Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Quản lý nhà nước về tài nguyên nước tại tỉnh Đăk Nông (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 127 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………

BỘ NỘI VỤ
……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TÔ QUANG HỌC

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ TÀI NGUYÊN NƢỚC
TẠI TỈNH ĐẮK NÔNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH CÔNG
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 60 34 04 03

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐẶNG THÀNH LÊ

ĐẮK LẮK - NĂM 2017


LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm trân trọng nhất, tác giả luận văn xin gửi lời cảm ơn chân
thành và sâu sắc tới TS. Đặng Thành Lê công tác tại Học viện Hành chính
Quốc gia đã tận tình hƣớng dẫn, giúp đỡ tác giả trong quá trình thực hiện và
hoàn thành Luận văn Cao học Hành chính công: Quản lý nhà nước về tài
nguyên nước tại tỉnh Đắk Nông.
Xin trân trọng cảm ơn Ban Giám đốc, các thầy giáo, cô giáo của Học
viện Hành chính đã tận tình, chu đáo trong quá trình tham gia giảng dạy và
truyền đạt kiến thức cho tác giả. Xin đƣợc bày tỏ lời cảm ơn chân thành đến


toàn thể cán bộ, công chức, viên chức của Học viện Hành chính và Phân viện
Học viện Hành chính khu vực Tây Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi nhất cho
tác giả trong thời gian học tập, nghiên cứu và hoàn thành chƣơng trình cao
học cũng nhƣ hoàn thành Luận văn này.
Xin đƣợc gửi lời cảm ơn chân thành đến Lãnh đạo Sở Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn, Chi cục Thủy lợi tỉnh Đắk Nông, Trung tâm Nƣớc sạch
và VSMT NT tỉnh Đăk Nông; Lãnh đạo Sở Tài nguyên và Môi trƣờng tỉnh
Đăk Nông, Phòng Khoáng sản và Tài nguyên nƣớc mà tác giả đã đến khảo
sát, lấy số liệu phục vụ cho việc hoàn thành Luận văn này.
Kính mong nhận đƣợc sự góp ý của quý thầy giáo, cô giáo, đồng
nghiệp và các học viên cao học - Học viện Hành chính và quý bạn đọc để
Luận văn đƣợc hoàn thiện và hữu ích hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Đắk Lắk, tháng 5 năm 2017
Tác giả

Tô Quang Học


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn Cao học Quản lý công “Quản lý nhà nước
về tài nguyên nước tại tỉnh Đắk Nông” là công trình nghiên cứu khoa học
của riêng tôi.
Các số liệu và thông tin đƣợc sử dụng trong Luận văn có xuất xứ rõ
ràng và kết quả nghiên cứu là do quá trình lao động trung thực của bản thân.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm trƣớc pháp luật và lãnh đạo Học
viện Hành chính Quốc gia về Luận văn cao học này.
Đắk Lắk, tháng 5 năm 2017

Tác giả


Tô Quang Học


MỤC LỤC
Trang

Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục
Bảng danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục sơ đồ
MỞ ĐẦU
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
VỀ TÀI NGUYÊN NƢỚC
1.1. Tài nguyên nƣớc
1.2. Quản lý nhà nƣớc về tài nguyên nƣớc
1.3. Kinh nghiệm nƣớc ngoài
1.4. Các nhân tố ảnh hƣởng đến quản lý nhà nƣớc về tài nguyên nƣớc
TIỂU KẾT CHƢƠNG I
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ TÀI NGUYÊN
NƢỚC TẠI TỈNH ĐẮK NÔNG GIAI ĐOẠN 2010 - 2015
2.1. Tổng quan về tỉnh Đắk Nông
2.2. Quản lý nhà nƣớc về tài nguyên nƣớc tại tỉnh Đắk Nông
2.3. Đánh giá chung
TIỂU KẾT CHƢƠNG II
Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ
TÀI NGUYÊN NƢỚC TẠI TỈNH ĐẮK NÔNG

3.1. Quan điểm, định hƣớng phát triển của Đảng và Nhà nƣớc
3.2. Mục tiêu, định hƣớng phát triển của tỉnh Đắk Nông đến năm 2020
3.3. Giải pháp quản lý nhà nƣớc về tài nguyên nƣớc tại tỉnh Đắk Nông
Giai đoạn 2015-2020
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

1
7
7
18
28
34
38
39
39
45
56
62
63
63
67
70
82
83


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ASEAN


Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á

CTMTQG

Chƣơng trình mục tiêu Quốc gia

ĐTCB

Điều tra cơ bản tài nguyên nƣớc

HĐQGTNN

Hội đồng quốc gia về tài nguyên nƣớc

LVS

Lƣu vực sông

NN&PTNT

Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn

QLNN

Quản lý nhà nƣớc

TN&MT

Bộ Tài nguyên và Môi trƣờng


TNN

Tài nguyên nƣớc

UBND

Ủy ban nhân dân

UNESCO

Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Vƣn hóa Liên Hiệp Quốc

XHCN

Xã Hội Chủ Nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG
Tên bảng
biểu

Nội dung

Trang

Bảng tổng hợp các vấn đề quản lý nhà nƣớc về tài
Bảng 1.1

nguyên nƣớc tại Việt Nam


22

Bảng 2.1.

Thống kê các đơn vị hành chỉnh của tỉnh Đắk Nông

40


DANH MỤC SƠ ĐỒ
Tên sơ đồ

Nội dung

Trang

Tổ chức bộ máy quản lý nhà nƣớc về tài nguyên
Sơ đồ 1.2

nƣớc của Việt Nam

27


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nƣớc là tài nguyên đặc biệt quan trọng đối với mọi sự sống trên hành tinh,
là điều kiện tồn tại và phát triển của tự nhiên, kinh tế xã hội. Nƣớc là một loại tài
nguyên quí giá và giữ vai trò quan trọng. Hàng loạt tài liệu khoa học công bố trong nhiều

