VIỆN HÀN LÂM
KHOA HOC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
BÙI SƠN HÀ
TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành : Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60.38.01.04
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội - 2017
Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội
Người hướng dẫn khoa học: TS. Đặng Quang Phương
Phản biện 1: …………………………………………
…………………………………………
Phản biện 2: …………………………………………
…………………………………………
Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc
sĩ họp tại: Học viện Khoa học xã hội ..... giờ ...... ngày ...... tháng ......
năm ......
Có thể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện Học viện Khoa học xã hội
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xã hội ngày càng phát triển kéo theo những tác động của nền
kinh tế thị trường, với những mặt tiêu cực vốn có đã làm ảnh hưởng
tới nhiều khía cạnh của cuộc sống. Nền kinh tế phát triển, xu hướng
hội nhập quốc tế kéo theo sự du nhập của các nền văn hóa mới,
luồng tư tưởng mới, lối sống mới đã và đang là điều kiện làm gia
tăng tội phạm các loại. Tình hình tội phạm trên địa bàn cả nước ngày
càng có xu hướng gia tăng về số lượng, phức tạp và tinh vi hơn về
thủ đoạn và hình thức. Song song với thực trạng đó thì luật pháp cán cân công lý luôn bám sát tình hình tội phạm và có những quy
định, những sửa đổi phù hợp nhằm đạt được hiệu quả phòng chống,
ngăn ngừa và trừng trị thích đáng. Hỗ trợ và đưa pháp luật đi vào đời
sống một cách nhanh chóng và công bằng nhất là đội ngũ những
người thực thi pháp luật hay còn gọi là người thi hành công vụ,
nhưng tại một thời điểm nào đó, chính những “người thi hành công
vụ” cũng là đối tượng hướng đến của tội phạm. Pháp luật bị vi phạm,
người thực thi pháp luật bị xâm hại và đó cũng chính là lúc sự răn đe,
ngăn ngừa, phòng chống, sự nghiêm trị từ những quy định của pháp
luật cần được đề cao. Tội chống người thi hành công vụ được quy
định tại Điều 257 của BLHS năm 1999, là một trong những chế tài
hình sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thi hành
công vụ cũng như răn đe và trừng phạt những hành vi chống người
thi hành công vụ.
1
Khoa học pháp lý hình sự cho đến nay, đã chỉ ra rằng, có hai
hướng đấu tranh với tội phạm. Hướng thứ nhất là đấu tranh bằng
pháp luật hình sự mà cơ sở lý luận của nó là những khoa học pháp lý
quy phạm, trong đó và trước hết phải kể đến khoa học luật hình sự.
Hướng thứ hai là đấu tranh bằng các biện pháp phòng ngừa với cơ sở
lý luận là tội phạm học. Đề tài được chọn ở đây đi theo hướng thứ
nhất. Vì thế, vấn đề quy định như thế nào về tội chống người thi
hành công vụ và việc áp dụng đúng quy định đó trong thực tế luôn
luôn đòi hỏi sự nghiên cứu để hoàn thiện. Việc nghiên cứu này có
nhiều cách, song cách tiến hành trên cơ sở thực tiễn ở một đơn vị
hành chính lãnh thổ cấp huyện, cấp tỉnh hay trên phạm vi toàn quốc
là cách hứa hẹn hiệu quả thiết thực. Với cách tư duy đó, đề tài: “Tội
chống người thi hành công vụ từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh”
đã được lựa chọn để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Để thực hiện đề tài đã nêu, các công trình khoa học sau đây
đã được nghiên cứu, tham khảo:
2.1. Những công trình khoa học giữ vai trò là lý luận
chung của đề tài
Thuộc vào những công trình khoa học loại này gồm:
- Võ Khánh Vinh (2013), Giáo trình Lý luận chung về định
tội danh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội;
- Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2014), Giáo trình luật hình sự
Việt Nam – Phần chung, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội;
