Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Khám phá khoa học cho trẻ 3-4t thông qua hoạt động trải nghiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 31 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
KHOA GIÁO DỤC

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN : GIÁO DỤC MẦM NON
ĐỀ TÀI : Thực trạng tổ chức hoạt động khám phá khóa học
thông qua các hoạt động trải nghiệm cho trẻ 3-4 tuổi ở trường
mầm non Montessori Tp Vinh
Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Quỳnh Anh
Sinh viên thực hiện :Bùi Thị Hồng Ngân
MSSV : 175D1402015001
Lớp : K56LT
Nghệ An, tháng 12 năm 2017


Tên đề tài :
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC KHÁM PHÁ KHOA HỌC THÔNG QUA
HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM CHO TRẺ 3-4T Ở TRƯỜNG
MONTESSORI TP VINH
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài .
2. Mục đích nghiên cứu .
3. Nhiệm vụ nghiên cứu .
5. Đối tượng nghiên cứu .
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Lịch sử nghiên cứu
1.2 Một số khái niệm về tổ chức hoạt động khám phá khoa học thông qua hoạt
động trải nghiệm
1.2.1. hoạt động khám phá


1.2.2. hoạt động trải nghiệm
1.3 Đặc điểm tâm sinh lý trẻ 3-4t
1.4 Vai trò của tổ chức hoạt động khám phá khoa học thông qua hoạt động trải
nghiệm
CHƯƠNG 2 :
THỰC TRẠNG CỦA VIỆC TỔ CHỨC KHÁM PHÁ KHOA HỌC THÔNG
QUA HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM .
2.1. Khái quát về tổ chức khảo sát thực trạng
2.1.1.Tổ chức nhà trường
2.1.2. Mục đích nghiên cứu thực trạng
2.2.Thực trạng
2.2.1. Thực trạng nhận thức của giáo viên
2.2.2. Thực trạng nhận thức của phụ huynh
2.2.3. Thực trạng tổ chức hoạt động khám phá khoa học của trẻ 3 – 4 tuổi
2.3.Đánh giá kết quả thực trạng
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAMKHẢO
PHỤ LỤC 1,2


A- PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Chúng ta biết rằng, đối với trẻ mầm non việc cho trẻ “khám phá khoa học” là
tạo điều kiện hình thành và phát triển ở trẻ tâm hồn trong sáng, hồn nhiên, lòng
nhân ái, tình cảm yêu thương với người thân, với cuộc sống xung quanh trẻ, biết
yêu quý bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ những truyền thống của quê hương đất nước,
trân trọng và giữ gìn sản phẩm lao động tự làm ra.
Sự thật trẻ em có nhu cầu rất lớn trong việc tiếp xúc và nhận thức thế giới xung
quanh.Trẻ nhỏ nào cũng rất say mê với những trò đuổi bướm, bắt ve, hái hoa...
Trẻ thích ngắm nhìn trời đất, nhìn mây bay, nhìn những giọt mưa rơi tí tách

ngoài mái hiên.
Những lúc ấy trong đầu trẻ có bao nhiêu điều thắc mắc đại loại như: Tại sao lại
có mưa? Mưa từ đâu rơi xuống? Cây xanh có từ đâu? Vì sao nó sống được?
Mây từ đâu bay đến và sẽ bay về đâu? Tối nó có đi ngủ như mình không?
Hoạt động cho trẻ mầm non khám phá môi trường xung quanh nhằm giúp trẻ
tiếp xúc với môi trường qua đó để hình thành biểu tượng về thế giới xung
quanh. Dạy trẻ khám phá là giáo viên tổ chức hoạt động học theo nhóm nhằm
phát huy năng lực giải quyết vấn đề và tự học cho trẻ.
Từ trước đến nay, trong trường mầm non vẫn dạy trẻ “ Tìm hiểu môi trường
xung quanh” “ Hoặc làm quen với môi trường xung quanh”. Tuy nhiên, trong
thực tế, nhiều giáo viên thường chú trọng cho trẻ tìm hiểu bề ngoài của các đối
tượng, đa số trẻ chỉ được hỏi và trả lời, ít khi cho trẻ sờ, mó, nếm các đồ vật mà
trẻ được thí nghiệm.
Giáo viên ít đưa ra câu hỏi mở khích thích sự tìm tòi, khám phá của trẻ, chính vì
vậy trẻ có ít trải nghiệm, ít có điều kiện để giải quyết vấn đề mà trẻ dự đoán.
Trong dạy học khám phá đòi hỏi người giáo viên gia công rất nhiều để chỉ đạo
các hoạt động nhận thức của trẻ. Hoạt động của cô bao gồm: định hướng phát
triển tư duy cho trẻ, lựa chọn nội dung của vấn đề và đảm bảo tính vừa sức với
trẻ; tổ chức trao đổi theo nhóm; các phương tiện trực quan hỗ trợ cần thiết…
Hoạt động chỉ đạo của giáo viên cần hỗ trợ để cho mọi trẻ đều trao đổi, hoạt
động tích cực.
Đối với trẻ mẫu giáo, phạm vi hiểu biết và học hỏi, tìm tòi rộng hơn do đó cô
giáo cần tạo điều kiện cho trẻ tiếp cận với các vật có thật để cho trẻ được hoạt
động tìm tòi, khám phá và phát hiện, cho trẻ tận mắt nhìn thấy các đối tượng
xung quanh, điều đó có tác dụng làm chính xác những biểu tượng đã được hình
thành trong đầu óc trẻ, trẻ nhận biết đối tượng hứng thú hơn, dễ dàng hơn, chính
hơn, trực quan cần phải đảm bảo tính thẩm mỹ, đẹp, và rõ ràng


Nhận thấy rõ tầm quan trọng của các hoạt động trải nghiệm cho trẻ mẫu giáo,

khi mà đa số các hoạt động trải nghiệm chỉ thực hành trên trẻ 5-6t, tôi đã mạnh
dạn chọn đề tài “ Thực trạng tổ chức khám phá khoa học thông qua hoạt động
trải nghiệm cho trẻ 3-4t ở trường mầm non Montessori Tp Vinh ” nhằm tìm hiểu
các kỹ năng và hình thành sự phát triển tư duy cùng óc sáng tạo, lòng ham
muốn học hỏi của trẻ mẫu giáo 3-4t một cách hiệu quả hơn.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng tổ chức hoạt động trải nghiệm cho trẻ 3-4t tại trường
Happy Hands, trên cơ sở phân tích và nghiên cứu thực trạng đó để đưa ra một số
ý kiến, góp phần nâng cao hiệu quả chất lượng việc tổ chức các hoạt động khám
phá cho trẻ 3-4t
3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về việc tổ chức hoạt động khám phá, thông qua hoạt
động trải nghiệm tại trường mầm non Happy Hands
- Nghiên cứu thực trạng việc tổ chức hoạt động khám phá khoa học thông qua
hoạt động thí nghiệm tại trường mầm non Happy Hands nhằm đưa ra ý kiến đề
xuất góp phần nâng cao chất lượng trong việc tham gia các giờ khám phá khoa
học cho trẻ MN
- Góp phần nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động khám phá cho trẻ 3-4t tại
trường mầm non Happy Hands.
3.2. Khảo sát thực trạng
5. Đối tượng và khách thể nghiên cứu:
5.1 Đối tượng nghiên cứu:
Thực trạng tổ chức khám phá khoa học thông qua hoạt động trải nghiệm
5.2 Khách thể nghiên cứu:
Quá trình tổ chức hoạt động khám phá khoa học thông qua hoạt động trải
nghiệm cho trẻ 3-4 tuổi, trường mầm non Happy Hands Montessori Tp Vinh
6. Phạm vi nghiên cứu
Tổ chức một số hoạt động khám phá khoa học thông qua trải nghiệm tại lớp Hạt
Tiêu, trường mầm non Happy Hand Montessori – Tp Vinh
6. Phương pháp nghiên cứu :

6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận:
- đọc, phân tích, tổng hợp một số tài liệu về các hoạt động trải nghiệm cho trẻ 34t
6.2. Phương pháp thực tiễn :