thế kỷ vừa qua trên thế giới đã nói lên điều đó. Khoảng hơn hai trăm năm trƣớc đây, trong
sách “Vân Đài loại ngữ”, nhà bác học Việt Nam Lê Quý Đôn đã viết:
"Vạn vật không có nƣớc không thể sống đƣợc,
Mọi việc không có nƣớc không thể thành đƣợc".
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có câu nói tuyệt vời trong huấn thị của Ngƣời tại Hội
nghị Thủy lợi toàn miền Bắc họp tại Bắc Ninh, ngày 14-9-1959 nhƣ sau: "Việt Nam ta có
hai tiếng Tổ quốc, ta cũng gọi Tổ quốc là đất nƣớc; có đất và có nƣớc, thì mới thành Tổ
quốc. Có đất lại có nƣớc thì dân giàu nƣớc mạnh... Nhiệm vụ của chúng ta là làm cho đất
với nƣớc điều hoà với nhau để nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng chủ nghĩa xã hội".
Không có nƣớc thì không có sự sống trên hành tinh của chúng ta. Nƣớc là động lực
chủ yếu chi phối mọi hoạt động dân sinh kinh tế của con ngƣời. Nƣớc đƣợc sử dụng rộng
rãi trong sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, thuỷ điện, giao thông vận tải, chăn nuôi thuỷ
sản v.v… Do tính chất quan trọng của nƣớc nhƣ vậy nên UNESCO lấy ngày 23/3 hàng
năm làm ngày nƣớc thế giới.
Nƣớc là một loại tài nguyên đƣợc tái tạo theo quy luật thời gian và không gian.
Nhƣng ngoài quy luật tự nhiên, hoạt động của con ngƣời đã tác động không nhỏ đến vòng
tuần hoàn của nƣớc. Nƣớc ta có nguồn tài nguyên nƣớc khá phong phú nhƣng khoảng 2/3
lại bắt nguồn từ ngoài lãnh thổ quốc gia, mùa khô lại kéo dài 6-7 tháng làm cho nhiều vùng
thiếu nƣớc trầm trọng. Dƣới áp lực của gia tăng dân số, nhu cầu phát triển kinh tế xã hội đã
ảnh hƣởng tiêu cực đến tài nguyên nƣớc nhƣ tăng dòng chảy lũ, lũ quét, cạn kiệt nguồn
nƣớc mùa cạn, hạ thấp mực nƣớc ngầm, suy thoái chất lƣợng nƣớc… Do đó, giữ gìn, bảo
vệ tài nguyên nƣớc, dùng đủ hôm nay, giữ gìn cho ngày mai, là trách nhiệm của toàn xã
hội. Mỗi ngƣời dân cần đƣợc tuyên truyền sâu rộng về tài nguyên nƣớc, từ đó thấy đƣợc
nghĩa vụ của mình trong viêc giữ gìn bảo vệ nguồn tài nguyên quý giá này.

Với lý do thực tế trên đây tôi chọn đề tài “Quản lý Nhà nước về tài
nguyên nước tại tỉnh Đắk Nông” cho luận văn cao học ngành Quản lý công.
1



Luận văn đƣợc giới hạn bởi khía cạnh quản lý nhà nƣớc thông qua việc
khảo sát thực tế khai thác, sử dụng, quản lý và bảo vệ tài nguyên nƣớc ở tỉnh
Đắk Nông. Thông qua sự tham khảo phân tích hệ thống văn bản pháp quy hiện
hành về khai thác, sử dụng, bảo vệ và quản lý nƣớc.
2. Tình hình nghiên cứu
Quản lý Nhà nƣớc về tài nguyên nƣớc trên lãnh thổ Việt Nam chung,
trong đó trên địa bàn tỉnh Đắk Nông nói riêng không còn là một vấn đề mới,
nhƣng luôn là đề tài có tính thời sự và cũng không kém phần phức tạp. Vấn đề
này đã đƣợc nhiều nhà khoa học, nhà quản lý, hoạch định chính sách và hoạt
động thực tiễn tập trung đi sâu nghiên cứu, tìm tòi, khảo sát. Đến nay đã có
nhiều công trình đƣợc công bố dƣới những góc độ, mức độ, khía cạnh, hình
thức thể hiện khác nhau đã đƣợc đăng tải và công bố trên một số sách, báo,
tạp chí ở Trung ƣơng và địa phƣơng, nhƣ:
Báo cáo “Kết quả thực hiện đề án, điều tra đánh giá nước dưới đất 07
vùng trọng điểm tỉnh Đắk Nông” Dự án Điều tra, đánh giá nƣớc dƣới đất ở
một số vùng trọng điểm thuộc 05 tỉnh Tây Nguyên (2006), Chủ biên Ông
Ngọc Khoát. Thực hiện Liên đoàn địa chất Thủy văn-Địa chất công trình
Miền Nam.
Đề tài “Quản lý tài nguyên và môi trường nước” (2014), do PGS-TS
Trƣơng Thanh Cảnh làm giáo viên hƣớng dẫn, nhóm học viên khoa Môi
trƣờng của Trƣờng Đại học Khoa học tự nhiên thực hiện nghiên cứu. Đề tài
đã làm rõ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn về tổng quan về tài nguyên nƣớc,
hiện trạng sử dụng và giải pháp nâng cao công tác quản lý tài nguyên nƣớc ở
Việt Nam trong điều kiện hiện nay.(www.slideshare.net)
Bài báo cáo “Tài nguyên nước và hiện trạng sử dụng nước” (2013).
Giáo viên hƣớng dẫn Lê Quốc Tuấn, nhóm sinh viên Trƣờng Đại học nông
lâm TP. Hồ Chí Minh thực hiện nghiên cứu. Các tác giả đã nêu vai trò của tài

2



nguyên nƣớc, tình hình sử dụng, sự tác động của biến đổi khí hậu, các vấn đề
ô nhiễm tài nguyên nƣớc, các biện pháp quản lý nhà nƣớc để phát triển bền
vững tài nguyên nƣớc ở nƣớc ta.
Báo cáo “Quy hoạch thuỷ lợi với điều kiện thích ứng biến đổi khí hậu
đến năm 2020 và tầm nhìn đến 2030 trên địa bàn tỉnh Đắk Nông” (2015),
Viện Quy hoạch Thủy lợi Hà Nội.
Báo cáo “Tổng hợp nghiên cứu đánh giá tài nguyên nước mặt, đề xuất
các giải pháp khai thác hợp lý phục vụ phát triển kinh tế xã hội vùng Đông
bắc tỉnh Đắk Nông” (2016) Ths. Lê Viết Thuận Chi cục Thủy lợi Đắk Nông.
Nhìn chung, các tác giả đều đã phân tích một cách hệ thống, khá toàn
diện về Tài nguyên nƣớc trên lãnh thổ Việt Nam và một số vùng của tỉnh
Đắk Nông.
Trên cơ sở đó, các tác giả đã đề cập đến những phƣơng hƣớng, giải
pháp quản lý tài nguyên nƣớc trong tình hình mới, đó đều là những công
trình, sản phẩm có giá trị, ý nghĩa lớn cả về mặt lý luận và thực tiễn, là cơ sở
để kế thừa cho việc nghiên cứu tiếp theo. Tuy nhiên, các nghiên cứu trên chủ
yếu chỉ đề cập đến vấn đề tài nguyên nƣớc nói chung hoặc đặt nó nằm trong
phạm vi nghiên cứu của các nguồn tài nguyên nƣớc ngầm, nƣớc mặt cụ thể
một số vùng trên địa bàn tỉnh, mà chƣa có đề tài, luận văn nghiên cứu sâu đến
QLNN về tài nguyên nƣớc nhƣ đề tài luận văn lựa chọn ở đây. Ngoài ra thực
tế tôi đang công tác trong ngành cấp nƣớc sạch nông thôn trên địa bàn tỉnh nên
tôi mong muốn nghiên cứu đề tài này và có những đóng góp thiết thực liên quan
đến ngành của mình. Do vậy đề tài nghiên cứu „Quản lý Nhà nƣớc về tài
nguyên nƣớc tại địa bàn tỉnh Đắk Nông‟ và hết sức cần thiết và không trùng
lập với các công trình nghiên cứu đã có.

