Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Thực trạng bị xâm phạm thương hiệu Hảo Hảo và biện pháp bảo vệ của công ty cổ phần Acecook Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.79 KB, 15 trang )

Lời mở đầu:

1.1. Các khái niệm liên quan.
1.1.1. Thương hiệu.
Thương hiệu được hiểu là tập hợp các dấu hiệu để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của cơ sở
sản xuất kinh doanh này với hàng hoá, dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác; là hình
tượng về một loại, một nhóm hàng hoá, dịch vụ hoặc về doanh nghiệp trong tâm trí khách
hàng.

1.1.2. Quyền sở hữu trí tuệ.
Để làm rõ quyền sở hữu trí tuệ là gì? Ta cần phải làm rõ sở hữu trí tuệ là gì?
Sở hữu trí tuệ được hiểu là việc sở hữu các tài sản trí tuệ – những kết quả từ hoạt động
tư duy, sáng tạo của con người. Đối tượng của loại sở hữu này là các tài sản phi vật chất
nhưng có giá trị kinh tế, tinh thần to lớn góp phần quan trọng trong quá trình hình thành và
phát triển nền văn minh, khoa học, công nghệ của nhân loại. Đó là các tác phẩm văn học,
nghệ thuật, các công trình khoa học kỹ thuật ứng dụng cũng như các tên gọi, hình ảnh được
sử dụng trong các hoạt động thương mại.
Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của cá nhân, pháp nhân đối với các sản phẩm trí tuệ do
con người sáng tạo. Đó là độc quyền được công nhận cho một người, một nhóm người hoặc
một tổ chức, cho phép họ được sử dụng hay khai thác các khía cạnh thương mại của một sản
phẩm sáng tạo.

1.2. Bảo vệ thương hiệu.
1.2.1. Lợi ích của bảo vệ thương hiệu.
Bảo hộ nhãn hiệu là một trong những bước đi đầu tiên và rất cần thiết để quảng bá sản
phẩm, dịch vụ. Tạo ra tính cạnh tranh cao trên thị trường: Việc đăng kí bảo hộ nhãn hiệu
như một cam kết cảu các doanh nghiệp về đầu tư vào nhãn hiệu, chất lượng của sản
phẩm/dịch vụ đối với người tiêu dùng , tạo ấn tượng, lòng tin cho các khách hàng về các sản
phẩm/dịch vụ cảu doanh nghiệp. Là động lực cho các sản phẩm, dịch vụ ngày càng được
tiêu thụ và sử dụng rộng rãi trong và ngoài nước.
Nhãn hiệu được bảo hộ là cơ sở để các doanh nghiệp chống lại các hành vi xâm phạm


pháp luật, làm giả, làm nhái các sản phẩm . doanh nghiệp có quyền ngăn cấm người khác
không được sử dụng nhãn hiệu nếu không được đồng ý.
Vì thế, việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu là hết sức cần thiết. Nó là cơ sở để tổ chức, cá
nhân sử dụng nhãn hiệu xác lập quyền sở hữu đối với nhãn hiệu của mình, thông qua sẽ xác
lập được quyền sở hữu đối với thương hiệu của doanh nghiệp.

1.2.2. Nguyên nhân gây xâm phạm thương hiệu.


-

Doanh nghiệp :

Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến xâm phạm thương hiệu ở Việt Nam trong đó nguyên
nhân chủ yếu là do nhận thức chưa đúng đắn của các doanh nghiệp về tầm quan trọng
thương hiệu. Một số doanh nghiệp khi đã xây dựng được thương hiệu rồi thì lại không tiếp
tục củng cố nâng cao uy tín,đẳng cấp của thương hiệu đó. Do chi phí để biến một cái tên vô
danh thành thương hiệu phổ biến là rất lớn, đòi hỏi trong khâu quảng bá tiếp thị cao mà tiềm
lực tài chính của các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn hạn chế. Bên cạnh đó khi xuất hiện hàng
hóa vào thị trường mới do thiếu sự cẩn trọng trong nghiên cứu thị trường và đối tác nước
ngoài, chưa thực sự nắm vững luật pháp nước ngoài, đăng ký bảo hộ thương hiệu nên hầu
hết các doanh nghiệp Việt Nam bị chính đối tác của mình đăng ký trước và sau đó sẽ phải
thương thảo để họ nhận lại thương hiệu này với một giá tương đối cao

- Hạ tầng pháp lý :
Mặt khác, bản thân các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử lý chưa nghiêm các hành
vi vi phạm, hệ thống, chính sách pháp luật còn thiếu, chưa đồng bộ và không rõ ràng, chưa
có một cơ quan chuyên môn về phòng chống và xử lý các vụ vi phạm một cách hiệu quả.
Công tác trợ giúp hoạt động xúc tiến thương mại, tìm kiếm thông tin thị trường, tiếp cận thị
trường, hỗ trợ cho các doanh nghiệp về quảng bá và bảo vệ thương hiệu hàng hóa của các

doanh nghiệp ra thương trường thế giới chưa cao

- Công nghệ :
Đó là chưa kể đến việc công nghệ ngày càng tinh vi và hiện đại. Khi một sản phẩm mới
tung ra thị trường, thậm chí chỉ cần vài giờ đồng hồ sau một sản phẩm mang thương hiệu
tương tự đã có mặt trên thị trường tiêu dung với mẫu mã, bao bì giống hệt với sản phẩm
gốc. Kể cả những mặt hàng liên quan đến sản phẩm ăn uống như mì, kem, …. cũng dễ dàng
bị làm giả. Ví dụ như vụ việc kem Tràng tiền 35 : như chúng ta đã biết thì sản phẩm kem
Tràng Tiền đã trở thành một thương hiệu nổi tiếng không chỉ với người Hà Nội mà với cả
người dân các tỉnh, khi đến tham quan Thủ đô như một món “đặc sản” riêng của Hà Nội.
Nhãn hiệu “Kem Tràng Tiền” đã được đăng ký bảo hộ SHCN về nhãn hiệu hàng hóa. Thế
nhưng năm 2008, Sở Kế hoạch đầu tư Hà Nội lại cấp đăng ký kinh doanh cho một doanh
nghiệp sản xuất kem có tên “Công ty cổ phần Tràng Tiền Tràng Tiền 35”, có trụ sở tại tổ 10
Phúc Tân, quận Hoàn Kiếm và cơ sở sản xuất tại số 1 Thanh Đàm, phường Thanh Trì, quận
Hoàng Mai. Việc doanh nghiệp này “mập mờ đánh lận con đen” khi dùng nhãn hiệu “35
Tràng Tiền” in trên bao bì sản phẩm đã gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng, gây thiệt hại cho
thương hiệu kem Tràng Tiền chính hiệu. Đặc biệt, các sản phẩm này được khách hàng phản
ánh là không đạt tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm, thậm chí có dính “ruồi” ở trong
que kem. Như vậy để thấy được rằng việc xâm phạm thương hiệu nagy càng trở nên phổ
biến và tinh vi

