Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

SKKN Một số biện pháp sử dụng đồ dùng dạy và học trong việc hình thành các phép cộng trong phạm vi 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.7 KB, 10 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO QUẢNG NINH
TRƯỜNG TIỂU HỌC HIỀN NINH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Một số biện pháp sử dụng đồ dùng dạy và
học trong việc hình thành các phép cộng
trong phạm vi 10

Giáo viên: Nguyễn Thị Minh Khai


Dạy lớp: 11

Hiền Ninh, tháng 4 năm 2016
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn SKKN:
Do những đặc điểm về phát triển tư duy của lứa tuổi tiểu học, dạy và học
toán ở tiểu học phải là sự giáo dục toán học mang lại tri thức toán học sơ đẳng
cần thiết cho cuộc sống và phát triển phù hợp với lứa tuổi tiểu học đồng thời là
giai đoạn chuẩn bị quan trọng cho thực hiện quá trình giáo dục toán học tiếp
theo ở phổ thông.
Mặt khác, môn toán ở lớp 1 là cơ sở ban đầu cho việc học tập của học sinh
trong cả quá trình học tập sau này của các em.
Ở học sinh lớp 1 các em đang chuyển dần từ hoạt động vui chơi sang hoạt
động học. Nhận thức của các em còn mang tính trừu tượng và khái quát cao. Sử
dụng trực quan sẽ giúp cho học sinh có chỗ dựa cho hoạt động tư duy, bổ sung
vốn hiểu biết để học sinh nắm được các kiến thức trừu tượng phát huy năng lực
tư duy trừu tượng và trí tưởng tượng phong phú.
Việc dạy học cho học sinh các phép cộng trong phạm vi 10 là một trong
những nội dung cơ bản, quan trọng trong chương trình toán 1. Đó cũng chính là
cơ sở ban đầu giúp các em học tính toán ở các lớp học sau.


Qua quá trình thực hiện thay sách từ năm 2002 đến nay tôi nhận thấy rằng
đồ dùng trực quan là phương tiện không thể thiếu được trong mỗi tiết học. Đặc
biệt không thể thiếu trong việc dạy hình thành các phép toán ban đầu cho các
em. Do đó tôi đã chọn nội dung:
"Một số biện pháp sử dụng đồ dùng dạy và học trong việc hình thành
các phép cộng trong phạm vi 10"
1.2: Điểm mới của SKKN:
Tri giác ở trẻ em lửa tuổi từ 6 đến 8 tuổi thường gắn với hành động. Tri
giác sự vật cầm, nắm, sờ, mó, trăm nghe không bằng một thấy, trăm thấy không
bằng một làm. Vì thế cái trực quan, cái rực rỡ, cái sinh động giúp các em tri giác
tốt hơn.
Mặt khác,trí nhớ của học sinh tiểu học là trí nhớ trực quan hình tượng, sở
dĩ học sinh nhớ được một tài liệu nào đó là nhờ nguồn thông tin đến với các em
từ 5 giác quan: Thị giác (nhìn), xúc giác (sờ, mó), vị giác (nếm), khứu giác
(ngửi), thính giác (nghe). Muốn cho các em ghi nhớ tốt giảng dạy phải có trực
quan.
Tưởng tượng của học sinh tiểu học giàu tính hiện thực, trong dạy học ở
tiểu học, giáo viên cần hình thành biểu tượng thông qua sự mô tả bằng lời nói,
2


cử chỉ, điệu bộ của giáo viên trong các giờ lên lớp được xem là phương tiện trực
quan trong việc dạy học.
Tư duy của học sinh tiểu học, ở các lớp đầu bậc học còn là tư duy cụ thể,
mang tính hình thức bằng cách dựa vào những đặc điểm trực quan của những
đối tượng và hiện tượng cụ thể.
Nhờ ảnh hưởng của việc học tập, học sinh tiểu học dần dần chuyển từ
nhận thức các mặt bên trong những thuộc tính và dấu hiệu bản chất của hiện
tượng vào tư duy. Điều đó tạo khả năng khái quát.
Khi khái quát hoá, học sinh tiểu học thường quan tâm đến dấu hiệu trực