3



3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hóa kiến thức, phân tích thực trạng tìm ra nguyên nhân
những hạn chế trong hoạt động QLNN về tài nguyên nƣớc tại tỉnh Đắk Nông để
đƣa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả Quản lý nhà nƣớc về tài
nguyên nƣớc trên địa bàn tỉnh Đắk Nông góp phần hạn chế sử dụng lãng phí tài
nguyên nƣớc và gây ô nhiễm môi trƣờng sống.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu luận văn có nhiệm vụ:
- Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài;
- Nghiên cứu lý thuyết về nội dung, hình thức, phƣơng pháp QLNN về tài
nguyên nƣớc để xác lập cơ sở vấn đề nghiên cứu;
- Nghiên cứu hoạt động QLNN về tài nguyên nƣớc của các cơ quan chức
năng làm cơ sở đánh thực trạng quản lý nhà nƣớc về tài nghuên nƣớc tại tỉnh
Đắk Nông
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề quản lý nhà nƣớc về tài nguyên
nƣớc tại tỉnh Đắk Nông, chủ yếu trong phạm vi chức năng của Sở Tài nguyên
và Môi trƣờng và các đơn vị chức năng liên quan.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi theo không gian: Phạm vi nghiên cứu của luận văn tại các
đơn vị quản lý nhà nƣớc về tài nguyên nƣớc trong phạm vi nƣớc Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Phạm vi theo thời gian: Các phân tích, đánh giá thực trạng quản lý
nhà nƣớc về tài nguyên nƣớc tại tỉnh Đắk Nông và các chính sách, chủ trƣơng...

4



cũng nhƣ các giải pháp ở tầm vĩ mô cấp tỉnh, tình hình số liệu khảo sát trong thời
gian từ năm 2010-2015 đề xuất giải pháp cho giai đoạn đến năm 2020.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn dựa trên trên cơ sở phƣơng pháp duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của Chủ nghĩa Mác- Lênin, Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và những quan điểm ,
chính sách của Đảng, Nhà nƣớc trong hoạt động QLNN về Tài nguyên nƣớc
5.2. Phương pháp nghiên cứu.
5.2.1.Phương pháp kế thừa
Kế thừa có chọn lọc các tài liệu, tƣ liệu và các kết quả của của các công
trình nghiên cứu trong nƣớc và quốc tế liên quan đến các nội dung nghiên cứu
của luận văn.
5.2.2.Phương pháp thu thập và tổng hợp tài liệu
Thu thập các tài liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, thu thập các tài
liệu đề án liên quan, các quy hoạch, định hƣớng và các chỉ tiêu phát triển của các
ngành, các địa phƣơng.
Ngoài trong luận văn còn sử dụng nhiều kỹ thuật của phƣơng pháp thống
kê, so sánh và đối chiếu với thực tiễn để rút ra những kết luận cần thiết trong
đánh giá thực trạng về tiếp nhận, sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên nƣớc để
từ đó tìm ra một số định hƣớng và giải pháp quản lý nhà nƣớc về tài nguyên
nƣớc.tại tỉnh Đăk Nông.
6. Những đóng góp của luận văn
- Hệ thống hoá, bổ sung kiến thức để hình thành cơ sở khoa học của việc
quản lý Quản lý Nhà nƣớc về tài nguyên nƣớc ở tỉnh Đắk Nông .
- Đánh giá về thực trạng hoạt động và đề xuất những biện pháp nâng cao
hiệu quả thực hiện Quản lý Nhà nƣớc về tài nguyên nƣớc ở tỉnh Đắk Nông.

5



- Tài liệu tham khảo cho lãnh đạo các cấp quản lý ở tỉnh Đắk Nông trong
việc tổ chức, chỉ đạo về việc khai thác và sử dụng tài nguyên nƣớc. Đồng thời nó
cũng là tài liệu tham khảo cho các cơ quan đơn vị, cho sinh viên khoa môi trƣờng.
7. Kết cấu nội dung của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luân, luận văn gồm các nội dung sau:
- Chƣơng 1: Cơ sở Lý luận và Thực tiễn quản lý nhà nƣớc về tài
nguyên nƣớc
- Chƣơng 2. Thực trạng quản lý nhà nƣớc về tài nguyên nƣớc tại tỉnh
Đắk Nông giai đoạn 2010 - 2015.
- Chƣơng 3: Định hƣớng và Giải pháp quản lý Nhà nƣớc về tài nguyên
nƣớc tại tỉnh Đắk Nông.