2
- Võ Khánh Vinh (2014), Luật hình sự Việt Nam – Phần các
tội phạm (Giáo trình sau đại), Nxb khoa học xã hội, Hà Nội;
- “Tội phạm học, Luật Hình sự, Luật tố tụng hình sự Việt
Nam” (1994), Nxb Chính trị quốc gia;
Nguyễn Ngọc Hòa (1995), “Quyết định hình phạt trong luật
hình sự Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc gia;
Đinh Văn Quế (2000), “Tìm hiểu về hình phạt và quyết định
hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
Cao Thị Oanh (chủ biên) (2010), Giáo trình luật hình sự Việt
Nam – Phần chung, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
Cao Thị Oanh (chủ biên) (2010), Giáo trình luật hình sự Việt
Nam –
các tội phạm, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
2.2. Những công trình có liên quan trực tiếp đến đề tài
- Dấu hiệu “Chống người thi hành công vụ trong Luật hình
sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Anh Thu – Khoa luật Đại học
Quốc gia Hà Nội năm 2012;
- Đấu tranh với tội phạm chống người thi hành công vụ:
thực trạng, nguyên nhân và giải pháp của tác giả Hồ Thế Hòe trên
báo Nhà nước và Pháp luật số 7/2011;
- Đấu tranh với tình hình tội phạm chống người thi hành
công vụ ở nước ta hiện nay của Phạm Văn Tỉnh và Đào Bá Sơn;
3
- Luận văn thạc sỹ: “Đấu tranh phòng, chống tội phạm
chống người thi hành công vụ” của tác giả Lê Thế Tiệm – Đại học
Luật Hà Nội năm 1994;
- Luận văn thạc sỹ: Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu
quả hoạt động phòng, chống tội phạm chống người thi hành công vụ
trong lĩnh vực giải phóng mặt bằng của lực lượng cảnh sát nhân dân
tại Thành phố Hồ Chí Minh;
- Khóa luận tốt nghiệp: Tội chống người thi hành công vụ Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của tác giả Nguyễn Thị Nhàn –
Đại học Luật Hà Nội năm 2010;
- Khóa luận tốt nghiệp: Tình hình tội chống người thi hành
công vụ ở Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010 của tác giả Nguyễn Thị
Bích Ngọc – Đại học Luật Hà Nội năm 2011;
- Luận văn thạc sỹ: “Tội chống người thi hành công vụ trên
địa bàn Thành phố Hà Nội” Hà Thương Huyền, Học viện Khoa học
xã hội năm 2014;
- Luận văn thạc sỹ: “Tội chống người thi hành công vụ theo
pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hà Nội” Lê Đức
Sơn, Học viện khoa học xã hội năm 2016;
Các tài liệu trên rất có giá trị tham khảo và kế thừa để đề tài
thực hiện những nhiệm vụ của mình.
4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, pháp luật và phân tích thực
tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội chống người thi hành công vụ
tại Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2012-2016, phân tích tính hợp
lý hoặc chưa hợp lý của Điều luật hiện hành trong thế so sánh với
Điều luật mới sửa đổi về tội danh mà đề tài đề cập, kiến nghị giải
pháp áp dụng quy định của pháp luật hình sự đáp ứng yêu cầu của
Nhà nước pháp quyền XHCN.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và pháp luật về tội chống
người thi hành công vụ theo pháp luật hình sự Việt Nam, có sử dụng
phương pháp nghiên cứu lịch sử;
- Phân tích đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về tội
chống người thi hành công vụ trên địa bànThành phố Hồ Chí Minh
giai đoạn 2012-2016 trên cơ sở hướng dẫn lý luận về định tội danh
và quyết định hình phạt;
- Kiến nghị giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định
của pháp luật hình sự về tội chống người thi hành công vụ tại Thành
phố Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài phải nghiên cứu cả mặt lý luận, pháp luật và thực hiện
việc phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về tội chống
5
