quá trình lãnh đạo
đất nước, Hồ Chủ tịch thường xuyên động viên tuổi trẻ phải ra sức rèn luyện
tinh thần, tu dưỡng đạo đức, không ngừng học tập vươn lên để xứng đáng là
người chủ tương lai của nước nhà, đồng thời nhắc nhở Đảng và Chính phủ phải
đặc biệt quan tâm tới việc đào tạo bồi dưỡng thế hệ trẻ. Trong “Di chúc”, Người
căn dặn: “Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái
xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần chăm lo giáo dục
đạo đức cách mạng cho họ thành những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã
22



hội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một
việc rất quan trọng và rất cần thiết. Đạo đức là một trong những quan hệ chủ yếu
của đời sống xã hội, nó ra đời và tồn tại khách quan trong cuộc sống, nhằm điều
chỉnh ý thức và hành vi của con người. Hiểu rõ tính chất phức tạp và tế nhị của
quan hệ đạo đức ở nước ta, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến giáo dục đạo
đức cách mạng cho thanh niên, nhằm giúp đỡ họ trở thành những người công
dân tốt, người lao động tốt, người chiến sỹ tốt, người chủ xứng đáng của đất
nước và người cách mạng chân chính.
Khi đề cập tới đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh thường sử dụng các
thuật ngữ sau: đạo đức mới, đạo đức cách mạng, đạo đức cộng sản, đạo đức tập
thể, đạo đức vô sản. Theo Hồ Chí Minh, gọi là “đạo đức mới” vì nó khác xa với
đạo đức cũ, nó lật ngược các nguyên tắc của đạo đức cũ.
Theo Hồ Chí Minh để giáo dục hiểu biết cho con người toàn diện về đạo
đức cách mạng, trước hết cần nâng cao hiểu biết vai trò cực kì quan trọng của
đạo đức cách mạng trong nhân cách cũng như trong hoạt động thực tiễn của
người cách mạng. Xuất phát từ điều kiện, hoàn cảnh Việt Nam, Hồ Chí Minh
luôn khẳng định đạo đức là “gốc”, là “nền tảng” người cách mạng. Hồ Chí Minh
cho rằng, việc nhận thức đúng đắn và đầy đủ vai trò to lớn của đạo đức trong
quá trình hình thành và phát triển nhân cách cũng như ý nghĩa sâu sắc của nó
trong việc định hướng giá trị cho hoạt động của con người Việt Nam tự giác học
tập, rèn luyện, tu dưỡng và không ngừng nâng cao đạo đức cách mạng ngày
càng cống hiến nhiều hơn sức lực, trí tuệ cho sự phát triển của đất nước và thắng
lợi của cách mạng nước ta.
Với quan điểm “đạo đức là gốc của người cách mạng”, Bác Hồ quan tâm
giáo dục thanh niên không chỉ có tinh thần làm chủ nước nhà mà phải thường
xuyên rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng: cần, kiệm, liêm, chính; chí công,
vô tư. Bác khuyên thanh niên “hăng hái, xung phong”, có chí tiến thủ, không
23