6


Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
VỀ TÀI NGUYÊN NƢỚC
1.1. Tài nguyên nƣớc
1.1.1. Khái niệm
Tài nguyên nƣớc là các nguồn nƣớc mà con ngƣời sử dụng hoặc có thể sử
dụng vào những mục đích khác nhau. Nƣớc đƣợc dùng trong các hoạt động nông
nghiệp, công nghiệp, dân dụng, giải trí và môi trƣờng hầu hết các hoạt động trên
đều cần nƣớc ngọt.
1.1.2. Phân loại tài nguyên nước
Tài nguyên nƣớc bao gồm nguồn nƣớc mặt, nƣớc mƣa, nƣớc dƣới đất,
nƣớc biển. Nguồn nƣớc mặt, thƣờng đƣợc gọi là tài nguyên nƣớc mặt, tồn tại
thƣờng xuyên hay không thƣờng xuyên trong các thuỷ vực ở trên mặt đất nhƣ:
sông ngòi, hồ tự nhiên, hồ chứa (hồ nhân tạo), đầm lầy, đồng ruộng và băng
tuyết. Tài nguyên nƣớc sông là thành phần chủ yếu và quan trọng nhất, đƣợc sử

dụng rộng rãi trong đời sống và sản xuất. [47, tr. 01]
Do đó, tài nguyên nƣớc nói chung và tài nguyên nƣớc mặt nói riêng là
một trong những yếu tố quyết định sự phát triển kinh tế xã hội của một vùng
lãnh thổ hay một quốc gia.
- Nƣớc mặt:
Nƣớc mặt là nƣớc trong sông, hồ hoặc nƣớc ngọt trong vùng đất ngập
nƣớc. Nƣớc mặt đƣợc bổ sung một cách tự nhiên bởi giáng thủy và chúng mất đi
khi chảy vào đại dƣơng, bốc hơi và thấm xuống đất.
Lƣợng giáng thủy này đƣợc thu hồi bởi các lƣu vực, tổng lƣợng nƣớc
trong hệ thống này tại một thời điểm cũng tùy thuộc vào một số yếu tố khác. Các
yếu tố này nhƣ khả năng chứa của các hồ, vùng đất ngập nƣớc và các hồ chứa

7


nhân tạo, độ thấm của đất bên dƣới các thể chứa nƣớc này, các đặc điểm của
dòng chảy mặt trong lƣu vực, thời lƣợng giáng thủy và tốc độ bốc hơi địa
phƣơng. Tất cả các yếu tố này đều ảnh hƣởng đến tỷ lệ mất nƣớc.
Tổng lƣợng nƣớc tại một thời điểm là vấn đề cần quan tâm. Một số đối
tƣợng sử dụng nƣớc có nhu cầu nƣớc theo vụ. Ví dụ, trong mùa hè cần rất nhiều
nƣớc để phục vụ cho nông nghiệp hoặc phát điện nhƣng trong mùa mƣa thì
không cần nƣớc, vì vậy để cung cấp nƣớc tốt cho mùa hè thì cần một hệ thống
trữ nƣớc trong suốt năm và xả nƣớc trong một khoảng thời gian ngắn. Các đối
tƣợng sử dụng nƣớc khác có nhu cầu dùng nƣớc thƣờng xuyên nhƣ nhà máy
điện cần nguồn nƣớc để làm lạnh. Để cung cấp nƣớc cho các nhà máy điện, hệ
thống nƣớc mặt chỉ cần đủ trong các bể chứa khi dòng chảy trung bình nhỏ hơn
nhu cầu nƣớc của nhà máy.
Nƣớc mặt tự nhiên có thể đƣợc tăng cƣờng thông qua việc cung cấp từ các
nguồn nƣớc mặt khác bởi các kênh hoặc đƣờng ống dẫn nƣớc. Cũng có thể bổ
cấp nhân tạo từ các nguồn khác, tuy nhiên số lƣợng không đáng kể. Con ngƣời

có thể làm cho nguồn nƣớc cạn kiệt và ô nhiễm.(không sử dụng đƣợc trong sinh
hoạt ăn uống, tắm giặt...)
- Dòng chảy ngầm:
Trên suốt dòng sông, lƣợng nƣớc chảy về hạ nguồn thƣờng bao gồm hai
dạng là dòng chảy trên mặt và chảy thành dòng ngầm trong các đá bị nứt nẻ
(không phải nƣớc ngầm) dƣới các con sông. Đối với một số thung lũng lớn, yếu
tố không quan sát đƣợc này có thể có lƣu lƣợng lớn hơn rất nhiều so với dòng
chảy mặt. Dòng chảy ngầm thƣờng hình thành một bề mặt động lực học giữa
nƣớc mặt và nƣớc ngầm thật sự. Nó nhận nƣớc từ nguồn nƣớc ngầm khi tầng
ngậm nƣớc đã đƣợc bổ cấp đầy đủ và bổ sung nƣớc vào tầng nƣớc ngầm khi
nƣớc ngầm cạn kiệt. Dạng dòng chảy này phổ biến ở các khu vực karst do ở đây
có rất nhiều hố sụt và dòng sông ngầm.

8


- Nƣớc ngầm:
Nƣớc ngầm hay còn gọi là nƣớc dƣới đất, là nƣớc ngọt đƣợc chứa trong
các lỗ rỗng của đất hoặc đá. Nó cũng có thể là nƣớc chứa trong các tầng ngậm
nƣớc bên dƣới mực nƣớc ngầm. Đôi khi ngƣời ta còn phân biệt nƣớc ngầm
nông, nƣớc ngầm sâu và nƣớc chôn vùi.
Nƣớc ngầm cũng có những đặc điểm giống nhƣ nƣớc mặt nhƣ: nguồn vào
(bổ cấp), nguồn ra và chứa. Sự khác biệt chủ yếu với nƣớc mặt là do tốc độ luân
chuyển chậm (dòng thấm rất chậm so với nƣớc mặt), khả năng giữ nƣớc ngầm
nhìn chung lớn hơn nƣớc mặt khi so sánh về lƣợng nƣớc đầu vào. Sự khác biệt
này làm cho con ngƣời sử dụng nó một cách vô tội vạ trong một thời gian dài mà
không cần dự trữ. Đó là quan niệm sai lầm, khi mà nguồn nƣớc khai thác vƣợt
quá lƣợng bổ cấp sẽ là cạn kiệt tầng chứa nƣớc và không thể phục hồi.
Nguồn cung cấp nƣớc cho nƣớc ngầm là nƣớc mặt thấm vào tầng chứa.
Các nguồn thoát tự nhiên nhƣ suối và thấm vào các đại dƣơng.

