BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
…………/…………
……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LÊ THỊ NGỌC LOAN
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BÌNH ĐẲNG
GIỚI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI
CHUYÊN NGÀNH
QUẢN LÝ CÔNG
MÃ SỐ: 60 34 4 03
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
TP. Hồ Chí Minh - 2017
Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Đinh Thị Minh Tuyết
Phản biện 1: TS. Nguyễn Thị Hường
Phản biện 2: TS. Trương Thij Minh Sâm
Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn
thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia.
Địa điểm: Phòng họp ....., Nhà A - Hội trường bảo vệ
luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia.
Số: 10 - Đường 3/2 - Quận 10 - TP. Hồ Chí Minh
Thời gian: vào hồi 16h00 ngày 18 tháng 7 năm 2017
Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành
chính Quốc gia hoặc trên trang Web Khoa Sau đại học,
Học viện Hành chính Quốc gia.
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn
Bình đẳng giới là một trong những biểu hiện cơ bản của trình độ phát triển xã hội, là cơ sở quan trọng
để phát huy năng lực và sự đóng góp của nam giới và nữ giới cho sự phát triển của nhân loại; bình đẳng giữa
nam giới và nữ giới là những điều kiện quan trọng để cả nam và nữ cùng thụ hưởng cuộc sống hạnh phúc,
vui vẻ và thành đạt. Bình đẳng nam nữ và nâng cao quyền năng cho phụ nữ được Tổ chức Liên Hiệp Quốc
xác định là một trong tám mục tiêu phát triển thiên niên kỷ. Điều đó cho thấy rằng bình đẳng giới đang dần
được quan tâm và trở thành vấn đề quan trọng để thực hiện mục tiêu giải phóng và phát triển con người của
mỗi quốc gia.
Ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định giải phóng phụ nữ và sự tiến bộ của phụ nữ có
ảnh hưởng trực tiếp và lâu dài tới sự phát triển của đất nước. Tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XI, Luật
Bình Đẳng giới, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực thi và thúc đẩy bình đẳng giới, trong đó quy định chức năng,
nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà nước đối với bình đẳng giới. Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc
thúc đẩy bình đẳng giới và đã đạt được những thành công nhất định, được các tổ chức quốc tế đánh giá cao.
Như vây, bình đẳng giới không chỉ là quan điểm, quy định được Nhà nước ta đặt ra từ rất sớm mà còn
thể hiện mục đích tôn chỉ và mục tiêu phát triển của đất nước. Tuy nhiên, trong thực tế, khoảng cách về giới
vẫn còn tồn tại. Phụ nữ vẫn bị đối xử bất bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống gia đình và xã hội. Tỷ lệ
phụ nữ nắm giữ vị trí lãnh đạo chủ chốt trong các cấp ủy Đảng, bộ máy nhà nước còn thấp, chưa tương xứng
với tiềm năng của phụ nữ. Bạo lực gia đình vẫn diễn ra nghiêm trọng mà nạn nhân chủ yếu là phụ nữ. Định
kiến giới vẫn còn là rào cản ngăn cản phụ nữ và nam giới tham gia vào các lĩnh vực trong đời sống xã hội.
Thực trạng đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân cơ bản là vai trò quản lý của nhà
nước chưa được đề cao đúng mức, chưa phát huy được hiệu quả.
Trong những năm qua, Đảng bộ và chính quyền tỉnh Đồng Nai đã thực hiện đạt và vượt một số chỉ
tiêu về bình đẳng giới. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều tồn tại hạn chế như: vẫn còn nhiều chỉ tiêu chưa đạt, tỷ lệ
cán bộ nữ tham gia lãnh đạo chưa đạt chỉ tiêu nghị quyết, chất lượng hoạt động Ban VSTBPN chưa đồng
đều, thiếu cán bộ chuyên trách, cán bộ thiếu kinh nghiệm, chế độ đãi ngỗ thấp, kinh phí và tài liệu tuyên
truyền chưa đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ, nhận thức về công tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ phụ
nữ ở một số cấp ủy, chính quyền địa phương, đơn vị chưa đúng mức, tư tưởng trọng nam giới, xem nhẹ vai
trò, vị trí, năng lực của phụ nữ vẫn còn tồn tại trong một bộ phận nhân dân. Những nguyên nhân đó đã ảnh
hưởng không nhỏ đến hiệu quả thực hiện mục tiêu bình đẳng giới trên địa bàn tỉnh.
Bình đẳng giới vừa là mục tiêu, vừa là cơ sở thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xây dựng xã hội ổn định,
phát triển bền vững theo xu thế hội nhập quốc tế, đồng thời từ thực tiễn quản lý nhà nước về bình đẳng giới
còn nhiều bất cập, học viên chọn đề tài Quản lý nhà nƣớc về bình đẳng giới trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
làm đề tài luận văn tốt nghiệp chương trình Thạc sĩ Quản lý công.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Bình đẳng giới là vấn đề được quan tâm từ rất sớm, nó được quan tâm nhiều ở khía cạnh như quyền
phụ nữ, nhiệm vụ, vai trò, trách nhiệm của phụ nữ, giải phóng phụ nữ hơn là quyền bình đẳng giữa nam và
nữ.
Đến nay, đã có nhiều tài liệu nghiên cứu về bình đẳng giới và quản lý nhà nước về bình đẳng giới. Các
công trình nghiên cứu và các bài viết trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh của vấn đề bình đẳng giới, bao gồm
khía cạnh quản lý nhà nước về bình đẳng giới. Tuy nhiên, các công trình này chủ yếu tập trung vào vấn đề
bình đẳng giới ở một số lĩnh vực như, lao động, việc làm, lĩnh vực gia đình, lĩnh vực chính trị, lĩnh vực y tế.
1
Đối tượng nghiên cứu của phần lớn các công trình này là các mục tiêu của bình đẳng giới và vai trò của phụ
nữ trong quản lý nhà nước, trong đó vai trò quản lý nhà nước chỉ được xem là một trong số các giải pháp
được khuyến nghị.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài luận văn góp phần hoàn thiện quản lý nhà nước về bình đẳng giới tại tỉnh
Đồng Nai.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Hệ thống lý luận cơ bản về bình đẳng giới và quản lý nhà nước về bình đẳng giới.
