Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

BÀI GIẢNG QUẢN LÝ SỬ DỤNG ĐẤT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (642.1 KB, 88 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
KHOA ĐỊA LÝ - QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN

ĐÀO KHANG

BÀI GIẢNG
QUẢN LÝ SỬ DỤNG ĐẤT

VINH 2015
1


MỘT SỐ THỎA THUẬN/QUY ĐỊNH GIỮA ĐÀO KHANG VÀ SV
1. Trách nhiệm của GV:
- Phát ĐC chi tiết: Phát cho SV ở tiết học đầu tiên,. SV dựa vào đó để chuẩn bị trước bài học
ở nhà.
- Thống nhất với SV về cách gọi tên: Gọi theo số thứ tự trong danh sách.
- Thống nhất với SV về điểm chuyên cần, thái độ:
Mỗi SV được cho điểm nền là 7. Dựa vào kết quả học tập trong kỳ học để cộng thêm
hay trừ bớt để có điểm chuyến cần, thái độ chính thức.
* SV chưa chuẩn bị bài nếu báo trước sẽ bị 1 dấu trừ (-); nếu không báo mà sau đó bị
phát hiện sẽ bị 2 dấu trừ (--). Nội dung nào đã được trình bày đầy đủ trong học liệu chính mà
SV vẫn hỏi, cũng bị 2 dấu -.
* SV đã chuẩn bị bài, đăng ký câu hỏi yêu cầu giải đáp thì báo để GV ghi lên bảng (số
thứ tự và nội dung câu hỏi). Mỗi câu hỏi mà trong học liệu chính chưa giải đáp đầy đủ sẽ
được 1 dấu +.
Mỗi SV được hỏi nhiều câu nhưng tối đa chỉ được 2 dấu cộng/buổi học). SV không
đăng ký mà có câu hỏi thì được giải đáp nhưng không được dấu +. SV đăng ký nhưng không
đưa ra câu hỏi sẽ bị 1 dấu - (chưa chuẩn bị nhưng xí chỗ).
SV giải đáp được một câu hỏi ghi trên bảng sẽ được 1 dấu cộng.
SV vắng 1 buổi bị 2-; chậm hoặc vắng có lý do (có xác nhận của bệnh viện hoặc của


địa phương) bị 1-.
SV có hành vi quấy rối sẽ bị đánh dấu VKL và bị trừ 3 điểm vào điểm nền 7.0.
GV chú ý ưu tiên/quan tâm đến những SV có nhiều dấu trừ để tăng cường kiểm tra
các kỹ năng. (Đây là các biện pháp đối với học sinh Tiểu học nhưng thực tế vẫn phải áp dụng
đối với SV).
Mỗi dấu (-) sẽ bị trừ 0,5 điểm, mỗi dấu (+) sẽ được cộng 0,5 điểm. Lấy điểm nền là
7.0 rồi cộng, trừ các các dấu +, - nói trên sẽ cho ra điểm chuyên cần-thái độ chính thức (hệ số
1).
- Thống nhất với SV về điểm giữa kỳ.

GV yêu cầu SV chọn 1 đề tài theo chủ đề môn học để tập kỹ năng nghiên cứu
khoa học. Gợi ý SV chọn đề tài mà SV sẽ tiếp tục nghiên cứu để trở thành đồ án tốt
nghiệp hoặc đề tài sinh viên NCKH.
2. Trách nhiệm của SV:
- Tự học: SV nghiên cứu bài học từ ở nhà, để đến lớp trao đổi, yêu cầu GV giải đáp những
vấn đề SV cần nắm vững, SV có trách nhiệm xây dựng bài học, tham gia giải đáp các câu hỏi
của người khác.
- Tự rèn luyện kỹ năng tự học: SV biến kiến thức của người khác (trong tài liệu) thành kiến
thức của mình (được biên tập lại theo nhận thức của SV).
SV phải có vở tự học: Trang bên phải ghi phần Chuẩn bị bài ở nhà (Biên tập lại kiến
thức theo cách hiểu của SV-Như vở Soạn văn ở phổ thông); trang bên trái gồm 2 nội dung:
1.Những vấn đề SV chưa hiểu để đến lớp yêu cầu giải đáp, 2. Kiến thức bổ sung ở lớp (lĩnh
hội được ở lớp qua giải đáp của GV, giống như vở Chữa bài tập ở phổ thông).

2


Chương trình đào tạo trình độ đại học
Ngành đào tạo: KS. Quản lý Tài nguyên - Môi trường
ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT MÔN HỌC

1. Họ và tên giảng viên
Đào Khang;
- Chức danh, học hàm, học vị:
Phó Giáo sư, Tiến sĩ.
- Hướng nghiên cứu chính:
Đánh giá - Quy hoạch - Sử dụng đất đai đồi núi.
Dân tộc - Miền núi miền Tây Nghệ An.
Môi trường - Phát triển bền vững.
- Địa chỉ, điện thoại:
Khoa Địa lý, Trường Đại học Vinh.
0383.855.81.16;
0912.627.198;

2. Tên môn học:
QUẢN LÝ SỬ DỤNG ĐẤT
3. Mã môn học:
ĐL20144
4 Số tín chỉ:
2
5. Loại môn học:
Bắt buộc
6. Giờ tín chỉ đối với các hoạt động:
- Giảng lý thuyết:
24
- Bài tập trên lớp:
0
- Thực hành:
0
- Thực địa:
0

- Hoạt động nhóm, thảo luận:
6
- Tự học, tự nghiên cứu:
60
7. Mục tiêu của môn học
- Kiến thức
+ Đào tạo người học nắm được kiến thức về Quản lý đất đai, một lĩnh vực khó và
phức tạp
+ Từ kiến thức của môn học, giúp người học hiểu sâu kiến thức của các môn học
khác: Quy hoạch sử dụng đất; Đăng ký thống kê đất đai, Thanh tra đất,... từ đó bổ sung kiến thức và
nghiên cứu chuyên sâu về ngành học Quản lý đất đai.
+ Trên cơ sở kiến thức đã học, người học có khả năng phân tích, tổng hợp, đánh giá
các vấn đề liên quan đến khoa học Quản lý nói chung, Quản lý đất đai nói riêng.
- Kỹ năng
+ Nội dung và thời lượng giữa lý thuyết và thảo luận trên lớp có khả năng hình thành
cho người học kỹ năng làm việc theo nhóm về các vấn đề liên quan đến Quản lý đất đai.
+ Bố cục nội dung hợp lý, sắp xếp khoa học, có khả năng hình thành và rèn luyện kỹ
năng thực tiễn nghề nghiệp, kỹ năng phát triển tư duy, nghiên cứu, phân tích các vấn đề liên quan đến
khoa học quản lý nói chung, quản lý đất đai nói riêng.
- Thái độ
Chương trình có nội dung kiến thức về đất đai - tài sản quốc gia, tư liệu sản xuất của
các ngành kinh tế Nông, Lâm, Ngư nghiệp là những ngành đang chiếm tỉ trọng cao ở Việt Nam và
Quản lý đất đai luôn là vấn đề nhạy cảm ở tất cả các quốc gia, các thời đại. Từ đó giáo dục người học
có trách nhiệm với công việc của bản thân.
8. Mô tả vắn tắt nội dung môn học
- Hệ thống và sử dụng đất như một hệ thống.
- Các hệ thống và kỹ thuật sử dụng đất.
- Các nhóm đất chủ yếu.
- Chính sách về sử dụng đất.
- Quy hoạch sử dụng đất và giao đất có sự tham gia.

9. Nội dung chi tiết môn học
TÍN CHỈ 1. HỆ THỐNG SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI
(Lí thuyết: 12, Thảo luận: 3)
PHẦN LÍ THUYẾT
Số tiết
Chương 1. CÁC NHÓM ĐẤT CHÍNH VÀ LƯỢC SỬ SỬ DỤNG ĐẤT Ở VIỆT NAM
6
1.1. Các nhóm đất chính
3


1.1.1. Đất cát biển
1.1.2. Đất mặn
1.1.3. Đất phèn
1.1.4. Đất glây
1.1.5. Đất than bùn
1.1.6. Đất đá bọt
1.1.7. Đất đen
1.1.8. Đất nâu vùng bán khô hạn
1.1.9. Đất tích vôi
1.1.10. Đất có tầng sét loang lổ
1.1.11. Đất pốt dôn
1.1.12. Đất xám
1.1.13. Đất đỏ
1.1.14. Đất mùn alit trên núi cao
1.1.15. Đất xói mòn trơ sỏi đá
1.2. Lược sử về sử dụng đất
1.2.1. Trên thế giới
1.2.2. Ở Việt Nam
Chương 2. HỆ THỐNG SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI

2.1. Hệ thống
2.1.1. Khái niệm hệ thống
2.1.2. Những đặc điểm chủ yếu của hệ thống
2.1.3. Một số mô hình hệ thống
2.2. Hệ thống sử dụng đất đai
2.2.1. Khái niệm
2.2.2. Một số hệ thống sử dụng đất
PHẦN THẢO LUẬN
Xây dựng mô hình sử dụng đất hợp lý và hiệu quả ở địa phương bạn.
PHẦN TỰ HỌC
TÍN CHỈ 2. QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI
(Lí thuyết: 12, Thảo luận: 3)
PHẦN LÍ THUYẾT
Chương 3. KỸ THUẬT SỬ DỤNG ĐẤT BỀN VỮNG
3.1. Khái niệm về tính bền vững
3.2. Hệ thống sử dụng đất bền vững
3.3. Biện pháp sử dụng đất tổng hợp bền vững
3.4. Kỹ thuật sử dụng đất bền vững
3.5. Các chỉ tiêu đánh giá tính bền vững và kỹ thuật sử dụng đất
Chương 4. QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT VÀ GIAO ĐẤT CÓ SỰ THAM GIA
4.1. Khái niệm
4.2. Nguyên tắc chỉ đạo quy hoạch sử dụng đất và giao đất có sự tham gia
4.3. Phương pháp thực hiện quy hoạch sử dụng đất và giao đất có sự tham gia
4.3.1. Khái quát
4.3.2. Đặc điểm và tính chất quy hoạch sử dụng đất cấp vĩ mô
4.3.3. Tổ chức thực hiện quy hoạch sử dụng đất và giao đất có sự tham gia
4.3.4. Giám sát và đánh giá quy hoạch sử dụng đất và giao đất có sự tham gia
Chương 5. CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI Ở VIỆT NAM
5.1. Lược sử quản lý đất đai ở Việt Nam
5.1.1. Thời phong kiến

5.1.2. Thời Pháp thuộc
5.1.3. Thời ký trước đổi mới
5.1.4. Thời kỳ đổi mới
5.2. Luật đất đai
5.2.1. Khái niệm Luật đất đai
5.2.2. Luật đất đai
5.3. Chính sách đất đai nông lâm nghiệp
5.3.1. Khái niệm chính sách

6

3
30

4

4

4

4


5.3.2. Một số chính sách cơ bản trong quản lý đất đai
5.3.3. Cơ cấu tổ chức quản lý sử dụng đất đai
PHẦN THẢO LUẬN
Những khó khăn trong sử dụng đất đảm bảo tính bền vững ở địa phương bạn ?
PHẦN TỰ HỌC
30
10. Học liệu

1. Lê Trọng Cúc, Trần Đức Viên (1995). Phát triên hệ thống canh tác. NXB Nông nghiệp
2. Cao Liêm, Trần Đức Viên (1990). Sinh thái học nông nghiệp và bảo vệ môi trường. NXB ĐH
và THCN
3. Luật đất đai 1993
4. Nguyễn Xuân Quát (1994). Sử dụng đất bền vững. NXB Nông nghiệp
5. Nghị định 61.1/CP ngày 27/9/1993; Nghị định 02/CP ngày 15/01/1994; Nghị định 01/CP ngày
01.1/01/1995 của Chính phủ về giao đất Nông nghiệp, đất Lâm nghiệp và giao khoán đất.
6. Đào Thế Tuấn (1997). Kinh tế hộ nông dân. NXB Chính trị Quốc gia.
11. Hình thức tổ chức dạy học
NỘI DUNG MÔN HỌC CHIA RA CÁC VẤN ĐÈ/TUẦN
Hình
Yêu cầu sinh viên
thức
Nội dung chính
chuẩn bị
Tuần
dạy học
TÍN CHỈ 1. HỆ THỐNG SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI
(Lí thuyết: 12, Thảo luận: 3)

Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ SỬ
Đọc 1 (50-61.1)
1
thuyết
DỤNG ĐẤT
Câu hỏi:
(2 tiết)
1.1. Các nhóm đất chính
1. So sánh đặc điểm đất cát biển với đất
1.1.1. Đất cát biển

mặn và đất phèn.
1.1.2. Đất mặn
2. So sánh đất than bùn và đất đen.
1.1.3. Đất phèn
1.1.1.1. Đất glây
1.1.5. Đất than bùn
1.1.6. Đất đá bọt
1.1.7. Đất đen

1.1. Các nhóm đất chính (tiếp)
Đọc 1. (50-61.1)
2
thuyết
1.1.8. Đất nâu vùng bán khô hạn
Câu hỏi:
(2 tiết)
1.1.9. Đất tích vôi
Phân tích vai trò của độ cao, khí hậu đối
1.1.10. Đất có tầng sét loang lổ
với sự hình thành các loai đất.
1.1.11. Đất pốt dôn
1.1.12. Đất xám
1.1.13. Đất đỏ
1.1.11.1. Đất mùn alit trên núi cao
1.1.15. Đất xói mòn trơ sỏi đá

1.2. Lược sử về sử dụng đất
Đọc 1. (18-22)
3
thuyết

1.2.1. Trên thế giới
Câu hỏi:
(2 tiết)
1.2.2. Ở Việt Nam
Đất trên thế giới và ở Việt Nam đang bị
suy giảm về số lượng và chất lượng như
thế nào?