Nguồn nƣớc ngầm có khả năng bị nhiễm mặn cách tự nhiên hoặc do tác
động của con ngƣời khi khai thác quá mức các tầng chứa nƣớc gần biên
mặn/ngọt. Ở các vùng ven biển, con ngƣời sử dụng nguồn nƣớc ngầm có thể làm
co nƣớc thấm vào đại dƣơng từ nƣớc dự trữ gây ra hiện tƣợng muối hóa đất. Con
ngƣời cũng có thể làm cạn kiệt nguồn nƣớc bởi các hoạt động làm ô nhiễm nó.
Con ngƣời có thể bổ cấp cho nguồn nƣớc này bằng cách xây dựng các bể chứa
hoặc bổ cấp nhân tạo.
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của tài nguyên nước
Tài nguyên nƣớc là một dạng tài nguyên quan trọng để phát triển kinh tế
xã hội của đất nƣớc. Tài nguyên nƣớc liên quan hàng ngày đến các hoạt động
sống và hoạt động kinh tế của con ngƣời trong nhiều lĩnh vực, đáng kể nhất là
nông nghiệp, ngƣ nghiệp, lâm nghiệp và du lịch, công nghiệp và đô thị hoá.
Nƣớc là một tài nguyên thiên nhiên vô cùng thiết yếu đối với cuộc sống

9


nhân loại, là một tài nguyên thiên nhiên hữu hạn và rất có giá trị về kinh tế nhƣ
các tài nguyên khoáng sản khác.
Nƣớc là yếu tố cấu thành sự sống, chiếm tỉ lệ lớn trong thành phần các tế
bào. Là thành phần không thể thiếu trong chuổi thành phần thức ăn của động vật,
thực vật. Nƣớc đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của các nền văn minh
trên trái đất. Nƣớc là yếu tố quan trọng trong lịch sử phát triển xã hội loài ngƣời.
Cho đến nay gắn liền với sự gia tăng dân số, sự gia tăng nhu cầu về nƣớc ngày
càng đa dạng, phức tạp. Thời kỳ trƣớc kỷ nguyên cơ khí, nhu cầu nƣớc của con
ngƣời còn rất nhỏ so với khả năng dồi dào của nguồn nƣớc, bởi vì thời kì đó
nƣớc chỉ dùng vào mục đích chính là ăn, uống, sinh hoạt, chăn nuôi gia súc và
trồng cây,... trên những vùng địa lý dƣ thừa nƣớc. Sự quan tâm của con ngƣời
chủ yếu là hạn chế các tác hại của nó nhƣ lũ lụt, lầy thụt. Thời kỳ sau kỷ nguyên
cơ khí đến nay, với sự gia tăng bùng nổ dân số, mức độ đô thị hóa ngày càng

cao, sự phát triển mạnh mẽ của các ngành kinh tế, nhất là sự phát triển của các
ngành công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp hóa các ngành kinh tế, nhu cầu về
nƣớc ngày càng lớn về số lƣợng và chất lƣợng.
Nƣớc ngày nay càng trở nên khan hiếm và đóng vai trò quan trọng trong
việc hình thành giá thành sản phẩm cuối cùng. Vì vậy nƣớc cần đƣợc sử dụng có
hiệu quả và tiết kiệm.Sử dụng nƣớc hợp lý tức là sử dụng nƣớc phù hợp với số
lƣợng và chất lƣợng của tài nguyên nƣớc. Tổ chức FAO cho rằng chỉ sử dụng tối
đa đến 30% lƣợng nƣớc hiện có, nếu dùng quá sẽ dẫn đến làm cạn kiệt nguồn
nƣớc, không bảo đảm yêu cầu tối thiểu về vệ sinh, giao thông thủy. Sử dụng quá
mức tài nguyên nƣớc dƣới đất sẽ dẫn đến lún sụt mặt đất, giảm thấp mực nƣớc
ngầm, tạo điều kiện cho nƣớc mặn xâm nhập.
Sử dụng mặt ích lợi của nƣớc phải đi đôi với việc hạn chế mặt tiêu cực,
giảm nhẹ tác hại của thủy tai. Không thể chỉ sử dụng mặt lợi của nƣớc mà không
tính đến mặt hại của nó, vì điều này bắt nguồn từ bản chất của nƣớc, từ sự phân

10


bố không đều của nƣớc trong không gian, từ bản chất của việc cấp nƣớc đi đôi
với việc sử dụng nƣớc và tiêu thoát nƣớc.
Sử dụng nƣớc đi đôi với việc bảo vệ tài nguyên nƣớc khỏi bị cạn kiệt và ô
nhiễm. Bởi tài nguyên nƣớc không phải là vô hạn, lại rất dễ bị nhiễm bẩn, dẫn
đến sẽ bị cạn kiệt một cách tuyệt đối về số lƣợng và tƣơng đối về chất lƣợng.
Muốn quản lý và sử dụng tốt nguồn nƣớc cần hiểu rõ chu trình tuần hoàn khép
kín của nƣớc (từ bốc hơi, mƣa, nƣớc mặt, thấm, nƣớc dƣới đất,...) để lựa chọn
các tác động thích hợp vào từng khâu nhằm đạt mục tiêu tăng hiệu quả nguồn
nƣớc. Vì vậy vừa phải lập kế hoạch sử dụng nƣớc ở khu kinh tế hành chính, vừa
phải lập kế hoạch ở các lƣu vực của các hệ thống sông (ở các mặt lƣu vực +
thƣợng nguồn + hạ lƣu). Sự tác động vào một điểm sẽ có ảnh hƣởng đến toàn hệ
thống (Công trình thƣợng lƣu ảnh hƣởng đến hạ lƣu và ngƣợc lại). Tính hệ thống

cũng thể hiện ở sự không tách rời giữa các khâu cấp nƣớc, sử dụng nƣớc và tiêu
thoát nƣớc.
- Nƣớc dùng đời sống, sinh hoạt của nhân dân:
Vai trò quan trọng của nƣớc đối với đời sống và sinh hoạt của nhân dân
đƣợc thể hiện trên một số mặt sau:
+ Nƣớc là một yếu tố không thể thay thế trong ăn, uống, sinh hoạt của
con ngƣời. Mặc dù mỗi ngƣời chỉ cần vài lít nƣớc mỗi ngày để duy trì sự sống,
để có thể tránh khỏi các bệnh có liên quan đến nƣớc, nhƣng lƣợng nƣớc cần thiết
để bảo đảm vệ sinh cá nhân, nâng cao mức sống con ngƣời thì ngày càng tăng
lên và là một chỉ tiêu của mức sống, biểu hiện mức độ văn minh của cuộc sống.
Theo các nghiên cứu trong mƣời năm của Singapore thì mỗi ngƣời cần 90 lít
nƣớc trong mỗi ngày.
Hàng ngày chúng ta uống nƣớc để bù lại lƣợng nƣớc trong ngƣời thải ra,
nên khí hậu càng nóng, vận động càng nhiều thì uống nhiều nƣớc. Thông thƣờng
trời nóng từ 30 - 32oC thì mỗi ngƣời cần uống 3 - 5 lít nƣớc mỗi ngày, nếu trời

