Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

ĐỀ CƯƠNG NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG BIẾNG ăn và yếu tố LIÊN QUAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.76 KB, 34 trang )

1

ĐỀ CƯƠNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
THỰC TRẠNG BIẾNG ĂN VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở TRẺ EM <5
TUỔI


2

ĐẶT VẤN ĐỀ

Giai đoạn từ 1 đến 5 tuổi là giai đoạn mà trẻ có nhiều thay đổi về nhu cầu dinh
dưỡng và hành vi ăn uống. Khi được 12 đến 24 tháng tuổi, nguồn thức ăn của trẻ
chuyển dần từ sữa mẹ sang các nguồn cung cấp từ bên ngoài, chế độ ăn của trẻ chuyển
từ chế độ ăn lỏng sang chế độ ăn nhiều loại thức ăn rắn và hỗn hợp khác nhau, còn khi
được 24 đến 26 tháng tuổi, trẻ có thể tự ăn bằng muỗng thay vì được người khác đút
cho ăn [3], [5]. Về mặt tâm thần, trí tuệ của trẻ phát triển nhanh, trẻ bắt đầu có khả
năng kiểm soát toàn bộ cơ thể, thể hiện tính tự chủ và những sở thích cá nhân. Trong
giai đoạn này, việc cho ăn đúng cách và đảm bảo dinh dưỡng là đặc biệt quan trọng,
tuy nhiên đây không phải là một việc dễ dàng. Nếu trẻ không ăn uống tốt, cộng với
những cách cho ăn và giáo dục về ăn uống sai lầm của cha mẹ sẽ có thể khiến trẻ
không nhận được đầy đủ chất dinh dưỡng cho sự phát triển của cơ thể và có thể dẫn tới
suy dinh dưỡng hoặc chậm phát triển [5].
Hiện nay, tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em vẫn còn ở mức cao, thiếu thức ăn và bệnh
tật là hai nguyên nhân quan trọng gây suy dinh dưỡng, bên cạnh đó khả năng hay việc
sẵn sàng tiếp nhận những thức ăn đã có sẵn hay không là một nguyên nhân quan trọng
khác gây suy dinh dưỡng. Biếng ăn (picky eating/fussy eating) là một trong những
hành vi cho thấy trẻ có sự khó khăn hay không trong việc chấp nhận thức ăn. Biếng ăn
thường gây ra lo lắng và áp lực tâm lý lớn cho các phụ huynh. Biếng ăn cũng là một
yếu tố nguy cơ phát triển thành một dạng rối loạn ăn uống và có thể liên quan đến thói
quen ăn uống của trẻ trong tương lai. Đây là một vấn đề khá phức tạp, có sự kết hợp


của nhiều phương diện từ tâm thần đến dinh dưỡng, từ thực thể đến lâm sàng. Tình
trạng này rất phổ biến ở trẻ nhũ nhi và trẻ nhỏ, đặc biệt là trẻ em tuổi tiền học đường
[16].


3

Hiện tại, biếng ăn ở trẻ em vẫn còn là vấn đề mới và chưa được chú trọng thỏa
đáng. Trong nhiều nghiên cứu, nhận thức về biếng ăn chủ yếu là dựa vào cảm nhận chủ
quan của người mẹ nhưng hiểu biết của họ về tình trạng này lại còn rấtít và mơ hồ[5],
các chuyên gia y tế hiện nay cũng chỉ coi biếng ăn chỉ là một giai đoạn thoáng qua
trong quá trình phát triển ở trẻ em tuổi tiền học đường và có phần bị xem nhẹ[12].
Để có một cái nhìn sâu sắc về vấn đề biếng ăn của trẻ em, nhiều nghiên cứu khái
quát đã được triển khai trên cả bình diện lâm sàng và thực thể trên thế giới. Những
nghiên cứu gần đây đã cho thấy thực trạng đáng lo ngại của vấn đề này, ước tính tỷ lệ
biếng ăn chung trong dân là tương đối lớn, khoảng 20-60% ở tất cả trẻ em [29]; các
nghiên cứu cho thấy tỷ lệ biếng ăn ở trẻ em rất cao tại các nước: 19-50% ở Mỹ [13];
49,2% Singapore [16] và 54% tại Trung Quốc [36].Ở trẻ em Việt Nam, một số nghiên
cứu cho thấy tỷlệbiếngăncủatrẻemViệtNamkhácaosovớitỷlệ20-45%đãđượccôngbố
trênthếgiới [5]; các nghiên cứu trong nước cũng cho thấy tỷ lệ biếng ăn khá cao với
22,2% tại Thành phố Huế [8] và rất cao tại thành phố Hồ Chí Minh: 54,58% [4]. Dù
vậy, các công trình nghiên cứu về biếng ăn nước ta vẫn còn rất khan hiếm. Chính vì
điều đó, chúng tôi tiến hành đề tài“Nghiên cứu tỷ lệ biếng ăn và một số yếu tố liên
quan ở trẻ 1 đến 5 tuổi tại xã Hương Vinh, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế
năm 2015” nhằm các mục tiêu sau:
1. Xác định tỷ lệ biếng ăn ở trẻ 1 đến 5 tuổi tại xã Hương Vinh, thị xã Hương Trà,
tỉnh Thừa Thiên Huế.
2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến tình trạng biếng ăn ở đối tượng này.



4

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1.

Định nghĩa về biếng ăn ở trẻ em

1.1.1. Quan niệm về biếng ăn trong đời thường
Cónhiềuquanniệmkhácnhauvề

vấnđề

biếngăn.Quanniệmđơngiảntrongđời

thườngthìbiếngănnghĩalàchánănhaykhôngmuốnăn,khôngthèmăn.Theonhiềutừđiểntiến
gViệtthìbiếngănlàthuậtngữchỉtrạngtháikhông

thiết

cónhữngcảmgiácthíchthúhaysựcảmnhậnvềđộngon

ănhay

ănvàonhưng

không

miệnghoặcsựthoảimáivềtinhthần.


Tuy nhiên, những quan niệm này chỉ mô tả được biểu hiện bên ngoài của biếng ăn [4],
[5].
1.1.2. Biếng ăn trong các nghiên cứu
Có rất nhiều tác giả đã định nghĩa biếng ăn theo nhiều cách khác nhau. Biếng ăn là
một vấn đề phức tạp, sự phức tạp này được phản ánh trong sự không thống nhất về
phương pháp đánh giá và sự thiếu rõ ràng về một định nghĩa của biếng ăn, điều này
càng phức tạp hơn khi sử dụng một loạt các thuật ngữ, bao gồm: biếng ăn, ăn uống khó
khăn, ăn uống kén chọn và ăn kỳ cục[28].
Đây là một số ví dụ về định nghĩa biếng ăn trong các nghiên cứu trước:


Dubois và cộng sự (2007) cho rằng trẻ biếng ăn là trẻ (1) “luôn” ăn những bữa

ăn khác với các thành viên còn lại của gia đình, (2) thường từ chối những thức ăn phải
ăn, hoặc (3) từ chối ăn.