- Phân tích thực trạng quản lý nhà nước về bình đẳng giới tại tỉnh Đồng Nai.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về bình đẳng giới tại tỉnh Đồng Nai.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Quản lý nhà nước về bình đẳng giới trên địa bàn cấp tỉnh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Phạm vi về nội dung: tập trung nghiên cứu các nội dung quản lý nhà nước về bình đẳng giới trên địa
bàn cấp tỉnh.
+ Phạm vi về không gian: trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
+ Phạm vi về thời gian: phân tích và đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về bình đẳng giới trên địa
bàn tỉnh Đồng Nai từ năm 2011 đến năm 2016; đề xuất giải pháp trong giai đoạn tới.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Nghiên cứu đề tài luận văn dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác – Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về bình
đẳng giới.
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp
+ Phương pháp thống kê, thu thập và sử lý số liệu thống kê.
+ Phương pháp phân tích.
+ Phương pháp tổng hợp.
+ Phương pháp so sánh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Về mặt lý luận
Luận văn đã hệ thống hóa được lý luận cơ bản về bình đẳng giới và quản lý nhà nước về bình đẳng
giới. Đây là cơ sở cho những nghiên cứu thực tiễn quản lý nhà nước về bình đẳng giới ở các địa phương.
6.2. Về mặt thực tiễn
Luận văn đã phân tích và đánh giá được thực trạng quản lý nhà nước về bình đẳng giới trên địa bàn
tỉnh Đồng Nai, xác định những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế. Đồng thời luận
văn đề ra những giải pháp thiết thực góp phần hoàn thiện quản lý nhà nước về bình đẳng giới tại tỉnh Đồng
Nai.
2
Các giải pháp của luận văn sẽ góp phần tích cực vào việc nâng cao vai trò và hiệu quả quản lý nhà
nước về bình đẳng giới trên địa bàn tỉnh Đồng Nai; góp phần giúp cho chính quyền địa phương và cho tổ
chức Hội LHPN tỉnh thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.
7/ Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung chính, luận văn có cấu
trúc 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận quản lý nhà nước về bình đẳng giới cấp tỉnh
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về bình đẳng giới trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về bình đẳng giới trên địa bàn tỉnh
Đồng Nai.
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI TRÊN ĐỊA BÀN CẤP TỈNH
1.1. Khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài luận văn
1.1.1. Bình đẳng giới
Khái niệm bình đẳng giới
Theo luật bình đẳng giới, “bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều
kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như
nhau về thành quả của sự phát triển đó”.
Bình đẳng giới bao hàm bình đẳng về quyền, bình đẳng về cơ hội tiếp cận và kiểm soát nguồn lực,
bình đẳng về thụ hưởng những thành quả và lợi ích, bình đẳng giới không đơn thuần là nam giới làm việc gì
thì nữ giới cũng phải làm như nam giới và ngược lại. Bình đẳng giới luôn xét đến khía cạnh khác biệt về mặt
sinh học giữa nam và nữ, tôn trọng sự khác biệt này chính là tạo cơ hội, điều kiện thực hiện bình đẳng giới.
Nội dung bình đẳng giới
Được Luật bình đẳng giới quy định nội dung bình đẳng giới được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội và gia đình, cụ thể là: Bình đẳng trong lĩnh vực chính trị; Bình đẳng giới trong lĩnh vực
kinh tế; Bình đẳng giới trong lĩnh việc làm; Bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo; Bình đẳng
giới trong lĩnh vực khoa học công nghệ; Bình đẳng giới trong lĩnh vực văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao;
Bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế; Bình đẳng giới trong lĩnh vực gia đình.
Vai trò bình đẳng giới
Bình đẳng giới vừa là mục tiêu của sự phát triển vừa là yếu tố để nâng cao khả năng tăng trưởng
của mỗi quốc gia, xóa đói giảm nghèo và quản lý nhà nước có hiệu quả. Quyền con người là quyền tự nhiên,
được quy định tại Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, do đó Nhà nước cần phải thừa
nhận, tôn trọng và cam kết bảo đảm, bảo vệ quyền đó. Quyền phụ nữ, quyền bình đẳng giới là một nội dung
cơ bản của quyền con người, thể hiện giá trị nhân văn cao cả, đồng thời là những giá trị chính trị, pháp quyền
đáng trân trọng.
Thực hiện bình đẳng giới không chỉ là một quyền cơ bản của con người mà còn mang lại những
đóng góp to lớn vào những thành tựu kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng an ninh. Do vậy, việc thực hiện
bình đẳng giới có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao vị trí, vai trò của phụ nữ và nam giới, tạo điều kiện
để cả phụ nữ và nam giới phát huy năng lực và đóng góp cho sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia;
góp phần thực hiện quyền con người, đặc biệt là nâng cao quyền cho phụ nữ tiếp thêm năng lượng cho các
nền kinh tế đang đà phát triển, nâng cao năng suất, thúc đẩy tăng trưởng và xóa bỏ mọi đói nghèo.
3
1.1.2. Quản lý nhà nước về bình đẳng giới
Khái niệm quản lý nhà nước về bình đẳng giới
Quản lý là sự điều khiển, chỉ đạo một hệ thống hay một quá trình, căn cứ vào những quy luật hay
nguyên tắc tương ứng cho hệ thống hay quá trình ấy vận động theo ý muốn của người quản lý nhằm đạt được
mục đích đặt ra từ trước; là sự tác động có mục đích đã được đề ra theo đúng ý chí của chủ thể quản lý đối
với các đối tượng chịu sự quản lý, theo đúng mong muốn của người quản lý.
Quản lý nhà nước là quản lý xã hội mang tính quyền lực nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước để
điều chỉnh các quan hệ xã hội chủ yếu và quan trọng của con người. Quản lý nhà nước được thực hiện bởi
toàn bộ hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước nhằm thực hiện chức năng đối nội đối ngoại của
nhà nước.
Quản lý nhà nước về bình đẳng giới là sự tác động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong
lĩnh vực bình đẳng giới nhằm đạt mục tiêu bình đẳng giới. Các cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước về
bình đẳng giới được quy định trong Luật bình đẳng giới, nghị định thi hành Luật bình đẳng giới và một số
văn bản quy phạm pháp luật khác.
Quản lý nhà nước về bình đẳng giới được thực hiện ở 4 cấp: Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp
xã. Mỗi cấp có chức năng, nhiệm vụ nhất định đối với việc thực hiện bình đẳng giới, qua đó hình thành hệ
thống bộ máy quản lý nhà nước về bình đẳng giới trong cả nước.
