I. PHẦN MỞ ĐẦU
Dân tộc Mường là một trong những dân tộc có số lượng người đơng trong
54 dân tộc anh em của Việt Nam. Người Mường phân bố chủ yếu ở tỉnh Hịa
Bình, trong có 4 mường nổi tiếng : Bi, Vang, Thàng, Động ; một số phân bố ở
các tỉnh Thanh Hóa, Phú Thọ, Sơn La...Người Mường làm ruộng nước trong các
thung lũng với trình độ canh tác khá cao. Ngồi ra, họ cịn chăn ni gia súc, gia
cầm, săn bắn, đánh cá, hái lượm và thủ công nghiệp. Làng xóm định cư ở chân
núi, bên sườn đồi, gần sơng suối.
Người Mường có kho tàng văn hóa riêng biệt rất phong phú. Nghi thức
ma chay là một trong những nghi thức tôn giáo " đậm đặc" của người Mường, đã
thể hiện được những tập tục cổ truyền, những quan niệm về vũ trụ, thế giới nhân
sinh quan dân tộc. Các phong tục này đã bắt rễ lâu đời, ăn sâu vào tâm khảm của
người dân, là chất liệu góp phần xây dựng nên cái bản sắc- bản ngã của dân tộc
Mường. Với người Mường tang lễ được tổ chức rất long trọng.
Các nghi thức tang ma được quy định rất nghiêm ngặt: từ trang phục của
người chết, con cháu, anh em, họ hàng... cho đến việc xem ngày giờ nhập quan,
cách bầy trí các đồ cúng lễ, áo quan; các nghi lễ, nghi thức: đưa ma, quạt ma, lễ
nhạc, đặc biệt là những đêm mo. Người Mường ở Hồ Bình với nghi lễ tang ma
của họ có đặc điểm chung là những đêm Mo . Một lễ tang có thể kéo dài từ một
đêm, hai đêm, hoặc mười đêm, mười hai đêm hoặc lâu hơn nữa. Điều này phụ
thuộc vào tuổi tác và địa vị xã hội làng, bản của người chết.Trước năm 1954
người xứ Mường ở một số vùng có tục làm ma khơ. Với người giàu việc lưu giữ
xác chết trong nhà để bày tỏ sự giàu có, vì phong tục đó địi hỏi những nghi lễ
tốn kém trong suốt thời gian lưu quan tài ở trong nhà. Ngược lại với người
nghèo đó là dấu hiệu tủi nhục, vì việc chơn cất người chết chỉ được thực hiện
sau khi đã làm đủ các nghi lễ rất tốn kém theo hủ tục cổ truyền.
Tuy nhiên sự thay đổi về không gian sống và thời gian đã làm thay đổi
những nét văn hóa đạc trưng của người Mường, trong đó có sự thay đổi của nghi
thức ma chay. Nghiên cứu những nét đặc trưng trong văn hóa người Mường sẽ
1
cho thấy sự tiến bộ trong quan niệm tâm linh của họ. Người Mường cũng như
các dân tộc khác của Việt Nam rất quan trọng việc con người rời khỏi thế giới
sống như thế nào. Nghi thức ma chay còn thể hiện cách báo hiếu của người sống
đối với người chết.
Vậy phong tục ma chay của người Mường như thế nào ?. Những nghi
thức chủ yếu nào còn được giữ lại và những nghi thức nào đã khơng cịn ?. Dựa
trên kết quả phỏng vấn sâu về “ quan điểm của người cao tuổi về đám ma của
người Mường hiện nay ” tại xóm rú 6, xã Xuân phong, huyện Cao phong, Hịa
Bình sẽ đi tìm hiểu những khía cạnh trong phong tục ma chay của họ. Ở bất cứ
tộc người nào, khi tiễn người qua thế giới bên kia cũng đều có những nghi lễ, bài
lễ ca nhất định. Toàn bộ những nghi lễ và các bài ca phản ánh quan niệm về cái
chết và cái sống mà ta thường gọi là nhân sinh quan của một tộc người. Ở đó thể
hiện cách ứng xử với con người khi từ biệt thế giới này. Đó là thể hiện nét văn
hóa tâm linh của một tộc người. Mo của người Mường cũng nằm trong quỹ đạo
đó. Có điều ở người Mường trong tang lễ được thực hiện có quy mơ, thống nhất
và hệ thống hơn với một triết luận đáng chú ý.
Nghiên cứu được thực hiện với 8 trường hợp ( 4 cụ ông và 4 cụ bà) là
những người cao tuổi vẫn cịn có sức khỏe và nhận thức tốt về cuộc sống cũng
như những thay đổi trong làng xóm theo khơng gian và thời gian. Cơng việc
hằng ngày của người cao tuổi tại đây thường là ở nhà trơng nhà của cho con
cháu, các cụ cịn khỏa mạnh thì vẫn đi làm cỏ đồng áng, và khi có người hỏi họ
thường rất mở lịng khi nói về các phong tục trong văn hóa của người dân tộc
họ. Những người cao tuổi ở đây họ đã sống từ khi sinh ra cho đến giờ ở làng, cả
cuộc đời họ đã chứng kiến sự thay đổi về mọi mặt của văn hóa làng. Những
quan điểm của họ sẽ cho chúng ta hiểu thêm về nghi thức đám ma của người dân
tộc Mường về các khía cạnh trang phục trong đám ma, thời gian cử hành nghi lễ,
các nghi thức chính trong đám ma, những vật cúng trong từng nghi thức, và đặc
biệt là những “đêm mo”. Cùng với những tài liệu liên quan đến văn hóa tang lễ
của người Mường sẽ cung cấp cho chúng ta cái nhìn tổng thể và hiểu biết sâu
sắc hơn về nét văn hóa đặc sắc riêng của người dân tộc Mường.
