VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HÀ HOÀNG HÀ
NGƢỜI ĐỌC – NHÌN TỪ THỰC TIỄN
TIẾP NHẬN VĂN HỌC VIỆT NAM
ĐẦU THẾ KỶ XXI
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số: 62 22 01 20
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS Phan Trọng Thƣởng
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tài liệu,
những kết luận, nhận định trong luận án là trung thực và chưa được công bố trong
bất kỳ một công trình nào khác.
Hà Nội, ngày 05 tháng 7 năm 2017
Tác giả luận án
Hà Hoàng Hà
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..... ............................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU. ................................. 7
1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài....... .............................................................. 7
1.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước.................................................................... 11
Tiểu kết chƣơng 1.................................................................. .................................. 28
CHƢƠNG 2: VẤN ĐỀ NGƢỜI ĐỌC NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN LÝ
THUYẾT .................................................................................................................. 29
2.1. Khái niệm Người đọc................... ...................................................................... 29
2.2. Các quan niệm về người đọc.............................................................................. 31
2.3. Phân biệt một số kiểu người đọc................................................................... ..... 54
Tiểu kết chƣơng 2................................................................................................. ... 58
CHƢƠNG 3: NGƢỜI ĐỌC NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN THỰC TIỄN.... ....... 59
3.1. Khái quát về diện mạo văn học........................................... ............................... 59
3.2. Các vấn đề xung quanh thị hiếu thẩm mĩ của người đọc......................... .......... 73
3.3. Hoạt động tiếp nhận nhìn từ các phương diện của thực tiễn tiếp nhận văn học 86
Tiểu kết chƣơng 3..................................... ............................................................. 108
CHƢƠNG 4: CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ CHỈ SỐ NHẬN DIỆN
NGƢỜI ĐỌC............... .......................................................................................... 109
4.1. Các yếu tố tác động đến người đọc................ .................................................. 109
4.2. Các chỉ số nhận diện đặc điểm của người đọc............... .................................. 120
4.3. Những vấn đề đặt ra từ thực tiễn tiếp nhận........................... ........................... 140
Tiểu kết chƣơng 4............ ...................................................................................... 146
KẾT LUẬN.............. .............................................................................................. 148
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ. 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............ .................................................152
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Người đọc luôn là một bộ phận quan trọng gắn bó hữu cơ với quá
trình sáng tạo, và rộng hơn là quá trình lịch sử văn học. Tùy theo ảnh hưởng của
những hệ thống quan niệm, người ta đưa ra những lý thuyết khác nhau về người
đọc ở mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn. Trong lịch sử nghiên cứu có lúc vai trò người
đọc bị xem nhẹ so với nhà văn và tác phẩm, nhưng cũng có lúc được đánh giá
cao đến mức cực đoan bất chấp thực tại lịch sử và logic nghệ thuật. Quan tâm
đến vấn đề người đọc, do vậy không chỉ có các nhà nghiên cứu lý thuyết mà còn
có các nhà nghiên cứu thực tiễn lịch sử văn học.
1.2. Văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XXI đến nay có thể xem như một
giai đoạn khởi đầu cho một tiến trình văn học mới với rất nhiều đặc điểm, đặc
trưng mới, trong đó người đọc đang nổi lên như một vấn đề cần được quan tâm,
nghiên cứu và lý giải. Ở đây không chỉ nảy sinh vấn đề giữa lý thuyết với thực
tiễn mà còn nảy sinh hàng loạt vấn đề về người đọc với tư cách là chủ thể tiếp
nhận với quá trình sáng tạo, đánh giá và thưởng thức nghệ thuật. Thực tế cho
thấy, người đọc đã tác động, chi phối không nhỏ đến quá trình sáng tác, tới thị
hiếu thẩm mĩ và hệ giá trị nghệ thuật. Do vậy, nghiên cứu về người đọc trong
hoạt động tiếp nhận văn học Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI để chỉ ra các
đặc điểm, lý giải và đề xuất các vấn đề dưới ánh sáng của tư duy lý luận nhằm
rút ra các kết luận khoa học được đặt ra như một yêu cầu khách quan. Kết quả
nghiên cứu này không chỉ mang lại những nhận thức mới về lịch sử văn học mà
còn góp phần làm sáng tỏ một trong những vấn đề lý luận khá cơ bản đang được
giới nghiên cứu quan tâm hiện nay: vấn đề người đọc.