Chương 2. HỆ THỐNG SỬ DỤNG
Đọc 1. (4-12)
4
thuyết
ĐẤT ĐAI
Câu hỏi:
(2 tiết)
2.1. Hệ thống
Tại sao khi nghiên cứu và sử dụng bất kỳ
2.1.1. Khái niệm hệ thống
một hệ thống nào cũng cần quan tâm đến
2.1.2. Đặc điểm của hệ thống
tất cả các hợp phần của hệ thống?

2.1.3. Một số mô hình hệ thống
Đọc 1 (12-17) (22-29)
5
thuyết
2.2. Hệ thống sử dụng đất đai
Nhận xét về mô hình nông trại
(2 tiết)
2.2.1. Khái niệm


2.2.1. Khái niệm (tiếp)
Đọc 1. (22-34)
6
thuyết
2.2.2. Một số hệ thống sử dụng đất
Lập sơ đồ các hệ thống sử dụng đất.
(2 tiết)
TL(3
Xây dựng mô hình sử dụng đất hợp lý và hiệu quả ở địa phương bạn
7,8
5


tiết)
TÍN CHỈ 2

thuyết
(2 tiết)


thuyết
(2
tiết)

thuyết
(2
tiết)



thuyết
(2
tiết)

thuyết
(2
tiết)


thuyết
(2
tiết)
Thảo
luận
Tự học

Chương 3. KỸ THUẬT SỬ DỤNG ĐẤT
BỀN VỮNG
3.1. Khái niệm về tính bền vững
3.2. Hệ thống sử dụng đất bền vững
3.3. Biện pháp sử dụng đất tổng hợp bền
vững
3.4. Kỹ thuật sử dụng đất bền vững
3.5. Các chỉ tiêu đánh giá tính bền vững và
kỹ thuật sử dụng đất

(35-36) (36-39)
Câu hỏi:
1. Vai trò của sử dụng đất bền
vững?

2. Tại sao phải sử dụng đất theo
hướng bền vững?
(40-48)
Câu hỏi:
Phân tích ý nghĩa của kỹ thuật sử
dụng đất bền vững.
Chương 4. QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT VÀ Đọc 1. (100-108)
GIAO ĐẤT CÓ SỰ THAM GIA
Câu hỏi:
4.1. Khái niệm
Tại sao nói: quy hoạch sử dụng đất
4.2. Nguyên tắc chỉ đạo quy hoạch sử dụng là vấn đề then chốt trong quy
đất và giao đất có sự tham gia
hoạch phát triển SX Nông Lâm
4.3. Phương pháp thực hiện quy hoạch sử nghiệp?
dụng đất và giao đất có sự tham gia
4.3.1. Khái quát
4.3.2. Đặc điểm và tính chất quy hoạch sử Đọc 1. (108-118)
dụng đất cấp vĩ mô
Câu hỏi:
4.3.3. Tổ chức thực hiện quy hoạch sử dụng Vị trí, vai trò và nhiệm vụ của quy
đất và giao đất có sự tham gia
hoạch sử dụng đất cấp xã?
4.3.4. Giám sát và đánh giá quy hoạch sử
dụng đất và giao đất có sự tham gia
Chương 5. CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ SỬ Đọc 1. (69-88)
DỤNG ĐẤT ĐAI Ở VIỆT NAM
Câu hỏi:
5.1. Lược sử quản lý đất đai ở Việt Nam
1. Nhận xét về tình hình quản lý

5.1.1. Thời phong kiến
đất đai ở Việt Nam qua các thời
5.1.2. Thời Pháp thuộc
kỳ.
5.1.3. Thời ký trước đổi mới
2. Luật đất đai năm 1993 có những
5.1.4. Thời kỳ đổi mới
hạn chế gì?
5.2. Luật đất đai
5.2.1. Khái niệm Luật đất đai
5.2.2. Luật đất đai
5.3. Chính sách đất đai nông lâm nghiệp
5.3.1. Khái niệm chính sách
5.3.2. Một số chính sách cơ bản trong quản
lý đất đai
5.3.3. Cơ cấu tổ chức quản lý sử dụng đất đai Đọc 1. (91-97)
Câu hỏi:
Nhận xét vai trò của Chính phủ và
của người dân trong sơ đồ quản lý
đất đai.
Những khó khăn trong sử dụng đất đảm bảo tính bền vững ở địa phương bạn ?

8,9

10

11

12


13

14,15

15

30 tiết

12. Quy định đối với môn học và yêu cầu của giảng viên
- Dự lớp: Tuân thủ theo quy chế 43 và các quy định đối với hình thức đào tạo theo tín chỉ, tối
thiểu có mặt ở lớp 36 tiết (80% số tiết có trong học phần). Số tiết vắng sẽ là một trong những căn cứ
để giáo viên cho điểm "Thái độ, chuyên cần".
- Thảo luận: Các buổi thảo luận, bài tập phải có bài chuẩn bị trước từ ở nhà, cuối buổi nộp lại
để giáo viên chấm. Điểm của các bài thảo luận, bài tập là một trong những căn cứ để giảng viên cho
điểm "Giữa kỳ".Nếu thiếu điểm giữa kỳ có thể được kiểm tra lại.
6


- Thi kết thúc học phần: Thi viết 90 phút
- Dụng cụ học tập: Theo yêu cầu cụ thể của giáo viên trong buổi học đầu tiên.
13. Phương thức kiểm tra đánh giá kết quả môn học:
- Theo Quy chế 43 và các quy định đối với hình thức đào tạo theo học chế tín chỉ:
- Thái độ, chuyên cần:
10%
- Kiểm tra giữa kỳ:
20%
- Thi cuối học kỳ (90 phút):
70%
- Thang điểm:
10/10

11.1. Ngày phê duyệt:
15. Cấp phê duyệt:

7


Chương 1. CÁC NHÓM ĐẤT CHÍNH VÀ LƯỢC SỬ SỬ DỤNG ĐẤT Ở VIỆT NAM
1.1. Các nhóm đất chính
Thuộc hệ đất phù sa
1.1.1. Đất cát biển (C ) - Arenosols (AR)
1.1.1.1. Cồn cát trắng vàng (Cc) - Luvic Arenosols (Arl). Diện tích: 222.043 ha.
Đất cồn cát trắng vàng thường phân bố ở sát biển, có nơi vào sâu bên trong,
chạy dọc theo bờ biển và xen với các dải cát biển như Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình,
Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Đà Nẵng.
Nói chung cồn cát vàng ít chua, rời rạc, độ phì nhiêu thấp, giữ nước, giữ màu
kém, có nơi vẫn còn được tiếp tục bồi đắp. Hiện tại phần lớn đất trồng phi lao, cỏ để cố
định cát, những cồn cát sâu trong đồng được sử dụng trồng màu, cây họ đậu. Ở đồng
bằng sông Cửu Long, cồn cát là nơi phát triển khu dân cư, rau màu, hoa quả, vườn cây.
Hướng chính là phát triển các dải rừng ven biển: phi lao, keo lá tràm, kết hợp trồng cỏ
cho chăn nuôi, phát triển một phần rau màu, cây họ đậu. Nguồn lợi chính là cỏ, gỗ, củi,
kết hợp một phần cây lương thực.
1.1.1.2. Đất cồn cát đỏ (Cđ ) - Rhodic Arenosols (ARr). Diện tích: 76.886 ha.
Đất cồn cất đỏ tập trung chủ yếu là ở tỉnh Bình Thuận. Cồn cát đỏ thường cố định,
tập trung thành dải cao có khi tới 200 m, không còn được tiếp tục bồi đắp. Cồn cát đỏ
thường có tỉ lệ sét cao hơn cát trắng vàng (sét vật lý khoảng 10%). Đất thường nghèo
mùn, các chất dinh dưỡng, các cation kiềm trao đổi. Đất chua, độ no bazơ thấp, mức
độ phân giải chất hữu cơ trong đất mạnh.
Phần lớn đất cồn cát đỏ ở Việt Nam còn bỏ hoang, một số nơi đã khai phá trồng
lạc, đậu đen, đậu xanh, vừng, dưa hấu, thầu dầu, đào lộn hột, mãng cầu, mít, bông.
Nhìn chung đất này nên sử dụng cho nông lâm nghiệp, trồng cây chắn gió, cây

lấy gỗ, bảo vệ diện tích đất nông nghiệp, nơi tưới nước được thì trồng lúa, nơi không
tưới được thì trồng rau màu.
1.1.1.3. Đất cát biển (C) - Haplic Arenosols (ARh). Diện tích: 234.505 ha.
Loại đất này phân bố ở địa hình bằng, được hình thành chủ yếu do quá trình
bồi lắng của phù sa sông và biển trong quá trình lấn biển; tập trung chủ yếu từ Thanh
Hóa đến Bình Thuận, tạo thành các dải rộng hẹp khác nhau; màu trắng hoặc trắng
xám; thường có hạt thô, phân lớp rõ. Các đụn cát được hình thành do biển có cấp hạt
nhỏ hơn và phân lớp không rõ. Một số vùng như Quỳnh Lưu, Diễn Châu (Nghệ An)
đất có nhiều vỏ sò, hến, phản ứng đất trung tính hoặc kiềm yếu.
Phần lớn đất cát biển ở Việt Nam còn bỏ hoang.
1.1.2. Đất mặn (M) Salic Fluvisols (Fls)
Đất mặn có thể xem là một đối tượng quan trọng của nông lâm nghiệp trong
việc phát triển rừng ngập mặn để chặn sóng biển, tạo ra các vùng đất ổn định ở vùng
ven biển, góp phần không nhỏ vào việc quai đê lấn biển, làm tăng diện tích đất nông
nghiệp cho vùng đồng bằng ven biển. Điều này được thực hiện khá tốt ở một số tỉnh
miền Bắc như Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình, Hải Phòng, Thanh Hóa. Một số nơi
gần như đã có quy trình diễn biến trong việc sử dụng đất đai một cách khá rõ ràng. Ở
Nam Định, Ninh Bình, người ta trồng sú vẹt ở những nơi đất có thủy triều lên xuống
đều đặn, có độ sâu tầng đất và hàm lượng sét vừa phải. Khi vẹt lên tốt, ổn định, nông
dân kết hợp rừng vẹt với kinh doanh tôm. Việc làm các vuông tôm, rừng vẹt bị giảm
sút chất lượng một cách nghiêm trọng. Do vậy, người ta lại tiếp tục trồng vẹt lấn ra
phía ngoài biển, đồng thời quai đê bao chỗ đất đã ổn định lại để chuẩn bị trồng cói.
Trồng cói được một thời gian, khi độ chua, mặn của đất và nước giảm đến mức có thể
trồng lúa được, thì bắt đầu trồng lúa. Cứ như vậy, người dân ven biển có được diện
tích cấy lúa tăng đều đặn hàng năm.
8


Quỹ đất ngập mặn lớn nhất ở Việt Nam là Đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt
là tỉnh Cà Mau. Nơi đây, rừng đước có thể xem là cuộc sống của đồng bào ven biển.