2
II. PHẦN NỘI DUNG.
1. Quan điểm của người cao tuổi về những đêm Mo trong đám ma
hiện nay.
Mo là toàn bộ nghi lễ và lời ca trong đám tang Mường do ơng mo điều
khiển. Như vậy Mo có hai bộ phận: Các nghi lễ và lời ca (lễ ca) đều do ơng mo
điều khiển.
Mo có cái gì khác với các nghi lễ khác? Lâu nay nhiều người đã nhầm,
coi tất cả các lễ đơm, cúng làm vía đều là mo. Điều đó là sự ngộ nhận. Mo, đứng
về lễ ca là một thể loại đặc biệt được cử hành trong đám tang với những giai
điệu riêng. Nó khơng lẫn với các loại như đơm ma (cúng) khấn (khần), lởi, làm
vía, cầu mát (khống nhá).
Mục đích của nó? Hay mo để làm gì? Vì sao xưa và cả nay khi có người
quá cố, người Mường lại mo? Nội dung Mo có những điều gì?.
Đây là những vấn đề cơ bản và quan trọng. Muốn trả lời các câu hỏi trên
đây phải tìm đến quan điểm lẽ sống chết của người Mường được hình thành
cùng với tộc người này từ xưa cho tới nay. Đây là điều quan trọng: Muốn giữ,
muốn xóa phải hiểu “cho đến ngọn nguồn lạch sông”.
“ Người Mường có quan điểm: sống cho ra kiếp người, chết cho ra kiếp
ma và: Chết không thẹn với ma trong đống, sống không xấu hổ với người trần
gian. Người Mường cho rằng chết không phải là hết, chết là tiếp tục “sống” ở
một cõi, kiếp khác”.(Cụ ơng N, 78 tuổi, xóm rú 6 – hội trưởng người cao tuổi xã
Xuân Phong). Điều này rất đáng chú ý: Nếu chết là hết tất cả, thì nhân loại
khơng có tín ngưỡng và cũng khơng có tơn giáo.Đó là một quan điểm về lẽ sống,
chết có tầm đáng quan tâm. Vì trước đây, bây giờ tín ngưỡng, tơn giáo vẫn là
một thực thể tồn tại trong đời sống nhân loại.
Cũng theo cụ ông N: “Người Mường quan niệm người chết thì khơng
cịn là con người, nhưng chưa thành ma, chỉ khi có được mo lên trời để chuộc
số, tức là đổi số sống sang số chết và xin đuông trở thành một kiếp khác mới
3
thành ma thực sự. Lúc bấy giờ mới có thể đi mây về gió phù hộ con cháu”.
Nhưng muốn chuộc được số, xin được đuông (tuông) phải qua cầu Lim La, qua
thần xử kiện trên trời xem lúc sống có là người hiền lành không?.
“ Nếu lúc sống gây ra tội ác thì sẽ rơi xuống dưới cầu. Ở đó bị cá sấu, rắn
ăn thịt, chông gai xăm xỉa.” –( Cụ bà T, 72 tuổi)
Khi được nổ Mo đưa lên trời, người chết cịn được ngắm nhìn lại đất
mường q hương “biết đường đi lối về”. Mo còn là để hồn người thăm lại, nhìn
nhận lại họ hàng nội ngoại bên ma và “tìm đất ở, làm ăn” chốn bên kia thế giới.
Mo cịn là để qua lời ơng mo, người quá cố nhắn nhủ lại con cháu anh em ở lại
thương yêu nhau, sống với nhau cho thiện, cho đẹp.
Đó là tồn bộ vắn tắt về mục đích và nội dung mo Mường. Như vậy ta
thấy người Mường xưa đã tạo dựng được cơ sở triết luận cho mo và điều này đi
vào tiềm thức của mỗi người Mường xưa. Đó chưa nói đến mo cịn là để đền ơn
đáp nghĩa với bố mẹ để không phải hổ thẹn với anh em làng xóm xa gần.
Theo Vũ Ngọc Khánh trong cuốn Truyền thống văn hóa các dân tộc thiểu
số Việt Nam ( tập I)- NXB Thanh Niên, Mo là tiếng chỉ chung các bài ca nghi lễ
mà những pháp sư ( thầy cúng) đọc ở những đám tang hay đám lễ cảu các dân
tộc thiểu số khác. Đầu tiên chữ mo nà dùng trong phạm vi dân tộc Mường,
nhưng sau đó những bài hát nghi lễ, những người thực hiện nghi lễ này ở các
dân rộc khác đều gọi là ông Mo. Các bài mo đã được phát hiện cũng giống như
những bản trường ca được thấy ở các dân tộc ( then ở Tày-Nùng), khan ở Tây
Nguyên).Dân tộc Mường có tác phẩm Đẻ đất đẻ nước, người Mường gọi đây là
mo tiêu. Mo tiêu như một bản sử thi thuật lại con người từ khi có đât trời, bản
mường biết chăn nuôi, làm nhà cửa... cho đến khi thành cơ nghiệp đàng hồng.