1.3. Ngoài ra, đề tài nghiên cứu của chúng tôi sẽ góp phần tích cực vào
việc làm phong phú thêm nguồn tư liệu về lý thuyết và thực tiễn tiếp nhận văn
học ở nước ta hiện nay. Đặc biệt là quá trình vận dụng vào thực tiễn giáo dục các
bậc học như phổ thông, cao đẳng, đại học.
1
Từ những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn đi vào nghiên cứu vấn đề:
Người đọc – nhìn từ thực tiễn tiếp nhận văn học Việt Nam đầu thế kỷ XXI
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án tập trung tìm hiểu những vấn đề lý luận về tiếp nhận và người
đọc, từ đó soi chiếu vào thực tiễn tiếp nhận văn học nước ta trong 15 năm đầu
thế kỷ XXI để thấy được nhận thức, thị hiếu thẩm mĩ của người đọc đương đại,
đặc biệt từ đó nhận diện người đọc đương đại với những đặc điểm cơ bản và đưa
ra đánh giá về thực trạng độc giả văn học đương đại.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài đặt ra nhiệm vụ giới thiệu tổng quan về lý thuyết tiếp nhận văn học
ở phương Tây, phương Đông và ảnh hưởng của lý thuyết tiếp nhận vào Việt
Nam; Phác thảo diện mạo văn học Việt Nam đầu thế kỷ XXI; Tìm hiểu nhận
thức, thị hiếu thẩm mĩ của người đọc văn học đương đại. Từ đó chỉ ra các đặc
điểm cơ bản của người đọc văn học hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là người đọc nhìn từ thực tiễn tiếp nhận
văn học Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI.
3.2. Phạm vi nghiên cứu, khảo sát
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là thực tiễn văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ
XXI đến nay, trong đó tập trung chủ yếu vào khâu người đọc.
Phạm vi khảo sát của đề tài kết hợp điều tra, khảo sát tình hình tiếp nhận
văn học của người đọc văn học Việt Nam hiện nay bằng phiếu hỏi trực tiếp, cũng
như khảo sát, nghiên cứu, tổng hợp các nguồn thông tin tư liệu liên quan đến đề
tài đã được công bố.
Phạm vi điều tra xã hội học của đề tài là người đọc văn học trên địa bàn
thành phố Hà Nội, cụ thể chúng tôi đã phát ra 507 phiếu điều tra cho sinh viên
Khoa Quan hệ công chúng & Truyền thông - trường Đại học Hòa Bình; học viên
2
Khoa Điều dưỡng (hệ liên thông) - trường Đại học Thành Tây, và sinh viên
Khoa Giáo dục mầm non trường Cao đẳng sư phạm Hải Dương cơ sở tại Viện
Công nghệ thông tin & Truyền thông, Mỹ Đình, Hà Nội. Chúng tôi lựa chọn các
đối tượng khảo sát trong độ tuổi từ 18 đến 40, trên địa bàn Hà Nội, là những sinh
viên, hoặc những người đã đi làm nhưng vẫn muốn hoàn thiện bằng cấp của
mình đang theo học các chuyên ngành khác nhau (có hoặc không liên quan tới
Văn học) với mong muốn bằng sự năng động và khát khao của tuổi trẻ, trong
một môi trường là trung tâm văn hóa chính trị, kinh tế của cả nước, các đối
tượng trong khảo sát nói trên sẽ cho ra những kết quả khảo sát khách quan nhất
phục vụ đề tài nghiên cứu.