Rừng đước cung cấp hệ sinh thái, cung cấp gỗ củi, gỗ gia dụng, gỗ làm nhà v.v…
Ngày này, ngoài việc kinh doanh rừng đước, nông dân còn phải sản xuất kinh
doanh thủy hải sản và là một trong nguồn lợi lớn của người dân địa phương. Nhưng
vấn đề cần phải nghiên cứu là làm thế nào tạo ra một hệ sinh thái bền vững giữa kinh
doanh rừng đước và kinh doanh thủy hải sản một cách hiệu quả nhất.
Đất mặn được chia làm 2 loại chính: đất mặn sú vẹt và đất mặn kiềm.
Đất mặn sú vẹt được phân bố ở các cửa sông từ Bắc chí Nam. Đất này thường có
độ pH từ 4,8 đến 7,7, khá giầu chất hữu cơ, thành phần cơ giới nặng, thường có glây.
Đất mặn kiềm là loại đất khô và bán khô, độ pH xấp xỉ 9, sở dĩ như vậy vì
trong đất chứa nhiều Na2CO3 và NaHCO3.
1.1.3. Đất phèn (S) Thionic Fluvisols (Flt)
1.3.1. Đất phèn tiềm tàng (Sp) - Proto - Thionic Glaysols (FLtp). Diện tích: 652.244 ha.
Đất phèn thường nghèo dinh dưỡng, chua, có các loại cỏ năn, lác mọc. Một số
nơi cấy lúa nhưng năng suất không cao.
1.1.3.2. Đất phèn hoạt động (Sj) - Orthi Thionic Fluvisols (Flto). Diện tích: 1.210.884 ha.
Nhìn chung đây là loại đất có độ phì nhiêu khá cao. Hàm lượng chất hữu cơ
khá, đạm tổng số khá. Đất rất chua (pH khoảng 3,0 đến 3,5), vì trong đất có hàm
lượng Al3+ và SO42- lưu động cao. Cũng vì lí do đó nên mức độ phân giải của các hợp
chất hữu cơ thấp (tỉ lệ C/N cao). Đất nghèo lân cả tổng số và dễ tiêu. Thành phần cơ
giới của đất nặng. Phần lớn đất phèn đã được khai thác để trồng lúa, nhiều nơi trên đất
này đã trồng cây lâm nghiệp.
Miền Nam có diện tích đất phèn lớn hơn so với miền Bắc. Vùng Đông Nam Bộ
rừng tràm rộng lớn được phát triển trên đất phèn. Đây có thể xem là một vùng sinh
thái đặc biệt có một không hai ở Việt Nam. Rừng tràm không chỉ cho gỗ củi mà còn là
nơi sinh sống của rất nhiều loài động thực vật khác nhau, tạo nên một quần thể rất tự
nhiên vô cùng phong phú. Chim, thú, tôm, cá, các loài bò sát ở nơi đây rất dồi dào.
Ở miền Bắc, đất phèn được tìm thấy tại khu vực ven biển thuộc các tỉnh Hải
Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa với diện tích không lớn.
1.1.4. Đất glây (GL) - Gleysols (GL)
Nhóm đất này phân bố ở Đồng bằng sông Hồng và rải rác ở Tây Nguyên, Đông

Nam Bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ. Đất hình thành ở những nơi thấp, ứ đọng nước
và nơi có mực nước ngầm gần mặt đất. Chúng biểu hiện các đặc tính glây mạnh ở độ
sâu 0 - 50 cm. Đất gồm 2 loại:
- Đất glây chua (GLc) - Dystric Gleysols (GLd)
- Đất lầy (GLu) - Unbric Gleysols (GLu).
1.1.4.1. Đất glây chua (GLc). Diện tích: 350.568 ha
Đất có phản ứng rất chua, pHKCL 3,2-4,0 ở tầng đất mặt. Hàm lượng mùn trung
bình (2,39 - 2,66%). Đạm tổng số trung bình (0,15%). Lân tổng số từ rất nghèo đến
hơi nghèo (0,02-0,09%). Ka li tổng số trung bình (0,78-1,18%). Các chất dễ tiêu đều
nghèo: lân 0,6 - 4,8 me/100g đất, ka li 2,6 - 10 me/100g đất. Tổng số cation kiềm trao
đổi (Ca++ + Mg++) trong đất thấp (< 6 me/100g đất). Khả năng trao đổi cation thấp (11
- 17 me/100g sét).
Đất này thường có thời gian ngập úng trên 6 tháng trong năm. Thường chỉ
trồng 1 vụ lúa, năng suất thấp và bấp bênh. Để nâng cao năng suất, cần chuyển hướng
theo hướng đa canh (kết hợp cấy lúa với nuôi trồng thủy sản, nuôi vịt). Ở một số vùng
chiêm trũng, hệ thống canh tác vừa đưa trên đã mang lại hiệu quả kinh tế cao mà
không đòi hỏi vốn đầu tư lớn để cải tạo đất.
9


1.1.4.2. Đất lầy (GLu)
Loại đất này tập trung nhất ở Bắc Trung Bộ, Hà Nam, Ninh Bình, Quảng Ninh,
Vĩnh Phúc, Phú Thọ. Đất thường bị úng nước quanh năm. Phẫu diện đất không có tầng
A. Không cấu trúc, glây mạnh toàn phẫu diện. Thực vật chủ yếu là năn, lác, rong rêu.
Đất thường giàu chất hữu cơ (3-4% mùn) do xác các sinh vật thủy sinh phân
hủy và do mức độ khoáng hóa của mùn chậm. Phản ứng của đất chua pH KCL thường <
4,4. Trong đất chứa nhiều chất khử (Fe ++, S-), có hại cho cây. Đất nghèo lân và ka li,
mức độ phân giải chất hữu cơ chậm.
Biện pháp cải tạo chủ yếu là tiêu nước và bón vôi, lân nung chảy, ka li, làm đất
ải, tơi xốp. Nếu cải tạo khó khăn, cần chuyển sang đa canh: nuôi trồng thủy sản, nuôi

vịt kết hợp với cấy giống lúa chịu chua và ngập úng.
Hiện nay một số nơi như Hải Phòng đã và đang sử dụng đất này khá hiệu quả
bằng cách tạo ra một hệ thống canh tác gọi là “ruộng mô”. Nội dung cơ bản của ruộng
mô là trong thửa ruộng trồng các cây rau màu hoặc lúa nước, nông dân đắp các mô đất
cao hẳn lên so với mặt ruộng. Trên các mô đất này, tiến hành trồng các loại cây ăn quả
thích hợp. Nghĩa là đồng thời, và có thu hoạch từ các loại cây ngắn ngày (rau màu
hoặc lúa nước), vừa có thu nhập từ các giống cây dài ngày, tuy nhiên nguồn thu từ các
cây dài ngày vẫn là chủ yếu. Kiểu hệ canh tác này làm cho năng suất của từng loài
riêng biệt tăng hơn so với trồng đơn lẻ.
1.1.5. Đất than bùn (T) Histosols (Hs). Diện tích: 24.941 ha
Đất than bùn tập trung ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Kiên Giang, Cà
Mau, Bạc Liêu). Đất được hình thành ở địa hình thấp trũng, thực vật phát triển mạnh,
sau khi chất, chúng tích lũy lại thành lớp dầy, có khi hàng mét.
Đất chua, độ pH từ 3,0 đến 4,0; tỉ lệ C/N rất cao; độ no bazơ thấp, khả năng
hấp thụ cation thấp.
Hàm lượng các bon trong than bùn khá cao, phần lớn > 20%, hàm lượng đạm
tổng số thay đổi tùy theo chất lượng đất than bùn, trung bình 0,2 - 0,8%, có khi > 1%,
lân tổng số rất nghèo (0,05%).
Đất than bùn đang được sử dụng dưới nhiều hình thức khác nhau. Có nơi lên
luống trồng rau, sắn, dứa. Than bùn còn được khai thác làm chất đốt, làm phân bón.
Than bùn dưới rừng tràm còn là nơi dự trữ nước ngọt phục vụ đời sống và sản xuất.
Nói chung đây là loại đất có độ phì tiềm tàng cao, nó sẽ có vai trò quan trọng
sau khi đã được cải tạo, đặc biệt là về chế độ nước và độ chua. Bởi vậy, thủy lợi và
thau chua là 2 vấn đề cốt yếu đối với đất đai vùng này.
Thuộc hệ đất feralit
1.1.6. Đất đá bọt (RK) - Aldosols (AN). Diện tích: 171.402 ha
Đất đá bọt tập trung chủ yếu ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ.
Đất có màu đen hoặc nâu thẫm trên đá bọt Bazan. Tầng đất thường mỏng, nhiều
đá lộ, lượng mùn cao, CEC cao, V cao, nhiều đá lẫn. Các cây trồng đều có thể sinh
trưởng tốt và cho năng suất cao trên loại đất này. Hình thái phẫu diện phổ biến: A,C.

Tổng Ca, Mg trao đổi cao, lân tổng số tầng mặt giàu, tuy nhiên lân dễ tiêu vẫn thiếu.
1.1.7. Đất đen (R) - Luvisols (LV)
Diện tích: 112.939 ha
Đất được hình thành ở địa hình cao, thường là trên đá vôi và đá bazơ, siêu
bazơ. Bởi vậy trong đất thường đồng thời có 2 quá trình xảy ra: quá trình tích lũy chất
hữu cơ và quá trình tích lũy các chất kiềm. Nhóm chất Luvisols có tầng B argic, độ no
bazơ > 50% trong suốt tầng B argic cho đến 125cm.
1.1.7.1. Đất đen cacbonat (Rv) - Calcic Luvisols (LVk)
10


Đất được hình thành trên sản phẩm phong hóa của đá vôi, phân bố chủ yếu ở các
tỉnh phía bắc như Cao Bằng , Hòa Bình, Nghệ An, Sơn La, Lai Châu, Hà Giang. Đây là
một loại đất tốt. Tầng đất mặt có kết cấu viên hạt, độ xốp thuận lợi cho sự sinh trưởng và
phát triển của nhiều loại cây trồng. Khả năng thoát nước của đất tốt, giữ nước khá.
1.1.7.2. Đất nâu thẩm trên Bazan (Ru) - Chromic Luvisols (LVx)
Đất có mặt giầu mùn, phản ứng chua hơn so với loại trên. Tầng mặt tơi xốp, đất
có kết cấu viên hạt. Độ dày tầng đất lớn hơn so với loại trên.
1.1.8. Đất nâu vùng bán khô hạn (XK) - Lixisols (LX). Diện tích: 42.330
Nhóm đất nâu vùng bán khô hạn được hình thành trong điều kiện khí hậu khô
hạn. Nó tập trung chủ yếu ở 2 tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận, có lượng mưa 6001200mm. Số ngày mưa trung bình năm từ 50-70 ngày/năm. Mùa khô kéo dài từ 6-9
tháng. Lượng bốc hơi trung bình năm là 1731 mm, cao hơn hẳn lượng mưa. Do đặc
điểm khí hậu như vậy đã tạo nên một số đặc điểm của một số quá trình sau đây:

+ Quá trình rửa trôi xói mòn các chất ít xảy ra.
+ Có quá trình tích lũy các cation Kiềm, Sắt, Nhôm trong đất được thấy rõ ràng
ở tầng tích tụ (B).
Do vậy đất có phản ứng trung tính ít chua, mức độ bão hòa Bazơ khá cao (>85%).
Thảm thực vật tự nhiên rất đặc trưng cho vùng bán khô hạn, thường là rừng
thưa, có nhiều cây họ Dầu, Cà Chắc, Chiêu Liêu, Ngành Ngạnh, nhiều loại cây thân

gai như Chim Chích, Mọt Chích…
1.1.8.1. Đất đỏ vùng bán khô hạn (XKđ) - Chromic Lixisols (LXx). Diện tích: 2.230 ha.
Đất đỏ vùng bán khô hạn phân bố chủ yếu ở vùng ven thị xã Phan Rang, Tháp
Chàm tỉnh Ninh Thuận. Loại đất này được hình thành trên đá macma trung tính.
Những loại đá này chứa nhiều các cation Kiềm hóa trị 2, nên rất giàu kiềm. Do ít mưa,
ít bị rửa trôi, nên đất có độ pH cao. Màu đất đỏ, thành phần cơ giới sét pha cát, đất
thường cứng, chặt.
Trên đất này có thể trồng một số cây ăn quả có giá trị kinh tế cao như nho,
thanh long, một số cây công nghiệp như Thuốc lá v.v…
Nước là vấn đề mấu chốt khi sử dụng loại đất này.
1.1.8.2. Đất nâu vùng bán khô hạn (XK) - Haplic Lixisols (LXh). Diện tích: 40.100 ha.
Đất nâu vùng bán khô hạn phân bố ở 2 tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận.
Về điều kiện hình thành và tính chất tương tự loại trên, nhưng do chủ yếu được
hình thành trên đá mẹ giàu thạch anh, phù sa cổ, nên thành phần cơ giới thô hơn. Do
điều kiện khô hạn, rất ít bị rửa trôi, nên đất có độ pH cao, giàu kiềm.
1.1.9. Đất tích vôi (V) - Calcisols (CL). Diện tích: 5.527 ha.
1.1.9.1. Đất vàng tích vôi (V ) - Haplic Calcisols (CLh)
Đất vàng tích vôi được hình thành ở thung lũng đá vôi, xung quanh núi đá vôi
khép kín, địa hình khó thoát nước, nguồn canxi luôn được cung cấp nên đất giàu
canxi. Tuỳ thuộc vào vị trí địa hình mà hàm lượng canxi rất khác nhau. Ở những chỗ
thấp nhưng không đọng nước, thường hàm lượng Cation canxi rất cao. Ngược lại, ở
những chỗ cao, do bị rửa trôi mà hàm lượng canxi giảm nhiều. Ở những chỗ trũng,
thường phát hiện có glây, hoặc tầng đất loang lổ do có thời gian ngập nước và thời
gian khô hạn xen kẽ. Khí hậu thường có hai mùa rõ rệt (mưa và khô). Kết von vôi
thường có đường kính rất khác nhau (từ vài mm đến vài cm). Màu sắc chủ yếu là vàng
nhạt hoặc xám vàng. pHKCl thường từ trung tính đến kiềm yếu. Tuy nhiên có những
nơi do bị rửa trôi quá mạnh, đất có phản ứng chua vừa.
1.1.9.2. Đất nâu thẫm tích vôi (Vu ) - Luvic Calcisols (CLl)
Đất này thường được hình thành trên các loại đá mẹ không phải đá vôi. Chúng
có thể là các loại đá như phiến thạch sét, sa thạch, biến chất hoặc macma. Những vùng

11


đất này thường xen kẽ với những vùng núi đá vôi và nằm ở những vị trí thấp hơn so
với núi đá vôi. Các sản phẩm phong hoá của đá vôi thường xuyên trôi xuống các vùng
thấp, làm cho các loại đất này “tích vôi”. Màu thường nâu sẫm, nâu vàng có kết von
sắt, mangan. Phân đạm thường ít có tác dụng với loại đất này, trừ sunphat đạm. Nói
chung đất này nên bón lân.
1.1.10. Đất có tầng sét loang lổ (L) - Plinthosols (PT)
Đất có tầng sét loang lổ phân bố ở những vùng mà quá trình Feralit khá rõ ràng, sự
tích lũy sắt và nhôm khá phổ biến, mùa khô và mùa mưa tách biệt. Mùa mưa, các hợp
chất sắt, nhôm di chuyển xuống dưới sâu; mùa khô, chúng lại di chuyển từ dưới lên trên
cùng với sự vận chuyển của nước. Khi lên đến tầng đất mặt, nước bay hơi, để lại một
lượng muối khoáng đáng kể, một trong số những muối khoáng này là sắt. Khi còn ở
dưới sâu, sắt ở dạng khử (Fe++). Lên đến các tầng đất mặt, Fe++ sẽ tiếp xúc với oxi và
biến thành Fe+++. Fe+++ dần dần chuyển thành hydroxit và sau đó thành ôxit sắt có
màu đỏ. Tuỳ thuộc vào sự dài ngắn tương đối giữa mùa khô và mùa mưa cùng với sự
bốc hơi bề mặt nhanh hay chậm, mà Fe+++ được hình thành và tích lũy ở những lớp đất
sâu nông khác nhau, tạo ra các tầng đất loang lổ giữa màu đỏ và màu vàng khác nhau.
Đất có tầng sét loang lổ thường phân bố ở những vùng đồi trọc, đất không
còn rừng, hoặc những nơi tiếp giáp giữa vùng đồi núi với đồng bằng.
1.1.11. Đất Pốt dôn (O) - Podzoluvisols (PD)
Ở vùng nhiệt đới nói chung, Việt Nam nói riêng, quá trình Pốt dôn chỉ được
tìm thấy ở những vùng núi cao trên 1000m. Bởi vậy, đất pốt dôn cũng chỉ được tìm
thấy ở vùng này. Đất này có tầng không dày. Trong kết cấu phẫu diện có tầng A 2 một tầng phát sinh đặc biệt đặc trưng của đất pốt dôn. Tầng này có màu sáng hơn
hẳn so với các tầng xung quanh nó. Đất rời rạc, không kết cấu, chua, chứa nhiều
cát thứ sinh hạt rất mịn, nghèo dinh dưỡng, nghèo chất hữu cơ, độ ẩm đất cao.
1.1.12. Đất xám (X) - Acrisols (AC). Diện tích: 19.970.642 ha
Đất xám phân bố rộng khắp các vùng trung du, miền núi và một phần ở
đồng bằng, nơi tiếp giáp với vùng trung du hoặc vùng miền núi. Có thể xem nhóm

đất này là kết quả của sự khai thác đất đai cạn kiệt quá mức, kết quả của sự sử
dụng đất đai không hợp lý trong một thời gian quá lâu dài.
Đây là nhóm đất có tầng B tích sét (argic) với khả năng trao đổi cation
<24me/100g sét và độ no Bazơ <50%, tối thiểu là ở một phần của tầng B của lớp
đất 0 - 120cm.
Nhóm đất này gồm 5 loại:
- Đất xám bạc màu (X) - Haplic Acrisols (ACh).
- Đất xám có tầng loang lổ (Xl) - Plinthic Acrisols (ACp).
- Đất xám glây (Xg) - Gleyic Acrisols (ACg).
- Đất xám Feralit (Xf) - Ferralic Acrisols (ACf).
- Đất xám mùn trên núi (Xh) - Humic Acrisols (ACu).
1.1.12.1. Đất xám bạc màu (X) - Haplic Acrisols (ACh). Diện tích: 1.791.021 ha.
Đất xám bạc màu phát triển chủ yếu trên phù sa cổ, đá macma axit và đá cát.
Phân bố chủ yếu ở Đông Nam bộ, Tây Nguyên, Trung du Bắc Bộ.
Phản ứng từ chua vừa đến rất chua (pH Kcl từ 3,0 đến 4,5), nghèo cation kiềm
trao đổi (Ca+Mg<2mg/100g đất). Độ no bazơ thấp (<50%). Hàm lượng mùn tầng mặt
từ nghèo đến rất nghèo (0,5 đến 1,5%). Mức độ phân giải chất hữu cơ mạnh
(C/N<10). Các chất lỏng số và dễ tiêu đều nghèo.
12


Tầng B argic có ít nhất 8% sét. Hàm lượng sét ở tầng argic phải lớn hơn tầng
trên từ 1,2 lần. Đất chua, nghèo dinh dưỡng, thường khô, nhưng lại có giá trị trong
nông nghiệp: phần lớn diện tích đất nằm ở địa hình bằng phẳng, thoải, thoáng khí,
thoát nước, dễ canh tác và thích hợp với nhiều loại cây trồng cạn. Ở các tỉnh Đông
Nam Bộ và Tây Nguyên như Sông Bé, Tây Ninh, Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk, đất
này là nơi trung tâm sản xuất lương thực tập trung như ngô, khoai, sắn, lúa cạn.
Ngoài ra, nông dân đã trồng một số cây dài ngày như cao su, điều, phát triển khá tốt.
Do rễ cây phát triển sâu, nên cũng đủ ấm cho cây sống và phát triển tốt. Trong giai đoạn
đầu, dân thường trồng xen các cây họ đậu vừa để tăng thu nhập, vừa để bồi dưỡng đất.

1.1.12.2. Đất xám glây (Xg) - Gleyic Acrisols (ACg)
Diện tích: 101.471 ha.
Phân bố tập trung ở Trung du Bắc Bộ, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Đất
chua, pHKcl từ 3,4 - 4,4, nghèo chất hữu cơ, đạm, lân và kali. Thành phần cơ giới tầng
mặt nhẹ (8-10% cấp hạt sét), xuống tầng sâu hàm lượng sét tăng lên gấp gần 3 lần.
Trên loại đất này, dân thường trồng 1 vụ lúa hoặc 1 vụ màu.
Ở vùng Đắk Lắk, loại đất này thường có tầng B argic. Đất chịu ảnh hưởng của
nước mặt và nước ngầm nhiều tháng trong năm. Đất có màu xanh xám, mùn khá.
Đất chua, tổng số cation Ca và Mg: 4 - 6 me/100g đất.
Độ bão hòa bazơ nhỏ hơn 50%.
Dung tích hấp phụ < 24 meq/100g sét. Đất được sử dụng trồng 2 vụ lúa nước,
là nơi cung cấp lương thực chính của tỉnh. Ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ như Bình
Phước, Bình Dương, Đồng Nai, Tây Ninh, đất thường ở địa hình thấp, giàu hàm lượng
chất hữu cơ giàu và đạm nhưng nghèo lân, kali.
1.1.12.3. Đất xám Feralit (Xf) - Feralic Acrisols (Acf). Diện tích: 14.789.505 ha.
Đất xám Feralit phân bố hầu khắp cả nước, trong đó:
- Đất xám Feralit phát triển trên phiến sét (Xfs) có diện tích lớn nhất:
6.876.1.130 ha.
- Đất xám Feralit phát triển trên Macma axit (Xfa): 4.646.476 ha.
- Đất xám Feralit trên đá cát (Xfq): 2.651.337 ha.
- Đất xám Feralit trên phù sa cổ (Xfp): 455.402 ha.
Đất xám Feralit có sự phân hóa về tính chất và độ phì nhiêu theo mẫu chất, đá
mẹ, nhưng đều có đặc điểm chung:
- Chua
- Tầng mặt thường bị xói mòn, rửa trôi nên hàm lượng sét tầng mặt ít hơn tầng
sâu và hình thành tầng B Feralit.
- Độ no Bazơ thường nhỏ hơn 50%.
- Dung tích hấp phụ nhỏ hơn 24 me/100g sét.
- Đất hình thành trên đá mẹ thô có thành phần cơ giới nhẹ và nghèo dinh dưỡng.
Đất hình thành trên đá biến chất có tầng phong hóa sâu và có độ phì cao hơn.

- Đất thường phân bố ở độ dốc 8 - 15%.
Đất phần lớn đã được khai thác trồng hoa màu, lương thực nên hầu hết không
còn rừng; thực vật là cây bụi hoặc cây gỗ nhỏ, rải rác. Hầu hết diện tích đất được trồng
cây lâu năm, nhiều nhất là chè. Vùng Tuyên Quang, Yên Bái,... trồng mỡ, bồ đề,...
cung cấp nguyên liệu giấy, cây phát triển tốt.
Trên đất này, nhiều mô hình nông trại, vườn rừng phát triển, kết hợp trồng cây
ăn quả như cam ở Hàm Yên - Tuyên Quang, vải thiều, nhãn ở Lục Ngạn - Hà Bắc, Phú
Hộ, Thanh Sơn - Phú Thọ, mận Bắc Hà - Lào Cai,... cho hiệu quả kinh tế cao, chất
lượng đất đai ngày càng được phục hồi. Các mô hình cà phê, chè,... được phát triển
mạnh ở nhiều nơi khác, nhất là từ Nghệ An trở vào. Việc phát triển phương thức
13


NLKH, vườn - đồi đã nâng cao hiệu quả sử dụng và cải tạo đất. Đây là nhóm đất có
diện tích lớn, nếu được quan tâm đầy đủ, sẽ là nguồn lợi lớn cho đất nước.
1.1.12.4. Đất xám mùn trên núi (Xh), HumicAcrisols (ACu). Diện tích: 3.139.285ha.
Đất xám mùn trên núi thường phân bố ở độ cao trên 700m. Đất phát triển trên
phiến thạch sét, sa thạch, macma axit,… Đặc điểm cơ bản của đất này là có hàm lượng
chất hữu cơ và mùn cao: 4-10%. CEC của sét ở tầng B đều < 21.1me/100g sét, V <50%.
Trên đất này, trước đây chủ yều là rừng tự nhiên. Về sau được khai phá thành
rẫy du canh, thảm cỏ. Đất ở độ cao >300m khá ẩm, khả năng phục hồi rừng, tái sinh
rừng khá nhanh nên hàm lượng chất hữu cơ tầng mặt khá giàu. Đất có độ dốc lớn
>20° bị xói mòn mạnh, phần lớn tầng mùn bị rửa trôi. Trên loại đất này ở các vùng
Đông Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên đã có nhiều mô hình NLKH hoặc LNKH; ngoài việc
phát triển diện tích rừng, còn làm tăng diện tích cây ăn quả, cây công nghiệp.
Việc phòng chống cháy rừng, làm ruộng bậc thang, nghề vườn, chăn nuôi cần
được phát triển ở đây.
1.1.12.5. Đất xám có tầng loang lổ (XL), Plinthic Acrisols (ACp). Diện tích:
22.1360ha.
Đất xám có tầng loang lổ phân bố tập trung ở trung du Bắc Bộ.