- Phương pháp quan sát: trực tiếp qua giờ dạy và gián tiếp qua giáo án để xác
định thực trạng việc tổ chức các hoạt động trải nghiệm tại lớp Hạt Tiêu, trường
Happy Hands Montessori
- Phương pháp trò chuyện: phỏng vấn giáo viên và trẻ nhằm lấy thông tin một
cách khách quan nhất
- PP điều tra
- PP xử lí toán thống kê
CHƯƠNG 1.CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1.Những nghiên cứu về khoa học ở nước ngoài nói chung
Vào thời đầu của khoa học – kỹ thuật hiện đại, Francis Bacon (1561 – 1626)
nêu công thức ngắn gọn và cấp tiến: “tri thức là sức mạnh”. Mục tiêu của khoa
học và kỹ thuật là “regnum hominis”, sự thống trị của con người, khôi phục lại
vườn địa đàng đã mất, khi con người đầu tiên (Adam và Eva) đặt tên cho muôn
loài và khẳng định quyền lực của mình một cách dễ dàng.
Một “không tưởng” về kỹ thuật ra đời, lôi cuốn phương Tây, và rồi cả nhân
loại, đi vào cuộc đại trường chinh mới mẻ.
Một thế hệ sau Bacon, René Descartes (1596 – 1650), ông tổ đích thực của tư
tưởng cận đại, đề ra yêu cầu: nhờ vào sự trợ giúp của khoa học và kỹ thuật, con
người phải và có thể trở thành “chủ nhân và chủ sở hữu của thiên nhiên”.
Bacon và Descartes, về căn bản, chỉ xác định bản chất của hoạt động khoa học
và hành động kỹ thuật. Mục tiêu bản chất của kỹ thuật tất yếu hướng đến sự
thống trị: cần phải buộc thiên nhiên (và tất nhiên cả con người) chấp nhận tuân
theo những quá trình không tự nguyện.
Việc thống trị thiên nhiên bằng khoa học – kỹ thuật bao gồm ba thành tố hay ba

cấp độ: khách quan hoá thiên nhiên thành đối tượng của sự quan sát và lý
thuyết; giải thích những hiện tượng của nó dựa vào nguyên tắc nhân quả; làm
chủ tiến trình vận động của chúng bằng sự can thiệp kỹ thuật có mục đích.
Việc khách quan hoá đòi hỏi phải thay thế những cách tiếp cận theo kiểu xúc
cảm, đồng nhất hoá hay mô phỏng bằng lối khác: lý tính, sự thông báo rành
mạch cho mọi người cùng hiểu và khả năng kiểm tra, lặp lại của người khác.
Việc giải thích nhân quả đòi hỏi phải lược bỏ tính cá biệt cụ thể của những đối
tượng tự nhiên để có thể quy chúng về những nguyên tắc 11 tác động phổ biến.
Sau cùng, sự làm chủ về kỹ thuật không chỉ biến thiên nhiên thành đối tượng
mà còn thành những sự vật. Sự vật thì được công cụ hoá và – ít ra trong quá
trình can thiệp kỹ thuật – trở thành phương tiện đơn thuần. Tư duy khoa học
luận hiện đại ghi công Karl Popper, đồng thời cũng nhận rõ những chỗ còn
khiếm khuyết của ông.
Câu hỏi về phương pháp luận khoa học sớm biến thành câu hỏi về tính chất và
đặc điểm của sự phát triển khoa học. Nói cách khác, khoa học luận có thêm kích
thước mới: thời gian và lịch sử. Cách nhìn quen thuộc cho rằng sự phát triển và
tiến bộ của khoa học là theo đường thẳng (tuyến tính), có tính tích luỹ dần dần
những tri thức mới và sau cùng hội tụ thành một lý thuyết thống nhất và toàn


bộ. Ít ai có thể phủ nhận mục đích của các nhà khoa học là tìm kiếm những tri
thức mới mẻ để bổ sung và tích hợp vào những tri thức đã có.
Các lý thuyết đến sau (học thuyết của Einstein) không chỉ bao quát được nhiều
sự kiện hơn, mà còn được cho là đến gần “chân lý” hơn so với các lý thuyết
trước đó, và người ta hy vọng rằng một ngày nào đó tất cả sẽ hội tụ thành một
“khoa học duy nhất về mọi sự”.
Khoa học giống với hình ảnh… một củ hành ngày càng dày thêm hay những cái
hộp ở trong một cái hộp.
Paul Feyerabend (1924 – 1994) nghi ngờ và bác bỏ hy vọng “hão huyền” ấy. Lý
lẽ chính yếu của ông: lý thuyết sớm hơn không thể được lược quy vào lý thuyết

muộn hơn, bởi thường mỗi bên hiểu khác nhau về ý nghĩa của những khái niệm.
Chẳng hạn, trong cơ học Newton, các khái niệm về không gian – thời gian nói
lên mối quan hệ giữa những đối tượng độc lập với sự vận động của người quan
sát và các trường hấp dẫn, ngược hẳn với lý thuyết của Einstein. Do đó, những
khái niệm trong lý thuyết này là không thể so sánh được với những khái niệm
trong lý thuyết kia. Người ta gọi đó là những khái niệm vô ước (không thể so
sánh với nhau), và vì thế, chúng cũng không thể được lược quy vào nhau hay
hợp nhất với nhau được.
Karl Popper, có cái nhìn khác về sự tiến bộ của khoa học. Theo ông, thay vì dựa
theo phép quy nạp truyền thống (quan sát sự kiện, đề ra giả thuyết để giải thích
rồi tổng quát hoá thành định luật), nhà khoa học bắt đầu bằng việc đề ra các giả
thuyết 12 (hay các phỏng định) khác nhau, rồi cố gắng kiểm sai chúng sau khi
diễn dịch ra những tiên đoán, những quan sát và những đo đạc, tính toán…
Nếu sự phỏng định ấy bị kiểm sai, nó sẽ bị bác bỏ và nhà khoa học đi tìm các
giả thuyết khác. Bao lâu chưa bị kinh nghiệm kiểm sai và bác bỏ, nó là một
phỏng định chưa bị đánh bại, và được thừa nhận rộng rãi. Khoa học tiến lên
bằng cách tích hợp ngày càng nhiều những phỏng định đã đứng vững được
trước thử thách và, trong thực tế, là lịch sử của một chuỗi phỏng định và bác bỏ.
Câu hỏi đặt ra: lấy gì để phân biệt giữa khoa học và không phải khoa học?
Popper gọi đó là vấn đề phân định ranh giới: khoa học thì có thể kiểm sai được,
còn ngược lại thì không phải là khoa học, thế thôi. Những gì không thể kiểm sai
có thể là sự mê tín dị đoan, những lý thuyết huyền bí (ví dụ: chiêm tinh học…),
hay những giáo điều võ đoán v.v. Ta không phủ nhận sự tồn tại của chúng, chỉ
có điều không thể đối xử với chúng như đối xử với các giả thuyết khoa học.
Trong cách hiểu ấy, khoa học có tính khiêm tốn, nhưng đồng thời cũng có tính
chuẩn mực nghiêm ngặt. Nhiều cuộc tranh luận đã diễn ra chung quanh quan
niệm mới mẻ của Karl Popper. Bên cạnh việc thừa nhận các ưu điểm nổi bật của
nó, nhiều ý kiến nhấn mạnh đến mấy chỗ còn khiếm khuyết của nó.
Popper chỉ mới cho biết nhà khoa học đạt được tri thức phản chứng, tức tri thức
về những gì không đúng sự thật, như thế nào, nhưng lại không cho biết rõ về

tiến trình thu hoạch tri thức tích cực, đúng sự thật, chẳng hạn làm sao biết được
rằng mọi vật thể đều đứng yên hoặc sẽ vận động đều theo đường thẳng nếu
không có lực tác động nào khác (định luật thứ nhất của Newton).


Theo mô hình diễn dịch – giả thuyết của Popper, sự diễn dịch luôn đi từ những
định luật ở cấp độ cao đến những khẳng định cụ thể của sự quan sát mà không
thấy có con đường ngược lại. Nói khác đi, mô hình ấy hầu như chỉ vận hành sau
khi đã xây dựng được lý thuyết hay giả thuyết. Nhưng, chắc hẳn nhà khoa học
không phải ngay từ đầu đã đi đến ngay được những giả thuyết bằng sự đoán mò,
trái lại, luôn phải xuất phát và suy luận từ những gì quan sát được. Diễn trình
“quy nạp” ấy diễn ra 13 như thế nào? Rồi sau khi một số phỏng định đã bị bác
bỏ và các đề nghị khác ưu việt hơn được đề ra, ắt lại phải thu thập những bằng
chứng củng cố cho đề nghị này hay đề nghị kia, để sau cùng, đề nghị tốt nhất sẽ
có được vị thế của chân lý (tạm thời) được xác lập. Popper chưa khai triển đầy
đủ chi tiết về cả hai giai đoạn: tiền – giả thuyết và hậu – giả thuyết. Nhận định
phê phán có sức nặng hơn cả đến từ Thomas Kuhn (1922 – 1996), một môn đệ
của Popper.
Theo Kuhn, hầu hết mọi lý thuyết đều không hoàn chỉnh và đều có thể bị kiểm
sai, trong trường hợp đó, chẳng lẽ tất cả chúng đều bị vứt bỏ hết? Sự thật không
đơn giản như thế! Trong thực tiễn nghiên cứu khoa học, hiếm khi chỉ vì bị kiểm
sai trong một số ít trường hợp mà một lý thuyết bị vứt bỏ.
Trái lại, khi một lý thuyết bị kiểm sai, không phải người ta lập tức đi tìm một
giả thuyết khác, mà thường xem xét lý do tại sao nó lại bị kiểm sai. Một khi biết
rõ lý do, người ta tìm cách điều chỉnh hoặc tìm những giải pháp gần gũi nhất để
thay thế, và, kỳ cùng, mới đi đến chỗ vứt bỏ toàn bộ đề án hay cương lĩnh
nghiên cứu.
Thế nhưng, theo Kuhn, để làm như thế, nhà khoa học lại cần phải biết loại lý
thuyết nào có thể phù hợp với sự kiện hơn, so với lý thuyết đã bị kiểm sai. Việc
biết ấy đòi hỏi sự kết hợp giữa thủ tục kiểm đúng lẫn kiểm sai hơn là thủ tục