quan. Do đó, đảm bảo tính trực quan trong dạy học là cần thiết.
Quá trình nhận thức của học sinh tiểu học cần đến phương tiện trực quan,
chính vì đặc điểm đó mà đồ dùng dạy học đối với học sinh tiểu học đặc biệt là
học sinh lớp 1 vô cùng quan trọng.
II.NỘI DUNG:
2.1: Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu:
1. Thuận lợi:
- Học sinh lớp 1 mới đi học nên các em rất thích học và ham học.
- Bộ đồ dùng toán lớp 1 đầy đủ, bộ đồ dùng của giáo viên và học sinh
giống nhau nên khi sử dụng là rất thuận tiện.
- Trong quá trình thay sách từ năm 2002 đến nay, phòng giáo dục tổ chức
các cuộc hội thảo chuyên đề và những tiết điển hình để giáo viên có định hướng
đúng trong quá trình dạy toán.
- Nhà trường luôn đề cao sử dụng đồ dùng trực quan giờ dạy và tổ chức
nhiều cuộc thi làm đồ dùng dạy học.
- Trước sự chỉ đạo của chuyên môn, trong tổ thường xuyên cử giáo viên
lên tiết khó để thống nhất quy trình cũng như việc sử dụng đồ dùng cho hợp lý.
- Sách giáo khoa toán 1 được trình bày đẹp, rõ ràng, phân ra từng mảng
kiến thức rõ rệt. Phần minh hoạ cho nội dung kiến thức có nhiều tranh ảnh sinh
động, đẹp mắt.
2. Khó khăn:
a. Giáo viên
- Bộ đồ dùng của giáo viên lớp 1 bảng cài, chưa phát huy hiệu quả của đồ dùng.
- Các mô hình, biểu tượng (Hình tròn, hình vuông, hình chữ nhật ...)
Được làm với từng cái một nên khi dạy với sản lượng nhiều giáo viên phải
thao tác lắp ghép nhiều lần mất thời gian.
- Bộ đồ dùng toán lớp 1 chưa phong phú dẫn tới việc minh hoạ để hình
thành kiến thức mới chưa hấp dẫn.
- Giáo viên ít tạo ra đồ dùng mới lạ phù hợp với lứa tuổi và bài day.
- Giáo viên đôi lúc còn ngại sử dụng đồ dùng vì mất nhiều thời gian.

b. Học sinh
- Học sinh lớp 1 nhanh nhớ, mau quên, mãi nghịch nên khi mở đồ dùng ra
nhiều lúc các em chưa tập trung làm theo yêu cầu của giáo viên.

3


- Vì thời gian sử dụng đồ dùng trong tiết học nên các em lấy đồ dùng ra và
thu vào phải nhanh nên gây mất trật tự, có em thao tác chậm ảnh hưởng đến thời
gian của giờ học.
- Kiến thức thực tế của học sinh còn ít, nên ảnh hưởng đến khả năng tiếp
thu toán của học sinh.
c. Phụ huynh
Phần đông phụ huynh làm nghề trồng lúa, hoa màu, sự quan tâm đến
việc học tập của các em còn hạn chế, một số phụ huynh chưa có phương pháp
hướng dẫn con em mình học tập ở nhà ...
Chính vì vậy tôi tiến hành khảo sát chất lượng môn Toán và có kết quả
như sau:
Kết quả
Môn
Toán

TSHS
Điểm 9, 10
ĐG
SL
%
24

7


29,2

Điểm 7, 8

Điểm 5, 6

SL

%

SL

7

29,2

6

%
25,
0

Điểm 3,
4
SL %
16,
4
6


Điểm 1,
2
SL %
/

Ghi
chú

/

Qua khảo sát, tôi thấy chất lượng học sinh đạt điểm khá giỏi còn thấp,
vẫn còn học sinh đạt điểm dưới 5.
2.2: Các giải pháp thực hiện:
A. Nội dung chương trình toán 1.
1. Số học
1.1. Các số đếm 10: Phép cộng và phép trừ trong phạm vi 10.
- Nhận biết quan hệ số lượng (nhiều hơn, ít hơn, bằng nhau).
- Đọc, đếm, viết, so sánh các số đến 10.
- Giới thiệu ban đầu về khái niệm về phép cộng và phép trừ.
- Bảng cộng và bảng trừ trong phạm vi 10.
1.2. Các số đến 100: Phép cộng và phép trừ trong phạm vi 100.
- Đọc, đếm, viết, so sánh các số đến 100.
- Giới thiệu tia số.
- Phép cộng và phép trừ trong phạm vi 100.
2. Đại lượng và đo đại lượng:
- Giới thiệu đơn vị đo độ dài xăng ti mét.
- Giới thiệu đơn vị đo thời gian: Tuần lễ, ngày trong tuần, làm quen bước
đầu với đọc lịch (loại lịch hàng ngày), đọc giờ đúng trên đồng hồ (khi kim phút
chỉ vào số 12).
3. Yếu tố hình học:

- Nhận dạng hình vuông, hình tam giác, hình tròn.
- Điểm, đoạn thẳng.
4


4. Giải bài toán.
- Giới thiệu bài toán đơn.
- Giải bài toán đơn về phép cộng và phép trừ, chủ yếu là các bài toán
thêm, bớt đơn vị.
Việc dạy các phép cộng trọng phạm vi 10 được tiến hành bắt đầu từ bài
"Phép cộng trong phạm vi 3" (tuần 7) đến bài "Phép cộng trong phạm vi 10"
(tuần 15). Đó cũng chính là nội dung cơ bản giúp các em học tốt những nội dung
chương trình toán 1.
B. Phương pháp dạy toán 1:
1. Trực quan
4. Động não
2. Luyện tập thực hành
5. Trò chơi
3. Đàm thoại
6. Thảo luận.
Trong các phương pháp trên thì phương pháp trực quan và luyện tập thực
hành thường xuyên sử dụng trong các giờ dạy toán 1.
C. Quy trình dạy toán 1: (Thời gian 1 tiết học toán là 40')
1. Hoạt động 1: Kiểm tra bài cũ (3 - 5')
2. Hoạt động 2: Dạy bài mới (12 - 15')
3. Hoạt động 3: Luyện tập thực hành (15 - 17')
4. Hoạt động 4: Củng cố dặn dò (2 - 3')
D. Một số biện pháp: sử dụng đồ dùng dạy và học các phép cộng trong
phạm vi 10.
1. Chuẩn bị đồ dùng đầy đủ cho 1 tiết học:

- Trước mỗi giờ dạy, giáo viên phải chuẩn bị cho tiết học đó. Đồ dùng
chuẩn bị cho tiết học phải được ghi trong giáo án, ghi rõ đồ dùng cho giáo viên
và học sinh.
- Cụ thể bài: "Phép cộng trong phạm vi 6".
+ Chuẩn bị đồ dùng cho giáo viên và học sinh: 6 thẻ hình tam giác, 6 thẻ
hình tròn, 6 thẻ hình vuông.
+ Ngoài ra giáo viên còn chuẩn bị thêm bảng cài và tranh bài tập 4 phần a.
2. Với mỗi loại đồ dùng dạy học đã chọn, trước khi lên lớp người giáo
viên phải có sự chuẩn bị chu đáo, cụ thể là: Nghiên cứu và tìm hiểu sử dụng
thành thạo đồ dùng đó.
3. Đồ dùng trực quan phù hợp với từng giai đoạn học tập của học sinh:
Ở giai đoạn đầu năm lớp 1 các đồ dùng dạy học thường là các vật thật
(bông hoa, cái kéo, viên bi, ...) các tranh ảnh về các vật gần gũi với cuộc sống
của các em (con gà, ô tô, con thỏ ,con mèo, quả táo, ...) Đến cuối lớp 1 các em
có thể sử dụng đồ dùng ở mức độ trừu tượng, khái quát hơn (que tính, bó que
tính, hình tròn, hình vuông, ...)
Ví dụ: Bài phép cộng trong phạm vi 3 là bài đầu tiên học về phép cộng,
giáo viên có thể cho học sinh quan sát các thao tác bằng những bông hoa, quả
cam hoặc giáo viên gọi học sinh lên để làm: Bạn Lan có 1 bông hoa (một học
sinh cầm), bạn Hà có 2 bông hoa (một học sinh khác cầm). Hỏi cả hai bạn có
mấy bông hoa? Học sinh quan sát các bạn làm và sẽ nói ngay được phép tính: 1
+ 2 = 3.
5