- Người tiêu dùng :


Người tiêu dùng là những người trực tiếp sử dụng sản phẩm, ấy vậy mà nhiều khi họ lại
thường không quan tâm lắm đến nguốn gốc xuất xứ thương hiệu, xem sản phẩm họ đang
tiêu dùng đã được đăng ký bảo hộ thương hiệu hay chưa. Điều này đã tạo cơ hội cho những
kẻ vụ lợi dễ dàng xâm phạm thương hiệu. Ví dụ như ngày trước người dân Việt Nam rất tin
tưởng sử dụng dầu gội của Thái Lan vì chất lượng tốt tóc luôn suôn mượt sạch gầu, thế
nhưng, trên thị trường những sản phẩm dầu gộivới nhãn mác Thái Lan mang theo chất

lượng không đảm bảo tràn lan khắp mọi nơi nhưng người tiêu dùng lại vẫn sử dụng thường
xuyên. Thậm chí có nhiều người biết đó không phải hàng chính hãng nhưng vẫn chấp nhận
tiêu dùng vì giá cả rẻ hơn rất nhiều so với thương hiệu gốc. Có thể nói, việc nhận thức chưa
thực sự cao của người tiêu dùng cũng như tâm lý bị nhiễu thong tin đã ảnh hưởng vô cùng
lớn đến hành vi xâm phạm thương hiệu
Thương hiệu Việt Nam bị vi phạm hay bị mất cắp trên thị trường có ảnh hưởng trực tiêp
đến doanh nghiệp, họ không chỉ mất thời gian công sức và tiền của để đầu tư và phát triển
thương hiệu mà còn làm giảm uy tín của doanh nghiệp đối với người tiêu dùng, thất thu
ngân sách của Nhà nước và làm mất đi tính hấp dẫn của môi trường đầu tư nước ngoài với
mục đích huy động vốn, thu hút công nghệ và học hỏi kinh nghiệm quản lý của nước ngoài
để phát triển. Với người tiêu dùng cũng chịu nhiều thiệt thòi do mua phải hàng kém chất
lượng không đảm bảo như cam kết của hàng chính hiệu ảnh hưởng đến lợi ích riêng và chi
phí tìm kiếm… Thấy rõ được những ảnh hưởng từ thực trạng này cần phải có những cách
khắc phục và ngăn chặn kịp thời.

1.2.3. Các biện pháp tự bảo vệ thương hiệu.
• Rà soát và tổ chức tốt hệ thống phân phối
Ngày nay, môi trường cạnh tranh trở nên ngày một khốc liệt, việc đạt được những lợi thế
cạnh tranh trên thương trường cũng trở nên ngày càng khó khăn. Các chiến lược cắt giảm
bán không chỉ nhanh chóng và dễ dàng bị bắt chước mà còn dẫn đến sự giảm sút và mất khả
năng thu lợi nhuận. Các chiến lược quảng cáo và xúc tiến chỉ mang lại kết quả trong ngắn
hạn, vì thế dễ hiểu là các doanh nghiệp hiện nay để tìm ra cái mà marketing phải dựa vào đó
để cạnh tranh. Hệ thống phân phối hàng hóa của doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp
thương mại nói riêng là cơ sở cho sự cạnh tranh có hiệu quả trên thương trường. Do đó
việc rà soát và tổ chức tốt hệ thống phân phối là điều kiện tiên quyết để doanh nghiệp tự bảo
vệ thương hiệu của mình và cạnh tranh có hiệu quả trên thị trường.
Ví dụ: Công ty xăng dầu B12 là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc tổng công ty xăng
dầu Việt Nam Petrolimex chuyên tiếp nhận xăng dầu để phân phối cho nhu cầu của khu vực
phía Bắc gồm các sản phẩm xăng dầu, dầu mỡ nhờn, gas và phụ kiện. Công ty kế thừa hệ
thống phân phối chuyên sâu và rộng khắp, đây cũng là vũ khí cạnh tranh khá hiệu quả để

củng cố và phát triển vị thế của công ty trên thị trường.


• Rà soát và phát hiện hàng giả, hàng nhái
Bên cạnh việc nâng cao năng lực thực thi pháp luật của các lực lượng chức năng, hoàn
thiện hành lang pháp lý… thì mỗi doanh nghiệp cần phải tự giác, tích cực trong công tác
truyền thông, nâng cao nhận thức của người tiêu dùng, quảng bá sản phẩm diễn ra song
song với việc hướng dẫn, chỉ rõ cho người tiêu dùng các thủ đoạn làm hàng giả cũng như có
kênh phân phối sản phẩm chất lượng tốt đến tay người tiêu dùng, nhất là ở khu vực nông
thôn, vùng sâu, vùng xa, các khu công nghiệp, khu chế xuất…
Đặc biệt, các doanh nghiệp cần tăng cường quản lý, giám sát tiêu thụ hàng hóa và chủ
động khiếu nại khi bị xâm phạm nhãn hiệu. Sự liên minh giữa các nhà sản xuất trong đấu
tranh chống hàng giả cũng cần tích cực hơn nữa. Cùng với đó, đẩy mạnh công tác tuyên
truyền giúp người tiêu dùng trang bị kiến thức “tiêu dùng thông minh”, tránh trở thành nạn
nhân của hàng giả, hàng nhái và phải nhận thức rõ nhiệm vụ của mình trong việc chống
hàng nhái, hàng giả, hàng kém chất lượng vì quyền lợi của bản thân và xã hội.