Dovey và cộng sự (2008) cho rằng biếng ăn là ăn ít đa dạng các loại thức ăn,

không sẵn sàng ăn thức ăn mới (neophobia) và những hành vi bất thường khác được
xem như là những đặc điểm của trẻ biếng ăn [17].


Mascola và cộng sự (2010) cho rằng biếng ăn dùng để mô tả sự tiêu thụ không

đa dạng các loại thức ăn. Biếng ăn bao gồm sự không chấp nhận một loại thực phẩm
nào đó hoặc chỉ chấp nhận một loại thực phẩm nào đó, ngần ngại thử một loại thực


5


phẩm mới, ăn giới hạn trong một vài nhóm thực phẩm nhất định và ăn một lượng ít hơn
những gì mà chúng ta mong đợi ở tuổi của trẻ [27].


Liliana Oliveros cùng cộng sự (2012) thì cho rằng một trẻ biếng ăn sẽ biểu lộ

những thói quen-hành vi chính đó là: tính kén chọn thức ăn rất cao, tránh né thức ăn và
thứ ba là chỉ ăn một lượng ít so với nhu cầu bình thường[29].


Thanner và cộng sự (2014) cho rằng biếng ăn là hành vi không chỉ được phản

ảnh bằng sự kén chọn thức ăn mà còn là sự kết hợp những hành vi ăn uống đáng lo
ngại như: ít thích thú với thức ăn, ăn chậm, lâu và nhanh no [34].
Như vậy, có nhiều định nghĩa về một trẻ biếng ăn nhưng tất cả đều chưa thống
nhất và chưa được chấp nhận rộng rãi;tuynhiên, nhìn chungtrẻmắc phảitình
trạngnàythườngcóbiểuhiệnlà“trẻkhôngchịuănđủsố
thiếttheonhucầucủalứatuổi,chỉưathích

lượngthứcăncần
mộtvàiloạithứcănnhấtđịnhhoặc

tránhthửmónănmới”[5], [12], [13] và biếng ăn chínhlàmột biểuhiệncủa hànhviăn
uốngởtrẻtừ 1đến5tuổi [5].
1.2. Nguyên nhân gây biếng ăn ở trẻ em
1.2.1. Nguyên nhân thực thể thường gặp
Thường gặp là các bệnh lý y khoa, thiếu dinh dưỡng; hầu hết trẻ bị bệnh đều
biếng ăn. Một nghiên cứu 700 trẻ dưới 10 tuổi biếng ăn cho thấy: 86% có bệnh lý nội
khoa, 61% rối loạn chức năng vùng họng miệng [31].Những nguyên nhân thực thể

khác: khiếm khuyết cơ thể học, bẩm sinh[10]; di truyền [3], [10], [23].
 Biếng ăn do bệnh
Bệnh lý cấp tính về đường tiêu hóa, hô hấp (thường gặp nhất). Biếng ăn là một
triệu chứng xảy ra trong hầu hết mọi bệnh nhiễm trùng. Tình trạng này thường mất đi
khi trẻ bắt đầu hồi phục. Nhiễm giun đũa cũng là một nguyên nhân gây biếng ăn phổ
biến ở trẻ em nước ta.


6

Biếng ăn là một triệu chứng luôn có khi trẻ bị một số bệnh răng miệng: viêm
miệng áp tơ, Herpangina, viêm loét họng-amiđan, mọc răng…dẫn đến tình trạng từ
chối thức ăn.Ngoài ra trẻ cũng có thể biếng ăn do mắc các bệnh mãn tính như là suy
tim, hen vừa và nặng,…
Biếng ăn do thuốc: trẻ dùng thuốc khi ốm làm ảnh hưởng đến tiêu hóa, vị giác,
gây loạn khuẩn ruột, giảm quá trình lên men thức ăn gây biếng ăn [3], [10].
 Khiếm khuyết cơ thể học bẩm sinh
+

Rối loạn giác quan đặc biệt là rối loạn vị giác: có thể do rối loạn ngoại biên hoặc

tại các trung tâm giác quan ở thần kinh trung ương.
+

Các bất thường giải phẫu bẩm sinh, ví dụ: hở hàm ếch,…
 Yếu tố biếng ăn di truyền
Có khoảng 5% trẻ không bao giờ đòi bú hoặc đòi ăn[3]. Một số nghiên cứu đã

nhận định về tính di truyền của biếng ăn[23]. Một số tácgiảkhẳng địnhrằng giữatình
trạngbiếngănhiện


tạicủa

trẻcómối

quanhệvớivấn

đềditruyềntừchamẹ

hoặcôngbàmàtìnhhìnhnày sẽtồntạimộtcáchkhádàihay kháphổbiến và sựbấtthườngcủa
mộtphầnnãobộhoặcnhữngvấn

đềtrongquátrình

nuôidưỡngcóthểlànguyênnhân

dẫnđếntìnhtrạngbiếngăncủatrẻ [5].
1.2.2. Nguyên nhân không thực thể
Bao gồm các nguyên nhân tâm lý, xã hội, môi trường, nhận thức, thói quen,
hành vi, tính cách… Đó là các sự cố liên quan đến ăn uống làm trẻ sợ, ác cảm với thức
ăn, môi trường nuôi trẻ, cảm xúc của người chăm sóc trẻ[3],[5].
 Nhận định và thói quen không phù hợp về hành vi ăn uống
Bắt nguồn từ việc sử dụng thức ăn ngoài mục tiêu dinh dưỡng, làm cho trẻ có
nhận thức không đúng về thức ăn, ví dụ như xem đó là phương tiện thưởng, phạt,
phương tiện hỗ trợ cho các cuộc vui…
 Số lượng và dạng thực phẩm không phù hợp với sự tăng trưởng và phát triển thể
chất của trẻ


