Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

phân tích nhân vật lão hạc trong truyện ngắn lão hạc của nam cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (56.28 KB, 14 trang )

Bài số 2

1. Mở bài:
- Nam Cao là một trong những cây bút hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt
Nam giai
đoạn 1930 – 1945.
- “Lão Hạc” là truyện ngắn tiêu biểu của ông viết về đề tài người nông dân trước
Cách
mạng. Trong thiên truyện ngắn đặc sắc này, Nam Cao đã rất thành công khi xây
dựng
hình tượng nhân vật lão Hạc – một trong số những nhân vật đẹp nhất trong thế giới
nghệ
thuật của ông để lại trong lòng người đọc ấn tượng sâu sắc. Đó là một người nông
dân
trong xã hội cũ tuy nghèo khổ, bất hạnh nhưng tâm hồn lại tỏa sáng những phẩm
chất cao
quí.
2. Thân bài:
* Hoàn cảnh sáng tác + Chủ đề:
- Nam Cao sáng tác truyện ngắn “Lão Hạc” vào năm 1943, trong hoàn cảnh sống
dở chết


dở của nhiều tầng lớp nhân dân. Ra đời trong hoàn cảnh đó, tác phẩm không chỉ
phản ánh
hiện thực đen tối của nông thôn Việt Nam trước cách mạng tháng Tám mà còn
khẳng
định, ca ngợi nhân phẩm cao quí của những con người nghèo khổ.
* Khái quát về nhân vật:
- Lão Hạc là nhân vật trung tâm của tác phẩm. Ở truyện ngắn này, ngòi bút nhân
đạo của


Nam Cao đã đi sâu vào phát hiện bi kịch tinh thần của người nông dân nghèo khổ.
Bằng
con mắt “cố tìm mà hiểu”, Nam Cao đã phát hiện ra một cuộc đấu tranh bảo vệ
nhân
phẩm của lão Hạc, từ đó hoàn thiện bức chân dung tinh thần của người nông dân
nghèo
khổ này.
a. Lão Hạc là một người nông dân nghèo khổ và bất hạnh:
- Lão Hạc không phải là hạng cùng đinh, nhưng lão cũng không thoát khỏi sự rượt
đuổi
của nghèo đói. Vì đói nghèo mà cuộc đời lão gặp biết bao nhiêu bất hạnh, khổ đau.
Cái
nghèo đã cướp mất đứa con trai duy nhất của lão. Vì không có tiền cưới vợ nên con
trai


lão phẫn chí bỏ đi biệt xứ. Vợ chết, con trai bỏ làng ra đi, lão Hạc trong tuổi già cô
đơn
sống thui thủi với con Vàng – con chó do con trai lão nuôi. Rồi bệnh tật, mất mùa,
thấp
nghiệp đã dồn lão vào cái đói, thực sự “đói deo đói dắt”. Cuối cùng không còn
đường
sống, lão Hạc đã tìm đến cái chết bằng bả chó.
- Nam Cao đã miêu tả chi tiết cái chết thảm khốc, dữ dội của lão Hạc: “Lão Hạc
đang vật
vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru
tréo,
bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại giật mạnh một cái, nảy lên...Lão vật vã
đến hai
giờ đồng hồ rồi mới chết”. Cái chết của lão Hạc là một biến cố điển hình để nhân

vật bộc
lộ tính cách điển hình. Cái chết thê thảm, đau đớn của lão Hạc là cái chết tự
nguyện
nhưng cũng là do sự dồn đẩy của cái đói. Miêu tả một cái chết như thế, Nam Cao
đã gieo
vào lòng người đọc nỗi ám ảnh khinh hoàng về số phận bi thảm, bế tắc của người
nông


dân trong xã hội cũ. Nam Cao đã đứng về phía những người nghèo khổ, tố cáo xã
hội đã
dồn đẩy con người đến ức tuyệt vọng, đã bức tử sự sống của họ.
b. Nhưng nếu Nam Cao chỉ xây dựng nhân vật lão Hạc như thế thì ông chưa thể trở
thành nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn. Cái lớn của ngòi bút Nam Cao chính là chỗ nhà