người thi hành công vụ trên địa bànThành phố Hồ Chí Minh giai
đoạn 2012-2016 để làm rõ “đối tượng nghiên cứu là xác định sự phù
hợp giữa quy định của pháp luật hình sự với bản chất pháp lý của
hành vi chống người thi hành công vụ diễn ra trên thực tế tại Thành
phố Hồ Chí Minh”.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung, đề tài được thực hiện trong phạm vi chuyên
ngành Luật hình sự và Tố tụng hình sự;
- Về địa bàn, đề tài được thực hiện trong phạm vi Thành
phố Hồ Chí Minh;
- Về thời gian, đề tài nghiên cứu số liệu thực tế trong giai
đoạn từ năm 2012 đến năm 2016, gồm số liệu thống kê xét xử hình
sự của TAND hai cấp Thành phố Hồ Chí Minh và 100 bản án hình
sự sơ thẩm;
- Về tội danh, đề tài nghiên cứu tội chống người thi hành
công vụ được quy định tại Điều 257 BLHS năm 1999.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm
của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề tội phạm và hình phạt nói chung.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu
Đề tài luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể
như: Phương pháp biện chứng; lô gich; lịch sử; kế thừa; phân tích;
tổng hợp; hệ thống; thống kê; phương pháp so sánh; đối chiếu; phân
6
tích quy phạm pháp luật, khảo sát thực tiễn; nghiên cứu các bản án
điển hình. Trong qúa trình thực hiện, các phương pháp này được áp
dụng đan xen lẫn nhau một cách linh hoạt để luận chứng các vấn đề
khoa học và thực tiễn cần nghiên cứu của đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn
góp phần hoàn thiện lý luận về tội phạm và hình phạt đối với tội
chống người thi hành công vụ.
- Ý nghĩa về mặt thực tiễn: Những kết quả nghiên cứu đạt
được của luận văn có thể tham khảo để phục vụ cho họat động thực
tiễn áp dụng đúng các quy định trong BLHS Việt Nam đối với tội
chống người thi hành công vụ, góp phần nâng cao năng lực của cán
bộ áp dụng pháp luật hình sự, đưa ra các giải pháp mới góp phần
nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm này.
7. Cơ cấu
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung luận văn được kết cấu thành 03 chương, cụ thể như
sau:
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ
TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
1.1. Những vấn đề lý luận về tội chống người thi hành
công vụ
1.1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội chống
người thi hành công vụ
Căn cứ vào nội dung quy định của điều luật (Điều 257
BLHS), Luận văn đã làm rõ khái niệm và các dấu hiệp pháp lý đặc
trưng tội chống người thi hành công vụ: Làm rõ khách thể, mặt
khách quan của tội phạm, mặt chủ quan, chủ thể của tội phạm cũng
như các mức hình phạt đối với tội này.
1.1.2. Phân biệt tội chống người thi hành công vụ với một
số tội khác có liên quan
1.1.2.1. Phân biệt tội chống người thi hành công vụ với tội
giết người
1.1.2.2. Phân biệt tội chống người thi hành công vụ với tội
vô ý làm chết người
1.1.2.3. Phân biệt tội chống người thi hành công vụ với tội
vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc
hành chính
1.1.2.4. Phân biệt tội chống người thi hành công vụ với tội
vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
8
1.2. Pháp luật hình sự Việt Nam về tội chống người thi
hành công vụ
Tội chống người thi hành công vụ trong pháp luật hình sự ở
nước ta đã có lịch sử hình thành và phát triển lâu dài. Trong quá trình
vận động, phát triển, đã có biến đổi về cách thức xây dựng pháp luật
của Nhà nước ta qua những thời kỳ nhất định đối với loại tội phạm
này. Tác giả đã so sánh những quy định về tội chống người thi hành
công vụ của BLHS năm 1999 với BLHS năm 1985 và các quy định
của pháp luật từ 1985 trở về trước.