• Gia tăng các điểm tiếp xúc thương hiệu:
+ Điểm tiếp xúc thông qua quảng cáo: Quảng cáo thương hiệu là hoạt động quan
trọng trong các hoạt động quảng bá, truyền thông thương hiệu. Nó góp phần đưa hình
ảnh của doanh nghiệp đến với công chúng và khách hàng, góp phần duy trì nhận thức
của người tiêu dùng với thương hiệu trong suốt quá trình phát triển của doanh
nghiệp. Khi tiến hành quảng cáo, cần đạt được các mục tiêu như: tạo ra nhận thức về
thương hiệu, tạo ra sự hiểu biết về thương hiệu , thuyết phục khách hàng quyết định
mua và hành động để duy trì lòng trung thành.
+ Điểm tiếp xúc thông qua hoạt động “quan hệ công chúng”: Quan hệ công chúng
(Public Relation – PR) là một công cụ quan trọng trong tiếp thị và phát triển thương
hiệu, nhằm vào các đối tượng mục tiêu không chỉ là khách hàng mà còn nhằm thiết
lập quan hệ với các tổ chức xã hội, giới truyền thông, chính quyền, nhà đầu tư, nhà
phân phối… để tạo điều kiện phổ biến thương hiệu.

+ Điểm tiếp xúc thông qua điểm bán: Điểm bán là nơi mà doanh nghiệp trưng bày
hay lưu trữ sản phẩm, là nơi doanh nghiệp thực hiện nghiệp vụ bán hàng cho khách
hàng. Tại điểm bán này khách hàng có thể tiếp cận với hình ảnh doanh nghiệp thông
qua giao tiếp với nhân viên bán hàng, hay chỉ đơn giản là thông qua đồng phục của
nhân viên, logo, áp phích được trưng bày tại điểm bán. Doanh nghiệp cũng có thể
truyền tải hình ảnh thương hiệu đến khách hàng thông qua cách thức trang trí điểm
bán, trình bày trong cửa hàng, lối đi, trên các giá để hàng, cách thức trưng bày hàng
mẫu.
+ Điểm tiếp xúc thông qua nhân viên: là sự tương tác mặt đối mặt giữa đội ngũ
nhân viên bán hàng của công ty với khách hàng. Hình ảnh thương hiệu của doanh
nghiệp được khách hàng cảm nhận thông qua đội ngũ nhân viên của công ty. Nếu
nhân viên công ty có phong cách làm việc chuyên nghiệp, biết cư xử và niềm nở
trong giao tiếp, biết lắng nghe và duy trì mối quan hệ với khách hàng thì đó là tài sản


vô giá, là lợi thế cạnh tranh khá lớn của doanh nghiệp. Vì vậy để phát triển thương
hiệu thì việc quan tâm đến đời sống nhân viên, tạo môi trường làm việc thuận lợi
cũng như có chính sách phát triển nhân viên là điều mà doanh nghiệp nên làm và
phải làm tốt.
+ Điểm tiếp xúc thông qua văn phòng và website: là điểm giao tiếp điện tử. Qua
liên kết website đăng thông tin quảng cáo, logo lên website khác.
+ Điểm tiếp xúc thông qua sản phẩm và bao bì: Bao bì được coi là một trong những
liên hệ mạnh nhất của nhãn hiệu, trong đó hình thức của bao bì có tính quyết định.
Yếu tố tiếp theo là màu sắc, kích thước, công dụng đặc biệt của bao bì. Ví dụ kem
đánh răng Close up đựng trong hộp có thể bơm ra chứ không cần bóp, tạo ra sự tiện
lợi mà không làm nhăn nhúm hộp.
+ Điểm tiếp xúc thông qua ấn phẩm của công ty: Ngày nay các công ty khá chú
trọng đến việc phát hành các ấn phẩm, không chỉ trong nội bộ mà còn quảng bá trên
một số ấn phẩm của cơ quan, đơn vị khác, thường là phong bì, cặp đựng tài liệu, tờ
rơi… hay những tạp chí định kì hàng tháng, chuyên san thông tin, có thể lưu hành

nội bộ hoặc phát hành ra bên ngoài doanh nghiệp, làm tài liệu cung cấp thông tin về
doanh nghiệp cho khách hàng và đối tác.
+ Điểm tiếp xúc thông qua hệ thống kênh.

• Thường xuyên đổi mới bao bì và sự thể hiện thương hiệu trên bao bì của hàng hóa.
Từ lâu bao bì không còn là một công cụ bảo vệ sản phẩm đơn thuần mà còn là công cụ
xây dựng thương hiệu, một công cụ truyền thông hữu hiệu của doanh nghiệp. Bao bì có tác
dụng thu hút khách hàng, tạo nét đặc trưng, phong cách riêng cho sản phẩm, là nơi chứa
đựng thông tin về sản phẩm như nguồn gốc xuất xứ, chất lượng sản phẩm, phương thức chế
biến…Đây là những yếu tố mà người tiêu dùng quan tâm khi quyết định mua một loại sản
phẩm nào đó giữa một một thị trường đa dạng sản phẩm như hiện nay. Do vậy, doanh
nghiệp cũng cần thường xuyên cập nhật xu hướng phát triển của bao bì, từ đó đưa ra những
mẫu mã chất lượng để thu hút, hấp dẫn khách hàng.
Ví dụ ngày nay khách hàng thường có xu hướng thích những thứ đơn giản, gần gũi.
Nắm bắt được xu hướng đó, khăn giấy Kleenex đã cho ra bao bì được thiết kế khá ấn tượng
và lạ với hình dạng trái cây thiên nhiên mang lại cảm giác thư giãn, thoải mái và hoàn toàn
thiên nhiên cho người sử dụng.