7


Ở mỗi độ tuổi, hệ tiêu hóa và cơ thể trẻ sẽ thích nghi với số lượng thực phẩm
khác nhau, những dạng thức ăn khác nhau. Khi sử dụng không đúng các dạng thực
phẩm theo độ tuổi, có thể gây trở ngại cho hoạt động tiêu hóa, hấp thu của trẻ, lâu dần
sẽ dẫn đến biếng ăn.
 Thành phần bữa ăn mất cân đối
Ăn hoặc uống các chất ngọt trước khi ăn làm tăng đường huyết, chế độ ăn quá
nhiều đạm, mỡ… gây hiệu ứng phản hồi âm tính trên hoạt động của hệ tiêu hóa, ăn
thiếu các loại vitamin và muối khoáng cần thiết cho việc tạo các men tiêu hóa, uống
sữa ngay trước bữa ăn, uống nhiều nước trước bữa ăn, uống các loại nước ngọt có
nhiều gaz, vừa ăn vừa uống làm giảm nồng độ hoạt tính của dịch vị dạ dày. Chế độ ăn
đơn điệu, không phù hợp với lứa tuổi hoặc nghèo nàn về mặt dinh dưỡng (thiếu đạm,
vitamin B1) dần dần sẽ làm trẻ chán ăn.
 Chế độ ăn không phù hợp với sinh lý hệ tiêu hóa, hấp thu
Các bữa ăn trong ngày quá dày làm hệ tiêu hóa tăng hoạt động hoặc quá thưa
làm hệ tiêu hóa giảm hoạt động đều có thể dẫn đến tình trạng biếng ăn.
 Tâm lý sợ hãi đối với thức ăn và bữa ăn
Thường bắt đầu bằng sự gắn kết nhận thức về bữa ăn hoặc thức ăn với các sự
kiện làm trẻ sợ hãi như đánh trẻ, giận dữ la mắng, hù dọa trẻ, ép buộc trẻ, cãi vã,…
 Sang chấn tâm lý (stress)
Làm suy giảm tất cả hoạt động chức năng bình thường bao gồm cả cảm giác
thèm ăn, sự ngon miệng và hoạt động tiêu hóa, hấp thu.
 Ảnh hưởng của môi trường và nhận thức
Sự buồn chán, sợ hãi hoặc cảm giác chán, ngán trước một loại thực phẩm không
ưa thích sẽ làm giảm cảm giác ngon miệng và các hoạt động khác liên quan đến tiêu
hóa thức ăn và hấp thu dưỡng chất. Sự kiểm soát cao độ của cha mẹ hoặc người chăm
sóc trẻ về ăn uống và thực phẩm có thể làm thay đổi môi trường của trẻ bởi lẽ tạo ra


8


một bầu không khí tiêu cực xung quanh thức ăn và làm sút kém sự hưởng thụ của trẻ
đối với thức ăn, kết quả sau đó là làm tăng biếng ăn ở trẻ[21].
1.3. Hậu quả của tình trạng biếng ăn
Khi trẻ có phát triển từ giai đoạn đi chập chững đến giai đoạn tiền học đường thì
biếng ăn xem như là một phần không thể thiếu trong quá trình phát triển của chúng
[13]. Một nghiên cứu trước đã khám phá ra phần lớn trẻ biếng ăn ở lứa tuổi nhỏ chỉ là
biếng ăn thoáng qua, tình trạng này sẽ thuyên giảm khi bước qua tuổi tiền học đường,
và biếng ăn có thể được xem như là một phần trong quá trình phát triển bình thường ở
trẻ em[12]. Dù vậy, biếng ăn cũng sẽ có những hậu quả xấu nếu không được kiểm
soát.Biếng ăn sẽ dẫn đến các dấu chứng lâm sàng tất yếu xuất hiện khi nó là kết quả
của tình trạng thiếu dinh dưỡng mãn tính hoặc từ những ảnh hưởng có hại của xã hộivà
tác động tiêu cực của gia đình [34].
Hậu quả của biếng ăn có thể phân loại theo hậu quả trước mắt- hậu quả lâu dài
[27]hoặchậu quả trên từng chức năng, cơ quan của cơ thể [3].
1.3.1. Hậu quả trước mắt- hậu quả lâu dài
Theo Liliana và cộng sựthì biếng ăn có thể gây ra những hậu quả (ảnh hưởng)
xấu trước mắt hoặc lâu dài [27].
Những hậu quả trước mắt của tình trạng biếng ăn có thể là thiếu dinh dưỡng như
là thiếu protein- năng lượng hoặc vi chất dinh dưỡng, là một yếu tố nguy cơ gây suy
dinh dưỡng thể nhẹ cân. Một nghiên cứu dọc cho thấy tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng thể nhẹ
cân ở nhóm biếng ăn là 20,6% cao hơn so với nhóm đối chứng (6,6%) [20]. Nghiên
cứu của Dubois và cộng sự cũng cho thấy trẻ biếng ăn có nguy cơ cao bị nhẹ cân ở độ
4-5 tuổi [18]. Trẻ biếng ăn tiêu thụ ít những nhóm như protein, năng lượng, chất béo;
ăn ít hơn so với nhu cầu khuyến nghị các nhóm: trái cây, rau xanh và thịt; hoặc không
sử dụng các thực phẩm bơ, sữa đầy đủ so với nhu cầu khuyến nghị để đảm bảo nhu cầu
vitamin và muối khoáng. Một hậu quả trước mắt khác của biếng ăn đó là làm giới hạn,


9


làm chậm sự phát triển ở trẻ; như một số nghiên cứu đã cho thấy trẻ biếng ăn thấp kém
về vóc dáng và về phương diện trọng lượng cơ thể[20], [36].
Có nhiều bằng chứng cho thấy biếng ăn không chỉ gây thiếu hụt dinh dưỡng
trong thời gian ngắn mà còn gây những hậu quả lâu dài về sau.Một hậu quả dài hạn của
tình trạng biếng ăn ở trẻ có thể là làm giảm khả năng nhận thức và suy giảm trí tuệ.
Khoa học đã chứng minh mối liên hệ giữa tình trạng thiếu dinh dưỡng với sự suy giảm
phát triển nhận thức ở trẻ, Kar cùng cộng sự đã báo báo rằng những trẻ ăn uống nghèo
nàn thường gặp nhiều khó khăn trong các bài kiểm tra đòi hỏi khả năng chú ý, trí nhớ
và nhận thức bằng mắt, khả năng hiểu lời nói cũng như những quá trình nhận thức
khác[24].
1.3.2. Hậu quả trên từng chức năng, hệ thống khác nhau của cơ thể


Trẻ ăn không đủ chất dinh dưỡng
Nghiên cứu của Dubois và cộng sự cho thấy những trẻ biếng ăn có khẩu phần ăn

thấp hơn nhóm chứng về năng lượng, chất béo, protein và tỷ lệ nhẹ cân cao gấp hai lần
nhóm chứng [19]. Một nghiên cứu đã cho thấy nhóm trẻ biếng ăn đã không đáp ứng đủ
nhu cầu khuyến nghị về acid folic, vitamin E và vitamin D [27]. Yong-Xue và cộng
sựcũng đã khám phá ra rằng trẻ biếng ăn có hàm lượng Sắt, Kẽm trong máu thấp hơn
so với trẻ không biếng ăn[36].