Đất có thành phần cơ giới nhẹ trên mặt. Xuống sâu, ở tầng B tỷ lệ sét tăng đột
ngột, chặt (dung trọng từ 1,3-1,58, độ xốp thấp 39-47%). Phản ứng đất chua (PHKCl
3,5-4,5). Đất nghèo mùn và các chất dinh dưỡng: mùn <1%, lân tổng số <0,04%, kali
tổng số 0,1-0,9%. Tổng cation kiềm trao đổi thấp, Ca++ + Mg++< 4me/100g đất. Khả
năng trao đổi cation thấp. Thường gặp tầng đá ong ở độ sâu nhất định của phẫu diện đất.
Đất phân bố ở địa hình cao, khả năng cung cấp nước khó khăn, thành phần cơ
giới lớp mặt trung bình; nông dân thường cấy 1 vụ lúa, 1 vụ màu, hoặc làm 2 vụ màu.
Vùng đồng bằng sông Hồng có hệ thống tưới tiêu khá hoàn chỉnh, có đủ nước tưới, đã
cấy 2 vụ lúa 1 vụ màu.
1.1.13. Đất đỏ (F), Ferrasol (FR)
1.1.13.1. Đất nâu đỏ (Fd), Rhodic Ferrasols (FRr). Diện tích: 2.425.288ha.
Đất nâu đỏ chiếm 7,7% đất tự nhiên cả nước; phân bố tập trung ở Tây Nguyên,
Đông Nam Bộ, Quảng Trị, Nghệ An, Thanh Hóa, Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Giang, Sơn La.
Loại đất này được phát triển trên các loại đá mẹ bazơ và trung tính như Bazan,
Diabazơ, Gabro, Đá vôi, Porphyrit… Đất có màu đỏ, thoát nước tốt. Trong điều kiện
khí hậu nhiệt đới ẩm, phong hóa mạnh, hàm lượng sét cao, chuyển lớp từ từ, tầng dày,
tầng mặt giàu mùn, các tầng B tích lũy sắt, nhôm, và có mùn khá, tơi xốp suốt phẫu
diện, CEC thấp (8,9 me/100g sét), BS thấp (<50%), đất chua (pH KCl 3-4,5), dung trọng
thấp.
Đất nâu đỏ là loại đất quý dùng để phát triển các loại cây có giá trị cao như cà
phê, cao su, ca cao,… Cần bảo vệ những đặc điểm tốt của đất như giàu mùn, tơi xốp,
tầng dày,… khắc phục những nhược điểm như nghèo lân, kali dễ tiêu, khô tầng mặt.
Khi sử dụng cần chú ý:
- Chống xói mòn, chủ yếu là bằng các băng rừng.
- Che phủ, giữ ẩm đất vào mùa khô.
- Làm đất tối thiểu để bảo vệ cấu trúc đất.
- Bổ sung nguồn phân cân đối, tăng cường phân xanh.
Đất nâu đỏ hình thành trên đá vôi ở địa hình Karster phức tạp, chiều hướng
phát triền tùy thuộc vào:
- Lượng can xi từ đá mẹ giải phóng ra đất.

- Lượng can xi từ đá ở núi cao trôi xuống.
- Khả năng giữ can xi của thực vật.
14


- Khả năng giữ can xi của địa hình trũng.
Đất nâu đỏ trên đá vôi là đất tốt vì có lượng mùn khá, cấu trúc tốt, đất có phản
ứng chua vừa đến ít chua. Thích hợp với nhiều loại cây như ngô, đậu tương (Cao
Bằng, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang ), gai (Hòa Bình). Khi sử dụng cần chú ý
giữ ẩm và chống xói mòn.
1.1.13.2. Đất nâu vàng (Fx), Xanthic Ferralsols(Frx). Diện tích : 421.059 ha.
Loại này tập trung chủ yếu ở Đông Bắc, Tây Bắc, Bắc Trung Bộ, Đông Nam Bộ
và Tây Nguyên. Đất chủ yếu phát triển trên sản phẩm phong hóa của đá mẹ macma
bazơ, trung tính và đá vôi. Đất hình thành trong điều kiện nhiệt đới ẩm, mưa nhiều
nên tầng đất thường mỏng, mùn trung bình đến khá, tầng đất hữu hiệu bị hạn chế vì có
nhiều kết von (60-70%) ở độ sâu >30cm, hàm lượng sét tăng theo độ sâu khá rõ. CEC
thấp (<16me/100g sét ). BS thấp (<50%). Phản ứng đất chua, nghèo mùn. Đạm và ka
li tổng số hơi nghèo lân tổng số trung bình. Trong phẫu diện thường có tầng đá ong,
hoặc loang lổ đỏ vàng (ở độ sâu 2-3m). Điều này có liên quan đến mạch nước ngầm
gần mặt đất. Đất thích hợp với nhiều cây trồng cạn, cây ăn quả, cây công nghiệp.
Đất nâu vàng trên đá vôi (những loại đá có tầng B feralit) có những đặc điểm sau :
- Tầng dày, trung bình 0,6-1,2 m.
- Phân tầng rõ, có đủ A, B, C.
- Đất kém tơi xốp hơn đất đỏ Bazan.
- Nói chung đất rất chua (pHKCl 4,0-4,5).
Vì độ dày không lớn, độ phì không cao, nên cần coi trọng chống xói mòn, cải
tạo đất để sử dụng đất có hiệu quả.
1.1.13.3. Đất mùn vàng đỏ trên núi (Fh) - Humic Ferralsols (FRu)
Đất mùn vàng đỏ trên núi phân bố ở độ cao 700 hoặc 900 đến 2000m. Khí hậu
lạnh và ẩm hơn vùng dưới, nhiệt độ trung bình năm 15-200C. Thảm thực vật nhìn

chung còn tốt hơn vùng đồi. Địa hình cao, dốc, hiểm trở nên xói mòn mạnh.
Đây là loại đất Feralit trên macma bazơ, trung tính và đá vôi, có tầng A xám
đen, tơi xốp, giàu mùn (>5%), không có kết von hay đá ong.
Đất có phản ứng chua vừa đến ít chua, lân nghèo đến trung bình, kali tổng số trung
bình, CEC thấp (<16 me/100g sét), nghèo cation kiềm trao đổi, tỉ lệ limôn/sét < 0,2.
1.1.14. Đất mùn Alit trên núi cao (A) Haplic Alisols hay Humic Alisols (ALh)
1.1.14.1. Đất mùn Alit trên núi cao (A) Haplic Alisols hay Humic Alisols (ALh)
Đất mùn Alit trên núi cao thường nằm trên các đỉnh núi cao như Hoàng Liên
Sơn, Ngọc Linh, Chư Yang Sin ở độ cao tuyệt đối >2.000m. Nhiệt độ trung bình năm
<150C. Một số ngọn núi phía Bắc mùa đông có tuyết. Thực vật thường là đỗ quyên,
trúc và một số cây lá kim ôn đới. Đá phong hóa yếu, tầng đất mỏng, lẫn nhiều đá vụn.
Trên cùng là tầng thảm mục, hoặc lớp mùn thô than bùn. Ở đây hình thành mùn là quá
trình chủ đạo.
Lượng sét <10% và có xu hướng di chuyển xuống dưới.
Đất có phản ứng chua (pHKCl 3,9 - 4,1), độ no bazơ thấp (28-43%), giàu mùn và
đạm tổng số (tương ứng 4,8-15% và 0,16-0,32%). Sự tích lũy cation kiềm có liên
quan đến lượng mùn cao ở tầng mặt. Thành phần mùn chủ yếu là axit Fulvic, càng
xuống sâu càng tăng (AH/AF = 0,31-0,57).
Lượng ôxit sắt trong đất thấp, trái lại ôxit nhôm cao. Tỉ lệ SiO 2/Al2O3 tăng dần
từ 3,4 - 4,86 theo chiều sâu phẩu diện đất, chứng tỏ đất chứa nhiều ôxit nhôm tự do và
SiO2 bị rửa trôi.
1.1.14.2. Đất mùn thô than bùn trên núi cao (AT) Histic Alisols (ALu)
Đặc điểm chung giống như loại trên đây.
15


Một số đặc điểm riêng: đất được hình thành ở những nơi ẩm độ cao, nhiệt độ
thấp, thực vật phát triển yếu, chủ yếu là thực vật ưa ẩm (kể cả thực vật ký sinh trên
thân cây),... khác với các đai nhiệt đới và nhiệt đới ẩm bên dưới. Đất bị khống chế bởi
quá trình phong hóa rất yếu của đá mẹ và luôn luôn ở môi trường yếm khí nên lên cao

chỉ thấy tầng hữu cơ than bùn nằm trên tầng đá mẹ phong hóa rất yếu. Điển hình của
loại đất này được thấy ở đỉnh Fanxipang, nơi có độ cao 3.11.13m.
1.1.15. Đất xói mòn mạnh trơ sỏi đá (E) - Leptosols (LP). Diện tích: 495.727 ha.
Nhóm đất này tập trung ở Tây Nguyên (172.702), Bắc Trung Bộ (184.198 ha),
duyên hải Nam Trung Bộ (72.673 ha), trung du và miền núi Bắc Bộ (66.154 ha).
Đây là loại đất có độ dày tầng đất bị hạn chế bởi độ sâu đến tầng đá cứng hoặc
kết von, đá ong liên tục, tầng vật liệu tích vôi cao hay lớp kết gắn chỉ khoảng 30 cm;
đất mịn ở tầng 0-75 cm không có tầng B biến đổi.
Đây là nhóm đất thường có lớp thực vật thưa thớt, sỏi đá nổi lên mặt, đang bị
tác động mạnh của xói mòn, gây hậu quả xấu đối với vùng đất thấp bên dưới. Các
chương trình trồng rừng mới giải quyết được một phần nhỏ. Đây là đối tượng cần phủ
xanh sớm, nhưng cần đầu tư cao hơn so với các nhóm đất đồi núi khác.
1.2. Lược sử về sử dụng đất
1.2.1. Trên thế giới
Quá trình phát triển nông nghiệp của loài người có thể được chia thành ba giai
đoạn (Cao Liêm, 1990):
- Giai đoạn 1: Nông nghiệp thủ công, cách đây khoảng 14 đến 15 nghìn năm (vào
giữa thời kì đồ đá). Đây là giai đoạn con người vừa mới chuyển từ hái lượm sang chăn
nuôi, trồng trọt, lao động giản đơn. Công cụ sản xuất nông nghiệp nghèo nàn, thô sơ.
Con người đầu tư vào sản xuất chủ yếu ở dạng lao động cơ bắp, thủ công, truyền cho
nhau kinh nghiệm thu được qua lao động.
Sự phát triển của sản xuất nông nghiệp còn chưa rộng rãi, chỉ tập trung ở một số
vùng được xem là “cái nôi” của sự phát triển loài người: vùng Trung Cận Đông, Ấn
Độ, Trung Quốc (M.V. Markop, 1972)
Theo Gorman(1969) thì nền nông nghiệp cách đây khoảng 16 đến 18 nghìn
năm. Có thể nông nghiệp xuất hiện ở Thái Lan vào khoảng 7000 đến 9000 năm trước
công nguyên.
Vùng Tây Á là nơi đầu tiên trồng lúa mì, đại mạch và nuôi cừu, dê vào khoảng
6.000 năm trước công nguyên.
Vùng Đông Nam Á là nơi đầu tiên trồng lúa nước, nuôi lợn, gà vào khoảng