văn không chỉ miêu tả cuộc đời khốn khổ, bế tắc của lão Hạc mà còn phát hiện ra
biết bao vẻ đẹp tâm hồn cao quý ở lão.
* Ở người nông dân nghèo khổ này, ta thấy sáng ngời một tình yêu thương con sâu
nặng:
- Vợ mất, một mình lão sống trong cảnh “gà trống nuôi con”. Thương con trai côi
cút, lão
dành hết mọi tình cảm cho con. Chứng kiến nỗi tuyệt vọng của con khi bị người
yêu phụ
bạc lão đau đớn, dằn vặt, xót xa. Thương con nhưng lực bất tòng tâm, lão đành bất
lực
nhìn hình hài cốt nhục của mình được người ta mua bằng ba đồng bạc: “Thẻ của nó
người
ta giữ, hình của nó người ta đã chụp rồi, nó lại đã lấy tiền của người ta, nó là người
của



người ta rồi chứ đâu còn là con tôi?”. Trong lời nói nghẹn ngào của lão Hạc, ta cảm
nhận
được nỗi đau xót khôn cùng của người cha thương con mà không lo nổi hạnh phúc
cho
con. Đây là nỗi đau đớn dằn vặt của người cha vì nghèo mà đã để mất con.
- Lão Hạc luôn ám ảnh về cái lỗi của người cha sinh con trong phận nghèo để con
phải
chịu bất hạnh. Điều đó cho ta hiểu tại sao rơi vào tình trạng cùng đường, lão vẫn
chỉ nghĩ
đến con. Lão hầu như quên đi những nhu cầu tối thiểu của bản thân: “Lão chế được
món
gì ăn món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối, hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau
má, với
thỉnh thoảng vài củ ráy, hay bữa trai, bữa ốc”. Lão không dám xâm phạm vào tài
sản của
con dù chỉ là một chút. Lão chắt bóp, tằn tiện cũng là để vun vén cho con. Lão tự
nhủ:
“Cái vườn này là của con ta”, rồi lão lẩm bẩm tính: “Thế nào rồi đến lúc con lão
về, lão
cũng có được một trăm đồng bạc” để cho con làm vốn liếng. Thì ra trĩu nặng trong
tâm trí


lão Hạc vẫn là chuyện đứa con trai. Thì ra mọi tính toán, suy nghĩ của lão đều
hướng về
tương lai con.
- Khi nghèo đói có thể khiến lão sẽ tiêu lẹm vào tài sản của con, lão đã âm thầm
dọn
đường cho bài toán cuộc đời mình. Lão bán con Vàng, viết giấy gửi mảnh vườn

cho ông
giáo rồi tìm đến cái chết bằng bả chó. Chọn đường quyên sinh để giữ cho con ba
sào
vườn là một sự lựa chọn nghiệt ngã, đau đớn. Không phải lão không quí sinh mạng
của
mình; lão đã rất bền bỉ để gắng sống, lão đã cố duy trì sự sống bằng mọi cách.
Trong mòn
mỏi, lão vẫn cố chờ con trai trở về. Người cha ấy muốn sống thế mà lại phải tìm
đến cái
chết. Tại sao lại như vậy? Bởi lão biết nếu lão cố duy trì sự sống, sống một cách
lương
thiện thì trước sau gì cũng phải tiêu lẹm vào tài sản của con. Vì tương lai của con,
lão sẵn
sằng hi sinh sự sống của mình. Sự hi sinh ấy thật cao cả song cũng thật xót xa cay
đắng.


- Cha mẹ thương con là thế đấy! Đó là một tình cảm mang tính bản năng, không có
gì lạ.
Song tình thương con của lão Hạc vẫn khiến người đọc cảm động đến rơi nước
mắt. Bởi
thế nếu coi truyện ngắn “Lão Hạc” là bài ca về tình phụ tử thì cũng không có gì là
khó
hiểu.
* Trong cái nhìn của nhà văn Nam Cao, lão Hạc không chỉ là người cha giàu đức hi
sinh mà còn là người nông dân nhân hậu và lương thiện:
- Đặt nhân vật lão Hạc trong mối quan hệ với con Vàng – con chó do con trai lão
nuôi –
nhà văn đã làm ngời sáng nét đẹp tâm hồn ấy. Giữa lão Hạc với con Vàng không
đơn

