LỜI NÓI ĐẦU
Vấn đề con người luôn là chủ đề trung tâm của lịch sử triết học từ cổ đại
đến hiện đại. Từ khi Triết học Mác-Lênin ra đời đã giải quyết những nội dung
liên quan đến con người. Khẳng định con người có vị trí và vai trò rất quan
trọng đối với thế giới, và trong thực tế hiện nay thì con người là một lực lượng
chủ đạo trong nền sản xuất xã hội. Trong công cuộc đổi mới xã hội chỉ có con
người - yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất của xã hội, là nhân tố
chính, là nguồn lực mang tính quyết định sự thành công hay thất bại.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn coi con
người là vốn quý nhất, là mục tiêu, động lực của cách mạng, là yếu tố quyết định
sự thành bại của cách mạng. Đặc biệt, từ Đại hội VI (năm 1986) của Đảng, với
sự đổi mới toàn diện và sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn trên mọi lĩnh vực,
nhận thức về vị trí, vai trò của con người cũng ngày càng đầy đủ và sâu sắc hơn.
Đảng ta luôn đặt con người vào vị trí trung tâm của quá trình phát triển, là đối
tượng, mục tiêu và động lực của mọi hoạt động kinh tế- xã hội. Quan điểm này
được thể hiện xuyên suốt trong các kỳ đại hội, cũng như trong mọi chủ trương,
chính sách của Đảng. Đặc biệt, tại Đại hội XII, Đảng đã bổ sung, phát triển
nhiều quan điểm mới về xây dựng, phát triển con người. Những quan điểm này
không chỉ là sự bổ sung về mặt lý luận, mà còn được cụ thể hóa thành các nhiệm
vụ, giải pháp, định hướng cụ thể trong chỉ đạo hoạt động thực tiễn phát triển
kinh tế - xã hội đất nước.
Trên cơ sở đó, tôi xin xin chọn đề tài “Quan điểm triết học Mac-Lênin về
con người – lý luận và vận dụng vào sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay”
làm đề tài nghiên cứu của mình để làm rõ và sâu sắc hơn những vấn đề đã nêu ở
trên.
I. QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC XÍT VỀ CON NGƯỜI
1.1- Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt
xã hội.
Mặt sinh vật bao gồm cơ thể cùng những nhu cầu cơ thể và những quy
luật sinh học chi phối đời sống của cơ thể con người. Mặt xã hội bao gồm “tổng
hòa những quan hệ xã hội”, những hoạt động xã hội, đời sống tinh thần của con
người.
Hai mặt này có quan hệ khắng khít không thể tách rời nhau, trong đó mặt
sinh học là nền tảng vật chất tự nhiên của con người, nhưng không phải là yếu tố
quyết định bản chất của con người; mặt xã hội mới là mặt giữ vai trò quyết định
bản chất của con người. Bởi mặt xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động
sản xuất vật chất. Lao động sản xuất ra của cải vật chất là yếu tố quyết định hình
thành bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân
trong cộng đồng xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển
của con người luôn luôn bị quyết định bởi hệ thống ba quy luật khác nhau nhưng
thống nhất với nhau:
- Những quy luật sinh học chi phối đời sống của cơ thể.
- Những quy luật hình thành tâm lý, ý thức.
- Những quy luật xã hội quy định đời sống xã hội của con người.
Ba hệ thống trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh trong
đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Bản chất của con
người không phải là cái gì có sẵn, mà có quá trình hình thành, phát triển và hoàn
thiện cùng với hoạt động thực tiễn của con người.
1.2- Con người là tổng hoà những quan hệ xã hội.
Trong tác phẩm Luận cương về Feuerbach, K.Marx khẳng định: “Trong
tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa những mối quan hệ xã
hội”.
Luận đề trên đã chỉ rõ: Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong
một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định. Trong điều kiện lịch sử cụ thể đó, bằng
hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh
thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các
mối quan hệ xã hội, con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình.