3.000 năm trước công nguyên.
Vùng Trung và Bắc Mỹ bắt đầu trồng ngô vào khoảng 6.000 năm trước công
nguyên, bí đỏ vào khoảng 3.000 năm trước công nguyên. Cũng ở đây, lần đầu tiên con
người ở đây trồng lạc, sắn, khoai tây (Grigg 1974).
- Giai đoạn 2: Nông nghiêp với các vật tư, kĩ thuật cao, được gọi là giai đoạn cơ giới
hóa nông nghiệp. Trong giai đoạn này, con người đầu tư nhiều vào công cụ, kĩ thuật
nhằm tạo ra năng suất cao. Thực hiện 5 hóa: cơ khí hóa, thủy lợi hóa, hóa học hóa,
điện khí hóa và sinh học hóa.
Do sự tác động ồ ạt, con người đã làm thay đổi tự nhiên một cách đáng kể. Phần
lớn người ta nghĩ tới tiềm năng khai thác của thiên nhiên, trong đó chủ yếu là động vật,
thực vật, đất đai.
Sử dụng nhiều máy móc, con người đã dùng quá nhiều chất đốt, làm ô nhiễm môi
trường, đặc biệt là các nhiên liệu thuộc hóa thạch.
16


Thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, phân hóa học, thuốc kích thích đã được sử dụng một
cách quá nhiều, làm ô nhiễm đến môi trường đất, nước, không khí, nói chung chính là
môi trường sống của chính con người.
Hàng loạt các cánh rừng tự nhiên vùng nhiệt đới vô cùng quý giá về nhiều mặt đã
bị phá hủy. Biết bao nhiêu các hệ thống tự nhiên đã bị phá vỡ và cũng biết bao nhiêu
hệ thống mới xuất hiện.
Vì những lí do trên, những thiên tai, hạn hán, bệnh dịch, những biến đổi thất
thường về thời tiết, lụt lội, động đất,… đã xuất hiện trong những năm qua. Cũng rất tự
nhiên, con người đã phá vỡ những cân bằng vốn có của trái đất, theo quy luật những
cân bằng khác sẽ được thiết lập. Với sự xuất hiện những cân bằng mới, con người phải
thích nghi dần nếu như họ còn có thể. Tự nhiên vốn rất công bằng và thực hiện rất
đúng những quy luật của nó. Ai không tôn trọng tự nhiên, sẽ phải nhận hậu quả.
Những năm gần đây, nhiều phản ứng của tự nhiên đã cảnh tỉnh con người, buộc
họ phải có những phương sách, những chiến lược bảo vệ thiên nhiên. Có thể xem từ đó

mà giai đoạn 3 ra đời.
- Giai đoạn 3: Sản xuất nông lâm nghiệp hệ thống
Sau khi khai thác thiên nhiên một cách quá mức, chỉ cốt lợi nhuận về kinh tế, thiên
nhiên đã trả lời, đã phản ứng và làm cho con người gần như thức tỉnh hơn. Thế giới và
sự vật luôn luôn tồn tại như một hệ thống. Tác động vào khâu này, khâu khác thay đổi
theo, kiểu như “dứt dây động rừng”. Chặt hết rừng, nước không thấm xuống đất kịp, lũ
lụt sẽ xảy ra, mặt đất sẽ nóng lên, lạnh đi thất thường, bão giông sẽ dẫn tới. Sử dụng quá
nhiều các chất đốt hóa thạch, các chất hóa học sẽ dẫn tới tần ôzôn bị phá hủy, hiệu ứng
nhà kính xuất hiện, Trái Đất nóng lên, băng ở hai cực tan ra, mực nước biển sẽ dâng cao
nhấn chìm những vùng đất ven biển,… Một chuỗi những ảnh hưởng dây chuyền mang
đầy tính hệ thống xuất hiện dài vô tận, và hậu quả của nó sẽ khôn lường.
Bởi vậy, những năm gần đây, con người đã biết sử dụng đất bền vững, hợp lý.
Người ta đã biết đánh giá hiệu quả sử dụng đất đai một cách toàn diện, thông qua hiệu
quả tổng hợp. Một mô hình sử dụng đất có lợi nhuận kinh tế cao, chưa hẳn đã được
đánh giá cao, mà còn phải xem xét các mặt xã hội, môi trường sinh thái, tính đa dạng,
bền vững của nó.
Bản thân người sử dụng đất bắt đầu có nhận thức tốt về hệ thống. Trong từng
quốc gia có những tổ chức giúp sự sử dụng đất hợp lý. Trong thế giới lại có những tổ
chức liên kết các quốc gia và các tổ chức của các quốc gia vào chương trình chung toàn
cầu. Từ đó, sử dụng đất mang tính hệ thống được thiết lập không chỉ ở từng địa phương,
mà cả thế giới. Các nước phát triển xây dựng kinh tế, sử dụng đất hợp lý, bền vững, bởi
một lẽ tất cả chúng ta đều sống chung trong một ngôi nhà sinh thái “quả đất”.
1.1.2. Ở Việt Nam
Việt Nam là một nước nông nghiệp nên từ lâu, ông cha ta đã coi đất đai là
nguồn sống, là tài sản vô giá. Từ thời phong kiến, hai vấn đề “đinh”và “điền” nghĩa là
dân số và đất đai đã rất quan trọng. Mỗi làng đều có 2 cuốn sổ quan trọng là sổ đinh và
số điền. Những người có công, được hưởng chế độ “phong hầu kiến ấp”.
Cũng từ xa xưa, dân ta đã có những câu ca dao tục ngữ liên quan tới việc sử
dụng đất đai:
Về số lượng/diện tích tài nguyên của đất nước: Tam sơn, tứ hải, nhất phần điền.

Về chất lượng: đất tốt “bờ xôi ruộng mật”, đất xấu: “được mùa đất cát lấy bát mà
đong”
- Về hiệu quả kinh tế: Nhất trì, nhì viên, tam điền, tứ thổ.
Về vai trò của nông nghiệp (liên quan đến sử dụng đất): Nhất sĩ nhì nông, Hết
gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ.
17


Điều đó chứng tỏ nhân dân ta đã có truyền thống canh tác nông nghiệp từ lâu
đời, đã có rất nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Tuy nhiên diện tích đất nước ta quá
bé, dân số quá đông, điều đó càng thúc đẩy chúng ta phải sử dụng đất cho khoa học,
hợp lý.
Diện tích tự nhiên của Việt Nam khoảng 33.095.700 ha. Tính bình quân đầu
người khoảng độ 0,38 ha (Niên giám thống kê Việt Nam năm 2011).
Diện tích đất nông nghiệp có 10.126.100 ha (Niên giám thống kê Việt Nam năm
2011: Diện tích đất nông nghiệp: 10.126.100 ha, Dân số: 878.400.000 người), do đó
bình quân đầu người có khoảng 0,011 ha. Trong khi đó bình quân đầu ngươi về đất
nông nghiệp của thế giới khoảng 1,0 ha.
Như vậy, quỹ đất nông nghiệp của chúng ta vào loại thấp nhất thế giới.
Theo Niên giám thống kê Việt Nam năm 2011-NXB Thống kê 2012:
- Tổng diện tích tự nhiên: 33.095.700 ha.
- Đất sản xuất nông nghiệp: 10.126.100 ha (chiếm 30,6%).
- Đất lâm nghiệp:
15.366.500 ha (chiếm 46,4%). Trong đó:
+ Diện tích có rừng:13.388.100 ha (Rừng tự nhiên: 10.304.800 ha; Rừng
trồng: 3.083.300 ha; Rừng trồng mới: 357.100)
+ Độ che phủ: 39,5%
- Đất chuyên dùng:
1.823.900 ha (chiếm 5,5%).
- Đất ở:

683.900 ha (chiếm 2.1%).
- Đất khác:
5.095.300 ha (chiếm 15,4%).
Theo thống kê nhiều năm gần đây: nhìn chung, đất nông nghiệp, đất có rừng,
đất trồng cây lâu năm, hệ số sử dụng đất, mức độ che phủ tăng lên; đất chưa sử dụng
có xu hướng giảm. Hiệu quả sử dụng đất tăng rõ rệt, đặc biệt là đất sản xuất lương
thực. Từ chỗ một quốc gia luôn thiếu lương thực, Việt Nam trở thành quốc gia đứng
đầu thế giới về xuất khẩu gạo với số lượng 5-7 triệu tấn/năm.
Độ che phủ của rừng năm 1990 là 28,38%, năm 1993 là 29,18%, năm 2011 là
39,5% ; dự kiến sau năm 2020 sẽ đạt trên 50%.
Nhìn chung trong những năm qua, sử dụng đất ở Việt Nam có nhiều tiến bộ,
góp phần quan trọng vào việc nâng cao thu nhập, ổn định đời sống, đóng góp vào sự
phát triển của đất nước.
Tuy nhiên sức ép về dân số, đời sống còn chưa cao nen việc sử dụng đất còn
nhiều vấn đề phải giải quyết. Nói chung sự phân hạng đất đai cho toàn quốc còn phả
phục vụ tốt cho sản xuất ở mọi góc độ. Ở từng nơi, từng vùng người nông dân sử dụng
đất chủ yếu vẫn dựa vào kinh nghiệm, thiếu quy hoạch lâu dài.
Việc sử dụng đất bền vững, hệ thống mới chỉ là khởi đầu và phần lớn còn trong
sự suy nghĩ của những nhà khoa học, lãnh đạo, quản lý, chứ đi vào thực tế chưa được
bao nhiêu. Chiến lược sử dụng đất toàn quốc về lâu dài còn nhiều thay đổi.
Việc sử dụng đất phải hướng tới tạo nhiều sản phẩm, nâng cao mức sống của
người dân, đa dạng hoá về chủng loại, tăng cường dự trữ, xuất khẩu. Trên cơ sở đó
tăng cao thu nhập, ổn định và phát triển kinh tế, bảo vệ và cải thiện độ màu mỡ của
đất, bảo vệ môi trường, xây dựng một nền sản xuất phát triển bền vững.
Khai thác triệt để bãi bồi ven biển để trồng rừng ngập mặn và nuôi trồng thuỷ
sản. Diện tích bãi bồi ven biển hiện có khoảng 80 nghìn ha.
Bảo vệ và khoanh nuôi diện tích rừng hiện có.
Tiếp tục tăng diện tích gieo trồng trong nông nghiệp và tăng cường áp dụng các
biện pháp sinh học, tưới tiêu, cải tạo đất nhằm nâng cao hệ số sử dụng đất. Cố gắng đa
dạng hoá cây trồng, vật nuôi, gắn đất với cây con thị trường và môi trường.

18


Để đạt được điều đó, một loạt các chính sách, nghị định về sử dụng đất, về vay
vốn, về khuyến nông, về khoa học kỹ thuật,… đã được ban hành.

Chương 2. HỆ THỐNG SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI
2.1. Hệ thống
2.1.1. Khái niệm hệ thống
Kiến thức về hệ thống là cơ sở để nghiên cứu hệ thống sử dụng đất nói chung,
hệ thống sử dụng đất Việt Nam và hệ thống sử dụng đất ở địa phương nói riêng.
Để hiểu khái niệm về hệ thống, trước hết sẽ xét một số trường hợp/hiện tượng
cụ thể. Những trường hợp này giúp chúng ta quan niệm về hệ thống một cách đơn lẻ.
Từ những quan niệm đơn lẻ đó, có thể tự tập hợp thành khái niệm hệ thống.
- Một nguyên tử là một hệ thống
Một nguyên tử gồm hai phần: Hạt nhân nguyên tử và các điện tử quay xung
quanh hạt nhân. Trong hạt nhân lại có các loại hạt cơ bản: anpha, gamma, beta,
nơtron, prôton, chúng có các cách liên kết riêng biệt để tạo ra hạt nhân nguyên tử. Các
điện tử chuyển động xung quanh hạt nhân theo những cách nhất định, tùy thuộc vào
bản chất của nguyên tử.
Giữa hạt nhân và các điện tử có mối tương tác. Nguyên tử vận động theo quy
luật vận động của nguyên tử. Vận động này chịu sự chi phối của bản chất hạt nhân,
các nguyên tử và môi trường mà chúng tồn tại.
- Một cái cây là một hệ thống
Cây gồm các bộ phận chính: rễ, thân, lá, hoa, quả.
Các bộ phận trong cây có mối quan hệ với nhau và có mối quan hệ với môi
trường bên ngoài: môi trường đất (rễ hút nước và chất dinh dưỡng, thải một số chất
vào đất), môi trường không khí (trao đổi CO 2 và O2 trong các quá trình quang hợp và
hô hấp), môi trường nước (hút và thải vào môi trường nước trong đất, trong khí
quyển),...