9
Chương 2
THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH
SỰ VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ TẠI
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Định tội danh chống người thi hành công vụ tại
Thành phố Hồ Chí Minh
2.1.1. Các yêu cầu bảo đảm định tội danh về tội chống
người thi hành công vụ đúng pháp luật
Định tội danh là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự
phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi tội phạm cụ thể đã
được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm đã được quy
định trong quy phạm pháp luật hình sự.
Nhận thức đúng nội dung của BLHS quy định về tội chống
người thi hành công vụ có ý nghĩa rất lớn đối với việc định tội danh.
Đối với tội này khi xây dựng BLHS nhà làm luật đã đánh giá một
cách toàn diện tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
chống người thi hành công vụ, cân nhắc hiệu quả có thể đạt được
trong việc đấu tranh với hành vi đó bằng các biện pháp hình sự, quy
định chế tài cần thiết đối với tội phạm. Việc tuân thủ nghiêm chỉnh
các quy định của BLHS trong việc định tội danh tội chống người thi
hành công vụ là việc cần thiết và quan trọng của việc thực hiện chính
sách hình sự của Nhà nước nhằm khắc phục tình hình tội phạm ở
nước ta.
Định tội danh là việc xác định một hành vi cụ thể đã thực
hiện thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của CTTP của một tội nào đó
10
trong số các tội phạm đã được quy định trong BLHS, bao gồm việc
tiến hành đồng thời ba quá trình sau:
Một là, xác định các tình tiết của vụ án:
“Xác định sự thật của vụ án một cách toàn diện, đầy đủ tức
là xem xét hành vi phạm tội trên các mặt của các yếu tố cấu thành tội
phạm trong tổng thể, không tách rời nhau. Cần phải thu thập, kiểm
tra và đánh giá tất cả các chứng cứ thu thập được: Chứng cứ buộc
tội và chứng cứ gỡ tội; chứng cứ trực tiếp và chứng cứ gián tiếp;
chứng cứ gốc và chứng cứ sao chép,…”.
Hai là, nhận thức đúng nội dung của các quy định trong Bộ
luật hình sự: Việc tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của BLHS là
điều kiện bắt buộc và rất cần thiết trong khi định tội danh, là việc
thực hiện chính sách pháp luật của Nhà nước ta trong đấu tranh
phòng ngừa tội phạm.
2.1.2. Thực tiễn định tội danh tội chống người thi hành
công vụ tại Thành phố Hồ Chí Minh
Quá trình nghiên cứu thực tiễn định tội danh tại Thành phố
Hồ Chí Minh trước hết phải dựa trên các cơ sở: Cơ sở lý luận, cơ sở
pháp lý và cơ sở thực tiễn.
Cơ sở lý luận: Đó là khoa học về luật hình sự, mà trong đó,
lý luận về các yếu tố cấu thành tội phạm là cơ sở quan trọng nhất để
định tội danh.
Cơ sở pháp lý: Dựa trên quy định của Bộ luật hình sự. Bộ
luật tố tụng hình sự, Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TANDTC
và các văn bản dưới luật khác như các Thông tư liên tịch, v.v.
11
Cơ sở thực tiễn: Trên cơ sở tổng kết rút kinh nghiệm công
tác xét xử hàng năm của ngành Tòa án nhân dân, kinh nghiệm xét xử
của từng Thẩm phán.
Căn cứ vào việc nghiên cứu hồ sơ các bản án, đã có hiệu lực
của Tòa án nhân dân hai cấp Thành phố Hồ Chí Minh, mà tác giả có
điều kiện tiếp xúc có thể rút ra một số kết luận về việc định tội danh
của Cơ quan cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án nhân dân hai
cấp Thành phố Hồ Chí Minh đối với tội chống người thi hành công
vụ tại Thành phố Hồ Chí Minh, giai đoạn từ 2012 đến 2016 như sau:
- Thứ nhất, về tính thống nhất rất cao của các cơ quan tiến
hành tố tụng trong các vụ án chống người thi hành công vụ.