• Hình thành văn hóa doanh nghiệp
Văn hóa doanh nghiệp là hệ thống ý nghĩa, giá trị, niềm tin chủ đạo, nhận thức và
phương pháp tư duy được mọi người trong tổ chức cùng đồng thuận và có ảnh hưởng ở
phạm vi rộng lớn đến cách thức hành động của các thành viên.
Để tạo nên thương hiệu cho công ty đòi hỏi phải có sự góp mặt và tham gia của tất cả
các thành viên trong công ty. Sự phối hợp nhịp nhàng của tất cả các tổ chức phòng ban theo
mục tiêu đã được doanh nghiệp xác định từ trước sẽ tạo cho doanh nghiệp có bản sắc riêng.


Hình thành nếp sống văn hóa truyền thống của công ty, khí nếp văn hóa đã được hình thành
thì hành động, việc làm, ứng xử của các thành viên hay toàn thể doanh nghiệp đều mang
những nét đặc trưng văn hóa đó. Văn hóa doanh nghiệp sẽ được thể hiện qua logo, kiến trúc,

biểu tượng, nghi lễ,...
Với mong muốn sự nghiệp của mình tồn tại lâu dài, nhiều doanh nghiệp đã rất chú trọng
đến việc xây dựng hình ảnh của mình bằng những viên gạch văn hóa doanh nghiệp.

• Tăng cường truyền thông nội bộ và cam kết thương hiệu
Theo một quan điểm quản trị, nhân viên là một loại khách hàng quan trọng mà doanh
nghiệp cần làm hài lòng trước tiên để đảm bảo đối tác nội bộ này tích cực tham gia đóng
góp cho công ty, gắn bó lâu dài và nỗ lực phục vụ khách hàng tốt nhất. Truyền thông nội bộ
sẽ dẫn dắt hành vi nhân viên và thành công cho doanh nghiệp. Như vậy, truyền thông nội bộ
xuất sắc không chỉ nhắm đến việc thông báo hay truyền đạt được thông điệp mà còn nhắm
đến mục tiêu cao hơn là kết nối chiến lược kinh doanh với vai trò và hiệu quả của từng nhân
viên. Cải thiện các hoạt động giao tiếp nội bộ sẽ giúp nhân viên tăng cường hiểu biết, cam
kết gắn bó chặt chẽ với nhau trên tinh thần hợp tác đồng đội và luôn nỗ lực để đạt đến tầm
nhìn và sứ mệnh công ty qua công việc hằng ngày.
Để truyền thông hiệu quả và cam kết sự gắn bó với thương hiệu, các doanh nghiệp chăm
sóc tốt nhân viên, đào tạo họ có bài bản, giúp đỡ và có những chính sách khen thưởng hợp
lí, kịp thời.

• Giữ gìn hình ảnh cá nhân của người lãnh đạo
Trong một doanh nghiệp, lãnh đạo là người đại diện tiếp xúc với nhiều nhóm đối tượng
công chúng như đối tác, cổ đông, khách hàng, nhân viên. Bởi vậy, dù muốn hay không, hình
ảnh của người lãnh đạo sẽ tác động rất lớn đến niềm tin và thiện cảm của công chúng dành
cho doanh nghiệp. Một hình ảnh lãnh đạo tốt cũng chính là một loại “kháng thể” giúp doanh
nghiệp dễ dàng vượt qua sóng gió.
Tuy nhiên, để có được hình ảnh các nhân lãnh đạo doanh nghiệp tốt, bản thân nhà lãnh
đạo cũng phải tốt và có khí chất. Một số biểu hiện của nhà lãnh đạo như sự chính trực, chân
thành, minh bạch, giám nghĩ giám làm, có trách nhiệm, ... Những yếu tố trên được thể hiện
một cách nhất quán thông qua phong thái, phát ngôn và cách hành xử của chính các nhân
đó, chứ không phải là sự giả tạo. Ngoài ra thì hình ảnh của nhà lãnh đạo cũng sẽ ảnh hưởng
trực tiếp đến văn hóa của doanh nghiệp và các nhân viên của doanh nghiệp. Vì vậy xây

dựng hình ảnh cá nhân của nhà lãnh đạo là rất quan trọng và cần thiết.


Ngoài ra có thể nói đến Knorr, không chỉ in lên trên bao bì thành phần cấu tạo, tên sản
phẩm, hình ảnh minh họa… mà Knorr còn tặng cho người dùng khá nhiều công thức nấu ăn,
giúp cho không chỉ các bà nội trợ mà tất cả mọi người đều có thể vào bếp và nấu ăn nhờ
công thức mà thương hiệu này mang lại.

• Thực hiện các biện pháp kỹ thuật để đánh dấu bao bì và sản phẩm.
Ngày nay hiện tượng làm giả làm nhái sản phẩm tràn lan trên thị trường nên việc thực
hiện các biện pháp kỹ thuật để đánh dấu bao bì và sản phẩm là vô cùng cần thiết để doanh
nghiệp bảo vệ được thương hiệu của mình. Có thể nói, nước tinh khiết là một sản phẩm vô
cùng quen thuộc đối với tất cả mọi người, ai cũng đều sử dụng. Vậy nên nước cũng được
làm giả làm nhái thương hiệu rất nhiều chẳng hạn như Aquafina thì bị biến tướng thành
Aquaroma hay Aquafamily…; C2 thì bị biến thành E2, G2 hay Cz… khiến người tiêu dùng
nếu không để ý thì khó có thể nhận ra bởi mẫu mã sản phẩm gần như không có sự khác biệt.
Do đó, công ty nước khoáng thiên nhiên Lavie đã ứng dụng biện pháp kỹ thuật để đánh dấu
sản phẩm của mình bằng cách in nổi chữ Lavie trên thân chai, từ đó người mua sẽ dễ dàng
phân biệt được hàng thật và hàng giả, chọn được cho mình sản phẩm chất lượng tốt.