Trong khi khẳng định bản chất xã hội của con người, triết học Mác-Lênin
không phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người, triết học Mác-Lênin chỉ
muốn nhấn mạnh sự phân biệt giữa con người với thế giới động vật trước hết ở
bản chất xã hội. Sự hình thành, phát triển con người là quá trình gắn liền với lịch
sử sản xuất vật chất:
- Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề
con người một cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó,
mà trước hết là lao động sản xuất ra của cải vật chất. "Có thể phân biệt con
người với súc vật, bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng
được. Bản thân con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con
người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, đó là một bước tiến
do tổ chức cơ thể của con người quy định.
- Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián
tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình. Thông qua hoạt động sản xuất
vật chất; con người đã làm thay đổi, cải biến giới tự nhiên: "Con vật chỉ sản xuất
ra bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên. Tính xã
hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động sản
xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản tính xã hội của con người. Thông qua
hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần,
phục vụ đời sống của mình; hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư duy; xác lập
quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã
hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã
hội.
1.3- Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con
người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài của
giới hữu sinh. Song, điều quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ thể
của lịch sử - xã hội.
Với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động
vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động, phát triển
của lịch sử xã hội.
Trong quá trình cải biến giới tự nhiên, con người cũng làm nên lịch sử của
chính mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra
lịch sử của chính bản thân con người. Bản chất của con người không phải là một
hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con
người. C.Mác đã khẳng định: "Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con
người là sản phẩm của những hoàn cảnh và của giáo dục... cái học thuyết ấy
quên rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo
dục cũng cần phải được giáo dục". Trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên,
Ph.Ăngghen cũng cho rằng: "Thú vật cũng có một lịch sử, chính là lịch sử
nguồn gốc của chúng và lịch sử phát triển dần dần của chúng cho tới trạng thái
hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và trong
chừng mực mà chúng tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà
chúng không hề biết và không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người
càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại
càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu”.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải cho
hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Con người tiếp nhận hoàn
cảnh một cách tích cực và tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện
khách nhau. Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh
trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người.
II. CON NGƯỜI LÀ NHÂN TỐ QUAN TRỌNG HÀNG ĐẦU
TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC.
2.1- Quan niệm của Đảng ta về con người
Nhìn lại toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng từ ngày thành lập (3-21930) đến nay. Đảng ta đã nhiều lần khẳng định "con người là vốn quý nhất
chăm lo cho hạnh phúc của con người mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ
ta". Trên thực tế trong suốt những năm tháng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác Đảng ta đã cố gắng làm nhiều việc theo hướng
đó. Dân sự chăm lo cho hạnh phúc con người chưa có nhiều thành công như
mong muốn, việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho những người lao
động còn thấp, song phần nào đã đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, của những
người lao động chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân". Việc gì có lợi cho dân, ta
phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân ta phải hết sức tránh" đã được Đảng ta
đặt lên vị trí hàng đầu và coi đó là nhiệm vụ trung tâm.
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi công việc đối với con người là mục tiêu quan
trọng trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của đời mình. Mong muốn cháy
bỏng của Người là làm sao cho con người được hưởng đầy đủ quyền sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Trong Di chúc, khi đề cập đến công
việc đầu tiên đối với con người, Người đã dành sự quan tâm sâu sắc tới mọi đối
tượng xã hội, mọi tầng lớp nhân dân, vì con người vừa là mục tiêu vừa là động
lực của cách mạng, xây dựng con người là chiến lược hàng đầu của sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Do vậy, Đảng và Nhà nước phải có chủ
trương, kế hoạch đúng đắn để phát huy nhân tố con người, để dùng con người
mà làm lợi cho con người. Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh "Vì lợi ích mười
năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người" và "muốn xây dựng chủ nghĩa
xã hội trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa" đã trở thành tư tưởng
quán xuyến toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng ta với tư cách là Đảng cầm
quyền ngay từ đầu mọi chủ trương, chính sách, đường lối của Đảng đều quán
triệt việc chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người.