Chủ thể quản lý nhà nước về bình đẳng giới
Chủ thể quản lý nhà nuớc là các tổ chức hay các cá nhân mang quyền lực nhà nước trong quá trình
tác động đến đối tượng quản lý. Chủ thể quản lý nhà nước bao gồm: các cơ quan nhà nước, các tổ chức nhà
nước và cá nhân được nhà nước ủy quyền thực hiện quyền quản lý nhà nước.
Quản lý nhà nước về bình đẳng giới cấp Trung ương là Bộ Lao động thương binh xã hội, ở cấp địa
phương là ủy ban nhân dân các cấp (tỉnh, huyện, xã).
1.2. Nội dung quản lý nhà nƣớc về bình đẳng giới
1.2.1. Nội dung quản lý nhà nước về bình đẳng giới cấp trung ương
Một là, xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược bình đẳng giới
Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới là một bộ phận cấu thành quan trọng của chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước, là cơ sở nền tảng của chiến lược phát triển con người của Đảng và Nhà nước.
Công tác bình đẳng giới là một trong những yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người,
từng gia đình và toàn xã hội.
Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2351/QĐ-TTg ngày 24/12/2010 về việc phê duyệt
Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 – 2020 với 07 mục tiêu: tăng cường sự tham gia của
phụ nữ vào các vị trí quản lý, lãnh đạo, nhằm từng bước giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị;
giảm khoảng cách giới trong lĩnh vực kinh tế, lao động, việc làm; tăng cường sự tiếp cận của phụ nữ nghèo ở
nông thôn, phụ nữ người dân tộc thiểu số đối với các nguồn lực kinh tế, thị trường lao động; nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực nữ, từng bước bảo đảm sự tham gia bình đẳng giữa nam và nữ trong lĩnh vực giáo dục
và đào tạo; bảo đảm bình đẳng giới trong tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe; bảo đảm
bình đẳng giới trong lĩnh vực văn hóa và thông tin; bảo đảm bình đẳng giới trong đời sống gia đình, từng
bước xóa bỏ bạo lực trên cơ sở giới; nâng cao năng lực quản lý nhà nước về bình đẳng giới.
Hai là, xây dựng và tổ chức thực hiện thể chế và chính sách về bình đẳng giới
4
Thể chế bao gồm toàn bộ các cơ quan Nhà nước với hệ thống quy định do Nhà nước xác lập trong
hệ thống văn bản pháp luật của Nhà nước và được Nhà nước sử dụng để điều chỉnh và tạo ra các hành vi và
mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân, các tổ chức nhằm thiết lập kỷ cương xã hội.
Chính sách là tập hợp các chủ trương, các biện pháp khuyến khích đối tượng phụ thuộc vào chính
sách nhằm đạt được mục đích của chủ thể ra chính sách.
Vai trò là một tập hợp các chuẩn mực, hành vi, quyền lợi và nghĩa vụ được gắn liền với một vị thế
xã hội nhất định.
Các loại thể chế bình đẳng giới, gồm các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban Trung ương mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội, UBND các cấp, trong đó cấp trung ương thì Bộ LĐTBXH là
cơ quan tham mưu chính, cấp tỉnh là Sở LĐTBXH, cấp huyện là phòng LĐTBXH huyện.
Chính sách bình đẳng giới, quy định tại điều 7 của Luật Bình đẳng giới quy định 5 chính sách cơ
bản của Nhà nước bao gồm: bảo đảm bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và
gia đình; hỗ trợ và tạo điều kiện cho nam, nữ phát huy khả năng, có cơ hội như nhau để tham gia vào quá
trình phát triển và thụ hưởng thành quả của sự phát triển; bảo vệ, hỗ trợ người mẹ khi mang thai, sinh con và
nuôi con nhỏ; tạo điều kiện để nam, nữ chia sẻ công việc gia đình; áp dụng những biện pháp thích hợp để xoá
bỏ phong tục, tập quán lạc hậu cản trở thực hiện mục tiêu bình đẳng giới; khuyến khích cơ quan, tổ chức, gia
đình, cá nhân tham gia các hoạt động thúc đẩy bình đẳng giới; hỗ trợ hoạt động bình đẳng giới tại vùng sâu,
vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn; hỗ trợ
những điều kiện cần thiết để nâng chỉ số phát triển giới đối với các ngành, lĩnh vực và địa phương mà chỉ số
phát triển giới thấp hơn mức trung bình của cả nước.
Việc xây dựng chính sách và ban hành các văn bản quản lý nhà nước về bình đẳng giới có ý nghĩa
quan trọng trong việc tạo hành lang pháp lý đề thực hiện công tác quản lý nhà nước về bình đẳng giới.
Ba là, kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về bình đẳng giới
Hoạt động quản lý nhà nước về bình đẳng giới là một hoạt động với phạm vi rộng lớn, liên quan đến
nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Vì vậy để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động bình đẳng giới
cần hoàn thiện, thường xuyên kiện toàn bộ máy quản ký nhà nước về bình đẳng giới, nâng cao năng lực điều
tra và nắm số liệu về giới, tăng cường công tác tổ chức nhân sự, cơ sở vật chất kỹ thuật và đẩy mạnh công
tác phối hợp giữa cơ quan chủ trì và các cơ quan, đơn vị liên quan nhằm thực hiện hiệu quả các mục tiêu
bình đẳng giới, đáp ứng yêu cầu phát triển và xu hướng hội nhập của đất nước.
Bốn là, phát triển đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về bình đẳng giới
Bố trí đủ cán bộ quản lý và thực hiện nhiệm vụ làm công tác bình đẳng giới ở các cấp; hình thành
đội ngũ cộng tác viên, tình nguyện viên tham gia công tác bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ ở cấp xã,
phường, thị trấn, đặc biệt ở khu phố, xóm, ấp cụm dân cư. Xây dựng mạng lưới chuyên gia về giới trên các
lĩnh vực của đời sống xã hội.
