Tình yêu quê hương nồng thắm được thể hiện ở ba khổ thơ đầu bài thơ Quê hương
của Tế Hanh. (Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới...dần trong thớ vỏ)
Theo cô Nguyễn Thị Kim Lan – Chuyên viên Sở GD&ĐT Hải Phòng.
1. Mở bài:
Tế Hanh là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới ở chặng
cuối. Quê
hương là nguồn cảm xúc trong sáng và lành mạnh nhất của nhà thơ. Bài thơ “Quê
hương”
có thể xem là sự khởi đầu trong nguồn cảm hứng về quê hương trong nguồn thơ Tế
Hanh.
Trong đó ba khổ thơ đầu của bài thơ đã tái hiện những kỉ niệm nồng nàn, sâu đậm,
lòng
yêu mến và tình thương nhớ của nhà thơ với quê hương mình qua hình ảnh thiên
nhiên và
sinh hoạt bình dị của con người nơi làng chài ven biển.
2. Thân bài:
- Bài thơ ra đời 1939, khi tác giả đang xa nhà đi học. Nỗi nhớ quê đau đáu, luôn
thường
trực trong tâm hồn của chàng thanh niên 18 tuổi – những kỉ niệm nồng nàn của
thời niên
thiếu, nó thăng hoa thành những vần thơ đẹp, đặc biệt ở ba khổ thơ đầu. Mạch cảm
xúc
trong ba khổ thơ đầu được tác giả triển khai theo hành trình một chuyến ra khơi
đánh cá
của những người dân chài. Xuyên suốt ba khổ thơ là sự đan xen của hai cảnh: cảnh
thiên
nhiên và cảnh sinh hoạt của làng chài.
- Hai câu thơ mở đầu bài thơ là lời giới thiệu chung rất ngắn gọn về quê hương
mình:
Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông
Hai chữ “làng tôi” chứa đầy yêu thương, niềm tự hào của nhà thơ về quê hương, dù
mộc
mạc, gian khó nhưng giàu truyền thống “vốn làm nghề chài lưới”. Một làng ven
biển bao
đời gắn bó với nghề chài lưới nhưng lại được bao bọc bốn bên bởi sông. Dưới ngòi
bút
Tế Hanh, làng chài ấy mang đặc điểm riêng, nhà thơ “cá biệt hóa” làng chài của
mình. Có
thể nói, hai câu thơ mở đầu là những lời giới thiệu rất ngắn gọn, giản dị về “làng
tôi”, có
lẽ nếu thiếu đi lời giới thiệu này, quê hương sẽ trở nên trừu tượng, thiếu sức truyền
cảm.
Qua đây ta nhận thấy tình cảm tha thiết của tác giả đối với quê hương, đó là sự gắn
bó,
yêu thương và lòng tự hào sâu sắc về làng chài quê mình.
- Ở khổ thơ thứ hai, nhà thơ đã tái hiện lại cảnh dân làng ra khơi đánh cá đẹp như
huyền thoại:
Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng,
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá
Các cụm từ “trời trong”, “gió nhẹ”, “sớm mai hồng” mở ra một không gian khoáng
đạt,
tươi sáng, trong trẻo, rực rỡ nắng hồng của buổi bình minh. Khung cảnh này phù
hợp với
tâm trạng phấn chấn của người dân chài ra khơi đánh cá:
Chiếc thuyền nhẹ băng như con tuấn mã
Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trùng giang.
Giọng thơ sôi nổi, lời thơ mạnh mẽ đã mang đến cho người đọc ấn tượng về sự
dũng
mãnh, khí thế băng tới của con thuyền lúc ra khơi. Con thuyền lướt nhanh trên
sóng
giống như một con ngựa chiến tung vó trên sa trường. Các động từ mạnh “hăng”,
“phăng”, “vượt” làm toát lên sức sống mạnh mẽ, vẻ đẹp cường tráng của con
thuyền cũng
như tâm trạng phơi phới đầy tin tưởng của con người, tạo nên một bức tranh lao
động đầy
hứng khởi, dào dạt sức sống.
- Đẹp hơn nữa là hình ảnh cánh buồm:
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió
Câu thơ là một hình ảnh so sánh, nhân hóa độc đáo, tinh tế. Nhà thơ dùng cái trừu
tượng
để so sánh với cái cụ thể. Hình ảnh “cánh buồm” được ví với “mảnh hồn làng”
bỗng trở
nên lớn lao, thiêng liêng vừa thơ mộng vừa hùng tráng. Nhà thơ chợt nhận ra linh
hồn của
làng quê từ một hình ảnh vô cùng quen thuộc. Có thể nói, bao nhiêu trìu mến, đợi
chờ, hi
vọng, vui sướng, người dân chài đặt cả vào cánh buồm. Rõ ràng, phải yêu mến,
gắn bó
lắm, nhà thơ mới nhận ra vẻ đẹp đẽ, khác thường của quê hương thân yêu!