1.2.4. Các công cụ hỗ trợ.
1.2.4.1. Một số Luật điều chỉnh tại Việt Nam.
- Luật Sở hữu trí tuệ.
(Trích “LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ” 36/2009/QH12).


Điều 213. Hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ
1. Hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ theo quy định của Luật này bao gồm hàng hoá giả
mạo nhãn hiệu và giả mạo chỉ dẫn địa lý (sau đây gọi là hàng hoá giả mạo nhãn hiệu) quy
định tại khoản 2 Điều này và hàng hoá sao chép lậu quy định tại khoản 3 Điều này.

2. Hàng hoá giả mạo nhãn hiệu là hàng hoá, bao bì của hàng hoá có gắn nhãn hiệu, dấu
hiệu trùng hoặc khó phân biệt với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ dùng cho
chính mặt hàng đó mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc của tổ chức quản lý
chỉ dẫn địa lý.
3. Hàng hoá sao chép lậu là bản sao được sản xuất mà không được phép của chủ thể
quyền tác giả hoặc quyền liên quan.
Điều 214. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và biện pháp khắc phục hậu quả
1. Tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ quy định tại khoản
1 Điều 211 của Luật này bị buộc phải chấm dứt hành vi xâm phạm và bị áp dụng một trong
các hình thức xử phạt chính sau đây:
a) Cảnh cáo;
b) Phạt tiền.
2. Tuỳ theo tính chất, mức độ xâm phạm, tổ chức, cá nhân xâm phạm quyền sở hữu trí
tuệ còn có thể bị áp dụng một hoặc các hình thức xử phạt bổ sung sau đây:
a) Tịch thu hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ, nguyên liệu, vật liệu, phương tiện được
sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ;
b) Đình chỉ có thời hạn hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực đã xảy ra vi phạm.
3. Ngoài các hình thức xử phạt quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, tổ chức, cá
nhân xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ còn có thể bị áp dụng một hoặc các biện pháp khắc
phục hậu quả sau đây:
a) Buộc tiêu huỷ hoặc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương
mại đối với hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử
dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ với điều kiện
không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ;
b) Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam đối với hàng hoá quá cảnh xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ hoặc buộc tái xuất đối với hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ, phương tiện,
nguyên liệu, vật liệu nhập khẩu được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá giả
mạo về sở hữu trí tuệ sau khi đã loại bỏ các yếu tố vi phạm trên hàng hoá.
4. Mức phạt, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi xâm phạm quyền
sở hữu trí tuệ được thực hiện theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.”



-

Luật cạnh tranh.

-

Luật Hình sự.

-

Luật Dân sự.

1.2.4.2.
-

Các cơ quan tổ chức.

Cục Quản lý cạnh tranh của Bộ Công thương :

Cục Quản lý cạnh tranh là cơ quan do Chính phủ thành lập trong hệ thống tổ chức của
Bộ Công Thương có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng và trụ sở chính đặt
tại Thành phố Hà Nội.
Các đơn vị trực thuộc Cục Quản lý cạnh tranh bao gồm: Phòng Điều tra vụ việc hạn chế
cạnh tranh, Phòng Giám sát và quản lý cạnh tranh, Phòng Điều tra và xử lý các hành vi
cạnh tranh không lành mạnh, Phòng Bảo vệ người tiêu dùng, Phòng Kiểm soát theo mẫu điều kiện giao dịch chung, Phòng Xử lý các vụ kiện phòng vệ thương mại của nước ngoài,
Phòng Điều tra vụ kiện phòng vệ thương mại của doanh nghiệp trong nước, Phòng Hợp tác
quốc tế, Văn phòng, Trung tâm thông tin, Trung tâm đào tạo điều tra viên và các Văn phòng
đại diện tại Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh.

Với chức năng chính là giúp Bộ trưởng Bộ Công Thương thực hiện quản lý nhà nước về
cạnh tranh, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ
trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam, Cục Quản lý cạnh tranh đã và đang nỗ
lực hoạt động nhằm:
• Thúc đẩy môi trường cạnh tranh lành mạnh
Tiêu chí hoạt động của Cục là tạo lập và duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh với
cơ hội kinh doanh bình đẳng cho tất cả doanh nghiệp trên thị trường. Chúng tôi khuyến
khích và thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, qua đó đảm bảo quyền lợi của
người tiêu dùng, sự phát triển khoa học công nghệ và tiến bộ xã hội.
• Bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp và người tiêu dùng trước những hành vi hạn chế cạnh
tranh
Cục có nhiệm vụ điều tra các vụ việc liên quan đến các hành vi làm giảm, bóp méo và
cản trở cạnh tranh trên thị trường. Cụ thể, Cục có nhiệm vụ tổ chức điều tra các thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh, các hành vi lạm dụng sức mạnh thị trường và kiểm soát hiệu quả các
hoạt động tập trung kinh tế. Sau khi kết thúc điều tra, Cục chuyển báo cáo điều tra và kiến
nghị lên Hội đồng Cạnh tranh hoặc cấp có thẩm quyền xem xét xử lý vụ việc.
• Chống các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Chúng tôi cũng nỗ lực hạn chế và loại bỏ hành vi cạnh tranh không lành mạnh như chỉ
dẫn gây nhầm lẫn, xâm phạm bí mật kinh doanh, gièm pha hoặc gây rối hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp khác, Quảng cáo, khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh,
bán hàng đa cấp bất chính,v.v… nhằm đảm bảo quyền lợi của doanh nghiệp và người tiêu
dùng. Đối với các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh, Cục có thẩm quyền áp dụng các


biện pháp xử lý vi phạm.
• Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Cục chịu trách nhiệm giúp Bộ trưởng Bộ Công Thương thống nhất quản lý nhà nước
trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Để thực hiện trách nhiệm này, chúng tôi
phối hợp với các cơ quan chức năng và các tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trên
toàn quốc nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của người tiêu dùng được các nhà sản xuất cũng