- Thứ hai, qua thực tế nghiên cứu các bản án đã được xét xử
tại Tòa án nhân dân hai cấp Thành phố Hồ Chí Minh có thể thấy một
thực trạng là tất cả các bản án mà Tòa án nhân dân hai cấp Thành
phố Hồ Chí Minh áp dụng nói trên chỉ áp dụng khoản 1. Đối với
khoản 2 của điều luật này quy định có tính trừu tượng cao và không
cụ thể nên việc giải thích và áp dụng trực tiếp là điều rất khó khăn
cho cả cơ quan điều tra, truy tố và xét xử.
- Thứ ba, trên cơ sở nghiên cứu thực tế về định tội danh đối
với tội chống người thi hành công vụ tại Thành phố Hồ Chí Minh
giai đoạn 2012-2016 có thể chỉ ra rằng: Việc xây dựng pháp luật đối
với từng điều luật cũng nên thiết kế một các khoa học và hợp lý.
Việc xác định vị trí cấu thành của điều luật là dạng cấu thành gì thì
từ đó xây dựng điều luật trên cơ sở đó mới có khả năng áp dụng trên
thực tiễn.
12
Từ số liệu đã xét xử, việc định tội danh tại Thành phố Hồ
Chí Minh về cơ bản là đúng, nhất là đối với tội chống người thi hành
công vụ. Bởi lẽ, các vụ án đưa ra xét xử là các vụ án đã được định tội
danh chính thức. Trong 282 bản án án đã xét xử chỉ có 01 (một) bản
án bị hủy do cấp sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng;
không có bản án bị kháng nghị theo trình tự Giám đốc thẩm hoặc Tái
thẩm. Không có trường hợp nào tại Thành phố Hồ Chí Minh xác
định sai tội danh, bỏ lọt tội phạm hay xử oan người vô tội.
Để có kết qủa này là do sự nỗ lực rất lớn từ phía các cơ quan
tiến hành tố tụng tại Thành phố Hồ Chí Minh và đòi hỏi những người
tiến hành tố tụng phải có trình độ lý luận cơ bản và vững chắc, trên
cơ sở đánh giá, phân tích, tổng hợp từng yếu tố của nhiều vụ án, áp
dụng các văn bản pháp luật liên quan một cách chính xác thì mới
định tội danh đúng.
2.2. Quyết định hình phạt đối với tội chống người thi
hành công vụ
2.2.1. Các yêu cầu bảo đảm quyết định hình phạt đối với
tội chống người thi hành công vụ đúng pháp luật
Quyết định hình phạt đối với tội chống người thi hành công
vụ gồm những đặc điểm như sau:
Thứ nhất: Tòa án là cơ quay duy nhất có quyền tuyên bố
hành vi cụ thể nào đó có phạm tội. Do đó đối với tội chống người thi
hành công vụ Tòa án sẽ tiến hành xem xét hành vi đó có phạm tội
chống người thi hành công vụ hay không và nếu có thì áp dụng
khoản nào của Điều 257.
13
Thứ hai: Quyết định hình phạt nói chung và quyết định phạt
đối với tội chống người thi hành công vụ được thực hiện bởi Tòa án
trên cơ sở của Điều 257 BLHS năm 1999. Việc áp dụng các quy
định đó khi quyết định hình phạt đó cũng phải tuân thủ theo một
trình tự, thủ tục nhất định, nó là dạng hoạt động pháp lý tố tụng hình
sự, vì thế khi quyết định hình phạt Tòa án phải dựa vào kết quả của
các giai đoạn tố tụng hình sự khác nhau và kết quả hoạt động của
mình ở giai đoạn xét xử, mọi quyết định của Tòa án không trên cơ sở
của pháp luật đều là vi phạm nguyên tắc pháp chế.
Thứ ba: Quyết định hình phạt chỉ áp dụng với cá nhân người
thực hiện hành vi phạm tội, theo pháp luật hình sự hiện hành thì
nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm. Đối với tội chống người thi hành
công vụ thì chỉ người nào thực hiện hành vi chống lại hoặc gây cản
trở người đang thi hành công vụ gây nguy hiểm cho xã hội thì mới bị
coi là tội phạm thì phải chịu hình phạt tương xứng với hành vi của
mình và không thể ủy thác trách nhiệm cho người khác.