- Khổ thơ thứ ba lại khắc họa một vẻ đẹp khác của quê hương qua cảnh đoàn
thuyền đánh cá trở về với niềm vui đơn sơ, bình dị, xúc động:
Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về
Nhờ ơn trời biển lặng, cá đầy ghe
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng
Các tính từ “ồn ào”, “tấp nập” gợi được không khí đông vui, tâm trạng phấn khởi
của
những người dân chài. Người đọc còn thấy như nghe được cả lời cảm tạ chân thành
của
họ với trời đất, với biển cả sau một chuyến ra khơi bình yên. Và nổi bật trên không
khí ấy
là hình ảnh những chàng trai xứ biển:
Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm
Đây có thể coi là một trong số những câu thơ hay nhất trong bài thơ, có sự kết hợp
giữa tả
thực và biểu tượng. Những chàng trai xứ biển, quanh năm lăn lộn với sóng biển
nên thân
hình vạm vỡ, khỏe khoắn, làn da ngăm rám nắng. Hơn thế, họ còn là những sinh
thể được
tách ra từ biển, cơ thể của họ nồng mặn vị xa xăm của đại dương, thấm đẫm hơi
thở của
biển cả. Qua tình cảm tha thiết của Tế Hanh, câu thơ đã gợi ra được tầm vóc, linh
hồn của
những con người biển cả.
- Hai câu thơ miêu tả con thuyền trở về cũng là một sáng tạo độc đáo:
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ
Câu thơ sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân hóa, cùng với những từ ngữ chỉ trạng
thái
như “im”, “mỏi”, “nằm”,”nghe” đã biến con thuyền vô tri trở thành một sinh thể có
linh
hồn, cũng như những người dân chài, con thuyền lao động ấy đang lắng nghe và
cảm
nhận vị mặn mòi của đại dương đang thấm dần trong thân gỗ và thớ vỏ của mình.
Và có
lẽ, chất muối mặn mà của biển cả, đại dương cũng đã thấm sâu vào làn da, thớ thịt,
tâm
hồn của nhà thơ Tế Hanh để trở thành một niềm ám ảnh, bâng khuâng, kì diệu.
=> Có thể thấy, dưới ngòi bút của nhà thơ Tế Hanh, làng quê hiện lên hòa quyện
cảnh sắc
và con người; thiên nhiên và tính cách, những sinh hoạt...tất cả đều đẹp đẽ lạ
thường. Vẻ
đẹp ấy, tình quê hương ấy càng trở nên thắm đượm bởi nó được biết ra từ một hồn
thơ sôi
nổi của thời thanh xuân trai trẻ đầy ắp tưởng tượng, lãng mạn. Điều đó được thể
hiện ở
thể thơ tám chữ, giọng thơ dạt dào cảm xúc, trong đó nổi bật nhiều hình ảnh khỏe
khoắn,
đầy sức sống...khiến cho bài thơ lôi cuốn người đọc một cách mạnh mẽ. Trong bài
thơ,
người đọc còn bắt gặp những hình ảnh được sáng tạo, bằng cảm nhận tinh tế, thấm
đẫm
cảm xúc, ghi lại được vẻ đẹp và linh hồn của làng quê, từ đó thể hiện nỗi nhớ
thương
luôn thường trực, sâu sắc của Tế Hanh đối với quê hương yêu dấu. Tình quê nồng
thắm,
tha thiết thật đáng quý, đáng trân trọng biết bao! Phải chẳng, đó chính là một biểu
hiện cụ
thể, sinh động của tình yêu đất nước, là vẻ đẹp trong tâm hồn của mỗi con người
nói
chung và của mỗi người dân Việt Nam nói riêng.
3. Kết bài:
Tóm lại, qua ba khổ thơ đầu bài thơ, Tế Hanh đã gửi đến người đọc một ấn tượng
về quê
hương Quảng Nam mặn mòi, khoáng đạt; ấn tượng về con người quê hương mộc
mạc,
bình dị, thiết tha yêu cuộc đời lao động và ấn tượng về một nỗi nhớ thương quê
hương
sâu lắng, nồng đượm. Đọc đoạn thơ, ta như nghe thấy những âm vang về tình yêu
quê
hương đất nước, khẽ nhắc ta phải biết sống sao cho đúng với những gì mà quê
hương đã
ban tặng cho con người...và ta thấy thêm yêu quê hương mình hơn!
Bài tập 1: Cho đoạn thơ:
Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ
(“Quê hương” – Tế Hanh)
a. Phát hiện các biện pháp nghệ thuật đặc sắc được sử dụng trong đoạn thơ:
- Các biện pháp nghệ thuật đặc sắc được sử dụng trong đoạn thơ: Nghệ thuật nhân
hóa, ẩn
dụ: Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm - Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.