Cùng với mo tiêu cịn có mo vái , tức là mo lên trời. tường thuật rõ về cõi sống
và cõi thiêng, là những mường trần gian, mường trời, với tất cả những huyền
thoại ly kỳ, Trên mường trời có các vị thần coi việc sinh đẻ, việc giữ gìn lửa,
ruộng nương, gia súc....v.v..Người chết sẽ được các thầy mo dẫn lên cõi siêu
phàm ấy, qua những sông Ly, cầu Liêm La, đến nơi đổ các tội lỗi ở trần gian,
4
xóa hết nợ nần kiện tụng để được gặp Vua Trời, được “xin tuông chuộc thổ”. Sự
tưởng tượng của người Mường cũng phong phú khơng kém gì những mơ ước
trong các huyền thoại ở Phương Đông và Phương Tây.
Dân tộc Mường Khi có các đám tang, thường mời thầy cúng về đọc các
bài mo trên( mo tiêu, mo vái). Có thể đọc cả hoặc có thể đọc từng đoạn, gọi là
mo nhìn mường, mo tng...v.v..
“ Người ta tin rằng, nhờ có thầy mo, hồn người chết có thể đươc dẫn dắt
đi vào cõi siêu trần để nhìn lại” ( cụ bà D, 68 tuổi) - theo cách nói ngày nay- cả
một bước đường về lịch sử tiến hóa nhân loại. Và hồn người chết cũng được đi
về mường trời mộtt cách thanh thản, trút hết ưu phiền trong ước vọng tâm linh
sâu sắc. Nói là đưa hồn đi, song thực tế nói với những người đang sống.
“ Ngày xưa các đám tang đám tang đầy đủ của các gia đình có điểu kiện
cuộc mo kéo dài đến những 12 ngày, nhưng bây giờ theo quy định thì đám ma
chỉ đươc phép diễn ra trong vòng 48 giờ (2 ngày), nên những cuộc mo chỉ vắn
tắt theo từng trích đoạn” –( cụ ơng G, 70 tuổi)
Các loại mo – trình tự tiến hành các loại mo:
Xét cho kỹ mo chỉ có bốn loại. Đây là bốn loại lớn. “ Còn trước khi vào
mo, hay giữa hai đêm mo, ơng mo có thể có mo đánh thức khót khánh, đánh
thức nổ (tổ sư của ông mo), kể cuông nổ, cuông đèn dầu, lễ vải cho cố ngài ăn.
Tất cả các loại này có thể tính như khúc dạo đầu các loại mo chính thức mà
thơi”- (Cụ ơng N, 78 tuổi.)
- Các loại mo chính thức có:
• Mo chuộc số, xin đng (tng)
• Mo nhìn (nhìn nhận)
• Mo t’lêu
• Mo nhắn (nhắn nhủ)
“ Bốn loại mo trên đây thực ra chỉ có ba loại (chuộc số, cịn gọi mo nhịm,
mo nhìn, mo nhắn) là nằm trong hệ thống chặt chẽ, bắt buộc phải dùng. Cịn mo
t’lêu: có nghĩa t’lêu trồng dống chơi”- (Cụ ông B, 71 tuổi). Nghĩa là để chơi bời
5
cho biết, giải trí và nâng trí. Nhưng trên thực tế các ông mo đã đưa mot’lêu: Đẻ
đất Đẻ nước là một thể loại sử thi sáng thế. Nhưng lâu nay khơng ít người ngộ
nhận hễ nói đến mo là nói Đẻ đất Đẻ nước và ngược lại.
( Ảnh minh họa : Hình ảnh ơng Mo trong một đám tang người Mường)
Thứ tự thực hiện các loại mo:
Nghiên cứu về các loại mo và tiến trình thực hiện các loại mo trong các
đám mo xưa ta thấy người xưa đặt ra các loại mo và tiến trình thực hiện khá lơ
gíc. Ngày nay nhiều ơng mo mới ít suy nghĩ và không chịu theo cách người xưa.
Đến như các nhà sưu tầm nghiên cứu đời nay phân loại cũng rất tùy tiện lộn xộn
không theo một hệ thống nào hoặc khi sưu tầm từng “rằng” chương khúc rồi
thấy nội dung được cứ cơng bố khơng có đối chiếu trên thực tế nên khơng biết
rằng mo đó các ơng mo ngày xưa xếp vào loại mo nào, sử dụng nó vào lúc nào
trong mo.
Người cao tuổi trong xóm nhận thấy có sự thay đổi trong các đám ma về
chất lượng và thời gian Mo “ vì thời gian diễn ra đám ma không được tùy ý như
ngày xưa và ngày nay thì các Ơng mo khơng cịn thuộc hết được các bài Mo cổ
nữa” – (Cụ ông P, 70 tuổi).
Theo cụ ông N, 78 tuổi thì “ ngày xưa mỗi đêm mo thường kéo dài một
ngày, hoặc nhiều hơn tùy thuộc và hồn cảnh của gia chủ, có thời gian nghỉ ngơi
để ơng Mo đọc theo từng trích khúc, nhưng ngày nay mỗi lần mo( đọc khúc ca)
hay còn gọi đêm mo chỉ cách nhau một giờ để ông mo ăn cơm và nghỉ ngơi để
tiếp tục mo. Và chỉ đọc vắn tắt các khúc mo để căn đúng với thời gian cho phép
diễn ra đám ma”. Theo truyền thống và căn cứ vào tính lơ gíc của mo, tiến trình
thực hiện các đêm mo như sau:
Mo chuộc số, xin đuông.