như các nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ tôn trọng.
• Tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh hơn cho ngành sản xuất trong nuớc
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu và xuất phát từ thực tế nhiều ngành sản xuất
của Việt Nam hiện còn non trẻ, Cục Quản lý cạnh tranh có nhiệm vụ kiến nghị áp dụng
những biện pháp phòng vệ chính đáng, cho phép những ngành công nghiệp còn non trẻ đó
một khoảng thời gian hợp lý để thực hiện các điều chỉnh cần thiết. Đồng thời Cục cũng nỗ
lực nhằm đảm bảo loại bỏ tác động tiêu cực của các hành vi bán phá giá và trợ cấp hàng
hóa nhập khẩu, qua đó tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng hơn cho ngành sản xuất trong
nước.
- Cục cảnh sát phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao ( C50)
Cục Cảnh sát phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao thuộc Tổng cục Cảnh sát,
có trách nhiệm giúp Tổng Cục trưởng Tổng cục Cảnh sát chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn lực
lượng Cảnh sát phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao trong cả nước, tiến hành các
biện pháp phòng ngừa, phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm sử dụng công nghệ cao; trực tiếp
tiến hành các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh chống các hành vi vi phạm và tội
phạm sử dụng công nghệ cao theo quy định của pháp luật và của Bộ trưởng Bộ Công an.
-

Hiệp hội chống hàng giả và bảo vệ thương hiệu Việt Nam.

Hiệp hội Chống hàng giả và Bảo vệ thương hiệu Việt Nam (VTAP) là một tổ chức tự
nguyện của các tổ chức kinh tế của Việt Nam, nhằm mục đích tập hợp đoàn kết Hội viên,
hoạt động thường xuyên, không vụ lợi, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Hội viên, đại
diện cho Hội viên trong việc phối hợp với các tổ chức kinh tế và các cơ quan có liên quan
để chống hàng giả, bảo vệ thương hiệu; hỗ trợ hoạt động có hiệu quả, góp phần vào việc
phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

II. Thực trạng bị xâm phạm thương hiệu Hảo Hảo và biện
pháp bảo vệ của Công ty Cổ phần Acecook Việt Nam.
2.1. Giới thiệu về Công ty Acecook Việt Nam.

Được thành lập vào ngày 15/12/1993 và chính thức đi vào hoạt động từ năm 1995, sau
nhiều năm hoạt động, Công ty Cổ phần Acecook Việt Nam đã không ngừng phát triển lớn
mạnh trở thành công ty thực phẩm tổng hợp hàng đầu tại Việt Nam với vị trí vững chắc trên
thị trường, chuyên cung cấp các sản phẩm ăn liền có chất lượng và dinh dưỡng cao.
Gía trị cốt lỗi của Acecook Viên Nam là “Sản xuất và kinh doanh sản phẩm thực phẩm
an toàn, chất lượng cao đáp ứng tốt nhu cầu của người tiêu dùng”. Triệt để vấn đề quản


trị công ty, vấn đề chấp hành các quy định, mục tiêu của công ty và vấn đề công khai thông
tin.
Tăng cường khả năng cạnh tranh về giá và trở thành doanh nghiệp vững bước trên trường
quốc tế.
Nhắc tới Acecook Việt Nam là nhắc tới thương hiệu trẻ trung, năng động, gần gũi, có tinh
thần trách nhiệm với xã hội.
Với tầm nhìn “Trở thành doanh nghiệp sản xuất thực phẩm hàng đầu Việt Nam có đủ
năng lực quản trị để thích ứng với quá trình toàn cầu hóa”, Acecook mang trong mình
sứ mệnh đóng góp vào việc nâng cao đời sống ẩm thực của không chỉ riêng xã hội Việt
Nam mà còn cả thế giới thông qua việc sản xuất và kinh doanh thực phẩm chất lượng cao.





Thông qua việc sản xuất và kinh doanh các sản phẩm và dịch vụ có giá trị cao, đáp ứng nhu
cầu thời đại nhằm:
Mang lại sự hài lòng cho người tiêu dùng.
Mang lại cuộc sống ổn định và sự phát triển của CBCNV.
Trở thành một doanh nghiệp có vị trí và sự ủng hộ trên toàn thế giới.

2.2. Thực trạng bị xâm phạm thương hiệu của công ty.

Hiện nay, xâm phạm quyền sở hữu nhãn hiệu diễn ra phổ biến ở Việt Nam. Trong số đó,
nổi trội nhất là vụ việc công ty Cổ phần Acecook Việt Nam đã gửi đơn đề nghị cơ quan chức
năng xử lý việc bị công ty Cổ phần thực phẩm Á Châu (Asia foods) làm nhái bao bì, xâm
phạm quyền sở hữu nhãn hiệu của mì Hảo Hảo. Cụ thể là: Cách trình bày kiểu chữ “Hảo
Hạng, tôm chua cay”, đặc biệt là dấu hiệu hình tô mì và sợi mì, hình các con tôm, hình nửa
quả chanh cùng các loại rau thơm, hành cùng với tổ hợp màu sắc, đặc biệt màu sắc chủ đạo
của bao gói mì là màu đỏ cùng với màu hồng, xanh nước biển, xanh nước biển đậm, xanh
nước biển nhạt, xanh lá cây, vàng, vàng nâu, tím, trắng, đen” tạo thành một tổng thể tương
tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu “Hảo Hảo, mì tôm chua cay” được bảo hộ theo GCN
ĐKNHHH số 62360.
Theo đó, năm 2003 công ty Cổ phần Acecook Việt Nam đã đăng ký độc quyền nhãn
hiệu “Hảo Hảo tôm chua cay” còn công ty Cổ phần thực phẩm Á Châu cũng được cấp giấy
chứng nhận đăng ký bảo hộ nhãn hiệu “Hảo Hạng tôm chua cay” vào năm 2009. Theo Vina
Acecook, từ ngày 26-1-2015 trên thị trường xuất hiện sản phẩm Hảo Hạng của Asia Foods
với kiểu dáng thiết kế bao bì tương tự mì Hảo Hảo đã đăng ký độc quyền của Vina Acecook.
Ngày 3-2-2015 Vina Acecook đã gửi công văn khuyến cáo sự việc cho Asia Foods, đề nghị