Năm là, hỗ trợ và huy động nguồn lực tài chính thực hiện mục tiêu bình đẳng giới
Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính cho công tác bình đẳng giới; chi ngân sách
nhà nước cho công tác bình đẳng giới theo phân cấp ngân sách nhà nước hiện hành; ưu tiên nguồn lực cho
những ngành, vùng, khu vực có bất bình đẳng giới hoặc có nguy cơ cao về bất bình đẳng giới, vùng nông
thôn, vùng nghèo, vùng miền núi còn nhiều tập tục lạc hậu, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Sáu là, thanh tra, kiểm tra, tổng kết, đánh giá việc thực hiện mục tiêu bình đẳng giới
Công tác thanh tra, giám sát thực hiện bình đẳng giới được quy định tại Luật bình đẳng giới cũng
như trong chiến lược quốc gia về bình đẳng giới. Theo đó, thường xuyên, tăng cường kiểm tra, đánh giá tình
5
hình thực hiện pháp luật về bình đẳng giới. Xây dựng cơ chế phối hợp liên ngành để thực hiện có hiệu quả
công tác bình đẳng giới.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra tình hình thực hiện các quy định của pháp luật về bình đẳng
giới, trước hết là quy định về độ tuổi đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, bổ nhiệm. Tăng cường kiểm tra việc thực
hiện các chính sách đối với lao động nữ nhằm bảo đảm tính hiệu quả, công bằng trong chính sách đào tạo
nghề, bảo hiểm xã hội, bảo hộ lao động và chế độ nghỉ hưu.
Tổ chức sơ, tổng kết hàng năm và giai đoạn 5 năm thực hiện chiến lược quốc gia, chương trình hành
động bình đẳng giới để đánh giá những mặt làm được, những hạn chế, chưa làm được, rút ra bài học kinh
nghiệm và xây dựng các giải pháp thực hiện trong thời gian tới.
1.2.2. Nội dung quản lý nhà nước về bình đẳng giới cấp tỉnh
Thứ nhất, xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược bình đẳng giới cấp tỉnh
Trên tinh thần Hiến pháp, Luật bình đẳng giới và các văn bản quy phạm pháp luật về bình đẳng
giới của Trung ương, tỉnh đã xây dựng và ban hành nhiều văn bản nhằm thực hiện bình đẳng giới như:
Tỉnh ủy ban hành Nghị quyết số 07–NQ/TU ngày 28/11/2007 về thực hiện Nghị quyết số 11NQ/TƯ về “công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” nhằm xác định các
mục tiêu, chỉ tiêu và giải pháp cụ thể để xây dựng tổ chức Hội LHPN ngày càng vững mạnh và xây dựng đội
ngũ cán bộ nữ ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ đặt ra.
UBND tỉnh ban hành các kế hoạch: Kế hoạch số 9521/KH-UBND ngày 19/11/2010; Kế hoạch số
3910/KH-UBND ngày 10/6/2011 về việc thực hiện Chiến lược Quốc gia về bình đẳng giới tỉnh Đồng Nai
giai đoạn 2011-2015; Quyết định số 3020/QĐ-UBND ngày 15/11/2011 về phê duyệt Chương trình hành
động về Bình đẳng giới tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2011-2015.
Thứ hai, xây dựng và tổ chức thực hiện thể chế và chính sách về bình đẳng giới cấp tỉnh
Căn cứ Luật bình đẳng giới, các Nghị định, chiến lược, chương trình về bình đẳng giới của Chính
phủ. UBND cấp tỉnh cụ thể hóa thành chỉ thị, đề án, các chương trình hành động, kế hoạch thực hiện mục
tiêu bình đẳng giới.
Ngoài ra, UBND tỉnh cũng đã ban hành một số Đề án, Chiến lược liên quan đến lĩnh vực bình đẳng
giới như Đề án can thiệp giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh giai đoạn 2011-2015; Đề án 343 về
tuyên truyền, giáo dục phẩm chất, đạo đức phụ nữ Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước giai đoạn 2011-2015; Đề án 295 về dạy nghề cho lao động nông thôn; Chiến lược phát triển gia
đình Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030; Kế hoạch phòng chống bạo lực gia đình tỉnh Đồng
Nai giai đoạn 2011-2015, Kế hoạch thực hiện công tác bình đẳng giới hàng năm. Các văn bản này trước khi
ban hành đã được lấy ý kiến của Sở LĐTBXH, Hội LHPN tỉnh, các sở ban ngành, đoàn thể chính trị - xã hội
để đảm bảo yếu tố lồng ghép giới trong các lĩnh vực lao động, y tế, văn hóa, gia đình nhằm hướng đến mục
tiêu bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực.
Thứ ba, kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về bình đẳng giới cấp tỉnh
Công tác kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về Bình đẳng giới cấp tỉnh được thực hiện theo đúng
quy định, hướng dẫn của Trung ương; cấp tỉnh có Ban VSTBPN, đồng thời thường xuyên, kịp thời kiện toàn
thành viên Ban VSTBPN tỉnh khi nhân sự thay đổi; đảm bảo nhân sự làm việc ở phòng bình đẳng giới trực
thuộc Sở LĐTBXH tỉnh.
Thứ tư, phát triển đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về bình đẳng giới cấp tỉnh
Đội ngũ cán bộ, công chức trong mỗi cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đóng một vai trò
quan trọng trong việc thực hiện hiệu quả công việc.
6
Ở cấp tỉnh, huyện Phó Chủ tịch UBND tỉnh phụ trách khối văn hóa - xã hội chịu trách nhiệm quản
lý về bình đẳng giới, ngành LĐTBXH chịu trách nhiệm triển khai công tác bình đẳng giới. Ở cấp xã, Phó
Chủ tịch UBND xã phụ trách khối văn hóa – xã hội chịu trách nhiệm quản lý về bình đẳng giới trên địa bàn
xã, một nhân sự kiêm nhiệm trực tiếp thực hiện công tác bình đẳng giới, nhân viên này có thể là công chức
văn hóa – xã hội hoặc là nhân viên phụ trách công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em hoặc cán bộ Hội LHPN xã.
Đội ngũ cộng tác viên công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em và bình đẳng giới tại các khu, ấp trên địa
bàn tỉnh được thành lập theo quyết định của UBND tỉnh.
Ngoài ra, các cơ quan, sở, ban, ngành, đoàn thể có trách nhiệm phối hợp thực hiện bình đẳng giới
đều phân công nhân sự kiêm nhiệm theo dõi công tác này ở cơ quan, đơn vị. Họ đồng thời là thành viên của
Ban VSTBPN ở cấp tương đương.