Loại mo và đêm mo này có nơi cịn gọi là mo lên, mo lên trời, mo
nhòm… Đây là đêm mo thứ nhất. Mục đích của đêm mo này là nổ mo đưa cố
6
ngài lên nhà Trời xin chuộc số và xin đuông, cũng là dịp được ngắm nhòm quê
hương đất nước, biết đường đi lối về.
“ Đêm mo này nổ nhà mo đưa cố ngài đi qua những mường, những cánh
rừng sông suối dưới đất cho đến núi Hang Hao là nơi sinh ra Trứng Tiếng, Trứng
Tiếng nở ra con người. Từ đó qua các chặng đường lên trời. Đáng chú ý là cố
ngài phải qua cầu Lim La, vào nhà cun xử kiện. Ngài có là người hiền lành khi
cịn sống mới qua được cầu và pháp trường nhà cun xử kiện. Qua được ở đây lên
được nhà Tà Keo Renh, mới nhòm đất nhòm mường. Rồi nhớ lòng thân thiện
của Tà Keo Renh mới vào chuộc được số và xin đng (Tng). Ngài được
đng chim có thể bay lượn đi về. Ở đây ta thấy người Mường sinh ra từ trứng
chim, khi qua đời lại trở về với kiếp chim. Đó là sự nhất quán trong mo Mường.
Chuộc được số, xin được đng, cố ngài trở lại q nhà vì đã có cánh nên đi
lướt nhanh qua các nơi ở trên trời từng qua lúc lên”. ( Cụ bà A, 79 tuổi)
Đêm mo thứ hai: Mo nhìn.
Nhìn ở đây là nhìn nhận. Ở loại mo và đêm mo có nơi gọi là: Mo Zống
tồng (qua các nghĩa địa) mo xin đất…
Mục đích chủ yếu của loại mo hay đêm mo này là “ sau khi người chết đã
thành ma thực sự, ngài phải về bên ma để tìm họ hàng anh em nội ngoại và xin
“đất ở, đất làm ăn” với chúa đống” –(cụ bà B, 66 tuổi). Vì có tìm họ, anh em nội
ngoại bên ma nên gọi là mo nhìn (nhìn nhận) và hồn phải qua các đống, nghĩa
địa bên ngoại, bên nội và gặp chúa đống nên gọi là mo Zống tồng. Đáng chú ý
tính lơ gíc của nó là chỉ khi nào qua chuộc số xin đuông mới thành ma thực sự,
mới nhận họ hàng bên ma và mới “có quyền” xin đất ở (chơn) bên ma.
Loại mo thứ ba là mo t’lêu.
“Mo t’lêu còn gọi là mo Kinh pỏ rỏ trờng hay có nơi gọi là Rếch pỏ rỏ
trờng. Từ tiếng Mường cổ này chỉ có nghĩa là gốc tích. Truyện gốc tích khởi
nguồn của trời đất, ngày tháng, con người và muôn vật trên đời”- ( Cụ bà T, 72
tuổi). Còn cái tên Đẻ đất Đẻ nước mới được một số nhà sưu tầm gán cho tác
phẩm này vào những năm 70 của thế kỷ qua. Cái tên này không khái quát.
7
Truyện này đâu chỉ có Đẻ đất Đẻ nước mà nó cịn đẻ người, lửa, nhà cửa, tìm ra
khí cụ mới, sự giàu nghèo, sự di chuyển…
Như trên đã nói, mot’lêu là mo chơi bời có tính giải trí và nâng trí. Thể
hiện sự khát vọng, mong muốn tìm biết của người Mường xưa đối với thế giới
xung quanh. Loại mo này khơng dành cho nhà nghèo vì nó dài phải vài ba đêm.
Nên xưa chỉ dành cho nhà giàu. Mục đích của loại mo này là trong những ngày
đau buồn, tang tóc, con người như trầm tư và có nhiều sâu lắng để tư duy về vũ
trụ, con người và những việc những vật xung và lý giải nó theo tư duy cịn non
nớt của mình để đỡ u trầm. Mo cho cố ngài mà thực ra là để cho người sống.
Loại mo thứ tư: Mo nhắn.
Cái tên mo này và đêm mo này thống nhất tên gọi và đều mo vào đêm
cuối của đám mo.
Mo nhắn, đó là lời nhắn gửi của người quá cố với con cái, anh em còn
sống. Khuyên con, anh em ăn ở với nhau cho tốt, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau.
Đây là bản di chúc của người quá cố gửi người dương thế.
Trên đây là các loại mo và trình tự của mo ngày xưa.
“ Ngày nay ở nhiều làng người Mường khi có bố mẹ qua đời, họ vẫn cịn
tổ chức mo. Nhưng do thời gian eo hẹp, cuộc sống đổi thay nên chỉ mo quấy
quả. Có nhiều ơng mo, mo theo yêu cầu của gia chủ. Thứ tự mo cũng đảo lộn,
loại mo trước lại để sau…”- ( Cụ ông B, 71 tuổi).
“ Nhưng chưa thấy ở đâu cịn có mo t’lêu. Hay là nó đã bị lọi bỏ trong
nghi thức đám tang của người dân ở đây. Thực tế cho thấy ở vùng người Mường
vẫn cịn mo, nhưng khơng ai hướng dẫn quản lý nên mo như thế nào ở một đêm?
Vì khơng ai với tới chỗ này nên người ta làm quấy quá, qua loa.” ( cụ ông N, 78
tuổi).