Nhưng sang đến bài: Phép cộng trong phạm vi 6 giáo viên và học sinh sử
dụng đồ dùng ở mức độ khái quát hơn để hình thành phép tính (dựa vào các hình
vuông, hình tam giác, hình tròn).
4. Sử dụng đúng lúc, đúng mức độ các đồ dùng học toán:
Khi hình thành các bảng cộng, giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng đồ

dùng học tập để tìm ra kết quả các phép cộng (dạy bài mới). Nhưng khi đã thuộc
lòng bảng cộng thì cố gắng không dùng que tính, đốt ngón tay để làm tính mà
nói ngay, viết ngay kết quả phép tính. Chỉ khi nào quên công thức tính thì mới
sử dụng que tính, đốt ngón tay để hỗ trợ cho trí nhớ (luyện tập thực hành).
5. Chuyển dần, chuyển kịp thời các phương tiện trực quan từ dạng cụ
thể sang dạng trừu tượng hơn:
Ngay ở giai đoạn phải sử dụng các đồ vật cụ thể (vật thực, vật tượng
trưng) cũng phải chuyển dần từ vật "cụ thể" sang vật "ít cụ thể" hơn.
Ví dụ 1: Khi dạy về "Phép cộng trong phạm vi 4" lúc đầu giáo viên có thể
cho học sinh.
Bước 1: Lấy 1 hình quả cam rồi lấy thêm 3 hình quả cam nữa để được 4
quả cam.
Bước 2: Lấy 3 que tính rồi lấy thêm 1 que tính nữa để có 4 que tính.
Bước 3: Lấy 2 chấm tròn, rồi lấy thêm 2 chấm tròn nữa để được 4 chấm tròn.
Từ 4 quả cam đến 4 que tính rồi đến 4 chấm tròn đã có sự chuyển dần từ
vật cụ thể sang vật có tính trừu tượng hơn và điều quan trọng là học sinh nhận
được "cái chung" của nhóm vật đó là "bốn" (số lượng đều là 4).
Ví dụ 2: Ở các phép cộng trong phạm vi 3, 4, 5 hình thành dựa vào các đồ
vật, vật tượng trưng gần gũi với học sinh (con gà, ô tô, quả táo, cái kéo, ...)
Nhưng sang đến các phép cộng trong phạm vi 6, 7, 8, 9, 10 hình thành dựa vào
các hình tam giác, hình tròn, hình vuông.
6. Thay đổi phương pháp sử dụng đồ dùng linh hoạt tránh nhàm chán:
Trong bài dạy "Phép cộng trong phạm vi 6" ở các phép tính đầu 1 + 5 = 6;
5 + 1 = 6, 4 + 2 = 6 hình thành từ đồ dùng, học sinh nêu bài toán và lập phép
tính. Nhưng đến phép tính 3 + 3 = 6 thì giáo viên có thể nâng cao hơn một mức
là từ đồ dùng lập phép tính và nêu bài toán. Thay đổi như vậy học sinh tránh
nhàm chán và phát huy tư duy toán học cho các em hơn.
7. Rèn kỹ năng sử dụng đồ dùng cho học sinh:
Điều quan trọng nhất là sử dụng đồ dùng dạy học: Giáo viên tổ chức,
hướng dẫn cho học sinh hoạt động trên bộ đồ dùng của từng cá nhân. Từ các

hoạt động có định hướng đó, học sinh tự mình phát hiện, tìm tòi được các kiến
thức mới của môn toán.
Chẳng hạn, trong bài "Phép cộng trong phạm vi 6" học sinh dưới sự
hướng dẫn của giáo viên, các em thao tác lấy, xếp các hình theo yêu cầu của
giáo viên.
Lấy 5 hình tam giác (xếp lên mặt bàn), lấy thêm 1 hình tam giác nữa (xếp
lên mặt bàn). Hỏi tất cả có mấy hình tam giác.
Ngoài ra khi sử dụng bộ đồ dùng giáo viên rèn cho học sinh ý thức giữ
gìn, sắp xếp bộ đồ dùng nhanh nhẹn và ngăn nắp, làm theo hiệu lệnh và ký hiệu
6