thuẩn chỉ là mối quan hệ giữa người chủ và vật nuôi. Trong tuổi già cô đơn của lão
Hạc,
con Vàng là người bạn chia sẻ với lão những niềm vui, nỗi buồn. Không chỉ có
vậy, con
Vàng còn là kỉ niệm của con trai, là chút tài sản tinh thần quí giá. Bởi vậy, bao
nhiêu tình
thương đối với người con, lão đều dành hết cho con Vàng: Lão âu yếm gọi là “cậu
Vàng


như một bà mẹ hiếm hoi gọi đứa con cầu tự”. Thỉnh thoảng lão lại bắt rận cho nó
hay
đem nó ra ao tắm. Không chỉ có thể, lão còn cho nó “ăn cơm trong cái bát như một
nhà
giàu”. Khi lão uống rượu “lão cứ nhắm vài miếng lại gắp cho nó một miếng, như
người ta

gắp thức ăn cho con trẻ”. Trong cái tình của lão đối với con Vàng dường như có cả
tình
cha con.
- Khi lâm vào cảnh túng quẫn, cùng đường, lão đã tự đấu tranh với chính mình.
Trước khi
bán con Vàng, lão đắn đo do dự khiến ông giáo phát bực mình: “Làm quái gì một
con chó
mà lão phải băn khoăn quá thế?”. Cái băn khoăn này của lão Hạc là biểu hiện đẹp
nhất
của một trái tim nhân hậu.
- Sau khi bán chó, lão Hạc đã thực sự sống trong bi kịch. Nam Cao đã miêu tả thật
chi tiết
nỗi ân hận băn khoăn day dứt của lão Hạc khi bán con Vàng: "Mặt lão đột nhiên co

rúm


lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo
về một
bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc...". Bằng
những nét
miêu tả về ngoại hình, Nam Cao đã cụ thể hóa những giằng xé trong nội tâm nhân
vật.
Nỗi đau đớn hiện hình trên khuôn mặt già nua khô héo rồi vỡ òa thành nước mắt và
bật
thành tiếng khóc hu hu. Đi sâu vào những giằng xé trong nội tâm nhân vật ta mới
hiểu tại
sao lão Hạc day dứt đau đớn đến thế khi bán con Vàng.
- Kỉ niệm là một chuyện song điều cắn rứt lương tâm lão nhất chính là: “Thì ra tôi
già
bằng này tuổi đầu rồi mà còn đánh lừa một con chó”. Lão tự nhận là một kẻ bất
nhân, là
tên lừa đảo đối với một con chó vốn tin yêu mình. Có lẽ đây là giây phút đau đớn
nhất
trong cuộc đời lão. Tâm hồn lão Hạc phải thật trong sáng và đẹp đẽ đến như thế
nào thì
mới có cảm giác đau đớn vì đã lừa một con chó. Phải có trái tim vô cùng nhân hậu



trong sạch thì mới bị dày vò lương tâm. Phải đau đớn đến dường nào mới cảm thấy
có lỗi
với một con chó như vậy! Đọc những câu văn được coi là hay nhất của tác phẩm
nà y,

không ít người đã im lặng kính cẩn trước nỗi đau của lão Hạc. Trong tâm hồn lão
Hạc,
bên cạnh nỗi đau không làm tròn bổn phận với con, còn mang thêm nỗi đau vì trót
lừa
một con vật. Lòng lão Hạc thật trong sáng và lương thiện!
* Lão Hạc không những giàu tình yêu thương mà còn giàu lòng tự trọng:
- Lão tự trọng trong cuộc sống nghèo khổ, túng quẫn. Lão nghèo nhưng không hèn,
không vì miếng ăn mà khụy lụy. Lão từ chối mọi sự giúp đỡ của ông giáo, từ chối
gần
như là “hách dịch”. Lão tự trọng đến mức không còn gì để ăn song lão vẫn gửi ông
giáo
30 đồng để lo ma chay, để không phải liên lụy đến hàng xóm láng giềng. Khi
không còn
đường sống, lão đã lặng lẽ tìm đến cái chết chứ nhất định không chịu “đói ăn trộm,
túng
làm liều” theo gót Binh Tư đi ăn trộm. Cái chết của lão Hạc tuy xót xa cay đắng
song đã
khẳng định sự chiến thắng của nhân phẩm con người.