Chậm phát triển thể chất
Biếng ăn gây nên thể trạng còi cọc, thấp bé, không tăng cân, sụt cân 3 năm đâu

đời, có nguy cơ nhẹ cân gấp 3 lần so với trẻ ăn uống tốt[3], [20]. Yong Xue và cộng
sựkhám phá ra rằng biếng ăn kéo dài trên 2 năm có liên quan với cân nặng theo tuổi
thấp hơn chuẩn [36]. Một nghiên cứu khác cho thấy trẻ biếng ăn có Chỉ số khối cơ thể

(BMI) thấp hơn so với những trẻ không biếng ăn [34]. Một đứa bé tuổi tiền học đường
với thói quen ăn uống không lành mạnh có từ sớm như biếng ăn có thể chậm phát triển;
tuy nhiên vẫn chưa có kết luận rõ ràng về khoảng thời gian của những thói quen này


10

kéo dài trong bao lâu mới có những ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển ở trẻ mà ta có
thể nhận thấy được [36].


Chậm phát triển tâm thần vận động
Nghiên cứu của Chatoor[14] cho thấy những trẻ biếng ăn có điểm số Phát triển

tâm thần (MDI) thấp hơn đáng kể so với trẻ bình thường, đặc biệt trẻ ác cảm với thức
ăn có điểm số MDI thấp hơn 14 điểm. Một số nghiên cứu khác cũng cho thấy có sự
liên hệ giữa biếng ăn với kết quả học tập kém [14], [24].


Rối loạn về nội tiết và chuyển hóa
Giảm tốc độ chuyển hóa của cơ thể, hạ thân nhiệt, tụt huyết áp, mất nước, rối

loạn thăng bằng điện giải, tóc thưa mảnh, giảm bạch cầu, loãng xương, gan nhiễm
mỡ….nếu tình trạng biếng ăn kéo dài dẫn đến suy kiệt trầm trọng[3].
Ngoài ra, tìnhtrạngbiếngănởtrẻkhôngchỉảnhhưởngđếnbảnthânđứatrẻ màcòngây
căng thẳng và lo lắng cho bố, mẹ, người chăm sóc và các thành viên khác trong gia
đình [4]. D. Goh và A. Jacob (2012) đãkết luận tình trạng ăn uống khó khăn và biếng
ăn ở trẻ có liên quan đến stress của người chăm sóc khi cho trẻ ăn và có tác động tiêu
cực đến các mối quan hệ trong gia đình [16]. Một nghiên cứu khác cũng cho thấy có
liên quan giữa những vấn đề về ăn uống ở trẻ với cảm xúc đau buồn và phiền lòng của

người mẹ[30].
1.4. Thực trạng biếng ăn ở trẻ em
Thực trạng biếng ăn, các vấn đề về ăn uống tăng theo tuổi ở trẻ em và có sự
khác nhau về địa lý và văn hóa và giữa các nghiên cứu với nhau[28]. Tỷ lệ biếng ăn ở
trẻ nói chung là khó để xác định một cách chính xác,nhưng theo các nghiên cứu gần
đây đã cho thấy thực trạng đáng lo ngại của vấn đề này.
1.4.1. Thực trạng biếng ăn ở trẻ em trên thế giới và trong khu vực
Tỷ lệ biếng ăn trong dân là tương đối lớn, ước tính tỷ lệ biếng ăn chung là 2060% ở tất cả trẻ em [27]. Theo một số thống kê, trên toàn thế giới tỷ lệ trẻ biếng ăn khá


11

cao: 50% trẻ 1-6 tuổi. Các nghiên cứu khác cũng cho thấy có 20-45% trẻ biếng ăn trong
độ từ 1 đến 5 tuổi[3].


Tỷ lệ biếng ăn trong một số nghiên cứu ở châu Âu- Mỹ

+ Ở Mỹ, nghiên cứu của Carruth và cộng sự vào năm 2004 cho thấy có đến 50% trẻ
19-24 tháng tuổi biếng ăn và khoảng 20- 60% phụ huynh lo lắng vì con của họ không ăn
uống tốt[13]. Một nghiên cứu dọc trên 216 trẻ từ khi mới sinh đến 11 tuổi ở Mỹ của
Mascola và cộng sự vào năm 2010 cho thấy tỷ lệ biếng ăn dao động trong khoảng 1322% [32 ]. Một nghiên cứu của M.Taylor (năm 2015) trên 14.062 trẻ cho thấy đã cho
thấy tỷ lệ biếng ăn theo thời gian ở mỗi độ tuổi 24, 38, 54 và 65 tháng nằm trong
khoảng từ 9,7%- 14,2%[28].
+ Ở Tây Ban Nha, bằng cách đo đạt khẩu phần ăn hằng ngày của trẻ so với khẩu
phần khuyến nghị trong 3 ngày liền, Liliana cùng cộng sự (2012) đã kết luận có 18,4%
trẻ trong một mẫu 2428 trẻ từ 36 đến 72 tháng tuổi là biếng ăn[27].
+ Ở Hà Lan, được tiến hành tương tự như nghiên cứu của Mascola và cộng sự,
nghiên cứu Cardonar và cộng sự (2015) cũng cho thấy tỷ lệ biếng ăn khá cao ở trẻ em
tuổi tiền học đường: 26,5% khi trẻ được 1,5 tuổi, 27,6% khi trẻ được 3 tuổi và giảm

xuống còn 13,2% khi trẻ đến 6 tuổi[12].


Tại châu Á

+ Ở Singapore, nghiên cứu của D.Goh và A. Jacob (2012) cho thấytỷ lệ biếng ăn ở
trẻ từ 1 đến 10 tuổi tại nước này khá cao: 49,2% [16].
+ Tại Trung Quốc, Yong Xue và cộng sự (2015) đã tìm ra tỷ lệ biếng ăn được báo
cáo bởi cha mẹ là 54% ở trẻ em tuổi tiền học đường [36].
1.4.2. Thực trạng biếng ăn ở trẻ em nước ta hiện nay
Ở nước ta có rất ít các công trình nghiên cứu về vấn đề này nên các thông tin về
tình

hình

biếng

ăn



trẻ

còn

rất

ít.

Kếtquảnghiêncứu


gần

đây

củacácchuyêngiadinhdưỡngtoàncầuchothấy
tỷlệbiếngăncủatrẻemViệtNamkhácaosovớitỷlệ20%-45%đãđượccôngbố trênthếgiới[5].