(Giáo viên ghi Đ -> học sinh lấy đồ dùng, giáo viên xoá Đ thì học sinh phải cất
ngay đồ dùng).
8. Tìm thêm những đồ dùng phụ trở để tiết học thêm sinh động hoặc
chọn các trò chơi để củng cố kiến thức khắc sâu bài:
Ví dụ: Dạy bài "Phép cộng trong phạm vi 6" ở bài 4 phần a viết phép tính
thích hợp giáo viên có thể vẽ hình các con chim để học sinh nêu bài toán, tạo
hứng thú cho học sinh trong học tập.
Ngoài ra, sau mỗi bài giáo viên có thể tổ chức cho học sinh trò chơi củng
cố (bằng bộ đồ dùng toán của học sinh).
- Lập phép tính (học sinh sử dụng các số dấu lập phép tính theo yêu cầu
của giáo viên).
- Đoán số, cài kết quả (Giáo viên nêu phép tính, học sinh thi cài kết quả
nhanh).
III. PHẦN KẾT LUẬN
3.1. Ý nghĩa của SKKN:
Qua thực tế giảng dạy, được sự chỉ đạo sát sao của ban giám hiệu, chuyên
môn của nhà trường về sử dụng đồ dùng dạy học. Cùng với sự chỉ đạo trực tiếp
của tổ nhóm chuyên môn, đặc biệt với lòng say mê, ham học hỏi, tìm tòi, sự nỗ

lực của giáo viên trong sử dụng đồ dùng giảng dạy ở môn Toán trong thời gian
qua, tôi nhận thấy: Nếu tiết học toán có đồ dùng giảng dạy, mà những đồ dùng
đó chính xác, đẹp, hấp dẫn, sử dụng hợp lý thì hiệu quả bài dạy rất cao. Học sinh
rất hứng thú, không khí lớp học sôi nổi, kiến thức cơ bản nắm vững và đặc biệt
kỹ năng làm toán và giải toán thành tạo.
* Sau đây là kết quả cụ thể:
Kết quả
Môn
Toán

TSHS
Điểm 9, 10
ĐG
SL
%
24
18 75,0

Điểm 7, 8

Điểm 5, 6

SL
5

SL
1

%
20,8


%
4,2

Điểm 3,
4
SL %

Điểm 1,
2
SL %

Ghi
chú

Qua bảng thống kê cho thấy kết quả môn toán học kỳ 1 năm 2015 - 2016
tăng lên rõ rệt.
Với kết quả trên càng khẳng định về sử dụng đồ dùng dạy và học trong
hình thành "Các phép cộng trong phạm vi 10" là việc làm cần thiết để góp phần
nâng cao chất lượng dạy và học môn toán.
3.2. Bài học rút ra:
Để sử dụng đồ dùng dạy học "Các phép cộng trong phạm vi 10" người
giáo viên cần phải:
- Giáo viên phải soạn bài trước khi lên lớp, có thời gian phân bố cho các
hoạt động.
- Xác định nội dung kiến thức cần hình thành.
- Chuẩn bị đầy đủ đồ dùng (cả giáo viên và học sinh).
7



- Tổ chức cho học sinh những thao tác thực sự bằng tay trên các đồ vật.
- Đồ dùng trực quan phải phù hợp với từng giai đoạn của học sinh.
- Rèn kỹ năng sử dụng đồ dùng cho học sinh.
- Người giáo viên phải sáng tạo thêm những đồ dùng phụ trợ hoặc tổ chức
các trò chơi để củng cố kiến thức, khắc sâu nội dung bài.
Bên cạnh đó người giáo viên cần phải trang bị cho mình những kiến thức
sâu, rộng, thường xuyên cập nhật thông tin, chủ động sáng tạo trong giảng dạy
và hơn hết lòng yêu nghề, mến trẻ.
Trên đây là những việc mà tôi đã làm về việc "Sử dụng đồ dùng dạy và học
trong việc hình thành các phép cộng trong phạm vi 10" của môn toán lớp 1.
Rất mong sự đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo, của các bạn đồng
nghiệp để các tiết dạy có hiệu quả hơn.
Xếp loại của HĐKH trường
................................................
................................................
................................................

Hiền Ninh, ngày 05 tháng 05 năm 2016
Người viết

Nguyễn Thị Minh Khai

Xếp loại của HĐKH Phòng Giáo Dục và Đào Tạo
............................................................................................................................
.................................................................................................................
...........
.................................................................................................................
............

8



9


10



×