Thứ tư: Như nói ở trên, Tòa án nhân danh nhà nước và trên
cơ sở quy định của pháp luật quyết định áp dụng hình phạt với một
người phạm tội, tuy nhiên việc ra quyết định hình phạt không phải là
thế lực hay một tổ chức chung chung mà do những con người cụ thể
đó là các thẩm phán và các hội thẩm nhân dân. Vì thế chúng ta không
thể đòi hỏi và cũng không bao giờ có thể đạt được sự thống nhất
tuyệt đối khi quyết định hình phạt giữa các chủ thể được ủy quyền
nhân danh Nhà nước quyết định hình phạt. Chính điều đó tạo nên đặc
14
điểm của quyết định hình phạt đó là tính linh hoạt, nhưng tất nhiên
tính linh hoạt đó là trong khuôn khổ của pháp luật.
2.2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội chống
người thi hành công vụ tại Thành phố Hồ Chí Minh
- Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí
Minh, các cơ quan tiến hành tố tụng đã áp dụng đầy đủ các quy
định của BLHS, các văn bản hướng dẫn, mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi để làm căn cứ quyết định hình phạt đúng, phù hợp
dựa trên các tình tiết có trong hồ sơ từng vụ án, các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ, nhân thân người phạm tội mà quyết định mức
hình phạt tương xứng với từng bị cáo. Đối với khoản 1 Điều 257
BLHS tại địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh cung độ hình phạt của
khoản này tập trung nhiều nhất trong khoản từ 6 đến 12 tháng tù.
Khi QĐHP Tòa án phải tuân theo những nguyên tắc nhất
định “Các nguyên tắc quyết định hình phạt là những tư tưởng xuất
phát, tư tưởng chỉ đạo, được quy định trong pháp luật hình sự và do
giải thích mà có, xác định và định hướng hoạt động của Tòa án khi
áp dụng chế tài Luật hình sự đối với người phạm tội”. Đó là các
nguyên tắc: Nguyên tắc pháp chế XHCN; nguyên tắc nhân đạo
XHCN; nguyên tắc cá thể hóa hình phạt và nguyên tắc công bằng.
Các nguyên tắc đó có tính độc lập tương đối của nó và cùng
tồn tại. Nhưng, mặt khác, các nguyên tắc quyết định hình phạt luôn
có những phần, những nội dung xâm nhập nhau, có mối liên hệ chặt
chẽ với nhau, bổ sung cho nhau, tác động qua lại lẫn nhau và ở dạng
tổng thể tạo thành một hệ thống nhất.
15
- Căn cứ quyết định hình phạt: “Các căn cứ quyết định hình
phạt là những đòi hỏi cơ bản có tính nguyên tắc do luật hình sự quy
định hoặc do giải thích pháp luật mà có, buộc Tòa án phải tuân theo
khi quyết định hình phạt đối với người thực hiện tội phạm”.
Để quyết định hình phạt đối với hành vi của người phạm tội,
Tòa án không phải tùy tiện đưa ra một loại và một mức án nào đó,
mà phải có những căn cứ nhất định. Căn cứ vào các quy định của Bộ
luật hình sự có tính nguyên tắc như sau: Cân nhắc tính chất và mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; cân nhắc nhân thân
người phạm tội; cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách
nhiệm hình sự.
- Khi QĐHP, Tòa án phải căn cứ vào những quy định sau
đây:
Một là, căn cứ vào các quy định của BLHS, tức là căn cứ vào
các quy định của Phần chung và Phần các tội phạm (điều luật quy
định tội phạm mà các bị cáo đã phạm tội).