* Đánh giá:
- Như vậy, truyện ngắn “Lão Hạc” không chỉ là bài ca về tình phụ tử cao đẹp mà
còn là
bài ca về vẻ đẹp nhân phẩm con người.
- Nhân cách ngay thẳng, không gục ngã trước sự xô đẩy của hoàn cảnh đã làm cho
nhân
vật lão Hạc trở nên đặc biệt, độc đáo trong thế giới nhân vật của Nam Cao trong
văn học.
- Nhiều nhân vật của Nam Cao vốn là những người hiền lành, lương thiện ấy vậy
mà họ

đã bị hoàn cảnh khuất phục như Chí Phèo ( “Chí Phèo”), Lộ (“Tư cách mõ”), bà
lão
(“Một bữa no”). Trong số đó có cả nhân vật trí thức như thầy giáo Thứ (“Sống
còn”), nhà
văn Hộ (“Đời thừa”). Nhưng lão Hạc lại không như các nhân vật khác của Nam
Cao. Lão
tuy nghèo nhưng giàu lòng tự trọng, tự trọng đến mức khảng khái. Dù bị cái đói
dồn vào
chân tường như lão vẫn không chịu khụy ngã. Kì diệu thay, hoàn cảnh khắc nghiệt
đã
không thể biến một lão Hạc lương thiện thành một lão Hạc dám làm điều xấu để
mong có


miếng ăn mà tồn tại. Con người ấy sẵn sàng hủy diệt sự sống của mình để bảo toàn
nhân

cách. Bởi vậy cho dù cuộc đời lão Hạc kết thúc thật buồn song trong lòng người
đọc lại
ánh lên niềm tin vào nhân cách những con người nghèo khổ.
3. Nghệ thuật:
- Bằng ngòi bút hiện thực, đặc biệt bằng một giọng văn trữ tình, thấm đượm ý
nghĩa triết
lí, nhà văn Nam Cao đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật lão Hạc. Đó là
một lão
nông nghèo khổ nhưng nhân cách vô cùng trong sạch. Với những nét đẹp tâm hồn
cao
quý, nhân vật lão Hạc đã trở thành hình tượng tiêu biểu cho người nông dân Việt
Nam
trước cách mạng tháng Tám.

- Lão Hạc là nhân vật hiếm hoi của Nam Cao đã làm xao xuyến ngay cả ngòi bút
lạnh
lùng của chính nhà văn. Khi viết về lão Hạc, nhiều chỗ ngòi bút của Nam Cao
không còn
giữ được sự khách quan, nhà văn đã xen vào tác phẩm những lời trữ tình để bày tỏ
sự


đồng cảm với nhân vật. Qua nhân vật lão Hạc, nhà văn đã thể hiện niềm tin mãnh
liệt và
cả lòng kính trọng vào nhân phẩm con người, nhất là những người nghèo khổ. Ông
đã
nhìn họ bằng một cái nhìn cái mới mẻ, thấm đẫm tinh thần nhân đạo.
- Đặt nhân vật lão Hạc dưới điểm nhìn của dư luận, Nam Cao đã đặt ra vấn đề đôi
mắt
cần có để nhìn người nông dân. Dưới con mắt của vợ ông giáo, lão Hạc chỉ là một
người
gàn dở, có tiền mà chịu. Trong cái nhìn của Binh Tư – một kẻ sống bằng nghề ăn
trộm thì
lão Hạc cũng “ghê ra phết”. Nhưng với đôi mắt của tình thương, đôi mắt “cố tìm

hiểu” qua lời của ông giáo, Nam Cao đã phát hiện ra bao phẩm chất cao đẹp ở
người
nông dân khốn khổ này. Nam Cao xứng đáng là người bạn tri ân của người nông
dân, là
bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực nhân đạo.
3. Kết bài:
Có những tác phẩm đọc xong một lần là quên ngay, nhưng có những tác phẩm,
những



nhân vật tiếp xúc một lần là ta nhớ mãi, nó soi rọi vào tâm hồn ta nguồn ánh sáng
kì diệu,
thay đổi cách ta nhìn, ta nghĩ. Nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn của Nam Cao là
một
trong những nhân vật như thế.



×