12

Một số nghiên cứu bước đầu cho thấy thực trạng biếng ăn ở trẻ em nước ta:
 Một nghiên cứu vào tháng 12 năm 2008 trên 902 phụ huynh tại Tp. Hồ Chí
Minh và 665 phụ huynh tại Hà Nội cho thấy tỷ lệ biếng ăn ở trẻ dưới 8 tuổi là 27%.
Trong đó, nhóm trẻ từ 1-6 tuổi có tỷ lệ biếng ăn cao nhất với 38%. Điều quan trọng là
có trên 40% những trẻ biếng ăn này đã có dấu hiệu biếng ăn ngay từ khi dưới 3 tuổi[3].
 Tác giả Huỳnh Văn Sơn (2011) đã tiến hành cuộc khảo sát trên 251 phụ huynh
có con từ 1 đến 6 tuổi, kết quả cho thấy tỷ lệ biếng ăn chiếm hơn nửa tổng số mẫu quan
sát là 54,58%[4].
 Nghiên cứu của Mai Thị Mỹ Thiện và cộng sự(2014) cho thấy tỷ lệ biếng ăn của
trẻ dưới 5 tuổi tại thành phố này khá cao: 20,8% [7].
 Tại thành phố Huế, nghiên cứu của Phạm Thị Hải và Hoàng Thị Bạch Yến cùng

cộng sự(2014) cho thấy tỷ lệ biếng ăn ở trẻ em 1 đến 5 tuổi tại thành phố này khá cao:
22,2% [8].
Như vậy, dù là trong nước hay trên thế giới thì các nghiên cứu trên chứng tỏ tình
trạng biếng ăn ở trẻ em là rất phổ biến hiện nay.
1.5. Công cụ IMFeD (Xác định và xử trí trẻ biếng ăn)
Hiện tại có nhiều cách chẩn đoán biếng ăn khác nhau nhưng tất cả đều chưa
được thống nhất và không rõ ràng [28]. Gần đây, với sự hỗ trợ của một số chuyên gia

và tổ chức nước ngoài, Hội Nhi khoa ViệtNam đã công nhận và bước đầu sử dụng bộ
công cụ IMFeD để xác định và xử trí trẻ biếng ăn.
1.5.1 Giới thiệu về công cụ IMFeD
IMFeD (Xác định và xử trí biếng ăn) [25], [26]; là công cụ đầu tiên và duy nhất
được áp dụng nhằm hỗ trợ các nhân viên y tế và các bác sĩ nhi khoa trong việc đánh giá
và đưa ra hướng điều trị thích hợp cho trẻ có các vấn đề về ăn uống từ 1 tuổi trở lên.
IMFeD được giới thiệu đầu tiên vào năm 2009, do Benny Kerzner, chuyên ngành Nhi


13

khoa, thuộc Trung tâm Nhi khoa Quốc gia Hoa Kỳ, dựa trên sự phân loại, cách tiếp cận
và phương pháp điều trị biếng ăn của Irene Chatoor.
Công cụ IMFeD được đưa vào Chương trình Chẩn đoán phân biệt và Phương
pháp điều trị các nhóm biếng ăn thường gặp ở trẻ nhỏ trên thế giới. Chương trình này
đã tổ chức 5 hội nghị ở Singapore (2009), Hồng Kông (2010), Mumbai (2011),
Malaysia (2011) và Việt Nam (2013). Công cụ này đang được sử dụng ở 16 nước và
được công nhận bởi 8 Hội Nhi khoa danh tiếng trên thế giới (Trung Quốc, Việt Nam,
Singapore, Ả-rập Xê-út, Tây Ban Nha, Costa Rica, El Salvador và Panama). Từ năm
2009, Hội Nhi khoa Việt Nam đưa IMFeD vào trong nước nhằm giúp các bác sĩ và bà
mẹ nhận biết và điều trị biếng ăn một cách hiệu quả. Công cụ IMFeD đã được Hội Nhi
khoa Việt Nam dịch sang tiếng Việt, chỉnh sửa và đơn giản hóa, mục đích để nội dung
trong phiếu IMFeD phù hợp với hoàn cảnh và văn hóa Việt Nam, giúp các bác sĩ nhi
khoa dễ dàng sử dụng và tiết kiệm thời gian trong công việc hàng ngày. Công cụ
IMFeD gồm 2 phần: hỗ trợ chẩn đoán của bác sĩ, hỗ trợ cha mẹ cung cấp thông tin
[25],[26], [32].
1.5.2. Các dạng biếng ăn và đặc điểm lâm sàng trong IMFeD


Nhận định sai của người chăm sóc (quan tâm quá mức)


+ Trẻ ăn phù hợp với nhu cầu dinh dưỡng theo lứa tuổi.
+ Trẻ thường có kích thước nhân trắc nhỏ nhưng nằm trong giới hạn bình
thường.Sự lo lắng quá mức của người chăm sóc trẻ dẫn đến ép trẻ ăn và tác động bất
lợi đến trẻ.


Trẻ hiếu động ít quan tâm đến ăn- mải chơi quên ăn (ít thèm ăn)

+ Trẻ khỏe mạnh, lanh lợi, hiếu động.
+ Trẻ quan tâm đến việc chơi và giao tiếp với mọi người nhưng ít khi biểu lộ hoặc
quan tâm đến việc ăn uống.
+ Trẻ có thể chỉ ăn một vài miếng và ngừng ăn, dễ lơ đãng với việc ăn và có thể
khó giữ yên tại bàn hoặc ghế trong khi ăn.


14



Trẻ thờ ơ, lãnh đạm ít quan tâm đến ăn

+ Trẻ ít có cảm giác ngon miệng và ăn ít.
+ Trẻ có biểu hiện lãnh đạm, thờ ơ, ít giao tiếp bằng lời (cười, nói) và không lời
(ánh mắt) với người cho ăn.


Ác cảm với thức ăn (quá kén chọn thức ăn)

+ Trẻ kiên quyết từ chối một số món ăn vì mùi vị, độ mịn màng, hình thức, thành

phần món ăn.
+ Trẻ có thể trở nên lo lắng nếu bị ép ăn các món không thích.


Sợ ăn

+ Trẻ sợ hãi khi biết sắp phải ăn, trẻ chống lại việc cho ăn bằng cách khóc, co
người hoặc từ chối mở miệng.
+ Có thể đã trải qua một sự cố đáng sợ liên quan đến ăn uống.