Cây lấy thức ăn và nước trong đất bằng hệ thống rễ của mình. Những chất này
được dẫn chuyền lên đến lá thông qua các mạch dẫn của thân cây. Thân cây không chỉ
dẫn thức ăn và nước đi lên, nó còn là bộ phận nâng đỡ toàn bộ tán lá và làm nhiệm vụ
chuyển nhựa luyện từ lá xuống nuôi sống các bộ phận của rễ. Bộ phận của tán lá
giống như một hệ thống các nhà máy chế tạo ra các hợp chất hữu cơ cần thiết cho sự
sống của thực vật. Tại đây các phản ứng quang hợp, phản ứng hô hấp, phản ứng thoát
nước, phản ứng tạo các chất vitamin, protein.v.v…được diễn ra một cách nhịp điệu
trong sự phù hợp với môi trường xung quanh. Hoa và quả là những bộ phận có chức
năng duy trì nòi giống cho những thế hệ tiếp sau đó.
Những cành khô, lá rụng của cây lại rơi xuống đất. Tại bề mặt đất chúng lại bị
phân giải, biến đổi, tạo nên các chất dinh dưỡng khoáng và những điều kiện vật lý đất
cần thiết cho thực vật.
- Giao thông vận tải là một hệ thống
Trong xã hội loài người, có nhiều dạng vận động: vận động trí tuệ, vận động vật
chất, vận động năng lượng, vận động xã hội, vận động cơ học.v.v.. Giao thông vận tải
nói chung cũng là sự vận động. Nó tham gia chủ yếu vào sự chuyển dời vị trí từ nơi
này đến nơi khác. Hiện nay, giao thông vận tải bao gồm các loại: đường bộ, đường
thuỷ, đường không, đường sắt. Mỗi loại giao thông có một đặc thù, chức năng riêng,
được thực hiện trong một môi trường của chính nó. Chúng có thể hỗ trợ cho nhau,
nhưng cũng có những tính cách độc lập của riêng mình. Trong chừng mực nào đó, nó
có thể thay đổi cho nhau. Thí dụ chỉ đơn thuần vận chuyển từ điểm A đến điểm B
19


chẳng hạn. Nhưng có những trường hợp chúng không thể thay thế cho nhau. Thí dụ
cần vận chuyển trong một khoảng thời gian ngắn nhất, cần vận chuyển một khối lượng
rất lớn, cần ngắm phong cảnh đất nước chẳng hạn. Trong một loại giao thông, thí dụ
đường bộ chẳng hạn lại có nhiều những bộ phận chức năng khác nhau. Đường quốc lộ,
tỉnh lộ, huyện lộ.v.v...các bến xe, cầu phà.v.v…liên kết lại thành một hệ thống giao
thông đường bộ. Mỗi bộ phận như vậy đảm nhận những chức năng riêng biệt góp phần

làm cho hệ thông giao thông đường bộ hoạt động.
Nếu ngược lại, coi hệ thống giao thông đường bộ chỉ là một bộ phận của giao
thông vận tải, thì lúc đó giao thông vận tải lại là một hệ thống bao trùm.
Bao quát hơn nữa, giao thông vận tải lại chỉ là một bộ phận chức năng trong
hoạt động xã hội.
- Sản xuất nông nghiệp là một hệ thống
Thực tế sản xuất nông lâm nghiệp là sự điều khiển một hoặc nhiều hệ thống
sinh thái khác nhau trong cùng một thời gian. Nếu coi sản xuất nông nghiệp là một hệ
thống, lúc đó sản xuất rau màu, sản xuất cây lương thực, chăn nuôi, thuỷ lợi, vận
chuyển, phân bón,… sẽ là những bộ phận chức năng. Những bộ phận này đương nhiên
sẽ không thể thiếu được, và chúng có những mối liên hệ rất chặt chẽ. Việc làm cho hệ
thống này hoạt động nhịp nhàng, cân đối, năng suất cao đòi hỏi rất nhiều kiến thức
trong rất nhiều các lĩnh vực và sự phối hợp các kiến thức đó trong từng lĩnh vực. Từ đó
người ta đưa ra những quyết định, những tác động vào từng khâu, những mắt xích, ở
những thời điểm thích hợp để nó tạo ra một kết quả mong muốn. Đó là sự điều khiển
hệ thống, sự điều hành hệ thống.
Như ví dụ ở trên, chăn nuôi là một bộ phận của sản xuất nông nghiệp, nhưng
nếu nhìn nó một cách độc lập, nó lại là một hệ thống khác. Trong hệ thống chăn nuôi
có vấn đề chuồng trại, thức ăn, bãi chăn thả, thú y, các bộ phận phục vụ, tạo
giống.v.v… nghĩa là lúc này nó lại là một hệ thống mới, có những đặc điểm, tính chất
của một hệ thống đầy đủ.
- Nông lâm kết hợp là một hệ thống
Nông lâm kết hợp (NLKH) có thể xem là sự sản xuất trong đó có sự phối hợp
giữa sản xuất nông nghiệp và sản xuất lâm nghiệp, sự sản xuất phối hợp giữa cây ngắn
ngày và cây lâu năm. Sự phối hợp này tạo ra sự đa dạng sản phẩm nói về mặt sản xuất,
đa dạng sinh học nói về mặt sinh thái. Những sản phẩm nông nghiệp nói chung thuộc
loại ngắn ngày (trừ cây ăn quả, cây đặc sản),, tạo điều kiện thu hoạch thường xuyên để
hỗ trợ cho cây lâu năm. Trong khi đó, cây lâu năm đến lúc thu hoạch, sẽ quay lại đầu
tư, nâng cấp cho cây ngắn ngày.
Trong NLKH có thể có cả chăn nuôi. Chăn nuôi ngoài việc tạo thu nhập về sản

phẩm chính, nó còn cung cấp phân bón cho các sản phẩm nông lâm nghiệp.
Ngược lại, sản xuất nông lâm nghiệp cung cấp thức ăn, nguyên vật liệu làm
chuồng trại, chất đốt cho chăn nuôi.
Tất cả những sản xuất đó tồn tại, diễn ra trên một mảnh đất nhất định, chúng
liên quan, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau về mọi mặt. Có thể nói thay đổi một mặt này sẽ
dẫn đến mặt khác thay đổi theo. Bởi vậy, trong thực tế có muôn vàn các hệ thống nông
lâm kết hợp khác nhau, không thể có hai hệ thống nông lâm kết hợp giống nhau hoàn
toàn.
Nếu ta tách một bộ phận sản xuất nào đó ra khỏi hệ thống NLKH, thì bộ phận
đó cũng sẽ lại hoạt động như một hệ thống mới. Giả dụ trong NLKH có ao nuôi cá.
Riêng ao nuôi cá có thể xem là một hệ thống sinh thái.
Hệ thống là một khái niệm mở. Ở phạm vi này, nó là một hệ thống, ở phạm vi
khác, nó lại là một hợp phần. Giới hạn của hệ thống có thể lớn lên hoặc nhỏ đi một cách
20


vô cùng cả về không gian và thời gian. Tuy nhiên trong những môi trường cụ thể, để phục
vụ cho một mục đích nào đó, người ta có thể xác định giới hạn của những hệ thống.
Như vậy, hệ thống là một cơ cấu hoàn chỉnh gồm nhiều hợp phần tạo nên một
cách có tổ chức và trật tự, tồn tại và hoạt động theo những quy luật thống nhất, tạo nên
một chất lượng mới không giống tính chất của từng hợp phần cấu tạo nên hệ thống và
cũng không phải con số cộng của những hợp phần đó.
Hệ thống gồm nhiều hợp phần, nhưng nhiều hợp phần chưa chắc đã phải là một
hệ thống khi chúng chỉ là một tập hợp mất trật tự, không có mối tương tác lẫn nhau.
2.1.2. Những đặc điểm chủ yếu của hệ thống
- Một hệ thống bao gồm nhiều hợp phần
Hệ thống bao gồm nhiều hợp phần; một hợp phần lại là một hệ thống của các
hợp phần cấp thấp hơn. Bản thân hệ thống lại lại là một hợp phần của một hệ thống
cấp cao hơn.
Những ví dụ về hệ thống trên đây phần nào đã nói lên điều này. Theo chiều mở

rộng, mỗi cây lúa, mỗi thửa ruộng, mỗi cánh đồng, mỗi bản làng, mỗi khu vực, mỗi
vùng sinh thái, mỗi đai khí hậu, cả trái đất,... đều là một hệ thống. Theo chiều nhỏ đi,
cây lúa bao gồm các bộ phận lá, thân, rễ, hoa quả cây lúa là những hệ thống. Giới hạn
của hệ thống đến đâu hoàn toàn phụ thuộc vào mục đích sử dụng, vào người sử dụng
nó. Ví dụ trong sản xuất nông lâm nghiệp các hệ thống có thể rất bé (nông hộ), và cũng
có thể rất lớn (quốc gia).
- Hệ thống có một ranh giới nhất định
Ranh giới của hệ thống được xác định về mặt không gian, thời gian và những
đặc thù riêng. Ranh giới hệ thống có thể đóng hoặc mở. Ranh giới đóng là ranh giới có
thể biểu diễn bằng đường nét rõ ràng và thực tế cũng rõ ràng xác định (ranh giới một
nông trại, một làng bản). Ranh giới mở không phải lúc nào cũng xác định được thành
nét trên thực tế (ranh giới các vùng sinh thái, ranh giới về vùng phân bố của hệ thực
vật, động vật). Cũng có khi ranh giới của hệ thống chỉ tồn tại trong ý niệm (hệ thống
phi vật chất) .
- Hệ thống mang tính chất trọn vẹn
Nhiều hợp phần cấu thành hệ thống, khi tách ra, mỗi hợp phần có thể trở thành một
hệ thống độc lập, nhưng với chất lượng, cách hoạt động khác với trong hệ thống cũ.
Một hợp tác xã nông nghiệp có cách hoạt động riêng của nó. Mỗi gia đình trong đó
có thể xem là một bộ phận trong hệ thống, nó hoạt động dưới sự điều khiển của hệ thống.
Một cành cây là một bộ phận của cái cây. Nếu cắt cành cây ra giâm xuống đất,
cành cây của một số loài có thể thành một cái cây mới. Lúc này cái cành đó đã có sự
hoạt động khác với lúc nó còn là một bộ phận của cái cây.
- Hệ thống có cấu trúc riêng
Cấu trúc của hệ thống thể hiện tính trật tự, tổ chức, mối liên hệ lẫn nhau. Cấu
trúc quyết định chức năng của hệ thống. Thay đổi cấu trúc thì chức năng sẽ thay đổi:
Nguyên tử Cacbon do có cấu trúc khác nhau mà tạo thành 2 chất hoàn toàn khác nhau
là Graphits (than) và Kim cương. Tương tự như thế là Al 2O3. Đặc tính này không chỉ
đúng với hệ thống tự nhiên mà đúng cả với hệ thống xã hội. (SV tìm minh chứng). Cấu
trúc của hệ thống mang tính chất cân bằng. Tổ chức của hệ thống càng cao, tính cân
bằng càng được mở rộng, nhưng đồng thời cũng chứa nhiều trạng thái mất cân bằng

trong đó. Những cân bằng này phải được chuyển hoá một cách từ từ, nếu không hệ
thống sẽ bị phá vỡ để tự lập lên một hệ thống mới có mức độ cân bằng khác. Điều này
có thể được quan sát thấy khá phổ biến trong tự nhiên và trong xã hội.
Trong tự nhiên: Bản thân rừng tự nhiên có một cân bằng rất ổn định. Sự tác động
của con người làm cân bằng đó dao động. Nếu sự tác động quá lớn, cân bằng đó không
21


thể điều chỉnh được nữa, rừng sẽ tự biến đổi sang trạng thái khác. Bởi vậy trên thực tế,
biết bao cánh rừng tự nhiên đã bị thay thế bằng các khu rừng nghèo kiệt, savan, trảng
cỏ, thậm chí đất trống đồi trọc.
Trong xã hội: Lịch sử phát triển của loài người từ xã hội này sang xã hội khác do
đặc tính này của hệ thống quy định.
Sự phát triển của một nền kinh tế cũng luôn chứa đựng những cân bằng và
không cân bằng. Khi những sự mất cân bằng chưa đủ lớn, còn tự điều chỉnh được, nền
kinh tế còn tồn tại. Khi sự mất cân bằng trở nên quá lớn, nền kinh tế bị khủng hoảng,
cân bằng mới lại được thiết lập.
Trong sản xuất nông nghiệp, việc sử dụng quá nhiều thuốc sâu, thuốc diệt cỏ, sử dụng
không hợp lý phân vô cơ đã làm thay đổi hệ sinh thái một cách không có lợi rõ rệt.