( Ảnh minh họa: Một cảnh trong nghi thức đưa tang người Mường)
Sau mo nhắn là lễ mai táng. Người Mường theo luật tục đoạn tang sau 1
năm. Từ đó khơng có bốc mộ, khơng có giỗ, khơng phải lo đốt vàng mã quần áo,
8
vì trong mo có tục chia của cho người q cố, từ đây đường ai nấy bước, duộc ai
nấy đi. Đống yên ma, nhà lành người. Khi con cháu có mời mới về, không quấy
quả người sống.
Mo là thực hiện một nghi thức với người quá cố của người Mường. Riêng
ca từ của mo là một hệ thống tác phẩm văn học dân gian mà ở đó có nhiều giá
trị: Trí tưởng tượng phong phú của người xưa, vạch ra được lộ trình lên trời,
ngơn ngữ Mường trong mo khá cổ mà diễn tả được ý tình rõ ràng, khúc chiết.
Tính chất nhân văn của các loại mo thấm đẫm tình người. Lời buồn đau mà
khơng làm con người quỵ xuống. Đặc biệt tính minh triết của mo t’lêu. Đây là
bộ sử thi được đưa vào mo. Đó là một thiên sử thi đồ sộ, đầy đủ gần như toàn bộ
những gì mà con người cần biết. Bộ sử thi khơng chỉ miêu tả nó sáng tạo ra cái
gì mà cịn là nó được sáng tạo ra bằng phương pháp nào? Lễ nghi với những
người quá cố có thể thay đổi, nhưng ca từ mo và nhất là bộ sử thi là một tài sản
vô cùng quý giá phải được giữ gìn, phát huy trong cuộc sống ngày hơm nay.
2. Quan điểm của người cao tuổi về trang phục trong đám ma hiện nay.
Trang phục là nét đặc trưng riêng biệt không thể lẫn của mỗi dân tộc trên
đất nước Việt Nam hình chữ S. Trải dài trên dải đất, mỗi nơi, mỗi vùng, mỗi dân
tộc đều có trang phục riêng. Trang phục ngày thường và ngày lễ hội, lễ nghi cuả
từng vùng thường khác nhau.
Đối với người Mường thì bộ y phục nữ đa dạng hơn nam giới và còn giữ
được nét độc đáo. Trang phục thường ngày của phụ nữa Mường có khăn đội đầu
là một mảnh vải trắng hình chữ nhật khơng thêu thùa, yếm, áo cánh (phổ biến là
màu trắng) thân rất ngắn thường xẻ ở ngực và váy dài đến mắt cá chân gồm hai
phần chính là thân váy và cạp váy. Cạp váy nổi tiếng bởi các hoa văn được dệt
kỳ công. Trang sức gồm vịng tay, chuỗi hạt và bộ xà tích 2 hoặc 4 giây bạc có
treo hộp quả đào và móng vuốt hổ, gấu bịt bạc.
( Ảnh minh họa: Bộ Y phục của phụ nữ Mường thanh lịch và kín đáo
gồm: khăn trắng hình chữ nhật, áo ngắn váy dài đến mắt cá chân, yếm; đồ trang
sức thường là dây đeo bằng bạc có gắn hộp trầu hình quả đào, móng vuốt hổi,
gấu...)
9
Khi được hỏi về trang phục thường ngày thì các cụ đều cho rằng ngày
nay đơn giản hơn rất nhiều, những phụ kiện, trang sức vòng bạc thường chỉ ngày
hội, ngày Tết mới mặc. “ Ngày thường ăn mặc thế nào cũng được, màu sắc như
thế nào để phù hợp với hồn cảnh thơi, chứ khơng ăn mặc màu sắc kiểu lèo lẹt
đâu”- ( Cụ bà A, 79 tuổi).
( Ảnh : Trang phục thường ngày khi trả lời phỏng vấn của Cụ bà A, 79
tuổi ).
Trong bất cứ một nghi thức hay nghi lễ nào trang phục là yếu tố màu sắc
thể hiện bản chất của nghi lễ đó. Cũng giống như đám tang của các dân tộc khác,
con cháu, họ hàng đều phải mặc màu trắng.
Khác với trang phục thường ngày, trang phục trong đám tang người
Mường con cháu mặc chỉ là màu trắng, ơng mo thì mặc gam màu tối.
“ Ngày có tang lễ thì trang phục cũng có hình dáng như trang phục ngày
thường mặc, nhưng đổi lại là màu trắng hết, màu trắng thể hiện sự thương tiếc
đối với người đã khuất, màu trắng là để người đã khuất khơng phải chú ý gì hay
vướng bận gì khi ra đi...”- ( Cụ bà T, 72 tuổi).
Thầy mo khi hành lễ mặc y phục riêng. Ðó là chiếc áo dài 5 thân cài khuy
bên nách phải, nhuộm màu xanh hoặc đen, thắt dây lưng trắng, đội mũ vải nhọn
đầu
(ảnh minh họa : Một góc tang lễ của người mường tại Bảo tàng dân tộc
học( màu đỏ con dâu mặc, màu trắng con trai, màu đen ông Mo)).
“ Ngày xưa, con dâu của người quá cố thường mặc một bộ đồ sặc sỡ màu
đỏ để tỏ lòng hiếu thuận nhưng bây giờ đơn giản hơn người ta chỉ mặc bộ trang
phục dân tộc màu trắng thôi ”- ( Cụ bà B, 66 tuổi).
Hình thức chịu tang của con cái trong nhà không khác so với người Kinh,
tuy nhiên con dâu, cháu dâu chịu tang ông bà, cha mẹ cịn có bộ trang phục
riêng gọi là bộ quạt ma.