Thứ năm, hỗ trợ và huy động nguồn lực tài chính thực hiện mục tiêu bình đẳng giới cấp tỉnh
Nguồn kinh phí thực hiện mục tiêu bình đẳng giới cấp tỉnh được bố trí từ các nguồn: ngân sách
trung ương cấp, ngân sách tỉnh bố trí và các khoản viện trợ, tài trợ của các chương trình quốc tế; huy động từ
xã hội, cộng đồng và các nguồn kinh phí khác.
Thứ sáu, thanh tra, kiểm tra, tổng kết, đánh giá việc thực hiện bình đẳng giới cấp tỉnh
Thanh tra, kiểm tra, giám sát là công việc cần thiết để đánh giá tình hình hoạt động, nhận xét ưu
điểm, hạn chế hoặc biểu dương, khen thưởng các đơn vị được thanh tra, kiểm tra, giám sát nhằm có kế
hoạch, biện pháp thúc đẩy các đơn vị, cơ quan thực hiện tốt hơn.
Hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát còn thể hiện sự quan tâm của lãnh đạo tỉnh đối với công tác
bình đẳng giới.
1.3. Sự cần thiết quản lý nhà nƣớc về bình đẳng giới cấp tỉnh
1.3.1. Định hướng mục tiêu bình đẳng giới cấp tỉnh
Định hướng mục tiêu bình đẳng giới cấp tỉnh nhằm thực hiện đảm bảo theo các mục tiêu, chỉ tiêu
Chính phủ đề ra về công tác bình đẳng giới, góp phần đạt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ cấp tỉnh về
công tác phụ nữ, công tác cán bộ nữ. Đảm bảo quyền của phụ nữ trong tham gia hoạt động lập pháp, hoạch
định chiến lược phát triển đất nước; xây dựng chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, góp phần đảm
bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương.
Bên cạnh đó, đảm bảo quyền của phụ nữ trong tham gia quản lý nhà nước. Đảm bảo cho phụ nữ tham
gia lãnh đạo, quản lý các cơ quan nhà nước ở các cấp theo Điều 28 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 2013.
1.3.2. Điều chỉnh hoạt động bình đẳng giới cấp tỉnh
Cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước sẽ rà soát văn bản quy phạm pháp luật hiện hành để
sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, ban hành mới theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung,
hủy bỏ, ban hành mới văn bản quy phạm pháp luật nhằm bảo đảm bình đẳng giới trong lĩnh vực mà mình
quản lý.
Đồng thời nghiên cứu, kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành biện pháp thúc đẩy bình
đẳng giới; Phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới đánh giá thực trạng bình đẳng giới trong
lĩnh vực mà mình quản lý; thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật và giải quyết khiếu nại, tố cáo về bình
đẳng giới.
Nghị quyết số 11-NQ/TƯ ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị nêu rõ “công tác phụ nữ phải sát hợp với
từng đối tượng, vùng miền, phát huy được tinh thần làm chủ, tiềm năng, sức sáng tạo và khả năng đóng góp
cao nhất của các tầng lớp phụ nữ, góp phần tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để phát triển đất
7
nước; đồng thời phải chăm lo cho phụ nữ tiến bộ về mọi mặt, quan tâm đầy đủ quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đánh để phụ nữ có điều kiện thực hiện tốt vai trò người công dân, người lao động, người mẹ, người
thầy đầu tiên của con người” [1, tr.3].
1.3.3. Hỗ trợ và tạo điều kiện cho hoạt động bình đẳng giới cấp tỉnh
Trong hoạt động, cơ quan nhà nước sẽ có trách nhiệm xác định thực trạng bình đẳng giới, xây dựng và
bảo đảm thực hiện mục tiêu bình đẳng giới trong cơ quan, tổ chức mình và có báo cáo hằng năm; Bảo đảm
sự tham gia của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động nam, nữ trong xây dựng, thực thi pháp luật,
chương trình, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; Giáo dục về giới và pháp luật về bình đẳng
giới cho cán bộ, công chức, viên chức, người lao động do mình quản lý; Có biện pháp khuyến khích cán bộ,
công chức, viên chức, người lao động thực hiện bình đẳng giới trong cơ quan, tổ chức và gia đình; Tạo điều
kiện phát triển các cơ sở phúc lợi xã hội, các dịch vụ hỗ trợ nhằm giảm nhẹ gánh nặng lao động gia đình.
1.3.4. Đảm bảo bình đẳng giới được thực hiện trong các lĩnh vực của đời sống xã hội
Các lĩnh vực của đời sống xã hội như trong lao động, việc làm và thu nhập; trong nông nghiệp và phát
triển nông thôn; trong xây dựng đô thị văn minh; trong y tế; trong đào tạo, bồi dưỡng, học tập; trong cơ hội,
điều kiện thăng tiến trong công việc; trong lĩnh vực văn hóa thông tin, thể dục thể thao, du lịch và trong gia
đình. Từ năm 1986 đến nay Nhà nước ta đã ban hành trên 40 luật, bộ luật có liên quan đến vấn đề phụ nữ và
bình đẳng giới.
Bên cạnh đó, từ năm 2011 đến năm 2015 đã có 63 văn bản quy phạm pháp luật có lồng ghép vấn đề
bình đẳng giới. Ngoài ra, các văn bản quy phạm pháp luật của các địa phương, bộ, ban ngành trung ương khi
xây dựng và ban hành phải có lồng ghép giới.
1.4. Yếu tố tác động đến quản lý nhà nƣớc về bình đẳng giới cấp tỉnh
1.4.1. Yếu tố chính trị và pháp lý
Đây là yếu tố quan trọng, tiên quyết cho mục tiêu bình đẳng giới được thực hiện có hiệu quả. Đảng và
Nhà nước luôn quan tâm đến vấn đề bình đẳng nam nữ và đảm bảo để phụ nữ được tham gia các mặt của đời
sống xã hội.
Bình đẳng về chính trị là nội dung đầu tiên của bình đẳng giới, vì vậy quốc gia có một nền chính trị ổn
định, thể chế pháp lý đầy đủ sẽ quyết định hiệu quả, kết quả thực hiện bình đẳng giới của quốc gia.
Nếu chế độ chính trị bất ổn, cơ chế pháp lý không ổn định, thường xuyên thay đổi thì công tác bình
đẳng giới khó mà triển khai đồng bộ, hiệu quả, thậm chí không thể triển khai thực hiện.