Trong "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội" Đảng ta đã chỉ rõ: "Phương hướng lớn của chính sách xã hội là: Phát huy
nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về nghĩa vụ và
quyền lợi công dân kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời
sống vật chất và đời sống tinh thần, giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với
chăm lo lợi ích lâu dài giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội". Định
hướng có ý nghĩa chiến lược đó chính là thể hiện tư tưởng vì con người, của
mục tiêu phát triển con người Việt Nam, toàn diện trong công cuộc xây dựng đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Như vậy, Con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc cho con người là
mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta. Đảng ta coi trọng việc nâng cao dân
trí, bồi dưỡng và phát triển nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố
quyết định thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa; khẳng định con
người Việt Nam phát triển toàn diện cả về thể lực, trí lực, khả năng lao động,
năng động, sáng tạo và tính tích cực chính trị-xã hội, cả về đạo đức, tâm hồn, và
tình cảm là mục tiêu, là động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa...
Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đều
nhằm quán triệt tư tưởng chăm lo, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người,
hướng tới mục tiêu phát triển toàn diện con người Việt Nam.
2.2- Con người là nhân tố quan trọng trong sự nghiệp đổi mới nước ta
hiện nay.
Nghiên cứu tăng trưởng kinh tế của các nước trên thế giới qua nhiều giai
đoạn lịch sử, các lý thuyết tăng trưởng đã chỉ ra nguồn nhân lực được coi là yếu
tố quan trọng nhất cho tăng trưởng kinh tế. Các yếu tố như máy móc, thiết bị,
nguyên vật liệu hay công nghệ sản xuất chỉ có thể phát huy tối đa hiệu quả bởi
con người có trình độ chuyện môn, kỹ thuật. Lý thuyết tăng trưởng của C.Mác
cho rằng việc sử dụng tư bản bất biến không tạo ra giá trị thặng dư (lợi nhuận)
bởi các nhà tư bản phải mua tư bản bất biến với giá trị bằng giá trị tư bản bất
biến đó sẽ tạo ra. Chỉ có tư bản khả biến mới đem lại giá trị thặng dư trong quá
trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, bởi giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động có
đặc điểm đặc biệt trong qua trình sử dụng nó tạo ra một giá trị mới (v+m) lớn
hơn giá trị bản thân nó. Do đó, trong lực lượng sản xuất, yếu tố con người là yếu
tố tích cực, chủ động, sáng tạo là yếu tố quyết định các yếu tố khác. C.Mac cũng
chỉ ra năng lượng giá trị của hàng hóa có quan hệ mật thiết với mức độ phức tạp
của lao động. Lao động phức tạp tạo ra giá trị nhiều hơn so với lao động giản
đơn. Điều này có nghĩa là chất lượng nguồn nhân lực càng cao thì lượng giá trị
của hàng hóa càng tăng lên nhanh chóng, tức là tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ.
Frederik Harbison thì cho rằng nguồn nhân lực là nền tảng chủ yếu tạo ra
của cải. Tiền vốn và các tài nguyên thiên nhiên là những nhân tố thụ động trong
sản xuất là những nhân tố thụ động trong sản xuất, con người là những nhân tố
tích cực, chủ động tích lũy vốn, khai thác thiên nhiên, xây dựng các tổ chức xã
hội, kinh tế, chính trị và đưa sự nghiệp đất nước tiến lên. Vì vậy các ông cho
rằng nước nào bất lực trong việc phát triển tay nghề và kiến thức cho người dân
và không sử dụng nó một cách hiện hữu trong nền kinh tế quốc dân sẽ không thể
phát triển bất cứ thứ gì.
Thực tiễn phát triển kinh tế của các nước trên thế giới, đặc biệt là sự phát
triển thần kỳ của nhiều nước ở Châu Á như Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan... phần
lớn là nhờ vào nguồn nhân lực có chất lượng cao. Như vậy về mặt lý thuyết và
thực tiễn ở nhiều nước cho thấy phát triển nguồn nhân lực, tạo ra lực lượng lao
động có học vấn, tay nghề, chuyên môn kỹ thuật và khả năng thích ứng nhanh
với những thay đổi trên thế giới, đặc biệt là sự phát triển thần kỳ của nhiều nước
ở Châu Á như Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan... phần lớn là nhờ vào nguồn nhân lực
có chất lượng cao. Vì vậy, phát triển nguồn nhân lực, tạo ra lực lượng lao động
có học vấn, tay nghề, chuyên môn kỹ thuật và khả năng thích ứng nhanh với
những thay đổi nhanh chóng của công nghệ sản xuất là một yếu tố then chốt cho
sự tăng trưởng và phát triển bền vững.