11


mát, ngƣời ít hoạt động thì mỗi ngày uống 2 lít nƣớc. Trẻ em hiếu động hay chạy
nhảy, nghịch ngợm nhu cầu cầu nƣớc mỗi ngày càng lớn hơn. Nƣớc rất cần và
có ích cho con ngƣời, cuộc sống không thể thiếu nƣớc, nhƣng nếu sử dụng nƣớc
bẩn lại rất có hại cho sức khỏe. Tổ chức y tế thế giới đã kết luận rằng: ở các nƣớc
kém phát triển, nhƣ Việt Nam thì 80% bệnh tật là do nƣớc và vệ sinh môi trƣờng
kém nhƣ: đau mắt, đƣờng ruột, dịch tả, ung thƣ... Ở tuổi học trò nên 90% số em
nhiều giun kim, giun đũa. Trong nƣớc còn chứa đựng nhiều chất có lợi cho cơ
thể con nguời, mặc dù với hàm lƣợng vô cùng nhỏ (các vi nguyên tố) nhƣng các
vi nguyên tố này có vai trò quan trọng (nhất là Iốt và Fluo Đối với một số bệnh,
số lƣợng nƣớc lại quan trọng hơn chất lƣợng nƣớc. Số lƣợng nƣớc cần dùng để
thải các chất thải sinh hoạt của con ngƣời ngày càng tăng. Khi cuộc sống con

ngƣời ngày càng văn minh hơn, yêu cầu dùng nƣớc càng nhiều hơn, nƣớc thực
sự là một yếu tố của nền văn minh nhân loại. Trong tuyên bố YOKOHAMA về
chất lƣợng cuộc sống đô thị có nêu các tiêu chuẩn “Nƣớc, năng lƣợng, thực
phẩm, nhà ở, sinh kế, an ninh trật tự, phục vụ y tế, giáo dục, cân bằng sinh thái, ô
nhiễm môi trƣờng ...”; Trong đó nƣớc là tiêu chuẩn đƣợc kể đầu tiên, và liên
quan hầu hết các tiêu chuẩn sau đó kể cả cân bằng sinh thái, chống ô nhiễm
môi trƣờng.
+ Nƣớc là nhu cầu thiết yếu cho con ngƣời trong lao động. Khi nƣớc
uống kém chất lƣợng, con ngƣời sinh bệnh, làm giảm ngày công và năng suất
lao động. Chỉ cần nơi lấy nƣớc quá xa nơi ở sinh hoạt, thì thời gian công sức bỏ
ra để lấy nƣớc đã ảnh hƣởng đến sinh hoạt và mức sống của con ngƣời.
Giải quyết vấn đề nƣớc uống và sinh hoạt phải đi đôi với vấn đề tiêu
thoát nƣớc sinh hoạt và tiết kiệm tiêu dùng nƣớc. Cung cấp nƣớc sinh hoạt, tiêu
thoát nƣớc sinh hoạt nâng cao mức sống con ngƣời, không thể giải quyết đơn
độc mà phải đồng bộ với hàng loạt các biện pháp khác (Công trình, phi công
trình, hành chính, giáo dục...)

12


Vì vậy sử dụng nguồn nƣớc sinh hoạt một cách phù hợp có thể tránh
đƣợc phần lớn bệnh tật và tăng cƣờng sức khỏe cho con ngƣời. Nƣớc sạch tự
nhiên là nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá. Mặc dù là nguồn tài nguyên có
sẵn nhờ sự ƣu đãi của thiên nhiên, nhƣng trữ lƣợng nƣớc sạch trong thiên nhiên
cũng có giới hạn. Nếu con ngƣời không biết sử dụng tiết kiệm và bảo vệ nguồn
tài nguyên đó thì nó sẽ nhanh chóng bị suy thoái về trữ lƣợng và chất lƣợng,
không có đủ và không thể sử dụng đƣợc nữa.
Nƣớc có vai trò rất quan trọng trong việc phục vụ các nhu cầu về nghỉ
ngơi, chữa bệnh, du lịch nhằm nâng cao đời sống nhân dân lao động và phát
triển kinh tế xã hội. Nguồn nƣớc biển, nƣớc khoáng, nƣớc nóng phong phú, phân

bố rãi rác trong cả nƣớc, tạo điều kiện thuận lợi cho việc dƣỡng bệnh, nghỉ ngơi
tại địa phƣơng và thu hút khách du lịch. Theo kết luận của cơ quan chuyên môn
có thẩm quyền, nƣớc nóng và nƣớc khoáng của nƣớc ta có tác dụng rất lớn cho
việc chữa bệnh dƣỡng bệnh.
Nƣớc có vai trò quan trọng đối với đời sống kinh tế - xã hội của nƣớc ta
và bất cứ nƣớc nào trên thế giới. Có thể khẳng định rằng không có vàng, không
có kim cƣơng chúng ta vẫn tồn tại, nhƣng không có nƣớc thì chúng ta không thể
tồn tại. Do đó chúng ta phải bảo vệ tài nguyên nƣớc, tài nguyên quý giá của nhân
loại bằng nhiều biện pháp khác nhau. Giáo dục, thuyết phục, pháp luật, kinh tế
tài chính và quản lý để bảo vệ tài sản quý giá đó phục vụ cho nhu cầu lợi ích của
con ngƣời.
Nƣớc luôn có 2 mặt, mặt lợi và mặt hại. Mặt trái của nƣớc chính là
những tác hại do nƣớc có thể gây ra. Nƣớc không đƣợc bảo vệ, xử lý hợp vệ sinh
sẽ trở thành nguồn truyền dẫn lây lan của bệnh dịch đối với con ngƣời, truyền
dẫn nƣớc thải công nghiệp gây thiệt hại to lớn đối với sản xuất nông nghiệp, thủy
sản. Nhiều nƣớc sinh ra lũ lụt, ít nƣớc quá gây ra khô hạn, nhiễm mặn, sa
mạc hóa.