Trong thời kỳ đổi mới, chủ trương về công tác phụ nữ và bình đẳng giới được thể hiện xuyên suốt
trong các văn kiện, chỉ thị, nghị quyết của Đảng, đặc biệt, Đảng luôn chú trọng đến vấn đề xây dựng đội ngũ
cán bộ nữ tương xứng với lực lượng phụ nữ trong xã hội, có phẩm chất, trình độ và năng lực tham gia mọi
lĩnh vực của đời sống.
1.4.2. Điều kiện phát triển kinh tế, xã hội, môi trường của tỉnh
Điều kiện phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường của tỉnh là yếu tố tác động đến việc triển khai
thực hiện bình đẳng giới, ở từng mặt có những tác động tích cực hoặc tiêu cực cụ thể. Nếu điều kiện kinh tế,
xã hội phát triển kéo theo nhận thức, trình độ của người dân được nâng lên, từ đó việc thực hiện bình đẳng
được thực hiện ở các lĩnh vực như hoạt động quản lý kinh doanh, giáo dục đào tạo, tham gia các hoạt động
văn hóa, thông tin thể thao, tiếp cận và sử dụng các nguồn thông tin, chăm sóc sức khỏe.
Điều kiện về môi trường, bao gồm môi trường bên ngoài và môi trường bên trong.
1.4.3. Nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất
8
Nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất là một trong những yếu tố tác động và quyết định đến hiệu quả
công tác quản lý nhà nước về bình đẳng giới cấp tỉnh. Nếu nguồn lực tài chính không đảm bảo thì cũng khó
mà đảm bảo thực hiện quản lý nhà nước về bình đẳng giới đạt hiệu quả cao, theo kế hoạch, chương trình đã
đề ra.
1.4.4. Năng lực và kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ quản lý và thực hiện chuyên môn về bình đẳng
giới
Năng lực, kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn của đội ngũ cán bộ quản lý và thực hiện chuyên môn làm
công tác quản lý nhà nước về bình đẳng giới là một trong những yếu tố quan trọng và quyết định việc triển
khai, tổ chức thực hiện cũng như hiệu quả công tác bình đẳng giới bình đẳng giới. Tất cả các Luật, quy định,
hướng dẫn thực hiện đều từ con người mà ra, đều do đội ngũ cán bộ, công chức đề xuất, thực hiện, kiểm tra,
đánh giá.
Cùng một chủ trương, nghị quyết, nội dung nếu cán bộ quản lý và thực hiện chuyên môn về bình đẳng
giới có năng lực, kinh nghiệm và trách nhiệm thực hiện thì hiệu quả sẽ cao, và ngược lại nếu cán bộ quản lý
và thực hiện chuyên môn về bình đẳng giới năng lực yếu, không có kinh nghiệm, thiếu trách nhiệm thì chủ
trương, nội dung đó khi triển khai thực hiện hiệu quả sẽ không cao, thậm chí không thể triển khai thực hiện.
1.4.5. Xu hướng phát triển của xã hội và thời đại
Bình đẳng giới là một mục tiêu quan trọng cần hướng đến không chỉ của Việt Nam, mà của các nước
trên thế giới, là một trong những tiêu chí đánh giá sự phát triển của một xã hội. Nhiều năm qua, chính phủ
nhiều nước trên thế giới đã nỗ lực để mang lại bình đẳng giới cho con người, để con người thật sự được sống
trong một xã hội văn minh, phát triển bền vững, nhân văn.
Bình đẳng giới là một trong các yếu tố để xác định một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI
2.1. Khái quát về điều kiện phát triển của tỉnh Đồng Nai
2.1.1. Điều kiện tự nhiên và dân số tỉnh Đồng Nai
Đồng Nai là tỉnh thuộc miền Đông Nam bộ, là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có
diện tích 5.903,940 km2, chiếm 1,76% diện tích tự nhiên của cả nước và chiếm 25,5% diện tích tự nhiên của
vùng Đông Nam bộ. Dân số đến cuối năm 2016 ước là 3.110.000 người, trong đó nữ là 1.492.830 người
chiếm 51,3%; số người trong độ tuổi lao động là 2.019.540 người, trong đó lao động nữ chiếm 47,8%. Có 37
thành phần dân tộc thiểu số sinh sống với 189.098 người.
Tỉnh Đồng Nai có mười một đơn vị hành chính trực. Toàn tỉnh có 171 xã, phường, thị trấn. Đến cuối
năm 2016, toàn tỉnh có 5 huyện, 93 xã đạt chuẩn nông thôn mới.
2.1.2. Điều kiện kinh tế tỉnh Đồng Nai
Nền kinh tế tỉnh Đồng Nai duy trì tốc độ tăng trưởng cao; chuyển dịch cơ cấu đúng định hướng đó là
giảm nhẹ ngành công nghiệp – xây dựng và phát triển mạnh các ngành dịch vụ; từng bước hoàn thiện kết cấu
hạ tầng kinh tế xã hội thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo cơ sở vững chắc cho sự phát
triển của tỉnh; quan tâm đầu tư phát triển sản xuất, đầu tư hệ thống hạ tầng kinh tế kỹ thuật, đặc biệt là đầu tư
các công trình trọng điểm, quan trọng, đầu tư cho nông thôn, hạ tầng đô thị; hoạt động tài chính, tín dụng ổn
định.
9
Hiện Đồng Nai có 36 khu công nghiệp được Thủ tướng phê duyệt, trong đó có 32 khu công nghiệp đã
đi vào hoạt động, thu hút 1.389 dự án (trong đó 1.211 dự án đang hoạt động), thu hút trên 970.000 lao động
làm việc. Toàn tỉnh có 24.693 doanh nghiệp với tổng vốn đăng ký đầu tư là 145.154 tỷ đồng.
Tổng sản phẩm trên địa bàn GRDP năm 2016 tăng 8,2% so với năm 2015; Quy mô GRDP theo giá
thực tế năm 2015 đạt 194 nghìn tỷ đồng (tương đương 9 tỷ USD), tăng gấp 2,55 lần so với năm 2010. GRDP
bình quân đầu người theo giá thực tế năm 2015 trên 66 triệu đồng, tương đương trên 3.000 USD; tỷ lệ lao
động qua đào tạo năm 2015 đạt trên 65%, trong đó đào tạo nghề trên 50%; mức giảm tỷ lệ hộ nghèo bình
quân mỗi năm từ 1-1,5% theo chuẩn nghèo hiện hành của tỉnh, đến cuối năm 2015 tỷ lệ hộ nghèo (chuẩn của
tỉnh giai đoạn 2011-2015) còn dưới 1%; thu nhập bình quân đầu người năm 2016 đạt 77,3 triệu đồng/năm.