- Hệ thống có tính cân bằng về thời gian mang tính chất nhịp điệu
Các nhịp điệu trong một hệ thống luôn được phối hợp để tránh sự phá huỷ của
hệ thống. Sự lệch pha đảm bảo tính bền vững cho hệ thống, ngược lại sự trùng pha
mang lại sự mất cân bằng cho nó. Sự lệch pha sẽ tạo ra một mối quan hệ nhân quả: sản
phẩm của pha này là nguyên liệu của pha kia. Một cây xanh sinh sống bình thường bao
giờ cũng có cường độ quang hợp cực đại lệch với hô hấp cực đại.
Trong sản xuất nông nghiệp, xen canh, gối vụ; trong nông lâm kết hợp, lấy ngắn
nuôi dài, cây rừng kết hợp với cây nông nghiệp chính là sự thể hiện của sự kết hợp pha
(phối hợp nhịp điệu).
Trong hệ thống, sự hoạt động nhịp điệu nằm trong mối quan hệ với hoàn cảnh.

Những nhân tố hoàn cảnh có khi làm thay đổi nhịp điệu. Lúc đó, cần phải có những tác
động bổ sung để điều chỉnh nhịp điệu cho phù hợp với hoàn cảnh mới. Hay nói cách
khác, hệ thống cần phải được chuyển dịch để thích nghi.
- Hệ thống hoạt động mang tính chất lan truyền
Các đơn vị bậc thấp có tính độc lập nhất định trong hoạt động. Bởi vậy nó có
thể tự điều hòa, tự kiểm soát trong giới hạn nhất định. Điều này giúp cho các đơn vị
bậc cao hơn của hệ thống không phải thường xuyên can thiệp vào những hoạt động cục
bộ. Tất nhiên, hệ thống hoạt động tốt nếu các đơn vị bậc thấp chịu tuân theo sự tự điều
khiển chung của các đơn vị bậc cao hơn. Nói cách khác, tính tổ chức và độc lập tương
đối luôn được phối hợp hài hòa trong hệ thống để đảm bảo cho nó tồn tại và phát triển.
- Hệ thống là một cân bằng động
Hệ thống, cũng như các vật thể sự vật khác tồn tại trong tự nhiên và xã hội
không phải là vĩnh viễn, bất biến.
Bản thân bộ phận những nhân tố bên trong luôn biến đổi, tác động lẫn nhau
(vận động). Hệ thống và môi trường luôn tác động qua lại. Môi trường trong khái niệm
hẹp và rộng luôn vận động không ngừng.
Những điều đó làm cho hệ thống cũng luôn vận động và cân bằng chỉ là trạng
thái tạm thời của hệ thống, mà vận động mới là thuộc tính phổ biến, quan trọng của nó.
Đây là một tính chất quan trọng của hệ thống. Nó giúp ta nhìn hệ thống dưới
quan điểm động, chứ không phải quan điểm tĩnh. Nghĩa là ta phải luôn điều chỉnh để
nó thích ứng, tồn tại, phát triển.
Một hệ thống đã thích ứng cho trước đây, có thể thích ứng cho hiện tại nhưng
chưa chắc chắn.
Một hệ thống đã thích ứng ở một nơi nào đó có thể thích ứng tại vị trí mới,
nhưng cần xem xét trước khi sử dụng.
Một hệ thống có thể thích ứng với nhóm người này, nhưng chưa chắc đã thích
ứng với nhóm người khác.
22



Trong tự nhiên và xã hội, mọi sự vật và sự việc đều tồn tại dưới dạng một hệ
thống và luôn vận động.
Cắt một bộ phận ra khỏi hệ thống của nó để nghiên cứu là một cách làm đơn
giản hóa vấn đề. Nó có những mặt ưu việt, cũng có những mặt nhược điểm.
Rõ ràng, khi cần nghiên cứu một vấn đề có tính cách chi tiết, cụ thể, thì việc
tách nó ra khỏi hệ thống, bắt nó phải tồn tại ở trạng thái “tĩnh” để nghiên cứu sẽ có
nhiều thuận lợi. Thuận lợi ở chỗ sự thu nhập số liệu sẽ đơn giản hơn, ít bị gây nhiễu
bởi những vận động khác của môi trường trong hệ thống. Thí dụ, để nghiên cứu bản
chất của điện tử (điện tích, khối lượng), người ta tách nó ra khỏi hệ thống, khỏi sự ảnh
hưởng của các yếu tố khác. Bởi thế, việc đo khối lượng và điện tích của nó không còn
là vấn đề khó khăn, Nhưng khi trả nó về môi trường hệ thống của nó, trong sự vận
động của từng phần và của cả hệ thống, nó lại mang những đặc tính riêng biệt.
Để nghiên cứu sự hô hấp, khả năng thoát nước của một cái lá cây chẳng hạn,
người ta có thể cắt rời nó ra khỏi cây. Việc thu thập số liệu như vậy rõ ràng đơn giản và
dễ dàng hơn, nhưng những số liệu đó sẽ bị sai lệch khi cái lá cây đó làm việc trong lúc
nó còn là một bộ phận của cây.
Ngay khi nghiên cứu sự hô hấp của một lá cây còn đang sống trên cây nhưng
nếu đồng thời không để ý tới những hoạt động khác của nó trong hệ thống như là
quang hợp, sự vận chuyển, những điều kiện môi trường, thì kết quả vẫn chỉ là biểu
kiến.
Nghĩa là nếu nghiên cứu bộ phận, không chú ý tới tính hệ thống của nó, nguy hại
hơn là tách ra khỏi hệ thống của nó thì chẳng khác nào “thấy cây mà không thấy rừng”.
Giả dụ để nghiên cứu một cái cây, chúng ta cắt phần rễ, phần thân, phần lá riêng
ra, rồi nghiên cứu từng phần riêng rẽ. Sau đó lại tổng hợp các số liệu đó lại để đưa ra
mô hình một cái cây được nghiên cứu. Liệu cái cây đó có còn đúng là cái cây ban đầu
nữa không, hay nó đã hoàn toàn khác hẳn so với cái cây ban đầu.
Tất nhiên khi nghiên cứu, không phải lúc nào ta cũng có thể đặt sự việc trong hệ
thống một cách hoàn hảo. Tuy nhiên người làm công việc đó cần phải hiểu biết bản
chất của hệ thống, những đặc thù của nó để có thể thu được những kết quả gắn với
thực tế nhất.

Trong thực tế, có những biện pháp kĩ thuật tưởng chừng rất hoàn hảo, nhưng
khi áp dụng vào sản xuất lại không hiệu quả, hoặc thất bại.
Có những vấn đề đã làm thắng lợi ở nơi này nhưng lại không mang lại kết quả ở
nơi khác.
Có những công việc khi làm ở diện nhỏ thì thành công, khi nhân ra diện lớn lại
không có kết quả.
Cùng một vấn đề, ở nơi này và ở nơi khác lại có những kết quả nghiên cứu khác
hẳn nhau, đôi khi còn trái ngược nhau.
Tại sao lại diễn ra những vấn đề như vậy?
Rất nhiều trường hợp liên quan đến hệ thống.
Một hệ thống luôn được xác định bở nhiều yếy tố: Không gian, thời gian, thành
phần, cấu trúc, mối liên hệ, môi trường xung quanh và sự vận động. Một trong những
mặ đó khác đi, hệ thống sẽ bị thay đổi. Sản xuất nông lâm nghiệp thực tế là việc xây
dựng và điểu khiển các hệ thống.
Hệ thống, bản thân nó bao gồm nhiều kiến thức trong nhiều lĩnh vực một cách
tổng hợp. Điều đó gợi cho chúng ta một phương pháp luận tổng hợp, một cái nhìn tổng
quát trong sự liên hệ và vận động.
23


Lý thuyết đặt sinh vật nói riêng và sự vật nói chung trong mối liên hệ, vận động
không ngừng, luôn đổi mới, tự điều hòa, nó giúp chúng ta hiểu sự vật đúng đắn hơn,
điều khiển sự vật vận động theo thuộc tính vốn có của nó.
2.1.3. Một số mô hình hệ thống
2.1.3.1. Mô hình hệ thống nông trại (xem hình vẽ).
MÔ HÌNH NÔNG TRẠI

24



Đây là một mô hình hệ thống trang trại khá phổ biến ở Việt Nam. Một hộ nông
dân thuần nông thường có hai ngành sản xuất chính theo cổ truyền: chăn nuôi và trồng
trọt. Trong mô hình hệ thống này nông hộ là trung tâm. Đó là nơi nhận mọi thông tin
của môi trường phân tích mọi hành vi hoạt động của hệ thống và cuối cùng nó đưa ra
những quyết định để điều khiển hệ thống, đồng thời chính nông hộ lại là một bộ phận
của hệ thống.
Chúng ta hoàn toàn có thể hình dung được hình dáng, cấu trúc của một nông hộ
thực sự của nó, ta chưa vẽ được.
Toàn bộ hệ thống nông trại được tồn tại trong một môi trường, môi trường đó
gồm hai bộ phận: xã hội nhân văn và tự nhiên.
Bộ phận xã hội nhân văn gồm có điều kiện văn hóa, điều kiện kinh tế-xã hội,
điều kiện xã hội. Trong lĩnh vực này, ta có thể hiểu ngắn gọn hệ thống phải chịu mọi
sự chi phối của chính sách nhà nước, chủ trương chỉ thị, phong tục tập quán, các thông
lệ làng bản, các tác động của cơ sở hạ tầng, trình độ văn hóa, tri thức, kinh tế,…
Môi trường này sẽ chi phối toàn bộ những vấn đề về kỹ thuật, vật tư, những cấu trúc,
những hoạt động của hệ thống. Sản phẩm của hệ thống cũng sẽ nằm trong sự phụ
thuộc rất lớn vào môi trường. Đó là những vấn đề sản xuất cái gì, tiêu thụ ở đâu, như
thế nào, chế biến ra sao…
Bộ phận thứ 2 của môi trường là điều kiện tự nhiên: đất trồng, khí hậu, thủy lợi,
địa hình, động thực vật trong khu vực,… Đối với hệ thống nông nghiệp, đây là vấn đề
rất quan trọng. Người nông dân thường hay nói: vùng này đất đai “tốt”, vùng kia đất
đai “xấu”. “Đất đai” ở đây là tất cả những gì thuộc về điều kiện tự nhiên. Đó là đất
trồng/thổ nhưỡng, nước, dinh dưỡng, ánh sáng mặt trời, không khí, sinh vật, mưa,
nắng, địa hình,... Vấn đề này có tác dụng quyết định tới cơ cấu cây trồng vật nuôi,
năng suất của chúng. Trong sử dụng đất, phải sử dụng đất đai như một hệ thống. Chọn
cây trồng vật nuôi thích hợp với điều kiện sinh thái là một khâu quan trọng trong sử
dụng đất đai hợp lý và bền vững.
Hệ thống nông trại nằm trong môi trường và nó phải trao đổi chất với môi trường.
Mức độ trao đổi nhiều hay ít quyết định tính mở của nó. Hệ thống càng trao đổi chất với
môi trường, tính mở của nó càng lớn và ngược lại. Trong sản xuất lâm nghiệp nói riêng và

trong sản xuất nói chung, người ta cố gắng tạo điều kiện để tính “mở” phát triển. Tính
“mở” càng phát triển, hệ thống càng có điều kiện phát triển hơn và ngược lại.
Điều kiện sinh thái (môi trường tự nhiên) cung cấp chất đốt, vật liệu xây dựng (gỗ,
tre nứa, lá) để làm nhà, chuồng trại,… Sông, suối có thể là nơi bơi lội. Những bãi đất rộng
có thể là nơi sinh hoạt thể thao, hội hè của cả làng bản, trong đó có hộ gia đình.
Các sản phẩm của sản xuất (ngành chăn nuôi và trồng trọt như trong mô hình)
được nông hộ thu thập, ngược lại, nông hộ lại cung cấp lao động, giống, các điều kiện
kỹ thuật cho chăn nuôi và trồng trọt.
Ngành trồng trọt cung cấp thức ăn cho chăn nuôi, tạo ra lớp phủ thực vật, cải
thiện điều kiện sinh thái.
Ngành chăn nuôi lại cung cấp phân bón, sức kéo cho trồng trọt.
Tất cả các bộ phận chức năng đó liên hệ với nhau, cái nọ hỗ trợ hay kìm hãm cái
kia trong hệ thống (xem hình vẽ).
2.1.3.2. Mô hình hệ thống trao đổi đạm giữa nông thôn và thành thị tại HTX Vũ Thắng
1974 - 1978 (Đào Thế Tuấn)
Hệ thống này cho thấy một bức tranh tổng thể về quan hệ giữa nông thôn và
thành thị trong sự trao đổi ở các lĩnh vực.
25


×