ngại khó khăn, không nề nguy hiểm trong công tác, học tập, chiến đấu. Song,
trong cuộc sống, Bác căn dặn thanh niên biết yêu thương gia đình, kính trọng
ông bà, cha mẹ, người cao tuổi, nâng đỡ, dìu dắt thiếu nhi, quý trọng và hiếu
thảo với nhân dân. Trung với nước, hiếu với dân là nội dung đạo đức mới Bác
khuyên nhủ thanh niên cần thực hiện. Người cho rằng, đạo đức cách mạng
không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà
phát triển và củng cố. Do đó, thanh niên phải ra sức rèn luyện đạo đức cách
mạng, bởi vì “cũng như sông có nguồn thì mới có nước, không có nguồn thì
sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có
đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân
dân”9. Giáo dục, bồi dưỡng tri thức đạo đức cách mạng cho con người là biện
pháp vô cùng quan trọng mà Hồ Chí Minh rất quan tâm để phát triển con người
về đạo đức. Nội dung giáo đạo đức cách mạng theo quan điểm của Hồ Chí Minh
có nhiều vấn đề với tri thức rất phong phú. Để không ngừng nâng cao sự hiểu
biết và nhận thức của con người Việt Nam về đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh
tập trung bồi dưỡng những kiến thức về thiện – ác, trung hiếu, cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư, về đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân...
Thiện và ác là hai phạm trù cơ bản trong đạo đức học dùng để đánh giá
hành vi đạo đức của con người. Thiện là sự đánh giá khẳng định đối với hành vi
phù hợp với nguyên tắc và quy phạm đạo đức của một xã hội hay một giai cấp
nhất định. Ác là sự đánh giá phủ định đối với những hành vi trái nguyên tắc,
chuẩn mực đạo đức xã hội hay một giai cấp nào đó đặt ra. Hồ Chí Minh cho
rằng, con người ai cũng cần hiểu được thế nào là thiện, là ác để hướng tới cái
thiện, cái tốt, từ bỏ cái ác, không làm điều xấu. Đó là vấn đề rất có ý nghĩa trong
nhận thức và hành động của mỗi người. Người cho rằng: “ THIỆN và ÁC là hai
cái mâu thuẫn, luôn luôn đấu tranh gay gắt với nhau. Cuộc đấu tranh ấy phải
9

Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb. CTQG, HN, 2002, t.5, tr. 252-253.


24


trường kì và gian khổ, nhưng cuối cùng thì ÁC nhất định bại, THIỆN nhất định
thắng”10. Đó là định hướng tư tưởng hết sức quan trọng của Hồ Chí Minh, giúp
cho mỗi người Việt Nam hiểu rõ được cái thiện, cái ác trong thời đại cách mạng
mới, vững tin vào chiến thắng của cái thiện, cái tốt đối với cái ác, cái xấu xa,
cũng như vào thắng lợi cuối cùng sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, của
dân tộc. Từ đó, tích cực vươn lên rèn luyện, tu dưỡng làm cho phần thiện, phần
tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân, cái xấu mất dần đi, góp phần
hoàn thiện và phát triển đạo đức con người toàn diện.
Cùng với giáo dục tri thức về thiện, ác, Hồ Chí Minh cũng rất chú trọng
bồi dưỡng, nâng cao sự hiểu biết cho con người Việt Nam về Cần, Kiệm, Liêm,
Chính, Chí công vô tư. “Cần, kiệm, liêm, chính” là cụm khái niệm chỉ những
đức tính cần thiết của những người có trách nhiệm ở các thời kì lịch sử. Ban đầu
chúng thuộc phạm trù luân lý, đạo đức của Nho giáo. Qua chiều dài lịch sử nó
đã có chỗ đứng nhất định trong tư tưởng và tâm lý của nhân dân Việt Nam. Đến
Hồ Chí Minh, Người đã đổi mới, bổ sung thêm nội dung và mở rộng thêm đối
tượng thực hiện, dùng vào việc dạy cán bộ và nhân dân ta.
Theo Hồ Chí Minh, giáo dục thanh niên, giáo dục con người toàn diện về
đạo đức không thể không nhắc tới đức tính “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư” đây là đức tính căn bản nhất của đạo đức con người. “Cần” là lao động cần
cù, siêng năng, dẻo dai, lao động có kế hoạch, sáng tạo năng suất cao; lao động
với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa
dẫm.“Kiệm” là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của
nhân dân, của đất nước, của bản thân mình. Tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái to;
“Không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”, nhưng không phải là bủn xỉn.
“Liêm” là “luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân; không xâm phạm
một đồng xu, hạt thóc của nhà nước, của nhân dân”. Phải trong sạch, không
10


Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb. CTQG, HN, 2002, t.8, tr. 276-277

25


×