2.1.3. Điều kiện xã hội tỉnh Đồng Nai
Đồng Nai có nhiều di tích lịch sử, văn hoá và các điểm du lịch có tiềm năng. Đồng Nai có nghề nghiệp
truyền thống nổi tiếng là gốm sứ. Sản phẩm gốm sứ của Đồng Nai có nhiều loại và không giống như các sản
phẩm gốm sứ truyền thống khác ở miền Bắc và miền Trung.
Kinh tế phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của đời sống xã hội; Công tác quản lý tài
nguyên và bảo vệ môi trường được tăng cường, tình trạng ô nhiễm môi trường ở một số nơi được ngăn chặn
và có bước phục hồi; các biện pháp bảo đảm an sinh xã hội được thực hiện một cách đồng bộ, tập trung thực
hiện công tác giải quyết việc làm, đào tạo nghề, nhất là đào tạo nghề lao động nông thôn, giảm tỷ lệ thất
nghiệp ở khu vực thành thị, giảm tỷ lệ hộ nghèo, từng bước cải thiện đời sống nhân dân; công tác đền ơn đáp
nghĩa được đặc biệt chú trọng; công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân được quan tâm đầu tư cơ sở vật chất,
nguồn nhân lực góp phần nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, cải thiện sưc khỏe nhân dân.
Các lĩnh vực khoa học - công nghệ, giáo dục và đào tạo, y tế, văn hóa - xã hội phát triển tương đối
nhanh; hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao luôn được quan tâm đầu tư; công tác phòng, chống tội
phạm và tệ nạn xã hội, trật tự an toàn giao thông đạt kết quả tốt. Đời sống nhân dân không ngừng được cải
thiện. Quốc phòng, an ninh được giữ vững, ổn định; cải cách tư pháp được đẩy mạnh; công tác phòng chống
tham nhũng, lãng phí đạt được những kết quả nhất định trong việc ngăn chặn và xử lý tham nhũng.
2.2. Thực trạng bình đẳng giới trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
2.2.1. Bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị
Đội ngũ cán bộ nữ từ tỉnh đến cơ sở thường xuyên được tạo điều kiện về đào tạo, bồi dưỡng để nâng
cao nhận thức chính trị và năng lực chuyên môn, trình độ quản lý nhà nước, quản lý kinh tế. Công tác cán bộ
nữ luôn được Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh quan tâm chỉ đạo, tổ chức thực hiện, đã đạt được những kết quả
vượt bậc, từng bước làm chuyển biến nhận thức về công tác cán bộ nữ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa của lãnh đạo tỉnh như Hướng dẫn số 01-HD/TU ngày 22/01/2013 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy (khóa
IX) về quy hoạch cán bộ, lãnh đạo, quản lý nhiệm kỳ 2015 - 2020 và những năm tiếp theo, xác định „„đảm
bảo tỷ lệ cán bộ nữ không dưới 20% trong quy hoạch cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy và ban lãnh đạo các sở,
ban, ngành, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể các cấp‟‟; Ban Thường vụ Tỉnh ủy (khóa IX) ban hành Chỉ thị
số 13-CT/TU ngày 04/4/2013 về triển khai thực hiện Kết luận số 55-KL/TW của Ban Bí thư Trung ương
Đảng về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa X về "công tác phụ nữ
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", trong đó xác định „„phấn đấu đến năm 2020, tỷ lệ
nữ tham gia các cấp ủy đảng các cấp đạt từ 25% trở lên, nữ đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp từ 30% 35% trở lên. Các cơ quan đơn vị có tỷ lệ nữ từ 30% trở lên, nhất thiết phải có cán bộ lãnh đạo chủ chốt là
nữ‟‟.
10
Tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy Đảng cấp tỉnh, huyện nhiệm kỳ 2015-2020 tăng so với nhiệm kỳ 20102015, trong đó tỉnh tăng 4,6%, huyện tăng 1,78%, tuy nhiên cấp xã giảm 1,15%. Ngoài ra, có nữ Phó Bí thư
Tỉnh ủy nhiệm kỳ 2015-2020; cấp huyện có 02 nữ Bí thư, 05 nữ Phó Bí thư huyện ủy.
Tỷ lệ các cơ quan nhà nước có cán bộ nữ tham gia vào ban lãnh đạo từ tỉnh đến cơ sở ngày càng
tăng. Sau 5 năm, nhờ làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo mà cán bộ nữ tham gia ban lãnh đạo tăng từ 40%
lên 50% (cấp tỉnh) và từ 34,9% lên 50,3% (cấp xã), tuy nhiên cấp huyện lại giảm từ 38,5% xuống còn 23%.
Trong các giai đoạn UBND tỉnh đều có phó chủ tịch là nữ, trong nhiệm kỳ có nữ Phó Bí thư Tỉnh
ủy và lần đầu tiên có nữ trưởng đoàn đại biểu Quốc hội; đa số các sở, ban ngành của tỉnh, huyện đều có lãnh
đạo chủ chốt là nữ, có 05 đơn vị nữ lãnh đạo cấp trưởng. Tuy nhiên, vẫn còn một số sở, ngành nhiều năm
liền không có lãnh đạo chủ chốt là nữ.
Tỷ lệ nữ trúng cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 đều tăng so với nhiệm
kỳ 2011-2016, cụ thể cấp tỉnh tăng 4,48%, cấp huyện tăng 3,52% và cấp xã tăng 3,93%; Bên cạnh đó, công
tác bồi dưỡng nghiệp vụ, kỹ năng cho nữ đại biểu hội đồng nhân dân các cấp luôn được quan tâm thực hiện.