b. Viết đoạn văn cảm nhận tác dụng của các biện pháp nghệ thuật ấy:
Đoạn văn
“Quê hương” của Tế Hanh thể hiện tình yêu, nỗi nhớ quê hương sâu sắc. Dưới
ngòi bút
của ông, cảnh vật, con người làng quê miền biển hiện lên đẹp đẽ lạ thường:
Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ
Tế Hanh đã tạc lên bức tượng về hình ảnh người dân chài với thân hình cường
tráng, với
nước da săn chắc vì nắng gió biển khơi. Hình ảnh những người con của biển lớn
lao
ngang tầm trời cao biển rộng. Một sự sáng tạo độc đáo, một sự liên tưởng thú vị
bởi ý
thơ: Cả thân hình nồng thở vị xa xăm. Họ là những sinh thể được tách ra từ biển,
cơ thể
họ đã thấm đẫm bị mặn mòi và hơi thở của biển cả. Hình ảnh con thuyền giống
như
những con người miền biển trở về sau một chuyến đi xa. Đó vừa là con thuyền
thực, vừa
mang ý nghĩa biểu tượng. Nghệ thuật nhân hóa, ẩn dụ làm cho con thuyền trở nên
có
tâm hồn, có đời sống. Nó cũng thư giãn, nghỉ ngơi sau một chuyến ra khơi và lắng
nghe,
cảm nhận hương vị của quê hương đang thấm dần vào da thịt để rồi ngày mai lại
lên
đường bắt đầu một cuộc hành trình mới. Phải gắn bó với quê hương nhiều lắm, Tế
Hanh
mới có thể viết nên những vần thơ đầy cảm xúc như vậy!
Bài tập 2: Cho đoạn thơ:
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió
(“Quê hương” – Tế Hanh)
a. Phát hiện các biện pháp nghệ thuật đặc sắc được sử dụng trong đoạn thơ:
- So sánh: Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
- Nhân hóa: Rướn thân trắng bao la thâu góp gió
b. Viết đoạn văn cảm nhận tác dụng của các biện pháp nghệ thuật ấy:
Đoạn văn
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió
Hai câu thơ trong bài “Quê hương” của Tế Hanh mang vẻ đẹp lãng mạn để lại
trong lòng
người đọc nhiều ấn tượng. Thật độc đáo bất ngờ, khi nhà thơ so sánh “cánh buồm”
căng
gió biển khơi với “mảnh hồn làng”! Đem cái hữu hình cụ thể ví với cái vô hình
trừu
tượng, Tế Hanh vừa vẽ ra chính xác cái hình, vừa cảm nhận sâu sắc cái hồn của sự
vật.
Phép so sánh mới lạ đã khiến cho cánh buồm trở thành biểu tượng của làng chài
thân
thương, chứa đựng trong đó hồn thiêng quê hương và bao hi vọng mưu sinh của
người
dân chài về những chuyến ra khơi bình yên. Như thế, “cánh buồm” là quê hương,
theo
bước chân những người đi biển, là sức mạnh nâng đỡ, động viện họ vững tin trong
hành
trình lao động. Bởi vậy, cánh buồm được nhân hóa – cố “rướn” thân trắng thâu góp
gió
đại dương, đẩy con thuyền ra khơi khí thế mang trong mình rất nhiều ý nghĩa.
Cánh
buồm quen thuộc hằng ngày bỗng trở nên vừa đẹp đẽ ấm áp, vừa lớn lao thiêng
liêng, vừa
thơ mộng, lại vừa hùng tráng. Phải gắn bó, yêu mến quê hương nhiều lắm Tế Hanh
mới
viết nên được những dòng thơ đẹp về làng quê mình như vậy!
Bài tập 3: Cho đoạn thơ:
Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!
(“Quê hương” – Tế Hanh)
a. Phát hiện các biện pháp nghệ thuật đặc sắc được sử dụng trong đoạn thơ:
- Liệt kê, điệp từ “nhớ”.
b. Viết đoạn văn cảm nhận tác dụng của các biện pháp nghệ thuật ấy:
Đoạn văn
“Quê hương” của Tế Hanh thể hiện tình yêu, nỗi nhớ quê hương sâu sắc. Dưới
ngòi bút
của ông, nỗi nhớ ấy thật da diết, cháy bỏng:
Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!
Quê hương không phải là khái niệm chung chung, trừu tượng mà là những gì gần
gũi,
bình dị nhất với mỗi chúng ta. Xa quê hương, nhà thơ nhớ những hình ảnh, hương
vị rất
riêng của làng quê miền biền: màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi, nhớ con
thuyền rẽ
sóng chạy ra khơi và nhớ cả cái mùi nồng mặn của biển. Nghệ thuật liệt kê, điệp
ngữ
“nhớ”, lời thơ giản dị, mộc mạc khẳng định và nhấn mạnh tình cảm gắn bó sâu
nặng của
tác giả với quê hương. Thật thiết tha và xúc động biết bao khi tác giả thốt lên Tôi
thấy
nhớ cái mùi nồng mặn quá!. Tất cả những hình ảnh, màu sắc, hương vị của quê
hương đã
thấm đẫm trong tâm hồn nhà thơ. Để rồi khi xa quê, chỉ cần chạm nhẹ là nỗi nhớ
ấy lại
tuôn chảy dào dạt. Phải gắn bó với quê hương nhiều lắm Tế Hanh mới có thể viết
nên
những vần thơ đầy cảm xúc như vậy!