10
“ Tế quạt ma là một nghi lễ độc đáo trong đám ma người Mường. Khi tế
quạt ma, những người là dâu trong nhà trong họ của người quá cố phải mặc bộ
đồ quạt ma rất đẹp, gồm: váy đen, cạp mới, áo ngắn, áo chùng trắng, yếm đỏ, hai
tay đeo vòng hạt cườm, tay phải cầm quạt cọ múa, tay trái cầm que gậy, đầu đội
mũ quạt trong trí tua hạt cườm; phía trước đặt một chiếc ghế mây.” - ( Nguyễn
Quang Huy, Lê Duy Đại. Nguyễn Quý Thao, Vũ Xuân Thảo: Đại gia đình các
dân tộc Việt Nam – NXB Giáo Dục).
( Ảnh minh họa : Cảnh trang phục trong lễ đưa tang trong đám ma của
người dân tộc Mường hiện nay ).
“ Ngày nay đại khái lắm, không cầu kỳ về trang phục nghi lễ kiểu cách
như xưa nữa đâu”- (Cụ bà B, 66 tuổi)
“ Cái bộ quạt ma là ngày xưa cịn có thơi, chứ bây giờ khơng có nữa đâu,
mặc thế nào cũng được, có khi phụ nữ không cần mặc váy nữa, cứ đồ trắng mà
mặc là được rồi”- ( Cụ ông ông G, 70 tuổi).
Những người cao tuổi trong xóm đều cho rằng người Mường ngày nay về
màu sắc trang phục thì đã khơng cịn cầu kỳ như trước nữa. Chỉ cần trong tang lễ
vẫn mặc màu trắng là đã thể hiện sự đau buồn đối với người quá cố.
Khi được hỏi về chất liệu trang phục thì phần lớn các cụ bà là người am
hiểu và biết rõ nhất, vì trong đám tang phụ nữ là người lo về trang phục và vải
bóc.
( Ảnh : Khung dệt vải của nhà bà cụ D, 68 tuổi ngày xưa dệt vải để may
trang phục .)
Tự dệt vải để may thành trang phục là nét văn hóa của người Mường xưa,
nhưng ngày nay người ta sẽ mua vải có sẵn ở chợ để may cho tiện, rẻ và đỡ tốn
công.
“ Ngày xưa bà phải ngồi dệt nhiều lắm, để may quần áo cho người thường
thì có dệt thổ cẩm để làm cạp váy cho phụ nữ, thân váy áo và quần áo của người
11
nam thì từ vải trắng nhuộm lá cây cho thành màu nâu hoặc màu đen. Nếu vải để
làm quần áo tang thì sợi bơng loại xấu, dệt xấu thơi. Vì người Mường cho rằng
quần áo trong tang lễ càng đơn giản, càng xấu thì mới tỏ lịng hiếu thuận với
người đã khuất, nó thể hiện sự đau buồn khơng cịn chú ý tới việc gì cầu kỳ nữa”
-( bà cụ D, 68 tuổi).
“ Bây giờ thời đại các cháu có con dâu, con gái nào ngồi thức khuya, thức
hôm mà dệt vải, quay bơng nữa đâu. Ngày thường thì mặc đồ như người Kinh.
Cịn ngày có tang chỉ có vợ, con dâu, con gái của người đã khuất thì cịn mặc
váy, chứ thanh niên bây giờ mặc quần hết. Vải thì tự mua ở chợ về cắt may cho
phù hợp với phong tục thôi. Mọi thứ thay đổi hết, dù vẫn giữ nét đặc sắc và văn
hóa ở đây, nhưng chỉ là đại khái thôi. Chứ ai đâu mà làm như xưa được”- ( Bà cụ
A. 79 tuổi).
Cùng với sự phát triển của xã hội, ít nhiều trong cách chuẩn bị trang phục
tang lễ của người Mường có sự thay đổi nhưng khơng vì thế mà người ta làm
mất đi cái cốt của nó. Người ta chỉ là làm đơn giản mọi việc cho nhanh mà vẫn
giữ nét văn hóa của dân tộc.
3. Quan điểm của người cao tuổi về các lễ vật, nghi thức trong đám
ma hiện nay.
Ngày nay thường không giữ tử thi quá 48 giờ, nhiều nghi thức được
giảm bớt, các áng mo cũng rút ngắn đi, những lễ thức quan trọng trong tập tục
vẫn được tuân thủ.
Trong hai ngày đêm của nghi lễ, sẽ chia ra thành 3 bữa chính ứng với 3
áng Mo quan trọng, mỗi một bữa trưa và bữa chiều của từng ngày đều có lễ dâng
ăn uống.
“ Ngày xưa người ta thường mổ trâu, mổ bò, nhưng ngày nay trong mỗi
bữa Mo( bữa ăn) thì người ta sẽ phải mổ một con lợn, xôi, rượu để thực hiện
việc cúng ma”- ( cụ ông N 78 tuổi).
12
“ Bắt buộc có thịt lợn dù to hay nhỏ, nhưng việc phải có thủ lợn để cúng
là quan trọng nhất. Việc số lượng lễ vật được chuẩn bị có to hay không, nhiều
hay không là để thể hiện việc báo hiếu với người đã khuất”- ( Cụ ông P, 70 tuổi).
Người Mường rất quan trọng việc các lễ vật phải có trong các bữa cúng
ma, khơng thể khơng có.