Biếng ăn liên quan đến bệnh lý

+ Trẻ ít thấy ngon miệng hoặc từ chối ăn liên quan đến việc đang mắc bệnh.
+ Trẻ bắt đầu ăn rất hăm hở nhưng sau đó tỏ ra đau, khó khăn, từ chối ăn tiếp.
1.5.3. Đánh giá hiệu quả của IMFeD
Tại Ấn Độ, năm 2011-2012, nhằm đánh giá bộ công cụ IMFeD và tìm hiểu các
bà mẹ và các bác sĩ Nhi khoa nghĩ gì về IMFeD, Pankaj Garg và cộng sự đã thực hiện
một nghiên cứu thí điểmvới sự tham gia của 383 trẻ và phụ huynh cùng các Bác sĩ Nhi
khoa và nhiều chuyên gia.Kết quả nghiên cứu cho thấy [32]:


Đối với các Bác sĩ Nhi khoa tham gia nghiên cứu
66% cho rằng IMFeD dễ dàng sử dụng. Gần 85%chỉ mất ≤ 20 phút để hoàn

thành xác định và xử trí biếng ăn, đồng thời tư vấn cho phụ huynh về cách quản lý
hành vi ăn uống của trẻ.


Đối với những phụ huynh tham gia nghiên cứu



15

Hơn 70% phụ huynh tham gia hài lòng và sẵn sàng chấp nhận dùng IMFeD để
quản lý các vấn đề cho ăn của con mình; 90% cho rằng IMFeD rất hữu ích để đánh giá
tình trạng biếng ăn.
Sau 60 ngày từ khi tham gia và nhận lời khuyên từ các chuyên gia, hơn 65% phụ
huynh phản hồi rằng họ ít hoặc không còn lo lắng nữa vềthói quen ăn uống của con
mình.Cuối cùng, có 51% phụ huynh tỏ ra tự tin rằng họ biết phải làm gì khi trẻ có vấn
đề về cho ăn và có khả năng áp dụng những biện pháp hợp lý nhằm tăng sự thèm ăn
của trẻ và thực hành nuôi dưỡng của mình.
Như vậy, IMFeD tỏ ra rất hữu ích để xác định và xử trí biếng ăn ở trẻ em, phát
huy được tối đa hiệu quả sự tham gia của các phụ huynh [25], [32].
1.6. Một số đặc điểm về địa bàn nghiên cứu
Vị trí địa lý: xã Hương Vinh nằm về phía Đông của thị xã Hương Trà, cách
trung tâm Thành phố Huế 4 km về phía Đông Bắc.
Tổng diện tích tự nhiên: 721.50 ha. Dân số năm 2013: 2.883 hộ với 14.172 nhân
khẩu.
Đặc điểm tình hình kinh tế - văn hoá - xã hội:
Xã có 8 thôn và 1 đội: các thôn Bao Vinh, La Khê, Triều Sơn Đông, Triều Sơn
Nam và Thế Lại Thượng có số nhân khẩu tương đối lớn, các thôn: Địa Linh, Minh
Thanh, xóm Thùy Phú và đội 12B có số dân ít và thưa thớt.
Hương Vinh là một xã có thế mạnh về sản xuất tiểu- thủ công nghiệp và thương
mại, dịch vụ, tỷ lệ hộ nghèo là 3,95% (năm 2013). Xãcó 1 trường mầm non, 3 trường
tiểu học, 1 trường THPT.
Trạm y tế của xã có6 cán bộ, cơ sở vật chất được cải thiện trong nhiều năm qua,
các chương trình y tế quốc gia đã triển khai tốt, tỷ lệ tham gia Bảo hiểm y tế đạt 80%
(2013).
CHƯƠNG 2



16

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng
Trẻ từ 1 đến 5 tuổi và bố, mẹ hoặc người trực tiếp chăm sóc trẻ hiện đang sống ở
xã Hương Vinh, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế.
2.1.2. Thời gian và địa nghiên cứu
Được tiến hành từ tháng 5 năm 2015 đến tháng 4 năm 2016 tạixã Hương Vinh,
thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
2.2.2. Cỡ mẫu
Cỡ mẫu được tính theo công thức:
n = Z21-α/2
Trong đó:
n: là cỡ mẫu của nghiên cứu.
Z: giá trị thu được từ bảng Z ứng với mức ý nghĩa thống kê α. Ở đây ta chọn α = 0,05
ta có Z = 1,96.
Chọn p= 0,5458 (tỷ lệ trẻ biếng ăn theo kết quả nghiên cứu của Huỳnh Văn Sơn trên
trẻ em 1-6 tuổi tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2011) [4].
d: Độ chính xác mong muốn (sai số chấp nhận được), chọn d= 5% hay d= 0,05.
Thay vào công thức ta tính được:
n = 1,962= 381
Lấy tròn cỡ mẫu lên 400. Vậy cỡ mẫu cuối cùng được chọn là n= 400.
2.2.3. Phương pháp và kỹ thuật chọn mẫu



17

Chọn mẫu theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn.
Quy trình chọn mẫu gồm 3 bước:
Bước 1: Lập khung chọn mẫu gồm 1139 trẻ từ 1-5 tuổi đang sống ở xã Hương



Vinh, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế trong thời gian tiến hành nghiên cứu.
Danh sách và thông tin về trẻ được trạm Y tế xã Hương Vinh cung cấp.
Bước 2: Chọn ngẫu nhiên 400 trẻ từ khung chọn mẫu bằng phần mềm Stata 12.



Sau đó, tiến hành lập danh sách 400 trẻ đã được chọn.
2.2.4. Kỹ thuật thu thập số liệu:phỏng vấn bố, mẹ hoặc người chăm sóc trẻ bằng bộ
câu hỏi soạn sẵn (xem phần Phụ lục 1).
2.2.5.Các biến số được sử dụng trong nghiên cứu



Nhóm biến về thông tin chung của trẻ:

+ Giới: nam, nữ.
+ Tuổi: xác định tuổi trẻ em theo hướng dẫn của Viện Dinh dưỡng, dựa trên
khuyến cáo của WHO năm 1995[35].Nếu người trả lời chỉ nhớ ngày sinh âm lịch của
trẻ thì dùng lịch âm dương để quy đổi.
Tính tuổi theo tháng: kể từ khi mới sinh tới trước ngày tròn một tháng (từ 1 đến

29 ngày) được coi là 0 tháng tuổi. Kể từ ngày tròn 1 tháng đến trước ngày tròn 2 tháng
(tức 30 ngày đến 59 ngày) được coi là 1 tháng tuổi. Tương tự với các tháng tuổi còn
lại.
Tính tuổi theo năm: kể từ ngày tròn 1 năm đến trước 1 năm 11 tháng 29 ngày
được gọi là 1 tuổi, hay dưới 2 tuổi. Như vậy theo quy ước:
1 tuổi: gồm các tháng tuổi từ 12 đến <24 tháng.
2 tuổi: gồm các tháng tuổi từ 24 đến <36 tháng.
3 tuổi: gồm các tháng tuổi từ 36 đến <48 tháng.
4 tuổi: gồm các tháng tuổi từ 48 đến <60 tháng.
5 tuổi: gồm các tháng tuổi từ 60 đến <72 tháng.
+ Thứ hạng sinh của trẻ: con đầu, con thứ.