Asia Foods chấm dứt việc mua bán, quảng cáo mì Hảo Hạng và có biện pháp thu hồi, tiêu
hủy sản phẩm đã đưa ra thị trường. Phúc đáp công văn, Asia Foods khẳng định việc sản xuất
Hảo Hạng đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp chứng nhận đăng ký nhãn hiệu số 119302. Sau đó
hai bên đã tiến hành gặp mặt nhưng không có được sự thống nhất về hướng giải quyết.
Ngày 13-2-2015 Vina Acecook đã gửi công văn đến Cục Sở hữu trí tuệ để xin ý kiến chuyên
môn và đã nhận Công văn số 1320/SHTT-TTKN của Cục sở hữu trí tuệ với kết luận mẫu
bao gói mì ăn liền mang dấu hiệu "Mì Hảo Hạng, TÔM CHUA CAY" của Công ty CP Thực
phẩm Á Châu sử dụng trong thực tế có cách trình bày tạo thành một tổng thể tương tự gây
nhầm lẫn với nhãn hiệu "Hảo Hảo, mì tôm chua cay" đã được bảo hộ của Vina Acecook.
Vì vậy, hành vi sản xuất, buôn bán, lưu thông, tàng trữ, nhằm để bán các sản phẩm mì ăn
liền mang nhãn hiệu như đã nêu mà không do chủ nhãn hiệu hoặc người được chủ nhãn hiệu
cho phép sản xuất sẽ gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng và là hành vi xâm phạm quyền đối

với nhãn hiệu đúng theo quy định Điều 129.1 Luật Sở hữu trí tuệ".
Hành vi của công ty Asia Foods, nhãn hiệu Hảo Hạng, hình của Asia foods đã xâm phạm
“quyền đối với nhãn hiệu” với nhãn hiệu Hảo Hảo, hình của Acecook Việt Nam và phải chịu
trách nhiệm pháp lý.
Dưới đây là nhận định, ý kiến theo khía cạnh pháp lý về sở hữu trí tuệ của Luật sư
Nguyễn Văn Tuấn (Đại diện cho Công ty TNHH NewVision Law).
Căn cứ theo Khoản 1 Điều 199 Luật SHTT thì: “Tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ của tổ chức, cá nhân khác thì tuỳ theo tính chất, mức độ xâm phạm, có
thể bị xử lý bằng biện pháp dân sự, hành chính hoặc hình sự.”
• Biện pháp hành chính: Các Cơ quan quản lý Hành chính có thẩm quyền ra quyết định
xử phạt nếu kết luận là có vi phạm.
• Biện pháp dân sự: Đại diện của Chủ sở hữu nhãn hiệu có thể yêu cầu tòa án (Điều
202 Luật Sở hữu trí tuệ).
+ Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm;
+ Buộc xin lỗi, cải chính công khai;
+ Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự;
+ Buộc bồi thường thiệt hại;
+ Buộc tiêu huỷ hoặc buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục
đích thương mại đối với hàng hoá, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng
chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ với điều
kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền sở hữu
trí tuệ.
• Biện pháp hình sự: Trong trường hợp hành vi của chủ sở hữu hàng nhái nhãn hiệu
Hảo Hảo, thỏa mãn Điều 171 Bộ Luật Hình sự thì chủ sở hữu nhãn hiệu Hảo Hảo,
có thể áp dụng biện pháp hình sự.
Cơ quan có thẩm quyền giải quyết:
Theo Điều 200 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và Nghị định số 97/2010/NĐ-CP thì những Cơ
quan sau có thể thẩm quyền xử lý hành vi vi phạm là:
+ Thanh tra chuyên ngành (Thanh tra Bộ KHCN, Thanh tra Sở KHCN);
+ Cảnh sát kinh tế;



+ Quản lý thị trường;
+ Ủy ban nhân dân (từ cấp huyện).
Như vậy, với hành vi xâm phạm nhãn hiệu của công ty Aisa Foods phải chịu hậu quả
pháp lý, mức phạt áp dụng là rất lớn. Mức phạt có thể lên đến năm trăm triệu đồng và có thể
kèm theo các biện pháp như: Thu hồi số tiền thu lợi bất hợp pháp, tiêu huỷ yếu tố vi phạm,
hàng hoá giả mạo, đưa vào lưu thông phi thương mại (mục đích nhân đạo….).
Qua vụ việc trên, các doanh nghiệp cần chú ý khi doanh nghiệp đã đăng ký một nhãn
hiệu tại Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (cụ thể là Cơ quan Cục Sở hữu trí tuệ – Bộ Khoa
học & Công Nghệ Việt Nam) thì nên sử dụng đúng như việc đăng ký. Mặc dù hiện nay
không có quy định nào bắt buộc doanh nghiệp phải dùng đúng mẫu nhãn hiệu đã đăng ký.
Doanh nghiệp cũng được quyền tùy chỉnh nhưng chỉ nên chỉnh những yếu tố không cơ bản,
những chi tiết nhỏ mà thôi phần chủ đạo nên giữ nguyên. Nếu doanh nghiệp thay đổi màu
sắc chính, bố cục chính… thì có thể sẽ vi phạm nhãn hiệu khác.
Như vậy, việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu, đăng ký bảo hộ thương hiệu ngày nay là vô
cùng quan trọng và cần thiết. Bảo hộ nhãn hiệu đảm bảo cho doanh nghiệp một vị thế cạnh
tranh vững chắc trên thị trường. Muốn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đồng
thời ngăn chặn mọi tình trạng xâm phạm bất hợp pháp quyền sở hữu trí tuệ, doanh nghiệp
phải kịp thời đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa.
2.3. Các biện pháp của công ty Acecook Việt Nam.
2.4. Kiến nghị một số giải pháp về nâng cao chất lượng bảo vệ thương hiệu ở các
doanh nghiệp.
2.4.1. Thực trạng xâm phạm thương hiệu ở Việt Nam.
Ngày nay tình trạng hàng hóa bị làm giả ngày càng nhiều, nhất là các thương hiệu nổi
tiếng tại Việt Nam được nhiều người yêu thích. Thực tế ở Việt Nam đã có hơn 3.000 vụ xâm
phạm, tranh chấp quyền sở hữu công nghiệp bị xử lý các biện pháp hành chính, hàng trăm
vụ hàng giả và vi phạm nhãn hiệu sẽ bị xử lí theo pháp luật. đặc biệt số vi phạm quyền sở
hữu công nghiệp ngày càng tăng cao. Trên thị trường thì hàng hóa giả mạo, hàng hóa xâm
phạm quyền ngày càng nhiều và khó phân biệt, đặc biệt những nhóm hàng thuộc lĩnh vực