Nắm vững quan điểm đó, Đảng ta đã xác định nguồn nhân lực là một
trong những nhân tố quan trọng hàng đầu đối với phát triển kinh tế xã hội của
đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy: con người nếu chỉ có phẩm chất
đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị vững vàng, mà thiếu đi tri thức, kiến thức khoa
học, tức là có đức mà không có tài, thì chẳng khác gì một ông bụt ngồi trên tòa
sen, không làm việc gì xấu nhưng cũng không làm điều gì có lợi cho đời. Tri
thức, trí tuệ thực sự là yếu tố thiết thực của mỗi con người, bởi vì, tất cả những
gì thúc đẩy con người hành động đều phải thông qua trí tuệ của họ.
Trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giời, người lao động còn phải
biết chủ nhập hội nhập quốc tế. Khác với toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế là hành
động chủ quan, có chủ đích của con người nhằm khai thác nguồn lực từ bên
ngoài để tăng cường sức mạnh cho đất nước mình. Hội nhập quốc tế cũng có
nghĩa là chấp nhận cạnh tranh với thế giới bên ngoài; hội nhập nhưng không hòa
tan, vẫn bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc mình và nhất là bảo vệ được nền độc
lập dân tộc. Trong điều kiện như vậy, người lao động, ngoài bản lĩnh chính trị
vững vàng, ý thức dân tộc cao, còn cần có trình độ trí tuệ ngang tầm.
Có thể nói Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào với quy mô dân số lớnđứng thứ 14 thế giới, mật độ dân số 308 người/km2, gấp gần 6 lần so với mật độ
dân số trung bình của thế giới và đang trong thời kỳ cơ cấu “dân số vàng”. Thời
kỳ “cơ cấu dân số vàng” chỉ diễn ra trong chu kỳ nhất định, thường kéo dài
khoảng thời gian từ 15-40 năm và được coi là cơ hội vàng để nền kinh tế bứt
phá, phát triển. Trong khi đó, tình trạng thể lực của người Việt Nam được cải
thiện đáng kể sau 31 năm đổi mới, đồng thời trình độ học vấn của lực lượng lao
động những năm qua không ngừng tăng lên. Đây là những điều kiện quan trọng
để nâng chất lượng nguồn nhân lực người Việt Nam.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nảy sinh các vấn đề
phức tạp trong quan hệ giữa con người với tự nhiên. Nó đòi hỏi con người phải
có hiểu biết và có trách nhiệm trong việc bảo vệ, cải thiện môi trường thiên
nhiên vì sự phát triển bền vững, nói một cách ngắn gọn là phải có văn hóa sinh
thái. Song con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ môi
phải được nâng lên thành văn hóa sinh thái: con người phải có nhận thức, thái
độ, cách ứng xử đúng đắn của con người đối với tự nhiên; cả về phòng ngừa,
ngăn chặn, xử lý hậu quả do sản xuất gây ra; cải thiện môi trường tự nhiên, bảo
tồn thiên nhiên, thích nghi với tự nhiên và đấu tranh chống lại việc tàn phá tự
nhiên.
Nguồn nhân lực chất lượng của thời kỳ đổi mới đất nước phải là “những
con người phát triển cả về trí lực và thể lực, cả về khả năng lao động , về tính
cực chính trị - xã hội, về đạo đức, trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ và kỹ
năng ứng dụng tri thức vào hoạt động thực tiễn... đó chính là những nhân tố tạo
nên chất lượng nguồn nhân lực nói chung chất lượng nguồn nhân lực cũng trở
thành mục tiêu hàng đầu của giáo dục, đào tạo. Không thể có nguồn nhân lực
chất lượng tốt nếu không thông qua giáo dục.
III. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC
VIỆT NAM PHỤC VỤ SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC
3.1- Những thách thức của quá trình đổi mới ở nước ta.
Việc đẩy mạnh công cuộc đổi mới đất nước đòi hỏi chúng ta phải nhận
thức một cách sâu sắc đầy đủ những giá trị lớn lao và có ý nghĩa quyết định của
nhân tố con người chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn
hoá tinh thần. Phải có sự thay đổi sâu sắc cách nhìn, cách nghĩ, cách hành động
của con người và coi việc bồi dưỡng phát huy nhân tố con người Việt Nam hiện
đại như một cuộc cách mạng. Hơn nữa, với tính tất yếu khách quan của sự
nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước và cách mạng con người phải được nhận thức là hai mặt
thống nhất, không thể tách rời của sự nghiệp xây dựng đó.
Thực trạng nguồn nhân lực Việt nam dồi dào về số lượng, nhưng lại thiếu
hụt nhân lực có trình độ cao, năng suất lao động xã hội thấp hiện nay đặt ra
nhiều thách thức cho nền kinh tế trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu vào nền
kinh tế thế giới.
Một là, thách thức về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Lợi thế cạnh
tranh của một quốc gia được cấu thành từ những yếu tố như: hạ tầng, thể chế,
môi trường kinh doanh, nhân lực...trong đó nhân lực được coi là yếu tố cạnh
tranh có tính riêng biệt, quyết định đối với mỗi quốc gia. Việt Nam muốn nâng
cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam thì một trong những yếu tố quyết định là
phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Hai là, hạn chế khả năng chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ chủ
yếu dựa vào vốn và nguồn nhân lực với số lượng dồi dào, giá trị nhân công rẻ
sang mô hình tăng trưởng dựa vào nguồn nhân lực có chất lượng lượng cao,
nâng cao sự đóng góp của nhân tố năng suất cao.
Ba là, Việt Nam đang sẽ khó vượt qua ngưỡng thu nhập trung bình nếu
tăng trưởng kinh tế chỉ dựa vào vốn, nguồn tài nguyên và lao động giản đơn
chưa qua đào tạo. Do đó phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực được
xem là các yếu tố then chốt đưa nước ta thoát khỏi thu nhập trung bình trong
những năm tới.
3.2- Những giải pháp xây dựng con người Việt Nam đáp ứng thời kỳ
đổi mới đất nước hiện nay
Một là, gắn chiến lược phát triển con người với chiến lược phát triển kinh
tế. Đây được coi là một trong những nền tảng của sự thành công về mặt kinh tế,
khoa học kỹ thuật. Nước ta phải lấy sự phát triển nguồn nhân lực làm động lực
cho tăng trưởng kinh tế thông qua sự kết hợp chặt chẽ các chiến lược kinh tế và
chiến lược phát triển nguồn nhân lực. Trong những năm gần đây, đã có sự quan
tâm gắn kết chiến lược phát triển nguồn nhân lực với chiến lược phát triển kinh
tế thể hiện qua xu hướng đào tạo theo nhu cầu xã hội, sự hợp tác giữa nhà
trường với các doanh nghiệp đào tạo nhân lực. Mấu chốt của vấn đề là chúng ta
phải thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ giữa các chiến lược phát triển nhân lực
với các chiến lược phát triển kinh tế. Giải quyết được điều này chúng ta mới giải
quyết được tình trạng thiếu hụt nhân lực có trình độ, tay nghề và kỹ năng cần
thiết cho sự phát triển kinh tế, biến gánh nặng dân số hiện nay thành lợi thế cạnh
tranh của nước ta trong qua trình hội nhập.