kiểm sai đơn độc. “Thông thường, nhà khoa học không muốn và không cần trở
thành triết gia. Họ sẽ đến với triết học mỗi khi lâm vào khủng hoảng”.
Thomas Kuhn đặt khoa học trong diễn trình phát triển năng động hơn là trong
một sơ đồ tĩnh tại. Chính kích thước lịch sử của khoa học giúp con người đến
gần hơn với thực tiễn nghiên cứu, nhất là để có thể giải thích được những khủng
hoảng và đột biến trong diễn trình ấy.
Những nghiên cứu về việc khám phá khoa học dành cho trẻ nhỏ
Những nhà khoa học giáo dục ở phương Tây ngày càng nhận thức rõ hơn về
những học thuyết, quan điểm trong đó đứa trẻ phát triển hiểu biết về các hiện
tượng tự nhiên.
Những xuất bản của Driver (1983) và Osborne cùng Freyberg (1985) đã
khuyến khích trẻ khám phá thử nghiệm những gì liên quan đến “khoa học
dành cho 14 trẻ nhỏ”. Tuy nhiên nó vẫn chưa phải là một chỉ báo về tiềm
năng tự nhiên của trẻ trong việc thử lĩnh hội những khám phá khoa học của
chúng. Ở một khía cạnh khác, Metz (1995) lại đưa ra tranh luận rằng điều đó
phù hợp với những gì chúng ta biết về trẻ nhỏ nhằm hỗ trợ những nỗ lực của
trẻ khi xây dựng lý thuyết thông qua việc xác thực khoa học phù hợp.


1.1.2.Những nghiên cứu ở Việt Nam
TS. Trần Thị Ngọc Trâm đang thực hiện đề tài “Thiết kế các hoạt động khám
phá khoa học cho trẻ mẫu giáo” từ tháng 5 năm 2008 đến tháng 10 năm 2013
nhằm
làm sáng tỏ khung lí thuyết và cơ sở thực tiễn của việc thiết kế và tổ chức các
hoạt
động khám phá khoa học cho trẻ mẫu giáo; đồng thời đề xuất một số hướng tổ
chức hoạt động khám phá khoa học và thiết kế một số hoạt động khám phá khoa
học cho trẻ mẫu giáo.
Trong giai đoạn thực hiện đề tài, về mặt lý thuyết, tiến sĩ đã làm sáng tỏ một số
khái niệm công cụ: nhận thức, khoa học, khám phá khoa học với trẻ nhỏ;

làm sáng tỏ những vấn đề lí luận liên quan tới hoạt động khám phá khoa học
của trẻ mẫu giáo như sự phát triển nhận thức của trẻ mẫu giáo, các quá trình
khám phá khoa học thích hợp với trẻ nhỏ, mục tiêu của tổ chức hoạt động khám
phá khoa học cho trẻ mẫu giáo, tầm quan trọng của hoạt động khám phá khoa
học với trẻ nhỏ, tổng quan chuẩn giáo dục khoa học cho trẻ mẫu giáo của một số
nước, cách tiếp cận quá trình trong dạy khoa học cho trẻ nhỏ, và vai trò của giáo
viên trong tổ chức hoạt động khám phá khoa học cho trẻ.
Đây là một đề tài rất gần với đề tài đang thực hiện, và có thể trở thành cơ sở để
nghiên cứu những nội dung cụ thể của đề tài đang thực hiện; tuy nhiên, hiện nay
đề tài vẫn chưa được hoàn thành và công bố.
1.2. Một số khái niệm
1.2.1 Hoạt động khám phá khoa học
-Thông thường người ta coi hoạt động là sự tiêu hao năng lượng thần kinh và
cơ bắp của con người tác động vào hiện thực khách quan, nhằm thỏa mãn những
nhu cầu của mình.
-Về phương diện triết học, tâm lí học, người ta quan niệm hoạt động là phương
thức tồn tại của con người trong thế giới.
-Theo Wikipedia, khoa học là các nỗ lực thực hiện phát minh, và tăng
lượng tri thức hiểu biết của con người về cách thức hoạt động của thế giới vật
chất xung quanh
- Khoa học là một hoạt động xã hội nhằm tìm tòi, phát hiện quy luật của sự vật
và hiện tượng và vận dụng các quy luật ấy để sáng tạo ra nguyên lý, các giải
pháp tác động vào sự vật hoặc hiện tượng nhằm biến đổi trạng thái của chúng.
- Theo hai tác giả Christine Chaille và Lorry Britain trong quyển sách “Trẻ em
là nhà khoa học” thì định nghĩa khoa học có rất nhiều cách hiểu đối với những
người có quan điểm khác nhau. Với một số người, khoa học là sự kết hợp những
nguyên vật liệu cụ thể gắn liền với những nội dung như nam châm và từ trường,


ống nghiệm và những giải pháp hóa học, những mẫu vật được bảo quản và kính

hiển vi.
Như vậykhám phá khoa học chính là kiến thức, hiểu biết thế giới; là quá trình
tìm hiểu, khám phá thế giới tự nhiên, ở đó chuỗi hệ thống tri thức tích cực trẻ có
được thông qua quá trình tìm tòi, phát hiện, khám phá thế giới xung quanh bằng
tư duy và bằng thực tiễn.
Từ đó, hoạt động khám phá khoa học dành cho trẻ mầm non được nhìn nhận,
hiểu và định nghĩa dưới rất nhiều góc độ cụ thể khác nhau.
- Trong quyển “Các hoạt động khám phá khoa học của trẻ mầm non” thì hoạt
động khám phá khoa học là quá trình trẻ tích cực tham gia hoạt động thăm dò,
tìm hiểu thế giới tự nhiên.
- Đó là quá trình quan sát, so sánh, phân loại, thử nghiệm, dự đoán, suy luận,
thảo luận, giải quyết vấn đề, đưa ra quyết định,...
Hoặc khi dựa vào những định nghĩa về khoa học ở trên, khái niệm “khám phá
khoa học” dành cho trẻ MN có thể được hiểu như sau:
- Khám phá khoa học là hoạt động nhận thức của cá nhân trẻ nhằm phát hiện ra
tri thức về thế giới xung quanh.
- Khám phá khoa học là tìm thấy, phát hiện ra tri thức tích cực được ẩn giấu từ
thế giới xung quanh của chúng.
- Khám phá khoa học là hoạt động nhận thức nhằm chiếm lĩnh hệ thống tri thức
tích cực có được thông qua quá trình tìm tòi, phát hiện, khám phá thế giới xung
quanh.
Như vậy có thể thấy rằng: “hoạt động khám phá khoa học” của trẻ MN được
xem như là hoạt động nhận thức nhằm chiếm lĩnh hệ thống tri thức, là quá trình
tìm tòi, phát hiện, khám phá thế giới xung quanh bằng quan sát, so sánh, phân
loại, thử nghiệm, dự đoán, suy luận, thảo luận, giải quyết vấn đề, đưa ra quyết
định, kết luận nhằm tăng hiểu biết của cá nhân.
1.2.2. Hoạt động trải nghiệm
Hoạt động trải nghiệm không chỉ là một phương pháp tổ chức của các môn học
mà còn là một cách học thông qua thực hành, với quan niệm việc học là quá
trình tạo ra tri thức mới trên cơ sở trải nghiệm thực tế, dựa trên những đánh giá,

phân tích trên những kinh nghiệm, kiến thức sẵn có.


Như vậy, thông qua các hoạt động trải nghiệm, trẻ được cung cấp các kiến thức,
kĩ năng từ đó hình thành những năng lực, phẩm chất và kinh nghiệm. Trong các
hoạt động trải nghiệm, giáo viên mầm non có vai trò định hướng, hỗ trợ, đánh
giá, uốn nắn, sửa sai cho trẻ.
Tùy thuộc vào từng hoạt động trải nghiệm, giáo viên đưa các tình huống có vấn
đề để trẻ trải nghiệm với các tình huống đó.
Như vậy, trẻ rất hứng thú và kiến thức, kĩ năng sẽ hình thành một cách nhẹ
nhàng, tự nhiên bên cạnh đó các cô giáo cho trẻ trải nghiệm sáng tạo thông qua
hoạt động ngoài trời, các hoạt động khám phá khoa học…tạo sự lôi cuốn trẻ
tham gia vào các cuộc trò chuyện bằng những câu hỏi ngắn về kinh nghiệm của
trẻ, tạo hứng thú bước đầu cho trẻ đối với những nội dung đặt ra về đặc điểm
của nước.
Ví dụ: Các con hãy nhìn xem cốc nước này như thế nào? Có màu gì?Các con
hãy ngửi xem nước có mùi gì? Mỗi bạn hãy rót nước và uống xem nước có vị
gì?
Tùy theo từng điều kiện, giáo viên thiết kế các thí nghiệm cho trẻ như: Hàng
ngày, cô cùng trẻ tưới nước cho hạt và cùng nhau quan sát sự nảy mầm của hạt.
Đối với con vật nuôi, cây xanh cho trẻ tìm hiểu về đặc điểm, giá trị, vẻ đẹp của
con vật, cây, hoa, lá.... Nói về sự sinh trưởng của cây xanh, cô cùng trẻ tham gia
hoạt động thực tế: “gieo hạt”. Cô cho trẻ xem về quá trình phát triển, thay đổi
của đối tượng: Hạt - nảy mầm - cây có chồi - lá non - lá xanh thẫm, to hơn, sau
đó trẻ được xem cả quá trình lao động chăm sóc cây trồng.
Tùy theo điều kiện giáo viên chọn những thí nghiệm làm cho trẻ xem và sau đó
trò chuyện với trẻ: Điều gì xảy ra nếu không có nước? Phải làm những công
việc gì để bảo vệ nguồn nước? Chúng ta làm gì để góp phần tiết kiệm nước?
Chính hoạt động trải nghiệm này sẽ mang lại cho trẻ sự hứng thú khi hàng ngày
được chăm sóc và tham gia các hoạt động như một nhà khoa học thực thụ. Từ

đó, trẻ biết trân trọng nguồn nước, cây xanh và bảo vệ môi trường.
Có thể nói rằng, các hoạt động trải nghiệm có tác động rất lớn tới dạy trẻ thu
nhận kiến thức mới không quan trọng bằng tạo cho bé có niềm say mê tìm hiểu,
thích khám phá và biết cách lĩnh hội những kiến thức mới. Học bằng cách khám
phá và biết cách lĩnh hội những kiến thức mới giúp bé được trải nghiệm và tự
phát hiện ra những điều lý thú.
1.3 . Đặc điểm tâm sinh lý ở trẻ 3-4t khi tham gia khám phá khoa học


Nhà tâm lý học Jean Piaget đã giải thích tính ham hiểu biết của trẻ và mong
muốn hoạt động của trẻ trong môi trường là do quá trình tự điều chỉnh hay còn
gọi là sự cân bằng.
Có thể bạn chưa biết :
-

-

-

-

Trẻ từ 3 – 5 tuổi quá trình tư duy của trẻ có nhiều thay đổi từ giai đoạn
cảm giác- vận động đến giai đoạn tư duy tiền thao tác, kèm theo tư duy
tượng trưng để trẻ tìm hiểu các sự vật, hiện tượng xung quanh. Trẻ sử
dụng thăm dò làm phương thức học tập chính. Thực hành phương pháp
“thử và sai” để tìm ra các giải pháp cho các vấn đề. Trẻ thường cố gắng
thử những ý tưởng khác nhau cho đến khi tìm thấy một cách thành công.
Thu thập nhiều thông tin thông qua quan sát, âm thanh, và cảm ứng. Phân
loại và sắp xếp đối tượng bằng cách xác định một thuộc tính (ví dụ: cứng
v. mềm, lớn, nhỏ) hoặc chức năng (ví dụ: vận chuyển). Nhận biết các đặc

tính chung và sự khác biệt giữa các vật thể và vật liệu, dễ dàng sắp xếp
chúng theo kích cỡ. Bắt đầu biết sử dụng các công cụ đơn giản (ví dụ:
kính lúp để xem chi tiết) để thu thập thông tin.
Trẻ bắt đầu tạo ra các bản vẽ thể hiện đơn giản như là một hình thức thu
thập dữ liệu (ví dụ, bản vẽ ốc bắt đầu bằng phác thảo hình thức, sau đó
thêm các tính năng quan tâm đặc biệt như đầu hoặc vòng trên vỏ).
Có thể rút ra những kinh nghiệm trong quá khứ để mô tả, so sánh, nói về
những quan sát và kinh nghiệm đã trải qua.
Chia sẻ kinh nghiệm và quan sát trong các cuộc thảo luận, tăng việc sử
dụng từ vựng mô tả (ví dụ: trẻ mô tả tuyết như “ướt”, “lạnh” và “trắng”).
·Có thể khám phá khoa học với các hiện tượng theo nhóm nhỏ (ví dụ:
một nhóm tìm kiếm các vật sống trong lá).


Bắt đầu mô tả vật thể bằng các vật liệu tạo ra chúng cũng như các thuộc
tính vật lý của chúng (ví dụ: trẻ yêu cầu lấy một cái chén nhựa màu
xanh). Trẻ thể hiện sự hiểu biết về mối quan hệ nguyên nhân – kết quả
(bắt đầu hiểu các mối quan hệ nguyên nhân) (ví dụ: làm thế nào để bổ
sung nước để thay đổi tính nhất quán của đất sét).
Nhận biết về chất lượng âm thanh (ví dụ: độ cao, âm lượng) và ánh sáng
(ví dụ: độ sáng). Có thể thử nghiệm với việc tạo ra âm thanh và nhận ra
các nguồn ánh sáng khác nhau.
Tiếp tục chơi với nước, nhận thấy đường nước chảy và làm đầy bình
chứa. Thích làm “các chất lỏng”, pha trộn các chất lỏng khác nhau để tạo
ra các biến thể mới.
Hiểu rằng các vật thể vô tri vô giác không di chuyển một mình, và chúng
cần phải được đẩy, kéo, ném, rớt xuống hoặc hành động khác để di
chuyển
Có thể khi hỏi trẻ “khoa học là gì”, trẻ sẽ không thể biết, nhưng chúng ta thấy
rõ ràng từ 3 tuổi, trẻ đã hoàn toàn nhận biết được những hiện tượng liên quan

đến khoa học. Trẻ làm quen với chúng bằng những hoạt động hàng ngày, và
luôn không ngừng đặt ra những câu hỏi. Trẻ vốn yêu thích khám phá khoa học
một cách tự nhiên, nhưng bản thân chúng ta lại luôn suy nghĩ chủ quan rằng, trẻ
quá nhỏ để tìm hiểu những thứ khô khan đó. Nếu cứ đi theo quan điểm như vậy,
chúng ta đang vô tình hạn chế sự phát triển của trẻ bởi khoa học không chỉ có
ích cho cuộc sống mà khám phá khoa học hỗ trợ trẻ phát triển rất tốt về tư duy
và sự sáng tạo, không chỉ góp phần vào việc học tập và làm việc sau này của trẻ
mà còn là hành trang để trẻ ứng phó với môi trường xung quanh.
-

Quả thực khám phá môi trường xung quanh có tầm quan trọng đặc biệt đối
với sự phát triển tâm lý của trẻ lứa tuổi mầm non nói chung và độ tuổi mẫu giáo
3 - 4 tuổi nói riêng. Bởi các hoạt động khám phá khoa học ở các lớp mẫu giáo
bé, tại các trường mầm non công lập không đưa vào nhiều, nên cơ hội đế trẻ tích
cực tìm tòi phát hiện về các hiện tượng sự vật xung quanh đã bị bó buộc lại
trong một khuôn khổ.
Mặt khác ở các trường Tư Thục chất lượng cao lại luôn chú trọng đến các hoạt
động khám phá khoa học đi sâu và trải nghiệm thực tế và thí nghiệm thông qua
bài học. Và trường mầm non Happy Hands tôi muốn nói ở đây là một ví dụ điển
hình.
Đây thực chất là quá trình tạo ra môi trường hoạt động, tạo ra các tình huống và
tổ chức các hoạt động cho trẻ tiếp xúc, trải nghiệm với các sự vật hiện tượng
của môi trường xung quanh, qua đó trẻ hiểu biết về đặc điểm, tính chất, các mối
quan hệ, sự thay đổi và phát triển của chúng giúp trẻ học được các kỹ năng quan
sát, phân nhóm, phân loại, đo lường, phán đoán và giải quyêt vấn đề, chuyển tải
ý kiến của mình và đưa ra kết luận về các sự vât hiện tượng đã quan sát, tiếp


xúc. Qua đó, hiểu biết của trẻ về đối tượng được củng cố và chính xác hơn đồng
thời ngôn ngữ cũng được phát triển.

1.4. Vai trò của khám phá khoa hoc thông qua các hoạt động thí nghiệm –
trải nghiệm
- Trải nghiệm khám phá khoa học đối với trẻ em có thể bắt đầu ngay từ khoảng
3 tuổi cho đến hết chương trình học phổ thông. Danh sách các hoạt động liên
quan đến khám phá khoa học thì dường như không có giới hạn, có thể diễn ra
tại trường học, tại gia đình, hay ngay bên ngoài xã hội. Có thể kể ra như những
hoạt động liên quan đến sinh học, hoá học, vật lý học, khoa học về môi trường,
về vũ trụ, địa chất… Từ những trò chơi đơn giản, như làm dùng kính lúp để tạo
ra lửa, hay những chuyến đi dã ngoại làm bộ sưu tập các loại lá cây và côn
trùng, tất cả đều tạo nên cho trẻ những trải nghiệm khám phá khoa học bổ ích.
- Khám phá khoa học thông qua các hoạt động thí nghiệm luôn gắn với việc hỗ
trợ sự sáng tạo và giải quyết vấn đề của trẻ. Qua quá trình thí nghiệm, phương
pháp giáo dục tự nhiên khi cho trẻ tham gia vào các hoạt động tại các khu vực
có nhiều đồ dùng khám phá, nghiên cứu, hay nhiều cây cối xanh mát, chúng ta
sẽ thấy rằng trẻ em phát triển sáng tạo hơn, có tinh thần hợp tác và giải quyết
vấn đề tốt hơn.
- Thiên nhiên giúp trẻ nâng cao khả năng nhận thức. Tiếp xúc hàng ngày với
khung cảnh thiên nhiên làm tăng khả năng tập trung và tăng cường nhận thức
của trẻ. Kết nối trẻ với môi trường giáo dục tự nhiên có thể làm giảm đáng kể
triệu chứng rối loạn, thiếu tập trung ở trẻ em. Cho trẻ tham gia trồng cây, bắt
sâu, tưới cây, tìm hiểu về không khí, về sự tồn tại của nước …vv sẽ giúp trẻ cải
thiện khả năng tập trung, tư duy cao khi học tập.
- Các nghiên cứu ở Mỹ chứng minh rằng những trường học sử dụng các lớp
ngoài trời và các hình thức giáo dục học tập theo phương pháp khám phá khoa
học giúp học sinh tăng đáng kể sự nhanh nhạy trong nghiên cứu xã hội, khoa
học, nghệ thuật ngôn ngữ và toán học.
- Các hoạt động khám phá khoa học thông qua thí nghiệm thực tế tác động
mạnh mẽ đến các mối quan hệ xã hội khi trẻ thường xuyên có cơ hội được thỏa
mãn trí tò mò, sáng tạo. Trẻ em sẽ thông minh hơn, khả năng kết nối với những
trẻ khác tốt hơn, có sức khỏe và vui vẻ hơn.

- Cải thiện khả năng tự kỷ luật khi trẻ được tiếp cận với không gian khám phá ở
mọi nơi, và những cái nhìn dưới con mắt ngây thơ của trẻ về thiên nhiên, thế
giới bên ngoài cùng màu xanh tươi mát, giúp tăng cường sự hòa bình, tự kiểm
soát, tình yêu thương và tựkỷ luật cho trẻ.
- Khám phá khoa học kết hợp trải nghiệm kích thích trẻ quan sát, xem xét,
phỏng đoán, tư duy trực quan và hình thành thói quen hiểu đúng, hiểu chính xác
về mọi vật tồn tại xung quanh lăng kính của trẻ.


Khám phá khoa học thúc đẩy sự phát triển của xã hội con người, nhưng đồng
thời chịu sự chi phối của nhận thức và điều kiện của con người trong thời điểm
hiện tại. Cho dù quá trình trẻ có khám phá mọi vật trên bất kì hình thức hay
công cụ nào, thì những tìm tòi, khám phá khoa học vẫn luônmở rộng và phát
triển một cách bổ sung và đầy đủ. Từ đó khẳng định chắc chắn rằng, kiến thức
về thế giới đối với trẻ MNlà vô tận.

CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG TỔ CHỨC KHÁM PHÁ KHOA HỌC THÔNG
QUA CÁC HOẠT ĐỘNG THÍ NGHIỆM CHO TRẺ 3-4 TUỔI TẠI TRƯỜNG
MẦM NON MONTESSRORI TP- VINH
2.1 Khái quát về tổ chức khảo sát thực trạng
2.1.1 Tổ chức nhà trường
Trường Happy Hands Montessori, lô 9, đại lộ Lenin, trường thành lập tháng 3
năm 2016, chuyên phương pháp giảng dạy là Montessori
Địa điểm của trường là khu biệt thự thoáng mát, có sân chơi tự do. Trường có 2
cơ sở với 4 lớp : 2 lớp Mật Ong (18 th-2t), 1 lớp Hạt Tiêu(3-4t) và 1 lớp Muối
biển (4-5t)
Hiện nay trường có 14 cán bộ giáo viên, trong đó có 2 cán bộ quản lý, hiệu
trưởng là Bà Hồng Hà, cán bộ Phòng GD đã về hưu, hiệu phó trình độ tiến sĩ
Luật học; 10 giáo viên với trình độ cao đẳng và đại học và 2 giáo viên trình độ
Montessori quốc tế.

2.1.2. Mục đích nghiên cứu thực trạng
- Tìm hiểu nhận thức của GV về việc tổ chức hoạt động khám phá khoa học và
sử dụng các tiết học trải nghiệm- thí nghiệm cho trẻ 3 – 4 tuổi
- Tìm hiểu thực trạng về kỹ năng khám phám khoa học của trẻ 3-4 tuổi
- Xác định những nguyên nhân và tìm cơ sở để trải nghiệm các biện pháp phù
hợp với tổ chức hoạt động khám phá khoa học cho trẻ trong trường mầm non
2.2 Thực trạng tổ chức các hoạt động khám phá khoa học thông qua hoạt
động thí nghiệm
2.2.1. Thực trạng nhận thức của GV về việc tổ chức hoạt động khám phá
khoa học
Giáo viên cần nhận thức đúng đắn cách tổ chức hoạt động khám phá khoa học
thông qua hoạt động trải nghiệm cho trẻ 3-4t để đạt hiệu quả cách tốt nhất, tôi
đã tiến hành khảo sát và thu được bảng sau :
Bảng 1 : Thực trạng nhận thức của giáo viên về tổ chức hoạt động khám
phá thông qua hoạt động trải nghiệm cho trẻ 3-4 tuổi
STT Tổ chức hoạt động
Tỷ lệ (%)
Số GV


1

2

3
4

Là việc tổ chức cho trẻ hoạt động khám phá một
mình hoặc trong nhóm nhỏ, theo hứng thú và nhu
cầu, khám phá cái mới, tích cực tư duy sáng tạo. Gv

là người đóng vai trò xúc tác cho mọi hoạt động của
trẻ.
Là việc tham khảo, tìm tòi các sư vật – hiện tượng,
các điều thú vị khơi gợi trí tò mò cho trẻ hoạt động.
Là việc đưa các thiết bị dạy học, đồ dùng đồ chơi cho
trẻ tự hoạt động, tự giải quyết
Nhằm khuyến khích tính độc lập, tư duy và hoạt
động tích cực sáng tạo của trẻ
Ý kiến khác

5/6

83,33

0/6

0

1/6

16,67

0/6

0

0/6

0


Qua kết quả khảo sát ở bảng 1 ta thấy, có 1 giáo viên cho rằng, việc tổ chức hoạt
động khám phá là việc đưa các thiết bị dạy học, đồ dùng đồ chơi cho trẻ tự hoạt
động, tự giải quyết ( chiếm 16,67%), đây thực sự là cách hiểu chưa đầy đủ về tổ
chức hoạt động khám phá khoa học, vì ngoài việc trẻ tự làm việc độc lập, giáo
viên luôn là người đóng vai trò quan trọng giúp cho trẻ có thể thực hiện một
cách khoa học hơn. Tổ chức hoạt động khám phá khoa học được nhận thức một
cách đầy đủ là việc tổ chức cho trẻ hoạt động khám phá một mình hoặc trong
nhóm nhỏ, theo hứng thú và nhu cầu, khám phá cái mới, tích cực tư duy sáng
tạo. Gv là người đóng vai trò xúc tác cho mọi hoạt động của trẻ. Ý kiến này
được 5/6 giáo viên lựa chọn. Nhìn chung giáo viên trong trường đã nhận thức
một cách đúng đắn và đầy đủ việc tổ chức hoạt động khám phá khoa học cho
trẻ. Chỉ có 16,67% chưa xác định được việc tổ chức hoạt động khám phá khoa
học cho trẻ 3-4 t, do vậy giáo viên cần nhìn nhận chính xác hơn về tổ chức hoạt
động khám phá khoa học thông qua hoạt động trải nghiệm cho trẻ 3-4 tuổi, để
trẻ hoạt động có hiệu quả.
*Thực trạng nhận thức của giáo viên về ý nghĩa của việc tổ chức hoạt động
khám phá khoa học thông qua hoạt động trải nghiệm ở trẻ 3-4 tuổi
Giáo viên cần nhận thức chính xác về việc tổ chức hoạt động khám phá khoa
học thông qua hoạt động trải nghiệm ở trẻ 3-4 tuổi, bởi nó khá quan trọng
trong quá trình giáo dục tri thức và hình thành nhân cách trẻ. Để tìm hiểu rõ hơn
về ý nghĩa của việc tổ chức hoạt động khám phá, tôi đã đưa ra câu hỏi số 1 ở
phần phụ lục, kết quả thu được thể hiện ở bảng sau :
Bảng 2.Thực trạng nhận thức của giáo viên về vai trò-ý nghĩa của việc tổ
chức hoạt động khám phá khoa học thông qua hoạt động khám phá cho trẻ
3-4 tuổi
Số
Đạt tỷ lệ
Vai trò, ý nghĩa
GV
(%)

Hình thành xúc cảm, tình cảm tích cực và kinh nghiệm
0/6
0%


cũng như kỹ năng sống cho trẻ và mong muốn bảo vệ môi
trường.
Rèn khả năng tri giác, cảm giác, phân tích, so sánh, tổng
hợp và khơi gợi trí tò mò ở trẻ
Giúp phát triển tư duy, ngôn ngữ, củng cố các kỹ năng
nhận thức của trẻ
Giúp trẻ ham mê khám phá khoa học, phát triển tính sáng
tạo và mở rộng vốn kiến thức cho trẻ
Tất cả các ý trên

0/6

0%

0/6

0%

0/6

0%

6/6

100%


Qua khảo sát cho ta thấy 100% giáo viên đã nhận thức được vai trò của việc tổ
chức hoạt động khám phá khoa học thông qua hoạt động khám phá cho trẻ 3-4
tuổi. Đây là dấu hiệu tốt để giáo viên lựa chọn các nội dung hoạt động phù hợp
cho trẻ, nhằm phát huy tối đa nhận thức, tư duy cho trẻ mầm non.
*Thực trạng về nội dung tổ chức hoạt động khám phá khoa học
Để tổ chức tốt hoạt động góc cho trẻ mầm non, đòi hỏi giào viên cần lên kế
hoạch tổ chức một cách kỹ lưỡng, rõ ràng, đầy đủ và sáng tạo theo chủ đề chủ
điểm, ngày, tuần hay tháng.
Ở phần này tôi đưa ra câu hỏi : Trong quá trình tổ chức hoạt động cô có thường
xuyên chuẩn bị kế hoạch một cách đầy đủ và sáng tạo ?
Để tìm hiểu rõ hơn nội dung chuẩn bị, và các biện pháp tôi đã đưa ra câu hỏi số
2 ở phần phụ lục, kết quả thu được thể hiện ở bảng sau :
Bảng 3.Thực trạng về nội dung chuẩn bị của giáo viên khi tổ chức hoạt
động khám phá khoa học
STT
Nội dung
Số GV
Tỷ lệ
1
Chuẩn bị không gian hoạt động, giáo cụ và thảm
6/6
100%
2
Ghim các nội dụng sẽ tổ chức ở bảng tại các góc
6/6
100%
3
Chuẩn bị các hoạt động tại các góc : bình yên, thế 6/6
100%

giới, bản thân, vườn cười mang tính khoa học và
chỉn chu
4
Ý kiên khác
0/6
0%
Nhìn vào bảng trên ta thấy, 100% giáo viên đều xác định được nội dung chuẩn
bị giờ học khám phá khoa học cho trẻ mn. Đây là điều kiện để giờ hoạt động
khám phá được triển khai một cách mạch lạc, sinh động, hấp dẫn và đầy đủ.
*Thực trạng tổ chức nội dung hoạt động khám phá thông qua hoạt động thí
nghiệm cho trẻ 3-4 tuổi
Ở phần này, tôi đưa ra câu hỏi số 4 ở phần phụ lục. kết quả thu được như sau :
Bảng 4. Thực trạng tổ chức nội dung hoạt động khám phá thông qua hoạt
động thí nghiệm cho trẻ 3-4 tuổi


ST
T
1

Nội dung hoạt động

Số gv

Tỷ lệ

Tố chức hoạt động khám phá tại một góc định sẵn

1/6


2

Tổ chức hoạt động trên nhiều góc và địa điểm khác
nhau
Tổ chức lồng ghép-đan xen nhiều hoạt động, nhiều
hình thức vào với nhau ở các góc, các địa điểm
Ý kiến khác

6/6

16,67
%
100%

6/6

100%

0/6

0%

3
4

Nhìn vào bảng trên ta thấy 100% giáo viên của trường đều tổ chức các hoạt
động tại các góc, các địa điểm hoạt động theo hướng đổi mới, đảm bảo tích hợp,
lồng ghép các nội dung hoạt động. Tuy nhiên có 16,67% lựa chọn đáp án 1.
Điều này cho thấy, giáo viên này chưa thực sự nắm bắt được việc thực hiện tốt
tổ chức hoạt động khám phá khoa học thông qua hoạt động trải nghiệm cho trẻ

MN , theo hướng đổi mới giáo dục toàn diện cho trẻ hiện nay.
*Thực trạng chủ đề thường/ không thường tổ chức hoạt động khám phá
khoa học
Để khảo sát mức độ tổ chức các góc hoạt động cho trẻ, tôi xây dựng câu hỏi ở
phần phụ lục, kết quả điểu tra như sau :
Bảng 5.Thực trạng chủ đề thường/ không thường tổ chức hoạt động khám
phá khoa học
T
T

Chủ đề

Tổn
g

Thường
xuyên
SL
%

Thỉnh
thoảng
SL %

Không
khi nào
SL %

1
Trường mầm non

36
2
Gia đình
36
3
Bản thân
36
4
Phương tiện giao thông
36
5
Động vật
36
6
Thực vật
36
7
Nước và mùa hè
36
8
Nghệ nghiệp
36
9
Quê hương-đất nước- Bác Hồ 36
Bảng trên cho thấy rằng hầu hết GV tổ chức HĐKPKH cho trẻ thường xuyên ở
2 chủ đề là Nước và Thực vật. Bên cạnh những chủ đề nêu trên, trong quá trình
khảo sát, giáo viên đã tổ chức hoạt động khám phá cho trẻ ở các chủ đề khác
như : Các hiên tượng tự nhiên và những hoạt động khám phá không liên quan
đến chủ đề như : nấu ăn, cắm trại, làm bánh, tìm hiểu về phong tục uống trà của
Nhật Bản.. vv, vẫn tổ chức thường xuyên trong chủ đề bất kỳ nào, và nó xuyên

suốt thời gian tham gia học tại lớp. Những điều này phần nào phản ánh được sự


linh hoạt, sáng tạo của GV trong quá trình thực hiện chương trình GDMN mới
kết hợp vào phương pháp dạy trẻ mới nói chung và hoạt động khám phá khoa
học thông qua hoạt động trải nghiệm cho trẻ nói riêng.
*Thực trạng sử dụng hình thức tổ chức hoạt động khám phá khoa học cho
trẻ 3-4t
Ở phần này tôi đưa ra câu hỏi số 6 và lấy ý kiến của giáo viên đó về việc sử
dụng các hình thức tổ chức hoạt động khám phá khoa học thông qua các hoạt
động thí nghiệm cho trẻ 3-4 tuổi. Sau khi xử lý số liệu tôi thu được kết quả ở
bảng sau :
Bảng 6. Thực trạng sử dụng hình thức tổ chức hoạt động khám phá khoa
học cho trẻ 3-4t
STT
Hình thức tổ chức
Số GV
Tỷ lệ
1
Cá nhân tự làm việc
6/6
100%
2
Phân nhóm từ 2-3 trẻ
2/6
33,33
%
3
Có sự hướng dẫn, xúc tác của giáo viên
4/6

66,67
%
4
Trẻ làm việc tự do
3/6
50%
5
Trẻ làm nhiều hoạt động tích hợp cùng lúc
6/6
100%
6
Một nội dung
0/6
0
Việc tổ chức hoạt động khám phá khoa học có thể được tổ chức dưới nhiều hình
thức khác nhau. Qua bảng số liệu, ta thấy không có giáo viên nào tổ chức hoạt
động khám phá cho trẻ dưới hình thức một nôi dụng nhàm chán, không tích
hợp, mà các cô giáo đã nhận thức được khi trẻ thỏa sức khám phá cần đan xen
tổ chức kết hợp các nội dung hoạt động với nhau để đạt được tỷ lệ tuyệt đối.
*Thực trạng mức độ tích cực tham gia các hoạt động khám phá thông qua
các hoạt động trải nghiệm của trẻ 3-4 tuổi
Để điều tra thực trạng về kết quả của việc tổ chức hoạt động khám phá thông
qua các hoạt động trải nghiệm cho trẻ 3-4 tuổi tại lớp Hạt Tiêu, tôi đã quan sát
2 buổi ở lớp và thu được kết quả như sau :

Bảng 7.Thực trạng mức độ tích cực tham gia hoạt động khám phá khoa
học
MỨC ĐỘ



Địa
điểm

Hoạt
động

Số
lượn
g

Tích cực
SL

Vì sao
có mưa
Góc thế Bản đồ
giới
thế giới
Rót
nước
Góc xúc
vào
giác
bình bé
hơn
Vẽ
Góc
tranh
sáng tạo
bằng

quả khế
Sảnh 1

5/20
5/20

(%)

Không tích
cực

Làm việc
riêng

SL

SL

(%)

4/5

1

0

3

1


1

5

0

0

3

1

1

(%)

5/20

5/20

Qua bảng số liệu ta thấy, ở tất cả các góc trẻ được chia đều ra để làm việc độc
lập, trẻ tập trung tham gia một cách tích cực, cô sẽ hỗ trợ khi trẻ gặp khó khăn
hay cần sự giúp đỡ, mặc dù có một vài trẻ chưa tích cực hoạt động còn nói
chuyện riêng, nguyên nhân chủ yếu do trẻ không hứn thú và có nhu cầu ở góc
này, trẻ thích hoạt động khám phá ở góc khác hơn. Thực tế khi quan sát lớp, tôi
thấy nhìn chung các giáo viên đều phát huy vai trò chủ đạo của mình, giáo viên
chính bao quát và giáo viên phụ ghi chép và giúp đỡ quá trình hoạt động của trẻ.
*Những biện pháp giáo viên sử dụng khi tổ chức hoạt động cho trẻ 3-4 tuổi
Nhằm tìm hiểu thực trạng sử dụng các biện pháp khi gv tổ chức hoạt động cho
trẻ, tôi thu được bảng sau :

Bảng 8. Những biện pháp giáo viên sử dụng khi tổ chức hoạt động cho trẻ
3-4 tuổi
T
Mức độ
T
Biện pháp
Tổ
Cần thiết
Bình
Không
ng
thường
cần thiết
SL
%
SL
%
SL %
1 Giới thiệu hoạt động cho trẻ 32 30 93,75 2
6,25
khám phá
2 Quan sát trong lúc trẻ khám 32 20 62,5
12 37,5
phá khoa học
3 Đặt câu hỏi và nêu vấn đề, 32 32 100
tình huống kích thích trẻ khám
phá
4 Chuẩn bị môi trường hoạt 32 26 81,25 6
18,75



5

6
7
8

động khám phá cho trẻ phong
phú, hấp dẫn với các đồ dùng,
đồ chơi, các nguyên vật liệu
khác nhau và các địa điểm
khác nhau
Cho trẻ khám phá, quan sát,
xem xét, phỏng đoán bằng
cách sử dụng tất cả các giác
quan một cách thích hợp và
qua hoạt động chơi
Cho phép trẻ được hoạt động
và làm những công việc phục
vụ cho bản thân trẻ
Xây dựng quy định, nề nếp
cho trẻ trong hoạt động khám
phá khoa học
Khích lệ trẻ suy nghĩ về những
gì trẻ đang nhìn thấy

32 32

93,75


32 32

93,75

32 32

93,75

32 32

93,75

Bảng 9. Chủ đề thường/ không thường tổ chức hoạt động khám phá khoa
học
T
T

Chủ đề

Tổn
g

1
2
3
4
5
6
7
8

9

Trường mầm non
Gia đình
Bản thân
Phương tiện giao thông
Động vật
Thực vật
Nước và mùa hè
Nghệ nghiệp
Quê hương-đất nước- Bác Hồ

36
36
36
36
36
36
36
36
36

Thường
xuyên
SL
%

Thỉnh
thoảng
SL %


Không
khi nào
SL %

Bảng trên cho thấy rằng hầu hết GV tổ chức HĐKPKH cho trẻ thường xuyên ở
2 chủ đề là Nước và Thực vật. Bên cạnh những chủ đề nêu trên, trong quá trình
khảo sát, giáo viên đã tổ chức hoạt động khám phá cho trẻ ở các chủ đề khác
như : Các hiên tượng tự nhiên và những hoạt động khám phá không liên quan
đến chủ đề như : nấu ăn, cắm trại, làm bánh, tìm hiểu về phong tục uống trà của
Nhật Bản.. vv, vẫn tổ chức thường xuyên trong chủ đề bất kỳ nào, và nó xuyên
suốt thời gian tham gia học tại lớp. Những điều này phần nào phản ánh được sự


linh hoạt, sáng tạo của GV trong quá trình thực hiện chương trình GDMN mới
kết hợp vào phương pháp dạy trẻ mới nói chung và hoạt động khám phá khoa
học thông qua hoạt động trải nghiệm cho trẻ nói riêng.
Bảng 10. Kỹ năng nhận thức mà GV thường chú ý phát triển
TT Kỹ năng nhận thức
Số lượng
%
1
Quan sát
32
100%
2
Phân loại, kiểm soát
25
78%
3

Đo lường, dự đoán
20
62,5%
4
Giao tiếp
32
100%
5
Suy luận, tư duy logic
25
78%
6
Tiếp thu và lắng nghe
32
100%
2.2.2. Thực trạng nhận thức của phụ huynh về việc tổ chức hoạt động khám
phá khoa học
Để góp phần nâng cao nhận thức của phụ huynh về các hoạt động khám phá trải
nghiệm, tôi đã trực tiếp đặt câu hỏi để điều tra nhận thức của phụ huynh về sự
hợp tác cho trẻ tham gia họa động khám phá khoa học ở câu hỏi số 3 phần phụ
lục 1, tôi thu được kết quả sau :
Bảng 11.Nhận thức của phụ huynh về khám phá khoa học thí nghiệm cho
trẻ 3-4 tuổi
STT
Hình thức
Số
Tỷ lệ
lượng
1
Là hình thức dạy học chủ yếu bằng thí nghiệm các 1/7

14,28%
ống thủy tinh và chai lọ nguy hiểm
2
Là hình thức giáo dục trẻ cách tiếp cận với khoa học 5/7
71,42%
từ những điều nhỏ nhất và đơn giản nhất, từ chiếc lá
đến cái cây, tất cả mọi vật xung quanh trẻ đều được
đưa vào bài học, nó không chỉ góp phần vào việc học
tập và làm việc sau này của trẻ mà còn là hành trang
để trẻ ứng phó với môi trường xung quanh
3
Là hình thức dạy học cho trẻ làm những điềutrẻ hứng 5/7
71,42%
thú và tò mò, cho trẻ được hoàn thành một nhiệm vụ
thực tiễn nào đó nhằm làm biến đổi sự vật, hiện
tượng, qua đó giúp trẻ lĩnh hội tri thức mới.
4
Là hình thức dạy học chủ yếu bằng thí nghiệm các 1/7
14,28%
ống thủy tinh và chai lọ nguy hiểm
Qua bảng trên ta thấy, đa số phụ huynh nhận thức rất đúng đắn về hoạt động
khám phá khoa học cho trẻ,, chỉ có 1 ý kiến nhỏ phụ huynh chưa thự sự có sự
phối hợp chặt chẽ với nhà trường, chưa tìm hiểu và hứng thú thật sự với pp này,
nên đã đưa ra ý kiến sai lệch, giáo viên cần động viên và phối hợp với phụ
huynh để hiểu rõ hơn về bản chất của hoạt động khám phá khoa học thông qua
hoạt động trải nghiệm cho trẻ 3-4 tuổi


2.3.Đánh giá kết quả thực trạng
Bảng 12. Mức độ thực hiện của trẻ sau khi cô hướng dẫn khám

học
TT
Mức độ thực hiện
Số lượng
1
Làm theo được ngay sau đó
20
2
Làm được với sự hợp tác nhóm bạn
2
3
Làm được dưới sự chỉ dẫn của giáo viên
5
4
Hơi khó khăn khi thực hiện
5
5
Không thể làm được
0

phá khoa
%
62.5%
6,25%
15,6
15,6%
0,0%

Đa số các giáo viên đều cho rằng trẻ làm được dưới sự chỉ dẫn của giáo viên
hoặc làm được với sự hợp tác nhóm bạn ,một số ít trẻ có khả năng tốt mới có

thể làm theo được ngay, và một vài trẻ hơi khó khăn khi thực hiện,cho dù đã
nhận được hướng dẫn của cô hay đang làm việc theo nhóm bạn.
Như vậy, mặt bằng chung, mọi giáo viên đều cho rằng trẻ hoạt động khám phá
cần có sự hướng dẫn của cô hoặc học từ bạn trong nhóm mà trẻ vẫn chưa thể tự
khám phá khoa học một cách độc lập, thông qua việc điều tra thực trạng bằng
phiếu trưng cầu ý kiến GVMN, qua quan sát quá trình giáo dục, qua trao đổi,
đàm thoại với giáo viên, nội dung nhận xét được rút ra như sau:
- GV có chú ý đến việc sử dụng các biện pháp tổ chức hoạt động khám phá
cho trẻ. Tuy nhiên, sự tác động chưa đồng bộ và chưa có sự đột phá trong
việc đưa lại sự chủ động trong hoạt động của trẻ
- Thời lượng dành cho hoạt động góc tuy nhiều nhưng giáo viên chưa phải
bao quát hết trẻ
- Giáo viên để ý nề nếp quá nhiều gây sự mất cân bằng sự chú ý của trẻ vào
bài học
- Có một số trẻ cá biệt, nên thường làm các bạn khác bị mất tập trung trong
học tập trải nghiệm khám phá.
- Trong quá trình thực hiện hoạt động khám phá khoa học, một vài trẻ
thường bị những yếu tố bên ngoài không liên quan đến nhiệm vụ nhận
thức làm phân tán.
- Có những biểu hiện mối tương quan nghịch giữa tri thức, kĩ năng và thái
độ: có những trẻ có thái độ không hứng thú khi thực hiệm nhiện vụ song
trẻ vẫn hoàn thành phần thí nghiêm của mình
- Khi thực hiện hoạt động khám phá khoa học trên đối tượng cụ thể, trẻ
thường bị chi phối bởi những biểu tượng, kinh nghiệm cũ nên không tập
trung vào đối tượng trước mắt
- Về kỹ năng khám phá khoa học trong các hoạt động cụ thể, trẻ sử dụng
được khá tốt những kỹ năng cơ bản như quan sát, so sánh, phân loại. Tuy
nhiên, những kỹ năng bậc cao hơn thì trẻ khá lúng túng
Từ những trải nghiệm thực tế ở trường mầm non Happy Hands, tôi rút ra bài
học kinh nghiệm như sau :



-

-

Thường xuyên tổ chức các hoạt động khám phá khoa học, mọi lúc mọi
nơi, không chỉ dừng lại ở độ tuổi 3-4t, mà là ở tất cả các độ tuổi mầm
non.
Thường xuyên bổ sung trang thiết bị để dạy học một cách tinh tế, phong
phú và đa dạng
Tạo ra mọi trò chơi thí nghiệm, kể cả trong học tập cũng gắn liền với các
trò chơi thực tế
Hình thành các tri thức khoa học cho trẻ, dưới sự chỉ đạo của giáo viên:
Lồng ghép âm nhạc và các nội dung khám phá về các đất nước khác, đầu
tư về nguyên liệu và đồ dùng thí nghiệm
Phối kết hợp với phụ huynh, nhà trường thật tốt để ủng hộ cho trẻ được
trải nghiệm sáng tạo một cách thoải mái trong khuôn khổ an toàn

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. TÁC GIẢ, (NĂM), TÊN GIÁO TRÌNH, Nxb
- Giáo trình phương pháp cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh –
Đại Học Huế
- Tài liệu Vụ GD Mầm Non
- Giáo trình: Phương pháp cho trẻ mầm non khám phá khoa học và môi
trường xung quanh - dành cho hệ cao đẳng sư phạm mầm non
- Nguyễn Thị Thanh Thủy (2004), Xây dựng tài liệu tham khảo phục vụ
môn phương pháp cho trẻ làm quen môi trường xung quanh, Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp bộ.
- Giáo dục học của Nhà xuất bản từ điển Bách khoa

- Các hoạt động Khám phá Khoa học của trẻ mầm non (theo chương trình
giáo dục mầm non mới) - Tác giả: Nguyễn Thị Nga, Trần Thị Ngọc Trâm
- Giáo dục học mầm non – Nguyễn Thị Quỳnh Anh
PHỤ LỤC 1
PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN
(Dành cho giáo viên mầm non)
Tên giáo viên: Nguyễn Thị Thảo - Trình độ nghiệp vụ: Đại Học
Thời gian công tác:5/10/2016
Trường mầm non: Happy Hands Montessori
Để nâng cao hiệu quả của công hoạt động tổ chức khám phá thông qua
các hoạt động thí nghiệm ở trường mầm non, giúp trẻ phát triển tư duy, xin chị
vui lòng cho biết ý kiến của mình về những vấn đề sau bằng cách trả lời trực
tiếp hoặc đánh dấu (x) vào ô mà chị cho là phù hợp.
Câu 1: Nhận thức của chị về vai trò-ý nghĩa của việc tổ chức hoạt động
khám phá khoa học thông qua hoạt động khám phá cho trẻ 3-4 tuổi ?
Câu 2: Trong quá trình tổ chức hoạt động cô có thường xuyên chuẩn bị kế
hoạch một cách đầy đủ và sáng tạo ?


Câu 3: Chị đánh giá như thế nào về việc đưa hoạt động khám phá khoa học
thông qua các hoạt động thí nghiệm đối với trẻ 3-4 tuổi ?
Rất cần thiết
Cần thiết
Không cần thiết
Câu 4: Chị hiểu như thế nào về khám phá khoa học ?
Khám phá khoa học là hoạt động nhận thức của cá nhân trẻ nhằm phát
hiện ra tri thức về thế giới xung quanh.
Khám phá khoa học là tìm thấy, phát hiện ra tri thức tích cực được ẩn
giấu từ thế giới xung quanh của chúng.
Khám phá khoa học là hoạt động nhận thức nhằm chiếm lĩnh hệ thống tri

thức tích cực có được thông qua quá trình tìm tòi, phát hiện, khám phá
thế giới xung quanh.
Câu 5: Chị thường xuyên tích hợp những môn học nào vào các hoạt động
khám phá khoa học cho trẻ ?
TT
Mức độ
Thường
Thỉnh Không
Giờ học chung
xuyên
thoảng sử dụng
1
2
3

Cho trẻ làm quen với TPVH
Phát triển ngôn ngữ

Cho trẻ làm quen với môi trường
xung quanh
4 Giáo dục âm nhạc
5 Tạo hình
6 Phát triển thể chất
7 Hình thành với biểu tượng toán cho
trẻ
Thời gian khác:............................................................................................................
.....................................................................................................................................
Lí do tại sao? ..............................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................

Câu 6. Chị thường sử dụng hình thức tổ chức hoạt động khám phá khoa
học nào cho trẻ 3-4 tuổi ?
Câu 7: Khi thực hiện các hoạt động khám phá khoa học thông qua thí
nghiệm chị thường sử dụng những biện pháp nào sau đây?
Mức độ
Thường
Thỉnh Không
TT Các biện pháp
xuyên
thoảng bao giờ
1 Lập kế hoạch giáo dục từng cá nhân
1


2 Thường xuyên giao nhiệm vụ cho trẻ
2
2 Xây dựng môi trường học tập cho trẻ
3
4
5
6
7

4 Tạo điều kiện thường xuyên cho trẻ tiếp xúc với
các sự vật, hiện tượng xung quanh, mở rộng và
kích thích sự ham học ở trẻ
5 Thay đổi các hình thức khám phá thông qua trò
chơi, câu đố, thì nghiệm, bài học, vẽ, nấu ăn, hát,
múa …
6 Phối hợp với phụ huynh để tạo điều kiện động

viên, khuyến khích trẻ khám phá
7 Thường xuyên sử dụng hệ thống câu hỏi và
khuyến khích trẻ tham gia trả lời
Biện pháp khác (nếu có):.............................................................................................
Câu 8: Chị thường khuyến khích trẻ trải nghiệm và khám phá bằng những
hoạt động gì ?
Cho trẻ tham gia vào các tình huống thực, đơn giản, an toàn của cuộc
sống gần gũi hàng ngày để tự cảm nhận về tự nhiên, xã hội theo cách
riêng của mình.
Tạo nhiều cơ hội cho trẻ tham gia trong các hoạt động giáo dục đa dạng
như: khám phá môi trường xung quanh, các biểu tượng toán sơ đẳng, tạo
hình, âm nhạc, vận động, lễ hội, tham quan, lao động.
Khuyến khích trẻ cùng tham gia chuẩn bị, sử dụng đồ dùng, đồ chơi
Để trẻ tự do tìm tòi, chỉ đứng ngoài quan sát
Câu 9. Hiện nay cô thường tổ chức cho trẻ HĐKPKH vào thời gian nào? Ở
đâu?
Tiết hoạt động ngoài trời
Thời gian và địa điểm luôn luôn linh động, tùy theo tâm lý của trẻ ngày
hôm đó, luôn tôn trọng quyết định của trẻ
Thực hiện trong lớp, an toàn và luôn sạch sẽ
Xin chân thành cảm ơn sự cộng tác và giúp đỡ của Cô!
Người lập phiếu
Bùi Thị Hồng Ngân

PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN
( Dành cho phụ huynh )
Tên phụ huynh: Lê Uy Long



×