18

+ Anh chị hoặc em (sống trong cùng gia đình): có, không.



Nhóm biến thông tin chung về gia đình và người chăm sóc trực tiếp cho trẻ

+ Quan hệ với trẻ: mẹ, khác mẹ (bố, ông, bà, người giữ trẻ,…là những người thay
thế mẹ trong việc cho ăn và chăm sóc trẻ).
+ Tuổi (năm): <25, 25-35, >35 [28].
+ Mức học vấn: Cao (Đại học, sau Đại học), Trung bình (THPT, THCS), Thấp
(tiểu học trở xuống) [12].
+ Nghề nghiệp: nông; thủ công, buôn bán; CBCNVC; nội trợ, nghề khác.
+ Tình trạng hôn nhân: Kết hôn, độc thân hoặc ly dị hoặc góa.
+ Mức kinh tế gia đình: Nghèo hoặc Cận nghèo, Khá hoặc trung bình, đủ ăn (thu
thập qua phỏng vấn kết hợp với số liệu của địa phương).




Nhóm biến một số bệnh lý và tình hình sử dụng thuốc cho trẻ

+ Bệnh lý răng miệng: mọc răng, sâu răng, loét miệng, đau họng[31].
+ Rối loạn tiêu hóa: được xác định là có rối loạn tiêu hóa nếu trẻ có một trong
những dấu hiệu: thường xuyên nôn ói trong bữa ăn, thường xuyên đau bụng, thường
xuyên đi cầu khó (táo bón) [7].
+ Dùng thuốc trị bệnh.
+ Dùng thuốc bổ, vitamin[19].
 Nhóm biến về tiền sử của trẻ:
+ Sinh non: trẻ được sinh ra khi chưa đủ 37 tuần tuổi thai là sinh non [33].
+ Cân nặng lúc sinh: <2500gram (thiếu cân hay nhẹ cân), ≥2500 gram (cân nặng
bình thường) [35].
+ Thời gian bú sữa mẹ hoàn toàn đúng 6 tháng[8], [33].
+ Thời điểm ăn dặm: trước tháng thứ 6, từ tháng thứ 6 trở đi. Theo khuyến cáo của
Tổ chức Y tế thế giới hiện nay, nên bắt đầu cho trẻ ăn bổ sung khi trẻ tròn 6 tháng tuổi
(tức tròn 180 ngày tuổi) [10].



Nhóm biến liên quan đến bữa ăn của trẻ


19

+ Số bữa ăn trong 1 ngày: tính cả bữa chính và bữa nhẹ hay phụ (bữa chính được
định nghĩa là: bữa sáng, bữa trưa và bữa chiều hay bữa tối; bữa phụ được định nghĩa là:
trái cây, sữa, bánh,…)[34].

+ Thời gian từ bữa ăn vặt tới bữa chính: ≤ 60phút, > 60 phút [34].
+ Ăn cùng gia đình: có hoặc không [16], [29].
+ Trẻ được tham gia vào quá trình chuẩn bị thức ăn với mẹ hoặc người chăm sóc:
trẻ được tự do chọn món ăn, chuẩn bị đồ ăn và dụng cụ ăn uống hoặc dọn dẹp sau bữa
ăn [4].



Nhóm biến về hành vi cho ăn của người chăm sóc chính:

+ Làm phân tâm trẻ khi cho ăn: cho trẻ xem tivi, chơi đồ chơi, đi vòng quanh hoặc
hứa cho phần thưởng [16], [19], [29].
+ Ép trẻ ăn: ép ăn khi trẻ từ chối hoặc ép trẻ ăn hết thức ăn trong đĩa [21].
+ Căng thẳng khi cho trẻ ăn[16].
+ Cho trẻ làm quen với thức ăn mới: <5 lần, ≥5 lần. Được định nghĩa là số lần mà
bà mẹ hoặc người chăm sóc cho trẻ ăn thử thức ăn mới cho đến khi họ quyết định là trẻ
không thích thức ăn đó và không cho trẻ ăn nữa[11].



Nhóm biến về ảnh hưởng của môi trường và gia đình trẻ:

+ Đi nhà trẻ hay trường mẫu giáo.
+ Người khác biếng ăn trong gia đình: có hay không được xác định qua phản hồi
của người trả lời phỏng vấn[16].
+ Người khác biếng ăn trong gia đình: bố, mẹ, ông, bà, anh chị hoặc em của trẻ.



Biến số biếng ăn

Trong nghiên cứu này, tình trạng biếng ăn ở trẻ được khảo sát theo hai cách:

+ Theo nhận định của người chăm sóc: sửdụng câu hỏi “Theo anh (chị) trẻ nhà
mình có biếng ăn không? ” với 3 lựa chọn “Có– Không– Không biết” 16].
Nếu trả lời là “Có” thì trẻ đó là biếng ăn theo nhận định của người chăm sóc.


20

+ Biếng ăn dựa theo tiêu chuẩn IMFeD của Hội Nhi khoa Việt Nam:
Sử dụng các câu hỏi từ câu B6 đến B10 (xem phần Phụ lục 1).
Trẻ được xem là biếng ăn nếu có biểu hiện của ít nhất 1 trong 5 dạng biếng ăn:
mải chơi quên ăn, kén chọn thức ăn, biếng ăn liên quan tới bệnh lý, sợ ăn, lãnh đạm
hay thờ ơ với thức ăn.Như vậy, nếu bố, mẹ hoặc người chăm sóc của trẻ “Chọn” ít nhất
1 trong 5 câu trên thì trẻ đó được đánh giá là biếng ăn theo tiêu chuẩnnày.
Riêng “biếng ăn do nhận định sai của người chăm sóc”, do cha, mẹ hoặc người
chăm sóc nhận định sai về tình trạng biếng ăn ở trẻ trong khi thể trạng và việc ăn uống
của chúng vẫn bình thường. Do đó, dạng trên không được xem là biếng ăn trong
nghiên cứu của chúng tôi.
Biếng ăn theo tiêu chuẩn này được sử dụng để phân tích tình hình biếng ăn và
khảo sát các yếu tố liên quan.
2.2.6. Xử lý số liệu



Nhập số liệu bằng phần mềm Epidata version 3.1.
Xử lý số liệu bằng chương trình Excel 2013 và phần mềm Thống kê y học SPSS

20: test Chi-square (χ2) và Student’s t-test được sử dụng để khảo sát mối liên quan giữa
một số yếu tố với tình trạng biếng ăn, kiểm định Hồi quy Logistic được thực hiện để

xác định mô hình các yếu tố có liên quan với biếng ăn và kiểm soát yếu tố nhiễu.
2.3. Đạo đức nghiên cứu


Các đối tượng đồng ý tham gia (bằng lời hoặc ký tên),đều được biết thông tin,

mục đích của nghiên cứu trước khi tham gia phỏng vấn.
 Tên của người trả lời phỏng vấn và trẻ em trong danh sách lập ra từ đối tượng
nghiên cứu được viết tắt, chỉ giữ chữ cái đầu chữ.
 Thông tin điều tra được mã hóa và chỉ sử dụng với mục đích nhằm tìm hiểu tỷ lệ
biếng ăn và yếu tố liên quan chứ không nhằm mục đích nào khác.
 Các thông tin của nghiên cứu chưa từng được công bố trên các tạp chí hay các
phương tiện khác.