“ Ngồi ra việc mổ lợn to hay khơng cịn là để làng xóm cùng ăn, như
thế đám ma mới thể hiện sự hồn tất. Vì làng xóm chính là người giúp cho gia
đình có tang đó việc tổ chức thăm viếng, việc đào huyệt và chơn cất. Đó cịn là
cách để báo hiếu với dân làng thay cho người đã khuất”- ( Cụ ơng G, 70 tuổi).
Ngồi ra trong đám ma khơng thể thiếu đó là đội nhạc lễ. Khác với
người Kinh, nhạc lễ người Mường do một đội nhạc hiếu thổi suốt trong đám ma.
Ngồi Ơng mo phải thâu ngày thâu đêm mo, thì cùng với đó là đội nhạc hiếu
thổi những khúc nhạc đau buồn làm cho không khí đám tang thêm phần não nề.
( Ảnh chụp tại bảo tàng Dân tộc học : Cảnh những người trong đội nhạc
hiếu trong đám ma).
Việc mo trong tang lễ thực chất là nhằm thuyết phục, hướng dẫn linh hồn
người chết "thực thi" các nghi lễ như vừa kể trên hoàn tồn bằng lời mo. Nếu
như mo sai, thì hồn khơng thể "thực thi" được nghi lễ, như thế sẽ không hồn tất
được các thủ tục, sẽ rơi vào tình trạng luẩn quẩn. Hồn không thể đoạn tuyệt với
thế giới người sống mà cũng không thể gia nhập vào thế giới người chết. Người
ta sợ trong hoàn cảnh dở dang ấy linh hồn người chết sẽ quay về quấy phá hành
tội con cháu trong nhà.
Khác với người Kinh, việc con cháu khóc tiễn đưa người đã khuất theo
lời dẫn của ơng Mo là rất quan trọng. Người Kinh thường có mở những bài nhạc
hiếu trong đám tang, hoặc thêu người khóc thay. Nhưng đối với người Mường
thì con cháu, gia đình, họ hàng sẽ thành tâm khóc đến tột cùng nỗi đau mất
người thân, như vậy người đã khuất sẽ không cô đơn trên con đường sang thế
giới bên kia.
13
“ Con cháu, họ hàng ai mà khơng khóc, hay giả vờ khóc thì hồn ma sẽ
khơng thể n tâm mà ra đi được, và buổi mo coi như không thành và phải mo
lại từ đầu. Nên nếu ai ở gần quan tài người chết mà khóc giả vờ thì khơng được.
Nếu trong lịng khơng cảm thấy thương tiếc và khơng rơi giọt lệ thì nên rời khỏi
khu nhà cử hành đám ma” - ( Cụ ông B, 71 tuổi)
Và điểm nổi bật nhất trong nghi thức tang ma người Mường là qua
những nghi thức đó, người Mường muốn những thế hệ tiếp nối của cộng đồng
vượt qua những tổn thất do một thành viên của cộng đồng đã phải ra đi vĩnh
viễn thêm gắn bó với quê hương đất nước và gìn giữ những kỉ cương, tập tục đã
giúp cộng đồng trường tồn và phát triển.
4. Quan điểm và sự mong muốn của người cao tuổi về văn hóa tang lễ
trong cộng đồng người dân tộc Mường hiện nay.
Ngày nay khi những hủ tục đã khơng cịn tồn tại trong cuộc sống của
người dân tộc Mường thì những giá trị đặc sắc xen lẫn trong cái gọi là hủ tục đó
đã mai một cùng với thời gian. Những bản trường ca Đẻ đất đẻ nước trong bài
Mo đến những trang phục hay nghi thức, lễ vật trong tang lễ dường như đã
khơng cịn đặc sắc như xưa nữa. Cuộc sống ngày càng trở nên nhanh chóng hơn,
con người ta chạy theo với cơm áo gạo tiền và kiếm kế sinh nhai, ít ai cịn nhớ
hay ít ai có thời gian để chuẩn bị cho việc rời khỏi thế giới này đến sống ở thế
giới bên kia cho những người đến tuổi xưa kia hiếm có. Ví dụ như khi có người
mất, người ta sẽ bắt đầu sửa quan tài, chứ ngày xưa gỗ tốt người ta sẽ coi số mà
đoán tuổi thọ và chuẩn bị trước vài năm.
“ Ngày xưa quan tài còn được đẽo bằng thân gỗ to, nhưng giờ hiếm lắm.
Tìm được cây to cây chắc mà làm áo quan thì vất vả. Mua cây thì hiếm. Ông chỉ
mong sau con cháu cố có cái áo quan theo đúng phong tục mình. Chứ mua bằng
gỗ ghép như người Kinh làm thì khơng thích. Phải là cây gỗ chắc, hình trịn mà
khéo hết lõi thì mới đúng là của người Mường”.- ( Cụ ông P, 70 tuổi).
Người cao tuổi ở đây nói đến việc sang thế giới bên kia một cách nhẹ
nhàng. Khi đề cập đến việc tang ma là một vấn đề khó nói, nhạy cảm nhưng các
14
cụ thì vơ tư kể như thường. Vì theo người Mường, người chết không phải là
hết, mà chỉ là họ sang một thế giới khác để đoàn viên cùng những người thân
đã khuất trước.
“ Giờ nếu có nói đến cái chết thì ơng cũng chẳng lo lắng gì đâu. Chỉ
mong sau này con cháu khi tiến hành tang lễ cho đúng phong tục để họ hàng,
bạn bè gần xa đến phúng viếng khỏi chê cười con cháu thôi. Sau này hi vọng
có người học làm thầy Mo phải học cho đúng, cho đủ câu để dẫn dắt linh hồn
người đã khuất đi đúng đường, đi cho thanh thản”. - ( Cụ ông N, 78 tuổi).