Trong phạm vi luận án và nỗ lực cá nhân, những điều tra nói trên chỉ phần
nào phục vụ được mục tiêu luận án, chúng tôi cũng xin phép được tham khảo và sử
dụng kết quả điều tra của một số công trình nghiên cứu đi trước đã được công bố
rộng rãi như Công chúng, giao lưu và quảng bá văn học trong thời kỳ đổi mới, cơ
quan chủ trì: Viện Văn học, do PGS Tôn Thảo Miên làm chủ nhiệm đề tài, nghiệm
thu năm 2012 và in thành sách năm 2014 tại Nhà xuất bản Khoa học xã hội; Luận
án Sự phân hóa thị hiếu thẩm mĩ của công chúng văn học Việt Nam đương đại của
tác giả Vũ Thị Thu Hà, bảo vệ năm 2015 tại Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội;
Báo cáo tổng hợp đề án Lý luận văn nghệ ở Việt Nam – Thực tiễn và định hướng
phát triển, cơ quan chủ trì: Hội đồng Lý luận phê bình văn học nghệ thuật Trung
ương do PGS.TS Nguyễn Hồng Vinh làm chủ nhiệm đề tài, Bộ Khoa học và Công
nghệ nghiệm thu năm 2016 và một số công trình, nguồn tài liệu đã được công bố
rộng rãi khác.
4. Cơ sở lý luận và Phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Để nghiên cứu người đọc từ thực tiễn tiếp nhận, bên cạnh việc kết hợp
giữa hai hệ thống mỹ học macxit và mỹ học phương Tây về tiếp nhận văn học
làm sơ sở lý thuyết, chúng tôi kết hợp với lý thuyết xã hội học văn học khi
nghiên cứu người đọc từ thực tiễn tiếp nhận văn học Việt Nam những năm đầu
3
thế kỷ XXI. Do vậy, cơ sở lý luận của luận án có thể xem là sự kết hợp giữa lý
thuyết với thực tiễn, bằng cách nghiên cứu người đọc dưới ánh sáng của lý thuyết
tiếp nhận trên cơ sở khảo sát, phân tích thực tế theo phương pháp xã hội học.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau đây:
4.2.1. Phương pháp hệ thống
Người đọc là một vấn đề không mới nhưng chưa được hệ thống hóa một
cách khoa học và hợp lý. Phương pháp nghiên cứu này giúp chúng tôi nhận diện
những biểu hiện thành hệ thống trong các đối tượng riêng lẻ, để xác định những
biểu hiện ấy thành quy luật chung, thành đặc điểm chung phổ biến của toàn bộ
đối tượng nghiên cứu.
4.2.2. Phương pháp thống kê
Phương pháp nghiên cứu này không tách rời với phương pháp trên. Sử
dụng phương pháp thống kê giúp cho việc nghiên cứu đề tài không chỉ là định
tính mà còn mang tính định lượng tạo khả năng triển khai đề tài mạch lạc, logic
và hợp lý.
4.2.3. Phương pháp so sánh
Đây là phương pháp được sử dụng thường xuyên trong quá trình thực hiện
đề tài nhằm tìm ra sự khu biệt giữa đối tượng nghiên cứu của luận án với các đối
tượng văn học khác nhằm thấy được những nét đặc trưng riêng biệt của đề tài
nghiên cứu.
4.2.4. Phương pháp xã hội học
Nghiên cứu thực tiễn tiếp nhận đòi hỏi phải nghiên cứu ở cả bình diện lý
thuyết lẫn thực tiễn, bởi thế, phương pháp xã hội học là một phương pháp hữu
hiệu để chúng tôi có thể đưa ra những nhận xét chính xác về tình hình tiếp nhận
văn học Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI.
4
4.2.5. Phương pháp nghiên cứu liên ngành
Trong quá trình thực hiện luận án, chúng tôi sử dụng tri thức của nhiều
ngành khác nhau như tâm lí học, văn hóa học, diễn ngôn giới... để làm sáng tỏ
đời sống tiếp nhận văn học sôi động và phức tạp những năm đầu thế kỷ XXI.
Cụ thể, để đạt được các kết quả nghiên cứu đã đề ra trong luận án, ngoài
các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành, chúng tôi vận dụng phương pháp
điều tra liên ngành xã hội học văn học khi phân tích, để phần nào làm rõ những
đặc trưng của đối tượng người đọc, phục vụ mục tiêu nghiên cứu.
Phương pháp điều tra xã hội học được chúng tôi triển khai bao gồm:
+ 12 câu hỏi phỏng vấn dành cho đối tượng nghiên cứu;
+ 507 phiếu điều tra;
+ Mẫu chọn: 507 mẫu chọn ngẫu nhiên là người đọc văn học thuộc các
ngành liên quan hoặc không liên quan đến Văn học ở độ tuổi từ 18-40, đến từ nhiều
vùng miền khác nhau, là sinh viên, học viên trên địa bàn thành phố Hà Nội.
5. Đóng góp mới của luận án
5.1. Luận án là một trong những công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu
một cách hệ thống về người đọc văn học Việt Nam 15 năm đầu thế kỷ XXI với
tư cách là một đối tượng đang vận động, đang diễn ra. Bằng việc chỉ ra các đặc
điểm cơ bản của người đọc đương đại, luận án góp phần nhận diện gương mặt
người đọc văn hôm nay. Trên cơ sở đó lý giải một số hiện tượng, vấn đề của lịch
sử văn học đương đại.
5.2. Từ việc tìm hiểu những đặc điểm của người đọc văn học đương đại
luận án góp phần chỉ ra những vấn đề trong thực tiễn đời sống văn học nhằm
phát triển hoạt động đọc sách của công chúng, góp phần hình thành thị hiếu lành
mạnh, bồi dưỡng tâm hồn, trí tuệ và cảm xúc cho con người, đặc biệt là những
người Việt trẻ.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận án
6.1. Về mặt lý luận, các kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần chứng
minh tính khả dụng của lý thuyết, cung cấp luận cứ khoa học cho việc nhận thức,
5
lý giải các hiện tượng, các vấn đề nảy sinh trong hoạt động đọc và tiếp nhận của
người đọc.
6.2. Về mặt thực tiễn, trên cơ sở nghiên cứu, chỉ ra thực trạng người đọc
văn học những năm đầu thế kỷ XXI, luận án góp phần định hướng tiếp nhận,
định hướng thẩm mỹ, nâng cao vai trò của người đọc và hoạt động đọc trong sự
phát triển của văn học..., từ đó góp phần định hướng cho hoạt động phê bình.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, cấu trúc luận án gồm
4 chương như sau:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2. Vấn đề người đọc nhìn từ phương diện lý thuyết
Chương 3. Người đọc nhìn từ phương diện thực tiễn
Chương 4. Các yếu tố tác động và chỉ số nhận diện người đọc
6
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu ở nƣớc ngoài
Người đọc là vấn đề được nghiên cứu trong nhiều công trình của các học
giả nước ngoài. Điểm diện những công trình đã được công bố trên sách, báo, tạp
chí về vấn đề người đọc có thể thấy, đây là một trong số những vấn đề trọng tâm
của lý luận văn học.
Từ năm 1931, trong công trình Tác phẩm văn học [134,tr.155-188],
Roman Ingarden đã vận dụng Hiện tượng học để lí giải về tác phẩm văn học
trong mối quan hệ với người đọc. Ông cho rằng, tác phẩm văn học là một khách
thể mang tính chủ ý nên nó chịu sự tác động có ý thức của người đọc. Tác giả
xem việc đọc của người đọc là sự ―cụ thể hóa‖ văn bản văn học thông qua những
hoạt động phê bình, phân tích, giải thích và biểu diễn sân khấu... Mỗi thời đại,
mỗi giai đoạn tác phẩm văn học có được sự đón nhận khác nhau của công chúng.
R.Ingarden quan niệm: ―Khi người ta đón nhận tác phẩm một cách đơn giản qua
sự cụ thể hóa nào đó, thì sự thay đổi như thế có thể xảy ra, nếu người đọc - như
vẫn thường xảy ra - không ý thức được cho bản thân những khả năng của sự cụ
thể hóa đó, đồng nhất nó với tác phẩm văn học và ngây thơ để ý tới tác phẩm
được nghĩ ra này một cách có chủ ý. Lúc này người đọc cho rằng những gì liên
quan đến nội dung của sự cụ thể hóa đều là nội dung của tác phẩm‖ [134,tr.l86].
Theo ông, tác phẩm văn học không phải là một sản phẩm cố định mà là một quá
trình và luôn trong trạng thái động mặc dù ông vẫn chú ý đến vai trò của văn bản
trong sự tồn tại khách quan với tác phẩm và đề cao vai trò của người đọc thuần
túy, người đọc lý tưởng.
Năm 1960 trong công trình Chân lí và phương pháp [dẫn theo 37,tr.84],
Hans Georg Gadamer - nhà triết học người Đức, đã chú ý nghiên cứu, khám phá
mối quan hệ giữa văn bản và người đọc từ quan điểm Tường giải học. Ông nhấn
mạnh phương thức tồn tại của tác phẩm văn học trong mối quan hệ với người
đọc thông qua quá trình ―tạo nghĩa‖ văn bản. Ông đi tìm câu trả lời cho các câu
7
hỏi: Nghĩa của văn bản văn học thể hiện qua cái gì? Vai trò của sự chủ ý của nhà
văn trong nghĩa này là gì? Có sự hiểu khách quan hay mọi sự hiểu đều lệ thuộc
vào những tình thế lịch sử cụ thể? Có thể hiểu được những tác phẩm mà về mặt
lịch sử và văn hóa là xa lạ đối với người đọc hay không? Cho nên, tác phẩm văn
học được ông đặt trong ―tính đối thoại‖, như một cấu trúc tiếp diễn mà ở đó có
sự hiện diện của người đọc, nhờ có hoạt động đọc và hiểu tác phẩm của người
đọc mà văn bản trở thành tác phẩm văn học [dẫn theo 37,tr.84]. Gadamer đã
khẳng định và đề cao vai trò, vị trí quan trọng của người đọc trong phương thức
tồn tại của tác phẩm văn học, đồng thời tạo tiền đề cho sự ra đời của Mỹ học tiếp
nhận những năm 1960.
Trong một công trình được xuất bản ở Đức lần đầu tiên vào năm 1970
trên cơ sở những bài giảng của Hans Robert Jauss, sau đó được nhà nghiên cứu
Trương Đăng Dung giới thiệu và dịch ở Việt Nam với tên gọi Lịch sử văn học
như là sự khiêu khích đối với khoa học văn học [84,tr.71-l12] đăng lần đầu trên
Tạp chí Văn học nước ngoài, số 1/2002, mà nhà nghiên cứu Trương Đăng Dung
xem là ―tuyên ngôn của mỹ học tiếp nhận‖ [37,tr.106], H.R.Jauss cho rằng:
không thể hình dung được sự tồn tại của tác phẩm văn học nếu thiếu sự tham dự
tích cực của người đọc [84,tr.71-112]. Trong quá trình nghiên cứu về mối quan
hệ giữa tác phẩm và người đọc, H.R.Jauss đã đưa ra khái niệm ―tầm đón đợi‖,
―khoảng cách thẩm mĩ, ―kinh nghiệm thẩm mĩ‖ để có thể ―nắm bắt được về mặt
lịch sử trên phạm vi của những phản ứng của công chúng và sự phán xét phê
bình‖ [84,tr.71-112]. Nếu như H.R.Jauss quan tâm về ―người đọc lịch sử‖ thì
W.Iser, người học trò xuất sắc của ông lại lưu ý đến vai trò của ―người đọc tiềm
ẩn‖ – loại người đọc có trong chủ ý của tác giả, là ý hướng của tác giả khi sáng
tạo tác phẩm. Trong công trình Hoạt động đọc [dẫn theo 37,tr.112], W.Iser
―nhấn mạnh đến khả năng hợp tác lớn hơn của người đọc với văn bản văn học‖
[dẫn theo 37,tr.112]. Theo ông, sự có mặt của người đọc tiềm ẩn xuất hiện trước
khi có văn bản văn học. Còn đối với người đọc cụ thể, ông cho rằng văn bản văn
học luôn tồn tại một ―kết cấu vẫy gọi‖ còn người đọc luôn sẵn có một ―tầm đón
đợi‖ để thưởng thức tác phẩm văn học. Những khám phá và tìm tòi mới mẻ của
8
hai thầy trò H.R.Jauss và W.Iser đã mở ra tư duy mới cho lý luận văn học, trong
đó, người đọc được coi là trung tâm của tác phẩm văn học, có vai trò quyết định
sự tồn tại, và xác lập các giá trị cho tác phẩm.
Trong công trình Văn bản là gì [135,tr.113-156], nhà tường giải học
người Pháp Paul Ricoeur nhấn mạnh đến vai trò của người đọc trong sự đối sánh
với hành vi giao tiếp cụ thể. Theo ông, ―văn bản như là cái được viết ra, nó chờ
đợi được đọc và mời gọi đọc. Có được sự đọc là nhờ văn bản không khép kín mà
luôn mở ra sự việc khác‖ [135,tr.136]. Tuy thế, Paul Ricoeur mới chỉ đặt văn
bản văn học trong hoạt động tường giải chứ chưa đi vào khám phá mối quan hệ
tương tác giữa văn bản và người đọc. Năm 1982, trong công trình Đi tìm sự thật
biết cười phần Thi pháp tác phẩm Mở [59.tr.136], nhà ký hiệu học người Ý
Umberto Eco đã đưa ra hướng nghiên cứu mới về tác phẩm văn học và chỉ ra
những giới hạn của sự tiếp nhận văn học. Ông lưu ý rằng giới hạn là sự diễn giải
có từ văn bản ―khiến cho tính chất mở của tác phẩm trong sự tiếp nhận của
người đọc là có giới hạn‖ khi nghiên cứu ―tính chất mở‖ của tác phẩm văn học.
Ông viết: ―Một tác phẩm nghệ thuật là một cấu trúc hoàn thành và đóng kín
trong cái tính duy nhất của nó,... Cho nên mỗi sự đón nhận một tác phẩm nghệ
thuật thì vừa là một sự diễn giải nó lại vừa là một sự diễn tấu nó, vì rằng ở mỗi
sự đón nhận, tác phẩm đều mang lại một triển vọng mới mẻ cho chính nó‖
[59,tr.136]. Có thể hiểu rằng, người đọc lý giải tác phẩm phù hợp với hệ thống
những chuẩn mực mà cộng đồng đã thừa nhận. Vì vậy mới có hiện tượng cùng
nói về một văn bản nhưng mỗi người đọc, mỗi cộng đồng sẽ có những giải mã
và thụ cảm khác nhau. Điều đó giải thích sự thăng trầm của số phận nhiều tác
giả, tác phẩm trong lịch sử văn học.
Nếu thời kỳ hiện đại, lý thuyết tiếp nhận chú ý nhiều đến văn bản - tác
phẩm văn học thì bước sang thời kỳ hậu hiện đại, vai trò của người đọc được đề
cao, và đưa lên vị trí trung tâm thông qua các nghiên cứu của các lý thuyết gia
hậu hiện đại như: J.Derrida, R.Barthes, Foucault,... Thế kỷ XIX, XX ở phương
Tây đánh dấu sự ra đời của xã hội học và xã hội học văn học với các tên tuổi nổi
tiếng như: Auguste Comte, Karl Marx, Herbert Spencer, Emile Durkheim, Max
9
Weber, các nhà xã hội học văn học với các trường phái khác nhau: H.Taine, De
Stael, G.Lanson, R.Escarpit (thuộc trường phái Bordeaux), H.Robert Jauss
(thuộc trường phái Konstanz),... trong đó vấn đề người đọc đã được bàn đến
trong nghiên cứu của R.Escarpit, H.R.Jauss, hay các bài viết của John Hall,
Luccien Goldmann...
Nhà mỹ học người Đức Manfred Naumann (chủ biên) cho ra đời tập sách
Xã hội, Văn học, Sự đọc vào năm 1978 [dẫn theo 184,tr.3-23] đã nhìn vấn đề
tiếp nhận ở một khía cạnh khác. Trên cơ sở xem xét mối quan hệ biện chứng
giữa sáng tác và tiếp nhận, tác phẩm và người đọc, giữa viết văn và đọc văn dựa
trên mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng theo lý thuyết của Marx,
M.Naumann làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa các phạm trù, trong đó ông
chú ý phân tích vấn đề tiếp nhận thông qua sự đọc, phương thức đọc ―đọc văn
học chứ không phải đọc thứ gì khác‖ [184,tr.11]. Về các khái niệm người đọc,
người nhận, sự đọc, M.Naumann đề cập đến mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu
dùng. Xuất phát điểm của ―Sản xuất văn học‖ là tác giả, tác phẩm còn kết thúc
của ―tiêu dùng‖ giao tiếp văn học là ―tiếp nhận văn học, người đọc‖[184,tr.12].
Từ sự phân định đó, M.Naumann đã chỉ ra mối quan hệ tác động qua lại của các
phạm trù này. ―Không chỉ sản xuất văn học làm cho tiếp nhận văn học vận động
mà tiếp nhận văn học cũng làm cho sản xuất văn học vận động, là tác giả không
chỉ tạo ra công chúng của mình mà công chúng cũng tạo nên tác giả, là không
chỉ tác phẩm tác động vào người đọc mà người đọc cũng tác động vào sản xuất
các tác phẩm và như vậy tiếp nhận không chỉ là điểm kết thúc mà còn là điểm
xuất phát của sự sản xuất văn học mới‖ [184,tr.l3]. Để phân tích rõ hơn về mối
quan hệ giữa ―sản xuất‖ và ―tiêu dùng‖ văn học, M.Naumann còn đề cập các
―khâu trung gian‖ tác động đến mối quan hệ này, đó là thiết chế xã hội, nhà xuất
bản, nhà sách, quảng cáo sách, các nhà nghiên cứu phê bình... Sự tiếp cận của
M.Naumann dựa trên quan điểm xã hội học mácxít trên nền học thuyết của
K.Marx đã mở ra hướng nghiên cứu và tìm tòi mới về vị trí và vai trò của người
đọc trong việc hoàn kết các giá trị của văn học. Nhưng hạn chế của M.Naumann
là ở chỗ đã đề cao một cách tuyệt đối vai trò của người đọc trong tiếp nhận văn
10
học; trong tác động xã hội - người đọc; trong mối quan hệ biện chứng giữa nhà
văn - người đọc, giữa văn bản - người đọc, giữa sản xuất văn học và tiêu thụ văn
học mà chưa có những lý giải và phân tích cụ thể, sinh động về người đọc với
đặc điểm chung và riêng trong tiếp nhận văn học.
Như vậy, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đều thể hiện quan điểm,
sự lí giải khác nhau về vấn đề người đọc và hoạt động tiếp nhận vă học qua từng
thời kỳ, từng giai đoạn. Việc đặt tác phẩm văn học trong mối hệ với người đọc là
một hướng nghiên cứu có chủ đích liên quan đến vấn đề chủ thể tiếp nhận trong
tiếp nhận văn học. Quá trình từ hiện thực cuộc sống đến chủ thể sáng tạo, từ
khách thể văn bản đến chủ thể tiếp nhận là quá trình vận động không ngừng. Từ
văn bản đến tác phẩm là một quá trình mà người đọc là sự hoàn kết hành trình
quan trọng đó. Tiếp nhận gián tiếp thông qua văn bản dịch, giới thiệu, các công
trình nghiên cứu lý thuyết của các nhà nghiên cứu ngoài nước về người đọc và
vai trò, vị trí của người đọc được chúng tôi đề cập ở trên là cơ sở lý thuyết, là
tiền đề và là những lý giải quý giá cho quá trình nghiên cứu đề tài luận án.
Những thành tựu của các nhà nghiê cứu ngoài nước về lý thuyết tiếp nhận và
người đọc chúng tôi xin được bàn đến sâu hơn trong chương 2 của luận án
1.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nƣớc
Ở nước ta, ứng dụng lý thuyết tiếp nhận vào nghiên cứu văn học đã trải qua
một quá trình phát triển không thể nói là dài nhưng bước đầu đã có những thành
tựu đáng kể. Như nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Thiện từng khẳng định trong bài
viết Vấn đề người đọc – tiếp nhận trong lý luận tiểu thuyết ở Việt Nam từ đầu thế
kỷ XX đến nay vấn đề ―người đọc đã bắt đầu được quan tâm đề cập, nhưng lúc này
người đọc chỉ được xem như là đối tượng tiếp nhận thụ động văn bản tác phẩm do
tác giả sáng tạo và đưa tới‖ [162]. Theo đó, từ năm 1906, khi ban hành thể lệ cuộc
thi tiểu thuyết, Tòa soạn báo Nông cổ mín đàm đã lưu ý đến phải làm sao cho
người đọc cả thấy dường như là truyện có thật vậy [dẫn theo 162]. Năm 1916,
Trần Thiên Trung trong Hoàng Tố Oanh hàm oan khẳng định truyện của ông
―nói về việc trong xứ mình, dùng tiếng tầm thường cho mọi người dễ hiểu‖. Và đề
cao vai trò tích cực của người đọc khi khẳng định người đọc không chỉ đọc thụ
11
động và bị chi phối bởi tác giả mà còn có ý kiến riêng của mình khi đọc tác phẩm
[dẫn theo 162]. Đến năm 1921, nhà nghiên cứu Phạm Quỳnh cũng dành nhiều sự
quan tâm đến người đọc. Trong chuyên luận Khảo về tiểu thuyết đăng trên Nam
Phong ông đã thể hiện quan niệm về ―người đọc‖ khi đặt ra vấn đề viết tiểu thuyết
là phải ―đủ làm cho người đọc có hứng thú‖ [dẫn theo 162]. Năm 1939, trong bài
Đi tới chủ nghĩa tả thực trong văn chương: những khuynh hướng trong tiểu thuyết
(Tao Đàn), Hải Triều cho rằng khi ―viết một cuốn tiểu thuyết bao giờ nhà văn
cũng có một chủ ý trình bày cùng độc giả một chủ nghĩa gì, một triết lý gì, hay
không nữa thì cũng ghi lấy một ý nghĩ gì thoáng qua nhưng nó thiết tha, cảm động
hay ngộ nghĩnh, khôi hài [dẫn theo 162].
Năm 1941-1942, Vũ Bằng trong chuyên luận cũng có tên Khảo về tiểu
thuyết (đăng trên báo Trung Bắc Chủ nhật, đến năm 1955 xuất bản thành sách), đã
dành nhiều trang bàn về người đọc, trong đó nhà nghiên cứu khằng định ―Tiểu
thuyết sở dĩ gây nên được những ảnh hưởng to lớn, tiểu thuyết đã tạo những bóng
mây... công đó không phải là toàn của những nhà tiểu thuyết đâu, nhưng còn là
công của những người đọc tiểu thuyết‖ [dẫn theo 162].
Năm 1956, nhà nghiên cứu Nguyễn Hiến Lê trong cuốn Nghề viết văn, do
tác giả tự xuất bản tại Sài Gòn, đã dành chương VI để khảo luận về Tâm lý độc
giả và chương V về Lời phê bình của độc giả. Theo Nguyễn Hiến Lê, ―Mỗi tác
phẩm khi đã bày ở trên sách là tìm những độc giả thích hợp với nó: chẳng hạn loại
tiểu thuyết là loại tìm độc giả bình dân; khảo cứu tìm hạng trang lứa có học. Nếu
chính những độc giả đó phải chê là viết thiếu nghệ thuật hoặc khó hiểu quá thì nhà
văn không còn tự bào chữa gì được nữa‖ [dẫn theo 162].
Năm 1960, trong Lời nói đầu cuốn Viết và đọc tiểu thuyết, ―Nhất Linh xác
định mục đích viết cuốn sách này nhằm vào hai đối tượng: nhà văn viết tiểu thuyết
và độc giả đọc tiểu thuyết. Theo ông, đọc sách có hai kiểu: đọc thầm lặng, vừa đọc
vừa suy nghĩ và đọc thành tiếng, hay nghe người khác đọc. Trong hai cách ấy, ông
thiên về cách đọc lặng lẽ vì có như vậy mới có dịp bình tâm ―thưởng thức được
hết những cái hay, ý nhị, sâu sắc và để hồn phiêu diêu vào một thế giới thanh tao,
hoặc để tâm suy nghĩ về những điều đương đọc‖ [162]. ―Với ông, độc giả là một
12
Luận án đầy đủ ở file: Luận án full