21

CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu
3.1.1. Đặc điểm của trẻ
Bảng 3.1: Đặc điểm của trẻ được nghiên cứu
Đặc điểm

Số lượng

Tỷ lệ %

Giới


Nhóm tuổi (tháng)

Thứ hạng sinh
Anh, chị, em
Tổng
Trung bình tháng tuổi (± SD)
3.1.2. Đặc điểm của người trả lời phỏng vấn
Bảng 3.2: Đặc điểm của người trả lời phỏng vấn
Đặc điểm
Quan hệ với trẻ
Nhóm tuổi
Trình độ học vấn

Số lượng
Mẹ

Không phải mẹ
<25
25-35
>35
Cao
Trung bình

Tỷ lệ %


22

Thấp

Nông
Thủ công, buôn bán

Nghề nghiệp

CBCNVC
Nội trợ, khác

Kết hôn
Độc thân, ly dị, ly thân, góa
Tổng
3.2. Thực trạng biếng ăn ở trẻ
Tình trạng hôn nhân

3.2.1. Tỷ lệ biếng ăn

0.70%

Biếng ăn;
34.20%

41.30%
Không biếng
ăn; 65.80%

58.00%


Không biết


Không

Biếng ăn
Không biếng ăn

Biểu đồ 3.1: Tỷ lệ trẻ biếng ăn theo

Biểu đồ 3.2: Tỷ lệ trẻ biếng ăn theo tiêu

nhận định của phụ huynh vàngười

chuẩn dựa trên IMFeD

chăm sóc.
3.2.2. Các dạng biếng ăn theo IMFeD
Bảng 3.3: Tỷ lệ % các thể loại biếng ăn theo IMFeD
Thể loại biếng ăn theo IMFeD
Mải chơi quên ăn
Kén chọn thức ăn
Thờ ơ, lãnh đạm với thức ăn

Số lượng (n=137)

Tỷ lệ (%)


23

Liên quan đến bệnh lý
Sợ ăn

Bảng 3.4: Tỷ lệ %trẻ theo số dạng biếng ăn mà trẻ mắc
Số thể loại biếng ăn mà trẻ mắc

Số lượng (n=137)

Tỷ lệ (%)

1
2
3
4
5
Tổng
Trung bình số dạng (±SD)
3.3. Một số yếu tố liên quan với tình trạng biếng ăn ở trẻ
Bảng 3.5: Mối liên quan giữa đặc điểm chung của trẻ với tình trạng biếng ăn
Yếu tố liên quan đến biếng ăn

Biếng ăn
SL
%
72
31,7
65
37,6

Không biếng ăn
SL
%
155

68,3
108
62,4

p

Nam
>0,05
Nữ
12-<24
24-<36
Nhóm tuổi
36-<48
(tháng)
48-<60
60-<72
Con đầu
Thứ hạng sinh
Con thứ

Anh, chị, em
Không
Bảng 3.6: Mối liên quan giữa đặc điểm chung của người chăm sóc chính,gia đình với
Giới

tình trạng biếng ăn ở trẻ
Yếu tố liên quan đến biếng ăn
Quan hệ với trẻ

Mẹ

Khác mẹ

Biếng ăn
SL
%

Không biếng ăn
SL
%

p


24

Tuổi

Mức học vấn

Nghề nghiệp

<25
25-35
>35
Cao
Trung bình
Thấp
Nông
Thủ công, buôn bán
CBCNVC

Nội trợ, khác

Kết hôn
Tình trạng hôn
nhân
Ly dị, độc thân,góa
Nghèo, Cận nghèo
Kinh tế gia
đình
Khá, đủ ăn
Bảng 3.7: Mối liên quan giữa một số yếu tố bệnh lý và thuốc với biếng ăn
Yếu tố liên quan đến biếng ăn

Biếng ăn
SL
%

Không biếng ăn
SL
%

p


Không

Rối loạn tiêu hóa
Không

Dùng thuốc trị bệnh

Không

Dùng thuốc bổ,
vitamin
Không
Bảng 3.8: Mối liên quan giữa một số yếu tố về tiền sử với biếng ăn
Bệnh lý răng miệng

Yếu tố liên quan đến biếng ăn
Sinh non
Cân nặng lúc sinh
(gram)
Bú sữa mẹ hoàn toàn
6 tháng đầu
Thời điểm ăn dặm
(tháng)


Không
<2500
≥2500

Không
<6 tháng
≥6 tháng

Biếng ăn
SL
%


Không biếng ăn
SL
%

p


25

Bảng 3.9: Liên quan giữa số bữa ăn trong 1 ngày với biếng ăn
Số bữa ăn trong 1 ngày

Biếng ăn
n=137
Tỷ lệ %

Không biếng ăn
n=263
Tỷ lệ %

p

2
3
4
5
6
7
±SD (bữa)
Bảng 3.10: Mối liên quan giữa yếu tố về bữa ăn hiện tại của trẻ với biếng ăn

Yếu tố liên quan đến biếng ăn

Biếng ăn
SL
%

Không biếng ăn
SL
%

p

≤ 60 phút
> 60 phút

Ăn cùng gia đình
Không

Trẻ tham gia chuẩn bị
bữa ăn
Không
Bảng 3.11: Liên quan giữa hành vi cho ăn của người chăm sóc với biếng ăn
Ăn vặt trước bữa
chính

Yếu tố liên quan đến biếng ăn

Biếng ăn
SL
%


Không biếng ăn
SL
%

p


Không

Ép trẻ ăn
Không

Căng thẳng lúc cho ăn
Không
<5
Cho trẻ làm quen thức
5-12
ăn mới (lần)
≥ 12
Bảng 3.12: Mối liên quan giữa một số yếu tố khác với tình trạng biếng ăn
Làm phân tâm trẻ khi
cho ăn

Yếu tố liên quan đến biếng ăn

Biếng ăn
SL
%


Không biếng ăn
SL
%

p


×