Hai là, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
của tội phạm đã thực hiện
Ba là, căn cứ nhân thân người phạm tội
Bốn là, cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách
nhiệm hình sự
16
2.3. Những vi phạm, sai lầm trong thực tiễn định tội
danh, quyết định hình phạt đối với tội chống người thi hành công
vụ tại Thành phố Hồ Chí Minh và nguyên nhân
2.3.1. Những vi phạm, sai lầm trong thực tiễn định tội
danh và quyết định hình phạt
2.3.1.1. Những vi phạm, sai lầm trong thực tiễn định tội
danh
Trên thực tế những quy định về Tội chống người thi hành
công vụ, cả về mặt chủ quan lẫn khách quan đều chưa chặt chẽ, rất
dễ gây nhầm lẫn với những tội phạm khác, dẫn đến sự sai lệch trong
quá trình định tội danh, bên cạnh đó những nguyên nhân xuất phát từ
đội ngũ thi hành pháp luật mà chủ yếu là Viện kiêm sát và Tòa án
cũng chiếm một phần không nhỏ. Pháp luật có những quy định
không chặt chẽ, không rõ ràng, khả năng ứng dụng vào thực tế không
cao cùng với những hạn chế trong trình độ, năng lực và kinh nghiệm
nghề nghiệp của đội ngũ thi hành pháp luật dễ dẫn tới những trường
hợp xác định sai tội phạm, nhầm lẫn giữa tội chống người thi hành
công vụ và những tội phạm khác như: Tội cố ý gây thương tích, Tội
gây rối trật tự công cộng… điều đó cũng ảnh hưởng tới quá trình
phòng chống Tội chống người thi hành công vụ.
Thực tiễn hoạt động định tội danh chống người thi hành công
vụ tại Thành phố Hồ Chí Minh thời gian từ 2012 đến 2016 có những
vi phạm, sai lầm sau:
- Tội khác nhưng lại xử tội chống người thi hành công vụ.
- Truy tố sai khung hình phạt.
17
2.3.1.2. Những vi phạm, sai lầm trong thực tiễn quyết định
hình phạt
Tương tự như định tội danh, thực tiễn quyết định hình phạt
đối với tội chống người thi hành công vụ tại Thành phố Hồ Chí Minh
từ năm 2012 đến năm 2016 cũng có những vi phạm, sai lầm sau đây:
- Áp dụng hình phạt quá nhẹ.
- Áp dụng hình phạt quá nặng.
2.3.2. Nguyên nhân của những vi phạm, sai lầm
- Do BLHS quy định chưa đầy đủ, cụ thể
- Hướng dẫn thi hành pháp luật chưa đầy đủ, kịp thời.
- Công tác điều tra, truy tố chưa bảo đảm đúng quy định của
BLTTHS.
- Năng lực của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân.
18
Chương 3
CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH
CÔNG VỤ
3.1. Hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam về
tội chống người thi hành công vụ
Quốc hội đã thông qua BLHS năm 2015, Luật sửa đổi, bổ
sung BLHS năm 2017. Theo hai đạo luật này, tội chống người thi
hành công vụ so với BLHS năm 1999 thì cấu thành cơ bản của tội
phạm này vẫn giữ nguyên. Về cấu thành tăng nặng tại điểm b khoản
2 có điểm mới là định lượng cụ thể số lần phạm tội để định khung
hình phạt “phạm tội 02 lần trở lên” so với “phạm tội nhiều lần” và
điểm d khoản 2 quy định “gây thiệt hại về tài sản 50.000.000 đồng
trở lên” so với “gây hậu quả nghiêm trọng” như quy định của BLHS
năm 1999. Việc quy định về định lượng cụ thể của BLHS năm 2015,
Luật sửa đổi, bổ sung BLHS năm 2017 tạo điều kiện cho các cơ
quan, người tiến hành tố tụng áp dụng được thuận lợi, dễ dàng hơn.