Công tác phát triển đảng viên nữ, nhất là nữ ở địa bàn dân cư, vùng đồng bào dân tộc, phụ nữ tôn
giáo luôn được các cấp uỷ Đảng quan tâm. Công tác bố trí, bổ nhiệm, đề bạt, luân chuyển cán bộ nữ được
quan tâm và thực hiện đảm bảo theo đúng quy trình, quy định của tỉnh. Đội ngũ cán bộ nữ được bổ nhiệm, đề
bạt về cơ bản đủ tiêu chuẩn trình độ, năng lực, phẩm chất chính trị.
2.2.2. Bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế, lao động, việc làm
UBND tỉnh thường xuyên chỉ đạo các sở ban ngành tổ chức thực hiện tốt bằng các biện pháp thúc
đẩy bình đẳng giới đối với lĩnh vực kinh tế, lao động, việc làm như: ưu đãi về thuế và tài chính theo quy định
của pháp luật cho doanh nghiệp có nhiều lao động nữ, lao động nữ khu vực nông thôn được hỗ trợ tín dụng,
khuyến công, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư; có chính sách khuyến khích hỗ trợ phụ nữ phát triển
doanh nghiệp vừa và nhỏ, hỗ trợ cho phụ nữ nghèo, phụ nữ vùng sâu tiếp cận các nguồn vốn, tín dụng ưu đãi
từ Ngân hàng chính sách xã hội, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Thông qua các nguồn vốn từ Ngân hàng chính sách xã hội, quỹ quốc gia giải quyết việc làm, tạo
điều kiện cho hàng vạn lượt hộ phụ nữ vay vốn để phát triển kinh tế gia đình, nhằm từng bước tạo điều kiện
cho phụ nữ được tiếp cận các nguồn lực kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Từ năm 2012-2015, UBND tỉnh đã dành 57,7 tỷ ngân sách để thực hiện các chương trình mục tiêu
về giáo dục, việc làm và dạy nghề, phát triển thị trường lao động.
2.2.3. Bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo
Nhằm nâng cao nguồn nhân lực và để đảm bảo sự tham gia bình đẳng giữa nam và nữ, UBND tỉnh
chỉ đạo Sở Giáo dục và Đào tạo tăng cường công tác thông tin tuyên truyền, giáo dục, duy trì sĩ số các lớp
học, cấp học và mở rộng các trung tâm cộng đồng đảm bảo tỷ lệ trẻ em nữ đi học đúng độ tuổi đạt kế hoạch
đề ra. Tăng cường gắn kết công tác chuyên môn với công tác bình đẳng giới; đẩy mạnh công tác quy hoạch,
đào tạo, bồi dưỡng tạo điều kiện cho cán bộ nữ của ngành học tập; nâng cao nhận thức về bình đẳng giới
trong giáo dục đối với giáo viên, học sinh và sinh viên.
Trên cơ sở Nghị quyết số 51/2010/NQ-HĐND của HĐND tỉnh về việc thông qua Đề án phát triển
nguồn nhân lực phục vụ kinh tế - xã hội tỉnh giai đoạn 2006-2010 và tầm nhìn đến năm 2020, UBND tỉnh đã
ban hành Quyết định số 4422/QĐ-UBND về việc tổ chức triển khai thực hiện Kế hoạch Chương trình 3 về
đào tạo cán bộ, công chức nữ giai đoạn 2006-2010, Quyết định 2361/QĐ-UBND ngày 21/9/2011 về phê
duyệt chương trình tổng thể đào tạo phát triển nguồn nhân lực tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2011-2015 và Kế
hoạch số 3634/KH-UBND ngày 23/5/2011 của UBND tỉnh về triển khai Chương trình 4 về đào tạo nguồn
11
nhân lực cho hệ thống chính trị. Trong đó đưa chỉ tiêu nữ tham gia chương trình đào tạo, bồi dưỡng đạt ít
nhất 30% tại chương trình 4. Mục tiêu của chương trình tạo nguồn cán bộ nữ có trình độ và điều kiện tham
gia lãnh đạo, quản lý, nghiên cứu khoa học kỹ thuật đảm bảo cho phụ nữ thực sự tiến bộ và bình đẳng về mọi
mặt.
Tỷ lệ nữ CBCC tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng luôn đảm bảo tỷ lệ dao động từ 25 – 40%, đặc
biệt có những lớp nâng cao năng lực dành riêng cho lực lượng nữ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Chất lượng đội
ngũ CBCCVC cấp tỉnh, huyện đã có sự phát triển vượt bậc so với giai đoạn trước.
Bên cạnh đó, Sở Nội vụ chủ động phối hợp với các cơ quan đơn vị, địa phương xét chọn nữ cán bộ
công chức, viên chức trong đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, đảm bảo tốt chính sách của nhà nước đối
với phụ nữ có con dưới 5 tuổi khi được học tập nâng cao trình độ. Căn cứ Nghị Quyết của HĐND tỉnh,
UBND tỉnh Đồng Nai ban hành Quyết định số 57/2010/QĐ-UBND về ban hành quy định tạm thời mức trợ
cấp đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ, công chức là nữ được ưu tiên hưởng mức trợ cấp cao hơn nam giới là
100.000đồng/người/tháng khi được cử tham gia các lớp đào tạo bồi dưỡng có thời gian tập trung từ 01 tháng
trở lên; hỗ trợ gấp 02 lần cho cán bộ nữ có con dưới 60 tháng tuổi khi được cử đi đào tạo.
2.2.4. Bình đẳng giới trong lĩnh vực khoa học công nghệ
Lĩnh vực khoa học công nghệ được UBND tỉnh quan tâm triển khai, hoạt động nghiên cứu khoa
học và phát triển công nghệ đã chú trọng hiệu quả ứng dụng của các đề tài nghiên cứu vào thực tiễn. Trong 5
năm đã triển khai quản lý 6 đề tài cấp bộ thuộc chương trình phát triển nông thôn, miền núi; triển khai 83 đề
tài, đề án nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ theo 6 chương trình mục tiêu tổng hợp và 95 đề tài,
dự án nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ cấp huyện và cấp ngành; chuyển giao 53 đề tài, dự án cấp
Bộ, huyện và cấp ngành về ứng dụng trong các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, công nghệ, thông tin, y
tế, chăm sóc sức khỏe, bảo vệ tài nguyên môi trường, phát triển kinh tế xã hội. Trong các đề tài, dự án luôn
quan tâm ưu tiên cho phụ nữ tham gia.
2.2.5. Bình đẳng giới trong lĩnh vực văn hóa thông tin, thể dục thể thao
UBND tỉnh đã chