Hành trình ra đi tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh
I. Lý do thúc đẩy Bác ra đi tìm đường cứu nuớc:
-Trước hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo có truyền thống yêu
nước. Thân phụ Người - cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc - tuy làm quan trong triều đình nhà
Nguyễn, nhưng có thái độ đối nghịch với chế độ thực dân phong kiến. Tấm lòng yêu nước
thương dân của cụ bảng Sắc có ảnh hưởng sâu sắc đối với sự hình thành nhân cách của Chủ tịch
Hồ Chí Minh.
-Hơn nữa, Người được sinh ra trên quê hương Nghệ Tĩnh - vốn là mảnh đất giàu truyền thống
yêu nước, chống áp bức xâm lược. Mới 6 tuổi, Nguyễn Tất Thành được đắm mình trong phong
trào Cần Vương. Khí thế hào hùng xen lẫn bi hùng của phong trào yêu nước này đã tác động sâu
sắc tới tâm hồn non trẻ nhưng đầy nhạy cảm của cậu.
-Người lớn lên trong bối cảnh mà các phong trào yêu nước do các bậc cách mạng tiền bối khởi
xướng nổ ra khắp nơi như phong trào Đông Du do Phan Bội Châu lãnh đạo, phong trào Đông
Kinh Nghĩa Thục do Lương Văn Can, Nguyễn Quyền lãnh đạo, phong trào Duy Tân do Phan
Châu Trinh lãnh đạo, cuộc khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám là thủ lĩnh. Nguyễn Tất
Thành đã sớm nhận ra những hạn chế của các phong trào đó. Nên mặc dù rất kính trọng và khâm
phục các sĩ phu và thủ lĩnh của các phong trào yêu nước, song Người không tán thành cách làm
của họ. Người luôn trăn trở tìm hướng đi mới để cứu nước.
-Một nhân tố rất quan trọng tác động đến nhận thức tư tưởng và quyết định của Nguyễn Tất
Thành là sự xuất hiện của một lực lượng mới trong xã hội Việt Nam. Đó là giai cấp công nhân
được hình thành và ra đời từ đợt khai thác đầu tiên của chủ nghĩa đế quốc Pháp. Phong trào công
nhân lúc đó đang ở trình độ tự phát nhưng đã là tiền đề cho sự phát triển phù hợp với xu thế tiến
bộ của xã hội. Người đã tự nguyện đứng vào hàng ngũ của giai cấp này và dấn thân vào con
đường “vô sản hoá”.
-Ảnh huởng của cuộc cách mạng tháng 10 Nga
Với tinh thần yêu nước nồng nàn, bằng trí tuệ sáng suốt, sự mẫn cảm chính trị đã vượt qua hạn
chế của các bậc tiền nhân và đương thời, ngày 5.6.1911, Nguyễn Tất Thành đã sang phương Tây
- nơi có tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái và có nền khoa học kỹ thuật tiên tiến - để khảo sát, học
hỏi và trở thành người Việt Nam yêu nước đầu tiên tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc.
Giữa cái mênh mông của hàng trăm thứ học thuyết, thứ chủ nghĩa, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy
chân lý cứu nước là chủ nghĩa Mác - Lênin. Từ đó cách mạng Việt Nam đi theo một hướng mới,
trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới.
II. Hành trình ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc từ năm 1911 đến năm 1920.
- Ngày 3-6-1911, Nguyễn Tất Thành lấy tên là Văn Ba xin làm phụ bếp trên tàu Đô đốc Latútsơ
Tơrêvin (Amiral Latouche Tréville), một tàu lớn vừa chở hàng vừa chở khách của hãng Năm Sao
đang chuẩn bị rời cảng Sài Gòn đi Mácxây Pháp
- Ngày 5-6-1911, trên con tàu Đô đốc Latútsơ Tơrêvin, từ bến cảng Nhà Rồng, thành phố Sài
Gòn (nay là thành phố Hồ Chí Minh), Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước.
- Ngày 6-7-1911, Nguyễn Tất Thành đến cảng Mácxây, thấy nhiều phụ nữ nghèo khổ. Nguyễn
Tất Thành nói với người bạn “Tại sao người Pháp không “khai hóa” đồng bào của họ trước khi
đi “khai hóa” chúng ta?”. Làm thuê trên chiếc tàu đi vòng quanh châu Phi, tận mắt trông thấy
những cảnh khổ cực, chết chóc của người da đen dưới roi vọt của bọn thực dân, Nguyễn Tất
Thành nghĩ: Đối với bọn thực dân, tính mạng của người thuộc địa, da vàng hay da đen cũng
không đáng một xu.
- Giữa tháng 12-1912, Nguyễn Tất Thành tới nước Mỹ, Người dành một phần thời gian để lao
động kiếm sống, còn phần lớn thời gian dành cho học tập, nghiên cứu Cách mạng tư sản Mỹ năm
1776. Khi thăm pho tượng Thần Tự do, Nguyễn Tất Thành không để ý đến ánh hào quang quanh
đầu tượng mà xúc động trước cảnh những nô lệ da đen dưới chân tượng.
- Cuối năm 1913, Nguyễn Tất Thành từ Mỹ sang Anh.
- Cuối nǎm 1917, Nguyễn Tất Thành từ Anh trở lại Pháp. Ở đây anh được biết ở nước Nga V.I
Lênin đã lãnh đạo cách mạng thành công, sáng lập Nhà nước công nông đầu tiên trên thếgiới,
bảo vệ quyền lợi của đại đa số nhân dân lao động. Tin vui ấy đã cổ vũ lòng hǎng hái của Nguyễn
Tất Thành.
Nǎm 1918, chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc. Nǎm 1919 các nước đế quốc thắng trận họp
Hội nghị Véc-xây (Versailles). Nhân dịp này thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp,
Nguyễn Ái Quốc (tên mới của Nguyễn Tất Thành) đã gửi tới Hội nghị bản yêu sách đòi quyền tự
do cho nhân dân Việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc phát biểu tại Đại hội XVIII Đảng Xã hội Pháp họp tại thành phố Tours
nǎm 1920
Tháng 7 nǎm 1920 qua báo Nhân đạo (L’Humanité) Pháp, Nguyễn A’i Quốc được đọc Luận
cương của V.I Lê nin về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa. Sau này nhớ lại niềm sung sướng
khi đọc Luận cương của V. I Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Luận cương của V. I Lênin làm
cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên.
Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên nhu đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi
đồng bào bị đọa đày đau khổ.! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng
chúng ta.”
Nguyễn Ái Quốc là đại biểu duy nhất của nhân dân Đông Dương tham dự Đại hội lần thứ XVIII
của Đảng Xã hội Pháp tại thành phố Tua (Tours). Tại Đại hội này Anh đã cùng với những nhà
hoạt động chính trị và vǎn hoá nổi tiếng của Pháp như: Macxen Casanh (Marcel Cachin), Pôn
Vayǎng Cutưyariê (Paul Vaillant Couturier)… bảo vệ chủ nghĩa Mác, chống lại những người cơ
hội. Trên diễn đàn của Đại hội, Nguyễn Ái Quốc đã tố cáo tội ác của thực dân Pháp ở Đông
Dương, kêu gọi giai cấp công nhân và nhân dân Pháp ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Việt
Nam và nhân dân các thuộc địa khác. Người đề nghị: “Đảng xã hội cần phải hoạt động một cách
thiết thực để ủng hộ những người bản xứ bị áp bức … Đảng phải tuyên truyền chủ nghĩa xã hội
trong tất cả các nước thuộc địa. Chúng tôi thấyrằng việc Đảng xã hội gia nhập Quốc tế thứ ba có
nghĩa là Đảng hứa một cách cụ thể là từ nay Đảng sẽ đánh giá đúng tầm quan trọng của vấn đề
thuộc địa“. Cũng tại Đại hội này Người đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế cộng sản, trở thành một
trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.
Sau Đại hội Tua, người cộng sản Việt Nam đầu tiên Nguyễn Ái Quốc bắt tay ngay vào hoạt động
nhằm đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân các thuộc địa đấu tranh chống áp bức, giải phóng
dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người.
Kết Luận: Sau thời gian hoạt động từ 1911-1920 Nguyễn Ái Quôc đã khẳng định “muốn
cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô
sản”.
III. Hành trình ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc từ năm 1920 đến năm 1930.
a) Tố cáo tội ác của bọn thực dân Pháp, liên kết cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa với cách
mạng vô sản ở các nước đế quốc
Trở thành người Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc bắt tay vào truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về
nước. Quá trình đó cũng là quá trình Người từng bước vạch đường lối chiến luợc cho cách mạng
Việt Nam.
- Tháng 4-1921, khi còn ở Pháp, trong bài báo Đông Dương, Người phê phán sai lầm của một số
đảng Cộng sản ở các nước tư bản phát triển “chưa quan tâm đến vấn đề thuộc địa''. Tháng 5 năm
đó cũng trong bài báo Đông Dương, Người cho rằng “chế độ cộng sản có áp dụng được ở châu Á
nói chung và ở Đông Dương nói riêng”. Người dự đoán “ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu
Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng tham
không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ và trong khi thủ tiêu một trong những điều
kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em
mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”
- Tháng 7-1921, Nguyễn Ái Quốc cùng một số chiến sĩ cách mạng ở nhiều nước thuộc địa Pháp
lập Hội liên hiệp thuộc địa. Tuyên ngôn của Hội do Người khởi thảo đã nêu bật tư tưởng tự lực
tự cường: “Công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân
anh em”.
Hội đã ra tờ báo “Người cùng khổ” (Le Paria). Trong truyền đơn cổ động mọi người mua báo,
Nguyễn Ái Quốc đã phát triển lời kêu gọi đoàn kết quốc tế của Mác và Lênin: “Lao động tất cả
các nước đoàn kết lại!”, Báo “Người cùng khổ” đã tạo “một luồng gió mới thổi đến nhân dân các
nước bị áp bức”, “đã làm cho nước Pháp chân chính biết rõ những việc xảy ra trong các thuộc
địa”, “đã thức tỉnh đồng bào chúng ta”, “khiến cho đồng bào chúng ta nhận rõ nước Pháp, nước
Pháp tự do, bình đẳng, bác ái!”. Ngoài việc viết bài cho báo “Người cùng khổ”, Nguyễn Ái Quốc
còn viết bài cho các báo Nhân đạo, Đời sống công nhân. Người đã dự Đại hội lần thứ nhất và thứ
hai của Đảng Cộng sản Pháp. Người tiếp tục chỉ ra sai lầm của Đảng Cộng sản Pháp về vấn đề
thuộc địa.
Trong thời gian này, Nguyễn Ái Quốc bắt đầu viết tác phẩm nổi tiếng Bản án chế độ thực đân
Pháp nhằm vạch trần bản chất chủ nghĩa đế quốc và kêu gọi “Dân bản xứ không cam chịu nhục
được mãi, phải vùng lên”. Người nêu lên mối quan hệ giữa cách mạng vô sản và cách mạng giải
phóng dân tộc qua hình ảnh chủ nghĩa đế quốc là một con đỉa hai vòi. Muốn giết con đỉa ấy
người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi còn lại kia
vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản, con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc
ra”. Tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp có giá trị lớn về mặt lý luận, thực tiễn, đồng thời có
giá trị về văn học.
- Năm 1922, Nguyễn Ái Quốc phê phán vua Khải Định khi ông ta sang Pháp dự hội chợ thuộc
địa. Qua truyện ngắn “Lời than vãn của Bà Trưng Trắc”, vở kịch “Con rồng tre”, Người lên án
ông ta là “đớn hèn, bất lực và ngu dốt”, cam tâm làm tôi tớ cho thực dân Pháp.
- Giữa năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đến Pêtơrôgrát (Liên Xô). Ở đó, Người có điều kiện học tập,
nghiên cứu sâu sắc hơn chủ nghĩa Mác - Lênin. Người phát triển thêm những quan điểm chính trị
của mình đã hình thành ở Pháp. Người tiếp tục tố cáo tội ác của chủ nghĩa đế quốc. Qua bài
Hành hình kiểu Linsơ, Người coi tội ác đó “chiếm vị trí vinh dự trong toàn bộ những tội ác của
nền văn minh Mỹ”, Người vạch trần “chính sách thực đân trá hình” của đế quốc Anh muốn
chiếm cả Trung Quốc, phê phán đế quốc Ý đồng lõa với đế quốc Pháp đàn áp phong trào cách
mạng ở Bắc Phi.
- Tháng 10-1923, Nguyễn Ái Quốc dự Đại hội lần thứ nhất Quốc tế Nông dân. Đại hội bầu
Người vào Ban Chấp hành Quốc tế Nông dân và Ban Chấp hành cử Người làm uỷ viên Đoàn chủ
tịch.
- Năm 1924, Người dự các Đại hội của Thanh niên, Phụ nữ quốc tế Công hội đỏ và Đại hội lần
thứ V của Quốc tế Cộng sản. Người tiếp tục phê bình thiếu sót của nhiều đảng Cộng sản ở Tây
Âu về vấn đề thuộc địa và thẳng thắn nêu thiếu sót đó của cả Quốc tế Cộng sản.
Người rất chú ý nghiên cứu chế độ mới ở Liên Xô. Người nhận rõ lúc này dù thiếu thốn, nhân
đân Liên Xô đã đành cho trẻ em những “cái gì tốt nhất”, nhà nước hết sức chăm lo việc giáo dục
và y tế cho nhân dân. Người viết nhiều bài báo nêu cao công lao vĩ đại, đạo đức cao cả của
Lênin.
- Ngày 11-11-1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc) làm nhiệm vụ đặc phái viên
của Quốc tế Cộng sản và trực tiếp chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc giảng bài tại lớp huấn luyện cán bộ cách mạng Việt Nam tại Quảng
Châu, Trung Quốc.
Người cùng với một số nhà cách mạng lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông, do ông
Liêu Trọng Khải (Trung Quốc) làm Hội trưởng và Người làm Bí thư.
b) Thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên
Tháng 6-1925, từ nhóm cách mạng đầu tiên, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên, nhằm tập hợp những thanh niên yêu nước Việt Nam có xu hướng cộng sản chủ
nghĩa, chuẩn bị thành lập Đảng. Người mở những lớp huấn luyện cán bộ và ra tờ báo Thanh
niên. Phần lớn những thanh niên đã được huấn luyện trở về nước hoạt động và số còn lại sang
Liên Xô tiếp tục học tập. Hội đã truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối cứu nước của
Nguyễn Ái Quốc vào công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân.
Năm 1928, Hội đề ra chủ trương “vô sản hoá”, đưa hội viên vào các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền.
Chủ trương này có tác dụng rèn luyện những người trí thức tiểu tư sản về lập trường giai cấp
công nhân và bước đầu kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào
yêu nước.
Hội kết nạp ngày càng nhiều hội viên, năm 1928 có 300 hội viên, năm 1929 có 1.700 hội viên,
nếu kể cả hội viên dự bị thì có gần 3.000 người. Từ năm 1926 đến năm 1929, Hội có cơ sở ở
nhiều trung tâm kinh tế, chính trị trong cả nước, trở thành lực lượng chính trị yêu nước lớn mạnh
nhất đất nước, hoàn thành ý định của người sáng lập hội là chuẩn bị tiền đề cho việc thành lập
Đảng Cộng sản.
c) Phác thảo đường lối cứu nước
Nguyễn Ái Quốc phác thảo đường lối cứu nước từ năm 1921 và thể hiện tập trung trong tập bài
giảng ở lớp chính trị tại Quảng Châu, năm 1927 được in thành sách lấy tên là “Đường Cách
mệnh”.
Nội dung cơ bản của tác phẩm như sau:
Một là: Chỉ có cách mạng vô sản là cách mạng triệt để, vì lợi ích của đại đa số dân chúng.
Nguyễn Ái Quốc giới thiệu những cuộc cách mạng điển hình trên thế giới, từ Cách mạng tư sản
Mỹ năm 1776 đến Cách mạng tư sản Pháp năm 1789, từ Công xã Paris năm 1871 đến Cách
mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và sau khi so sánh cách mạng tư sản với cách mạng vô sản,
Người khẳng định: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách
mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hoà và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước đoạt công nông,
ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công nông Pháp hẵng còn phải
mưu cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức”.
Người khẳng định: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành
công đến nơi, nghĩa là đân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự
do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam. Nguyễn Ái
Quốc nhấn mạnh: “làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho đân chúng số nhiều, chớ để trong
tay một bọn ít người: Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc. Đây là
điểm xuất phát và là điểm khác nhau cơ bản giữa con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc với
các con đường cứu nước trước kia.
Hai là: Mục tiêu và con đường đi lên của cách mạng Việt Nam là chủ nghĩa xã hội, muốn xoá bỏ
chế độ người bóc lột người, muốn có tự do, hạnh phúc, bình đẳng thật sự thì phải qua hai cuộc
cách mạng: cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai cuộc cách mạng
này có quan hệ mật thiết với nhau.
Ba là: Về lực lượng cách mạng, công nông là gốc của cách mệnh, học trò, nhà buôn nhỏ, điền
chủ nhỏ là bầu bạn của công nông. Ai mà bị áp bức càng nặng, thì lòng cách mệnh càng bền, chí
cách mệnh càng quyết. Cách mệnh là việc chung của cả dân chúng chứ không phải là việc của
một hai người.
Bốn là: Về phương pháp cách mạng. Cùng với việc hoạch định đường lối cách mạng, Nguyễn Ái
Quốc phác thảo cả phương pháp cách mạng. Người cho rằng giải phóng gông cùm nô lệ cho
đồng bào, cho nhân loại là công việc “to tát”, cho nên phải “dùng hết sức”, phải “quyết tâm làm
thì chắc được”, “thà chết tự do hơn sống làm nô lệ”. Nhưng phải “biết cách làm thì mới chóng”.
“Cách mệnh trước hết phải làm cho dân giác ngộ”. Tiếp theo tư tưởng khởi nghĩa vũ trang quần
chúng giành chính quyền đề ra từ năm 1924, trong tác phẩm này, Nguyễn Ái Quốc phát triển
thêm: “dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại nổi”. Đời này làm
chưa xong, đời sau nối theo làm thì phải xong”. Về phương pháp cách mạng, quan điểm của
Nguyễn Ái Quốc là quan điểm cách mạng bạo lực. Người chỉ ra những thiếu sót của những
người đi trước như “xúi dân bạo động mà không bày cách tổ chức”, hoặc “làm cho dân quen tính
ỷ lại mà quên tính tự cường”. Tóm lại là phải có sách lược, mưu chước, kế hoạch, biết lúc nào
nên làm, lúc nào chưa nên làm.
Năm là: Đoàn kết quốc tế. “Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Ai làm
cách mạng trên thế giới là đồng chí của Việt Nam”. “Chúng ta cách mệnh thì cũng phải liên lạc
tất cả những đảng cách mệnh trong thế giới để chống lại tư bản và đế quốc chủ nghĩa (như Đệ
tam quốc tế)”. “An Nam muốn cách mệnh thành công, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc tế”.
Trong tác phẩm “Đường Cách mệnh”, Nguyễn Ái Quốc nhắc lại khẩu hiệu của Quốc tế thứ ba
“giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên thế giới đoàn kết lại”.
Đây là những quan điểm cơ bản về đoàn kết quốc tế mà Nguyễn Ái Quốc đã viết trong nhiều tác
phẩm và Người thực hiện ngay từ khi gia nhập phong trào Cộng sản quốc tế. Trong quan hệ giữa
cách mạng nước ta với bầu bạn thế giới, Nguyễn Ái Quốc chú ý hai điều:
Muốn người ta giúp cho thì trước hết mình phải tự giúp lấy mình đã.
Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động giành thắng lợi, không ỷ lại, chờ đợi thắng lợi của
cuộc cách mạng vô sản. Đó cũng là bài học đoàn kết quốc tế trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự lực, tự
cường của cách mạng nước ta từ khi Đảng lãnh đạo.
Sáu là: Cách mạng trước hết phải có Đảng cách mạng.
Ngay từ khi tìm được chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã nắm vững quy luật, Đảng có
vững cách mệnh mới thành công. Muốn cho Đảng vững phải làm cho trong Đảng ai cũng hiểu, ai
cũng theo chủ nghĩa ấy (chủ nghĩa Mác - Lênin). Đảng không có chủ nghĩa như người không có
trí khôn.
Sáu điểm trên đây là tư tưởng cốt lõi trong con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc.
Không những Nguyễn Ái Quốc nắm vững thực chất chủ nghĩa Mác - Lênin, mà ngay từ đầu đã
biết vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin một cách sáng tạo, phù hợp với đặc điểm cách mạng nước
mình.
- Từ năm 1925 đến năm 1927, đồng thời với phong trào yêu nước theo lập trường vô sản, xuất
hiện phong trào yêu nước theo quan điểm dân chủ tư sản:
Phong trào đấu tranh sôi sục trong cả nước vào cuối năm 1925, đòi trả lại tự do cho Phan Bội
Châu.
- Tháng 3-1926, phong trào yêu nước tổ chức đám tang Phan Châu Trinh.
- Năm 1925 thành lập Việt Nam Nghĩa đoàn, năm 1927 đổi tên thành Đảng Tân Việt.
- Đảng Thanh niên thành lập tháng 3-1926.
- Đảng An Nam độc lập do lưu học sinh Việt Nam ở Pháp tổ chức.
- Việt Nam quốc dân đảng thành lập năm 1927.
Cùng với các tổ chức chính trị nói trên, nhiều tờ báo tiến bộ ra đời. Báo La cloche félée (Tiếng
chuông rè) từ số 53 (29-3-1926) đến số 60 (26-4-1926) lần lượt công bố toàn văn Tuyên ngôn
của Đảng Cộng sản của Mác và Ăngghen, Tờ L'Annam bác bỏ thuyết “Pháp Việt đề huề”, đăng
nhiều bài của báo L’Humanité (Nhân đạo) của Đảng Cộng sản Pháp. Tờ Jeune Annam (xứ An
Nam trẻ) đăng một số bài của Nguyễn Ái Quốc. Các tổ chức và những tờ báo trên đã có ảnh
hưởng tới thanh niên, học sinh và một số người thuộc tầng lớp trên.
Thời gian này, ở nước ta đã nổ ra cuộc đấu tranh giữa hai đường lối cứu nước và kết cục đường
lối cứu nước của Nguyễn Ái Quốc đã thắng đường lối cứu nước theo quan điểm tư sản.
Tính khoa học và cách mạng triệt để của đường lối cứu nước do Nguyễn Ái Quốc đề xướng có
sức cuốn hút mạnh mẽ nhiều thanh niên yêu nước. Trong hai năm 1929 - 1930, phần lớn đảng
viên Đảng Tân Việt và một số đảng viên tiên tiến của Việt Nam quốc dân đảng đã chuyển sang
lập trường của những người cộng sản. Lập trường cách mạng giải phóng dân tộc của công nhân
đã thắng lập trường giải phóng của tư sản. Thực tiễn lịch sử chứng minh, con đường cứu nước
của Nguyễn Ái Quốc đã mở đường giải quyết cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước ở nước
ta, dẫn đến sự ra đời các tổ chức cộng sản vào nửa cuối năm 1929 và Đảng Cộng sản Việt Nam
đầu năm 1930.
Kết luận:
Tóm lại, trong 10 năm hoạt động sôi nổi, từ năm 1920 đến 1930, cùng với sự phát triển mạnh mẽ
của phong trào vô sản trên thế giới, sự phát triển mạnh mẽ của phong trào giải phóng dân tộc
trong nước, HCM đã hoạt động rất tích cực, sôi nổi. Được sự giúp đỡ nhiệt tình cuả các đồng chí,
bạn bè, Người đã nhân thức và hiểu được các quy luật vận động và phát triển của phong trào
cách mạng trong nước và thế giới, từ đó Người tiếp cận với ánh sáng chủ nghĩa Mác- Lênin, sáng
lập nên Đảng Cộng Sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Người đi từ người yêu nước chân chính đến người cộng sản.Trong quá trình ấy các tư tưởng cơ
bản về cách mạng Việt Nam của HCM hình thành và phát triển. Những tư tưởng ấy được chính
Người vận dụng và rèn dũa, trong đó có rất nhiều điểm sáng tạo với Chủ nghĩa Mác Lênin.
III. Hành trình ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc từ năm 1930 đến năm 1941.
a) Năm 1930
-Ba tổ chức cộng sản tại Việt Nam, tuy mới thành lập nhưng đã mâu thuẫn rõ rệt và tranh giành
sự ủng hộ của quần chúng:
+ Đông Dương Cộng sản Đảng phê An Nam Cộng sản Đảng là "hoạt đầu, giả cách mạng"
+ An Nam Cộng sản Đảng chỉ trích Đông Dương Cộng sản Đảng là "chưa thật cộng sản", "chưa
thật Bôn-sê-vích’’ ( Nguồn wikipedia)
-
Ngày 3 tháng 2 năm 1930 (hoặc ngày 6 tháng 1 năm 1930, tại Cửu Long(thuộc Hương Cảng)
+ Nguyễn Ái Quốc thống nhất ba tổ chức đảng cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam trong
một hội nghị được tổ chức tại nhà một người công nhân.
+ Ngoài Người còn có 5 người khác là các đại diện cộng sản.
+ Các văn kiện quan trọng nhất (như Chính cương vắn tắt, Sách lược, Điều lệ vắn tắt của Đảng,
Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng) của hội nghị này đều do người soạn thảo và được cho là
thể hiện những quan điểm và tư tưởng khác với chủ trương khi đó của Quốc tế Cộng sản.
Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3-2-1930
(chụp lại tranh của hoạ sĩ Phi Ho
Đồng chí Nguyễn Ái Quốc (1890-1969)
Trịnh Đình Cửu (1906-1990), đại biểu
người chủ trì Hội nghị thành lập Đảng
Đông Dương Cộng sản Đảng
Cộng sản Việt Nam,ngày 3-2-1930
Châu Văn Liêm (1902-1930),
Nguyễn Đức Cảnh (1908-1932), đại biểu
đại biểu An Nam Cộng sản Đảng
Đông Dương Cộng sản Đảng
Lê Hồng Sơn (1899-1933), một trong những người lãnh đạo Tổng Bộ
Hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng từ năm 1925 đến năm 1929
Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam, năm 1930
Quyết định kết nạp Đông Dương Cộng sản Liên đoàn vào Đảng
Cộng sản Việt Nam, tháng 2-1930.
-Tháng 3 năm 1930, Người trở lại Thái Lan trong một thời gian ngắn, sau đó quay lại Trung Hoa.
b) Những năm 1931 - 1933
-Năm 1931, dưới tên giả là Tống Văn Sơ, Nguyễn Ái Quốc bị nhà cầm quyền Hương Cảng bắt
giam.
Hương Cảng năm 1933
Báo L’Humanité (Nhân đạo) của Đảng Cộng sản Pháp, ra ngày 19/6/1931 đăng tin về việc nhà
cầm quyền Anh bắt nhà cách mạng An Nam Nguyễn Ái Quốc (ở đây, báo L’Humanité có sự
nhầm lẫn là bắt Nguyễn Ái Quốc tại Thượng Hải)
-Người bị giam tất cả hơn một năm.
- Ban đầu chính quyền Anh tại Hương Cảng dự định trục xuất Người với ý định lực lượng của
Pháp sẽ bắt Người và đưa về Việt Nam
=> Tại đó Pháp sẽ thi hành ngay tức thì bản án tử hình vắng mặt cho Nguyễn Ái Quốc đã được
tuyên tại Tòa án Vinh từ tháng 10/1929
- Các đồng chí của Người là Hồ Tùng Mậu và Trương Vân Lĩnh liên hệ được với Công hội Đỏ
và gia đình luật sư Frank Loreby can thiệp, bào chữa cho Người.
Luật sư Lô-dơ-bi, ảnh chụp năm 1957
-Sau nửa năm phiên tranh tụng, ngày 28/12/1932, tại tòa án trong điện Buckinggham, có mặt
Đức vua Anh, hầu tước chánh án đã phán quyết Tống Văn Sơ vô tội .
- Người bèn xuống tàu sang Tân-gia-ba (Singapore), song vẫn bị mật thám theo dõi. Tàu vừa cập
bến Tân-gia-ba, cảnh sát đón bắt và áp giải Tống Văn Sơ xuống tàu Hồ San quay về Hương
Cảng. Họ tuyên bố rằng, chính quyền Tân-gia-ba không phụ thuộc vào bất cứ lệnh nào của các
chính quyền khác, bởi thế, cũng không bắt buộc phải thi hành việc đảm bảo của chính quyền
Hương Cảng.
- Tại nhà tù, Tống Văn Sơ tìm cách liên lạc được với luật sư Loseby thông qua một lính gác.
Trong vai trò luật sư, Loseby đã chính thức gặp nhà chức trách, phê phán họ đã chống lại lệnh
tuyên án của Cơ mật viện, để cho cảnh sát bắt lại Tống Văn Sơ một cách trái phép.
=> Chính quyền Hương Cảng lúc đó biết không thể giam giữ Tống Văn Sơ, nên đã phải can
thiệp để Sở cảnh sát Hương Cảng thả Tống Văn Sơ sau mấy ngày giam giữ
- Lần này để tránh mật thám, Ông được Loseby bố trí lên một chiếc cano bí mật ra khỏi Hương
Cảng, cập mạn một chiếc tàu khác. Sau đó, luật sư Loseby vẫn chưa cảm thấy yên tâm, ông liền
tung tin Tống Văn Sơ đã chết trong bệnh viện lao ở Hương Cảng. Mấy hôm sau, tờ Nhân đạo của
Đảng Cộng Sản Trung Quốc đăng tin Nguyễn Ái Quốc đã mất tại Hương Cảng. Mật thám Pháp
cũng tin vào cái chết của Nguyễn Ái Quốc và thôi truy lùng. Trong tập hồ sơ của sở mật thám
Đông Dương lập về Nguyễn Ái Quốc, ở trang cuối cùng ghi: "Nguyễn Ái Quốc đã chết trong nhà
tù tại Hương Cảng"
- Sau khi ởHạ Môn khoảng năm, sáu tháng, đầu năm 1933, Người lên Thượng Hải. Từ đây,
Người được Đảng Cộng sản Trung Quốc bố trí đưa đi Liên Xô.
- Trong những năm 1931-1935, Người đã bị Trần Phú và sau đó là Hà Huy Tập phê phán về
đường lối cải lương, không đúng đường lối đấu tranh giai cấp của Quốc tế Cộng sản.
c) Những năm 1933 - 1938
-Đầu năm 1933, Nguyễn Ái Quốc đã có mặt ở Liên Xô
- Người dự Đại hội lần thứ 7 Quốc tế Cộng sản (từ ngày ngày 25/7 đến ngày 20/8 năm 1935),
nhưng không được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương của Quốc tế Cộng sản. Đại diện của Việt
Nam tại Ban Chấp hành này là Lê Hồng Phong.
-Người phụ trách chung những người cộng sản Việt Nam và theo học khóa ngắn hạn tại trường
Lenin là trường Đảng cao cấp dành cho các lãnh tụ cộng sản nước ngoài (1934-1935).
- Năm 1935, ông được bầu làm đại diện của Đảng Cộng sản Đông Dương bên cạnh Quốc tế
Cộng sản.
-Trong thời gian ở lại Liên Xôngười có theo học lớp nghiên cứu sinh sử học của Viện nghiên cứu
các vấn đề dân tộc và thuộc địa nhưng sau đó không tốt nghiệp.
-Người rời Liên Xô vào mùa thu năm 1938.
- Ít nhấtNgười có hai tên gọi trong thời kì ở Liên Xô: ở trường Lenin Người lấy tên là Li Nốp,
đối với nhóm học sinh ở Viện nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa Người lấy tên là Lin
d) Từ năm 1938 đến đầu năm 1941
- Năm 1938, Người trở lại Trung Quốc .
- Nguyễn Ái Quốc đến công tác tại văn phòng Bát Lộ quân Quế Lâm, sau đó đi Quý Dương, Côn
Minh rồi đếnDiên An (căn cứ đầu não của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Hồng quân Trung
Quốc vào mùa đông 1938).
- Khi này đang là thời kì Quốc-Cộng hợp tác trong cuộc kháng chiến chống Nhật,
- Trên thực tế, ban lãnh đạo Đảng Cộng Sản Đông Dươnglúc này cũng mất liên lạc với Người tới
tháng 1 năm 1940 (thời kì này Người lấy bí danh là Trần)
Video về hành trình ra đi tìm đường cứu nước của Bác: />v=2Mx8APjElCo