13


Thừa nƣớc và thiếu nƣớc đều dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trƣờng,
ảnh hƣởng đến sức khỏe của nhân dân, phá vỡ hệ sinh thái...
Hậu quả lũ lụt để lại làm ô nhiễm môi trƣờng trầm trọng, làm nhiễm bẩn
các nguồn nƣớc sạch phục vụ cho nhu cầu uống, sinh hoạt cho ngƣời, gia súc, có
nơi bị thiếu nƣớc sạch trầm trọng kéo dài trong nhiều tháng nhƣ vùng đồng bằng
sông Cửu Long về mùa lũ.
Chính vì vậy trong công tác khai thác, sử dụng những mặt lợi của nƣớc
đồng thời phải phòng chống những tác hại do nƣớc gây ra. Điều quan trọng là
quản lý và điều hòa nguồn nƣớc. Sử dụng nguồn nƣớc sạch một cách hợp lý,

nhƣ sử dụng nguồn nƣớc ngầm, hoặc có thể kết hợp nguồn nƣớc mặt.
- Nƣớc đối với phát triển kinh tế:
Nƣớc ta là một nƣớc nông nghiệp với nông dân chiếm khoảng 80% dân
số. Nƣớc đóng vai trò rất quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là đối
với cây trồng. Ong cha ta đã đúc kết thành kinh nghiệm “ Nhất nƣớc nhì phân
tam cần tứ giống ” để nhấn mạnh vai trò hàng đầu của nƣớc đối với sản xuất
nông nghiệp.
Thủy lợi là bƣớc đi đầu tiên trong nông nghiệp, luôn đóng vai trò quyết
định đối với cây trồng, đặc biệt là cây lúa. Để cây trồng sinh trƣởng, nƣớc là yếu
tố đầu tiên, nhƣng nhu cầu nƣớc phải phù hợp với đặc điểm sinh lí của từng loại
cây trồng và từng giai đoạn phát triển của nó. Nếu thừa nƣớc ngập trong vòng từ
3-5 ngày đối với cây lúa sẽ giảm năng suất hoặc mất trắng. Vì vậy nƣớc đối với
cây trồng phải luôn phù hợp với yêu cầu phát triển của chúng mới đem lại hiệu
quả cao.
Vấn đề tiêu úng có ý nghĩa quan trọng đối với cây trồng. Tiêu úng cho các
vùng trũng (nhƣ vùng đồng bằng sông Cửu long và một số vùng khác) còn biến
đổi hẳn một vùng sinh thái, tạo điều kiện cải tạo đất, mở rộng diện tích vụ đông
xuân, hè thu, trồng rừng, nuôi cá... góp phần to lớn vào việc đƣa sản lƣợng và

14


năng suất lúa lên cao. Nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của nƣớc đối với việc
phát triển nông nghiệp toàn diện, Đảng và Nhà nƣớc ta đã chú trọng đến việc
đầu tƣ phát triển công tác thủy loi. Số công trình thủy lợi đƣa vào phục vụ sản
xuất nông nghiệp và diện tích tƣới tiêu ngày càng tăng.
- Nƣớc đối với các hoạt động sản xuất công nghiệp:
Việc sử dụng nƣớc cho công nghiệp nhƣ một yếu tố cấu thành của sản
xuất và công nghiệp là một ngành sử dụng nƣớc với những yêu cầu về số lƣợng,
đặc biệt là chất lƣợng. Đồng thời quá trình sử dụng nƣớc cho công nghiệp còn

thải ra nhiều chất độc hại làm xấu đi nguồn nƣớc tự nhiên. Cấp nƣớc cho công
nghiệp ngày càng tăng, đi đôi với sự phát triển công nghiệp là quá trình phát
triển đô thị hóa.
Chất lƣợng nƣớc dùng trong công nghiệp thực phẩm và công nghiệp dƣợc
phẩm là cao nhất, thấp nhất là trong vận tải thủy. Tỷ lệ phần trăm dùng nƣớc
trong công nghiệp so với tổng nhu cầu dùng nƣớc càng ngày càng tăng khi công
nghiệp càng phát triển (nhất là công nghiệp hóa chất, giấy, nhiệt điện).
- Nƣớc dùng để sản xuất điện:
Điện là một nhu cầu rất quan trọng đối với kinh tế-xã hội. Chỉ khi cung
cấp đủ điện năng mới thực hiện đƣợc mục tiêu “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nƣớc” do Đảng ta đề ra. Điện có thể đƣợc sản xuất bằng nhiều nguồn khác
nhau: Thủy điện, nhiệt điện, điện nguyên tử, điện sức gió, điện thủy triều, địa
nhiệt, v.v... Ở Việt Nam hiện nay, điện có 2 nguồn chính là thủy điện và nhiệt
điện (chạy bằng than đá, dầu, khí). Đối với những nƣớc không có khả năng thủy
điện thì việc đầu tƣ sản xuất ra điện rất lớn. Chúng ta đã sử dụng nguồn nƣớc để
tạo ra điện, giá thành sản xuất rẻ hơn nhiều so với các hình thức sản xuất hiện tại
(nhiệt điện, điện nguyên tử,v.v...). Nếu chúng ta sử dụng tổng hợp nguồn nƣớc
và sử dụng tốt nguồn lợi tổng hợp vừa có thể đạt đƣợc mục đích làm hồ để phát
điện, tƣới, nuôi cá, du lịch, vừa đƣa lại nguồn lợi đa dạng mà giá thánh lại giảm.

15


- Nƣớc dùng cho giao thông vận tải:
Cùng với giao thông đƣờng bộ, đƣờng sắt... Giao thông đƣờng thủy không
những chỉ đáp ứng yêu cầu vận chuyển hàng hóa và hành khách mà trƣớc hết là
phải đảm nhận vai trò quan trọng, vai trò trung tâm hạ tầng cơ sở, phải thực hiện
tốt giao lƣu kinh tế-văn hóa-xã hội tạo điều kiện thực hiện phân bổ lại lực lƣợng
sản xuất và nâng cao dân trí.
Nƣớc có vai trò rất quan trọng trong giao thông vận tải thủy. Vận tải thủy

thích hợp với loại hàng hóa nặng, cồng kềnh, không đòi hỏi phải vận chuyển
nhanh, cƣớc phí hạ góp phần bổ sung đáng kể vào vận tải đƣờng sắt, đƣờng bộ.
Ở nhiều vùng nông thôn nƣớc ta hiện nay cùng với việc đào kênh tƣới tiêu nƣớc
cho đồng ruộng, vân tải bằng thuyền, ca nô đã góp phần đáng kể vào giải phóng
đôi vai, sức lao động để vận chuyển phân bón, hàng hóa, thóc lúa. Hệ thống
sông, kênh ở miền Bắc, nhất là ở đồng bằng Nam bộ đã góp phần giao lƣu giữa
các miền đất nƣớc. Vì vậy biết khai thác triệt để giao thông thủy sẽ đem lại lợi
ích đáng kể góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, làm tăng nhịp độ tăng
trƣởng của thu nhập quốc dân lên khoảng 0.5%.
- Nƣớc với sự phát triển của ngành thủy sản:
Nƣớc có vai trò quan trọng đối với ngành thủy sản. Nƣớc là môi trƣờng
sống của động vật thủy sản. Không có nƣớc ngành thủy sản không thể tồn tại.
Tài nguyên nƣớc ở nƣớc ta đa dạng, có chất lƣợng phù hợp với nhiều loại
tôm cá.
Nguồn ngoại tệ do khai thác nuôi trồng thủy sản rất lớn. Vì vậy chúng ta
phải có chính sách để khai thác, bảo vệ, quản lý nguồn nƣớc - Môi trƣờng sống
của thủy sản, tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ kinh tế thủy sản.
Nƣớc là một nguồn tài nguyên vô cùng cần thiết cho phát triển kinh tế, xã
hội và là một thành phần không thể thiếu của hệ sinh thái. Nƣớc phân bố trên thế
giới rất không đồng đều theo không gian và thời gian. Sự thiếu hụt và phân bố

16


không đều về nguồn nƣớc tạo ra các mâu thuẫn về nƣớc ở các cấp độ địa
phƣơng, vùng hay thậm chí ở cấp độ quốc tế. Bên cạnh đó, sức ép gia tăng dân
số và phát triển kinh tế sẽ tiếp tục làm gia tăng ảnh hƣởng đến môi trƣờng và đặc
biệt là gia tăng khan hiếm nguồn nƣớc. Nguồn nƣớc đã và đang ngày càng khan
hiếm sẽ dẫn đến mâu thuẫn về chia sẻ lợi ích tài nguyên nƣớc. Không chỉ có ý
nghĩa về kinh tế, xã hội và sinh thái, nƣớc còn đƣợc sử dụng tạo ra năng lƣợng

cho sự phát triển tất cả các lĩnh vực của xã hội. Do đó, không thể quản lý tài
nguyên nƣớc theo cách xem xét một mục tiêu đơn lẻ mà phải xét theo các mục
tiêu tổng hợp và phải dựa trên các lợi ích của các quốc gia.
Trên thế giới đã có nhiều cuộc Hội thảo, Hội nghị khoa học quốc tế về
nƣớc, môi trƣờng và biến đổi khí hậu. Hàng lọat công trình khoa học có giá trị
đƣợc công bố. Hội nghị tại The Hague (Hà Lan) tháng 3/2000 đƣa ra khái niệm
về an ninh nƣớc. Hội nghị thƣợng đỉnh thế giới Johannesburg (tháng 7/2002),
Liên Hiệp Quốc đã đặt nƣớc và đa dạng sinh học là 2 trong 5 lĩnh vực ƣu tiên
hàng đầu để phát triển bền vững (nƣớc, năng lƣợng, sức khỏe, nông nghiệp và đa
dạng sinh học). Những quốc gia có nhiều thành tựu về khoa học công nghệ,
trong việc nghiên cứu phát triển nguồn nƣớc và môi trƣờng có thể kể đến là:
Israel, Canada, Phần Lan, Kênya, Dămbia, Công gô …
Nghiên cứu Triển vọng Phát triển Nƣớc ở châu Á năm 2013 đã đƣa ra
các phân tích định lƣợng và toàn diện đầu tiên về an ninh nƣớc trên cơ sở
từng quốc gia trong khu vực. Nghiên cứu xem xét tất cả các cấp độ an ninh
nƣớc, từ cấp hộ gia đình cho đến các thảm họa liên quan đến nƣớc và sử dụng
các chỉ số cùng hệ thống bậc thang để xếp hạng sự tiến bộ của mỗi nƣớc. Kết
quả nghiên cứu cho thấy khu vực Nam Á và một số khu vực miền Trung và
Tây Á đang trong tình trạng tồi tệ nhất, có nguồn nƣớc ở các dòng sông đang
trong tình trạng rất căng thẳng, đồng thời rất dễ bị ảnh hƣởng bởi thiên tai
ngày càng nghiêm trọng. Nghiên cứu đã nhấn mạnh hai thực tế khắc nghiệt,

17


đó là sự bất bình đẳng gia tăng trong việc tiếp cận nƣớc sạch và vệ sinh môi
trƣờng và tình trạng không ổn định của các con sông ngày càng tăng; đồng
thời đƣa ra các biện pháp có thể áp dụng để cải thiện an ninh nƣớc nhằm giảm
thiểu áp lực ngày càng tăng từ bùng nổ dân số, đô thị hóa, ô nhiễm môi
trƣờng, khai thác nƣớc ngầm quá mức, biến đổi khí hậu và các yếu tố khác.

1.2. Quản lý nhà nƣớc về tài nguyên nƣớc
1.2.1. Khái niệm
Có nhiều khái niệm khác nhau về quản lý nhƣng có thể khái niệm quản lý
là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý lên đối tƣợng nhằm chỉ huy, điều
hành hƣớng dẫn các quá trình xã hội và hành vi của cá nhân hƣớng đến mục
đích hoạt động chung và phù hợp với quy luật khách quan.
Quản lý nhà nƣớc là sự chỉ huy, điều hành xã hội của các cơ quan (lập
pháp, hành pháp, tƣ pháp) để thực thi quyền lực nhà nƣớc thông qua các văn bản
quy phạm pháp luật.
Quản lý tài nguyên nƣớc là nhân tố không thể thiếu nhằm đạt đƣợc mục
tiêu tăng trƣởng kinh tế bền vững trong nông nghiệp, công nghiệp và các ngành
dịch vụ khác ở lƣu vực Srêpôk. Sự gia tăng dân số, đo thị hóa và công nghiệp
hóa đã tăng cƣờng áp lực đối với tài nguyên nƣớc, gây ra khan hiếm nƣớc cạnh
tranh giữa những ngƣời sử dụng, ô nhiễm nguồn nƣớc, nhiễm mặn, suy thoái lƣu
vực cũng nhƣ gia tăng hạn hán và lũ lụt nhƣ những năm gần đây. Ngƣời nghèo
thƣờng là những ngƣời chịu thiệt hại nhất và môi trƣờng cũng đang bị xuống
casp nghiêm trọng. Để giải quyết những bất cập trong ngành nƣớc. Chính phủ
Viêt Nam đẫ thông qua luật Tài nguyên nƣớc tháng 5/1998. Luật tài nguyên
nƣớc là cơ sở thành lập các tổ chức chuyên ngành và tạo lập các công cụ quản lý
tổng hợp Tài nguyên nƣớc [47, tr. 01].
Có thể hiểu khái niệm Quản lý nhà nƣớc về tài nguyên nƣớc là : Quản lý
nhà nƣớc về tài nguyên nƣớc là sự tác động có tổ chức và bằng pháp quyền của

18


×