công nghệ cao như thiết bị máy tính, thuốc chữa bệnh hay nhóm hàng hóa phục vụ tiêu dùng
như quần áo, mỹ phẩm…Việc xâm phạm quyền Sở hữu công nghiệp còn xuất hiện ở nhóm
hàng hóa có khả năng gây hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng đến sức khỏe con người như
thuốc bảo vệ thực vật, sắt thép xây dựng, thực phẩm, đồ uống…trong khi các cơ quan chức
năng đang cố gắng hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo hộ quyền Sở hữu công nghiệp thì
tính chất, mức độ xâm phạm quyền Sở hữu công nghiệp ngày càng diễn ra nghiêm trọng và
phức tạp. Có thể thấy điều đó qua số liệu vi phạm bị phát hiện tăng lên nhanh chóng qua các
năm.
Theo thống kê, trong năm 2007, các lực lượng thực thi ở sáu Bộ gồm: Bộ Khoa học và
Công nghệ, Thông tin truyền thông, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Tài chính, Công
Thương, Công an đã xử lý trên 18.000 cơ sở có hành vi xâm phạm quyền Sở hữu trí tuệ,


tổng số tiền xử phạt là trên 15 tỷ đồng, đồng thời tịch thu nhiều phương tiện, tang vật vi
phạm hành chính khác.

Trong những năm gần đây, các khiếu nại về việc xâm phạm nhãn hiệu đã không ngừng
gia tăng. Tính riêng tại Cục Sở hữu trí tuệ thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ thì năm 2005
có 306 khiếu nại về xâm phạm nhãn hiệu, năm 2006 là 324 khiếu nại và 2007 là 320 khiếu
nại, năm 2009 là 1654 khiếu nại, năm 2010 là 1632 khiếu nại… về xâm phạm nhãn hiệu.
Bản sắc nhãn hiệu chỉ xuất hiện trong tâm trí của khách hàng mục tiêu khi mà họ bị hấp
dẫn bởi giá trị mà nhãn hiệu ấy mang lại. Vì vậy mà mỗi doanh nghiệp đều cố gắng xây
dựng cho nhãn hiệu của mình một bản sắc riêng, không bị pha trộn hay bị gây nhầm lẫn với
các nhãn hiệu khác.
Tuy nhiên, không phải doanh nghiệp nào cũng thành công trong việc này. Bởi vì, để xây
dựng được một nhãn hiệu có sức sống lâu dài, có thể duy trì qua nhiều xu hướng đổi thay
đòi hỏi sự đầu tư nghiêm túc về tư duy và chi phí. Điều đó lý giải tại sao nhiều doanh
nghiệp ra đời sau thường ăn theo nhãn hiệu có uy tín trước đó để đặt tên cho nhãn hiệu của
mình, hoặc lấy tên nhãn hiệu gần giống với tên của nhãn hiệu nổi tiếng đã được người tiêu
dùng tin tưởng. Trên thực tế, việc làm này không chỉ có ảnh hưởng xấu đối với uy tín của

nhãn hiệu bị xâm phạm mà còn gây tổn hại trực tiếp đến lợi ích của khách hàng, làm cho
khách hàng sử dụng sản phẩm kém chất lượng mà không hề hay biết. Vì vậy mà, mục đích
của nhà sản xuất khi tạo dựng bản sắc nhãn hiệu chính là bảo vệ lợi ích cho khách hàng. Sao
cho, khi khách hàng mua một sản phẩm thì đó là quyết định dựa trên sự hiểu biết rõ ràng về
sản phẩm đó chứ không phải mua vì sự nhầm lẫn.
2.4.2. Một số giải pháp cho doanh nghiệp.
- Xây dựng quan điểm kinh doanh định hướng thị trường trước khi triển khai chiến lược
xây dựng và phát triển thương hiệu.
- Hoàn thiện bộ máy kinh doanh tiếp thị, đầu tư nhân sự có chất lượng cao cho phòng
tiếp thị và phòng phát triển kinh doanh.
2.4.3. Các biện pháp về phía Nhà nước.
- Cần sớm phát động chương trình hỗ trợ xây dựng thương hiệu Việt như hỗ trợ chi phí,
phương tiện truyền thông, các chương trình biểu dương thương hiệu Việt.
- Có những biện pháp hữu hiệu để chống hàng giả, hàng nhái bằng cách xây dựng chính
sách hữu hiệu về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa đã đăng kí, rút ngắn thời gian và thủ tục đăng
kí nhãn hiệu hàng hóa. Hiện nay để biết được một nhãn hiệu đã làm thủ tục đăng kí có được
bảo hộ hay không thì doanh nghiệp phải chờ từ 12 tháng – 18 tháng từ Cục sở hữu trí tuệ.


- Quy định về mức hạch toán chi phí quảng cáo, khuyến mãi mà doanh nghiệp được
tính không quá 10% là chưa hợp lý, quy định này gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc
xây dựng thương hiệu, nhất là trong giai đoạn đầu. Vì vậy, đề nghị cơ quan quản lý nhà
nước cần điều chỉnh lại mức hợp lí hơn về chi phí quảng cáo, khuyến mãi, đề nghị cần tăng
lên mức 15%-20%.



×