Ngày nay quả thật là những áng Mo ngày càng bị mai một, những
người học sau hoặc là do tang lễ đã rút ngắn thời gian, hoặc là do khơng
thuộc hết, do trí tưởng tưởng khơng phong phú mà làm cho Mo bị rút ngắn
hơn so với ngày xưa rất nhiều.
Trong tang lễ thì các lễ thức trong đám ma chủ yếu là phục vụ cho
mâm cỗ để ơng thầy Mo cúng. Cịn lại là để thiết đãi cho người làng vì họ đã
tới giúp thực hiện tang lễ đó. Và phải có mâm cỗ cho họ hàng , bạn bè ở xa
đến dự tang lễ ăn uống còn đợi đến giờ đưa tang người mất.
“ Ngày nay mọi thứ đơn giản đi nhiều quá, chứ khơng phải nói là thay
đổi đi nhiều, chứ ngày xưa đám ma thì kéo dài ngày, giờ cái gì cũng nhanh
gọn đi cho đỡ phí của, phí thời gian, miễn là vẫn đủ nghi thức chính thơi”(Cụ bà D, 68 tuổi).
Bà cụ T. 72 tuổi vẫn còn rất khỏe mạnh và minh mẫn khi nói về những
suy tư của mình về văn hóa của người Mường nói chung và văn hóa trong
tang lễ của người Mường nói riêng đã chia sẻ khi nghĩ đến việc sẽ đến lúc nào
đó mình cũng sẽ ra đi : “ Chỉ mong khi bà khuất núi thì con cháu đừng có làm
điều gì khơng phải mà linh hồn bà ra đi không thanh thản, rồi thì mâm cỗ
cúng hồn ma sao cho khỏi làng xóm chê cười. Nói thế thơi, chứ lúc chết thì ai
biết gì, người ta vẫn có câu “ngày xưa người ta thường nói người chết làm tết
cho làng mà”.
15
Phần lớn người cao tuổi khi trả lời những câu hỏi liên quan đến tang ma
của người Mường đều chia sẻ một cách rất thoải mái mà không hề kiêng kỵ điều
gì, vì người Mường được biết đến là dân tộc rất thân thiện, và họ cũng là dân tộc
coi việc tang ma là rất quan trọng nhưng không phải là việc nuối tiếc. Mong
muốn chỉ là sao cho con cháu sẽ vẫn giữa được những nét đặc sắc của dân tộc
mà không làm mai một những phong tục vốn có. Họ vui vẻ cho rằng đó là việc
tất yếu xảy ra và đó chỉ là bước tiếp theo cho cuộc sống hạnh phúc khi về với
người thân đã khuất và về với “Mường Trời”.
16
III. PHẦN KẾT LUẬN.
Những năm gần đây, sự du nhập, tiếp thu chọn lọc các giá trị văn hóa, khiến
việc quản lý văn hóa trở nên đúng với chủ trương của nhà nước. Mặt khác, do đời
sống được nâng cao, tiếp xúc nhiều với phong tục người miền xuôi , thì ngày càng
nhiều những tiểu tiết văn hóa bị mai một. Một số tín ngưỡng, phong tục dân gian của
người Mường mất dần đi, thay vào đó là những tín ngưỡng mới, pha trộn và khơng
cịn ngun bản. Đặc biệt nhiều tập tục đã phai nhạt và chỉ đọng lại trong ký ức của
người già. Tang lễ ngày nay đã khơng cịn ngun vẹn như xưa, nhưng vẫn giữ được
nét đặc sắc riêng biệt của người Mường.
Kết quả nghiên cứu “ quan điểm của người cao tuổi về đám ma của người
dân tộc Mường hiện nay” tại xóm Rú 6, xã Xn Phong, huyện Cao Phong, tỉnh
Hịa Bình có thể thấy đôi nét về sự thay đổi phong tục ma chay ở đây. Đồng thời qua
đó đã cho chúng ta thấy được nét đặc sắc và sự am hiểu về văn hóa của người
Mường. Nếu như trước đây với các áng Mo kéo dài 12 ngày đêm thì nay chỉ cịn lại
hai ngày thì dù giản lược thì những ý chính trong các phần Mo của người Mường
vẫn cịn được lưu giữ.
Bên cạnh các trang phục và các lễ vật, nghi thức đã có sự thay đổi để đơn giản
hơn thì đám ma vẫn giữ ngun giá trị và có ý nghĩa sâu sắc đối với tâm linh trong
văn hóa Mường.
Cần duy trì, bảo vệ và phát triển văn hóa người Mường một cách vững chắc.
Cần có quan điểm nhìn nhận khoa học và thiết thực hơn đối với đời sống văn hóa
của người Mường thì mới phát huy được những mặt tích cực cũng như hạn chế các
mặt tiêu cực của văn hóa hội nhập trong giai đoạn hiện nay.Cần chú trọng hơn nữa
việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật quy định cụ thể về các hoạt
động văn hóa. Gắn văn hóa vào việc xây dựng nếp sống văn hóa gia đình, mường
bản. Kế thừa có chọn lọc những phong tục tập quán, những hình thức văn hóa, tập
tục truyền thống với việc xây dựng một nếp sống văn minh hiện đại đảm bảo được
tính tiên tiến và giữ gìn được bản sắc văn hóa dân tộc.
17