Việc hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự vì vậy vừa phải
đáp ứng được yêu cầu cập nhật những nội dung mới nhất của các quy
phạm pháp luật hình sự, đặc biệt là những sửa đổi, bổ sung của các
quy phạm này; vừa phải thể hiện được vai trò là “người thầy” chỉ dẫn
các hiểu và chác vận dụng các quy phạm ấy vào trong hoạt động tố
tụng, tức là việc chỉ dẫn và giải thích này vừa phải đúng nhưng vừa
cần phải nhanh chóng để sớm đem lại hiệu quả áp dụng pháp luật
trong thực tế.
19
3.2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam về tội phạm chống người thi hành công vụ
Dưới góc độ nghiên cứu hoàn thiện các quy định của pháp
luật hình sự về tội chống người thi hành công vụ, tác giả đề xuất một
số biện pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam
về tội chống người thi hành công vụ như sau:
Một là, nghiên cứu hoàn thiện pháp luật theo hướng tăng
nặng hình phạt tù hơn nữa để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp
luật và đủ sức răn đe giáo dục người chưa phạm tội sẽ không phạm
tội và người đã phạm tội không tái phạm..
Hai là, nghiên cứu về ứng dụng khoa học thống kê trong
thống kê tội phạm chống người thi hành công vụ lấy tiêu chí người
thi hành công vụ bị tấn công hoặc giết chết làm trung tâm thống kê.
Ba la, nghiên cứu các giải pháp tăng quyền hạn của người
thi hành công vụ như có quyền bắt giữ đối tượng để đảm bảo cho
hoạt động công vụ được thi hành.
Bốn là, nghiên cứu ban hành các ấn phẩm phổ biến hướng
dẫn công dân biết quyền và nghĩa vụ của họ trong trường hợp phải
tiếp xúc với lực lượng thi hành công vụ, tập trung vào các loại công
vụ thường bị tấn công trên thực tế và những công vụ thường xuyên
liên quan mật thiết với đời sống thường nhật của công dân.
3.3. Tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội
chống người thi hành công vụ
Việc tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự giúp phản
ánh được những vấn đề chưa phù hợp của các quy phạm pháp luật
20
hình sự khi áp dụng vào thực tiễn, qua đó nhà làm luật sẽ phân tích
và đánh giá nguyên nhân dẫn đến sự chưa phù hợp đó để đưa ra các
giải pháp sửa đổi các quy phạm pháp luật hình sự sao cho tính phù
hợp của các quy phạm pháp luật này đối với thực tế được nâng cao
hơn, đảm bảo tính khả thi cao của các quy phạm pháp luật hình sự
khi được đưa vào vận dụng để giải quyết vụ án hình sự.
3.4. Nâng cao năng lực của cán bộ áp dụng pháp luật
hình sự về tội chống người thi hành công vụ
Chất lượng xử lý tội phạm hình sự nói chung và xử lý tội
chống người thi hành công vụ nói riêng của cơ quan pháp luật phụ
thuộc rất lớn vào năng lực của những người làm pháp luật, mà ở đây
chủ yếu là những người THTT. Để việc trau dồi, nâng cao năng lực
của những người THTT đạt được hiệu quả cao cần phải làm tốt được
những vấn đề sau:
Thường xuyên tổ chức các chương trình tập huấn, các khóa
đào tạo nhằm nâng cao trình độ chuyên môn của những người
THTT.
Thường xuyên tuyên truyền và giáo dục về đạo đức ngề
nghiệp cho các cán bộ pháp luật.
Suy cho đến cùng, dù với bất kỳ cách thức xử lý nào cũng
phải phù hợp với tính chất của sai phạm và thể hiện sự nghiêm minh
của cơ quan quản lý cán bộ đó. Việc đưa ra các chế tài xử phạt
nghiêm khắc đối với các sai phạm của người THTT cũng góp phần
nhằm nâng cao năng lực của cán bộ áp dụng pháp luật.
21
3.5. Các giải pháp khác
3.5.1. Các giải pháp, kiến nghị nhằm bảo đảm khi tiến
hành công vụ
3.5.2. Các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả
giải quyết các vụ án về tội chống người thi hành công vụ
22