Hai là, cải cách giáo dục đại học và đào tạo nghề nhằm nâng cao chất
lượng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Chất lượng giáo dục và đào tạo
được coi là chìa khóa để phát triển nguồn nhân lực. Thế nhưng hiện nay hệ
thống giáo dục và đào tạo ở nước ta chưa đáp ứng với yêu cầu của xã hội và sự
phát triển của nền kinh tế. Do đó, để phát triển nguồn nhân lực cần thực hiện cải
cách căn bản nền giáo dục, đào tạo. Trong đó, yêu cầu bức bách hiện nay là cần
phải cải cách phát triển giáo dục đại học, giáo dục đào tạo nghề để có ảnh hưởng
đến chất lượng nguồn nhân lực. Trong tình trạng hiện tại, có hai vấn đề quan
trọng, cấp bách và có ý nghĩa lâu dài trong việc cải thiện sớm thực hiện, đó là:
Phải gắn kết đào tạo của nhà trường với yêu cầu của thị trường lao động. Đào
tạo những kỹ năng cần thiệt là một trong những yếu tố quan trọng để nguồn
nhân lực có thể đap ứng yêu cầu của nhà tuyển dụng; Nhà nước xây dựng cơ chế
khuyến khích các doanh nghiệp tham gia và trở thành một chủ thể quan trọng
trong quá trình đào tạo: đảm bảo cung cấp đầy đủ, thường xuyên thông tin về
tình hình làm việc, kỹ năng đào tạo...; khuyến khích đào tạo nghề tại dây chuyền
sản xuất của các doanh nghiệp. Gắn đào tạo giáo dục với ứng dụng các khao học
kỹ thuật.
Ba là, huy động các nguồn lực đầu tư cho sự phát triển nhân lực. Ngoài
việc chi từ nguồn ngân sách nhà nước, chúng ta cần phải huy động và sử dụng
có hiệu quả các nguồn lực của mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước cho
sự phát triển nguồn nhân lực trong bối cảnh hội nhập kinh tế và cạnh tranh toàn
cầu. Chú trọng đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục; ưu tiên xây dựng
kết cấu hạ tầng kêu gọi các nhà đầu tư... Bốn là, nâng cao chất lượng quản lý của
nhà nước đối với nguồn nhân lực. Chúng ta phải quản lý có hiệu quả về nhân lực
trước trước những yêu cầu mới của phát triển nền kinh tế thị trường, hội nhập và
cạnh tranh. Nhà nước cần phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm, cơ chế phối
hợp giữa các cơ quan nhà nước trong công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện các
chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển nguồn nhân lực. Năm là, nâng cao
nhận thức của xã hội về phát triển nguồn nhân lực. Chúng ta xác định đây không
chỉ là trách nhiệm của nhà nước mà còn là nhiệm vụ của toàn xã hội. Chúng ta
phải xác định nguồn nhân lực quý giá, là động lực cho sự phát triển; phát triển
nguồn nhân lực không chỉ giúp chúng ta đạt được những mục tiêu ngắn hạn mà
còn là tiền đề cho sự phát triển lâu dài của đất nước. Do đó nhà nước cần có
những chính sách tác động đến nhận thức của toàn xã hội về trách nhiệm trong
vấn đề đào tạo nguồn nhân lực.
KẾT LUẬN
Sự nghiệp đổi mới đất nước đang đặt ra những yêu cầu cần thiết cần phải
có nhân tố con người có tri thức, kỹ năng, phẩm chất để phục vụ sự nghiệp phát
triển đất nước. Ở hầu hết các nước phát triển, nguồn lực là một trong những mối
quan tâm hàng đầu, tất cả các nước đều coi trọng yếu tố con người và có chính
sách phát triển nguồn nhân lực.
Thấm nhuồn chủ nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã
xác định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới cũng là thành công của quá trình xây
dựng và phát triển con người mang tính toàn diện, là một trong những nhân tố
quan trọng hàng đầu đơi với việc phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nước ta
một nước công nghiệp, theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng công cuộc đổi mới đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa là chủ trương lớn của Đảng ta, là con đường
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa luôn là nhiệm vụ, yêu cầu cấp thiết, lâu dài của toàn Đảng và
toàn hệ thống chính trị ở nước ta./.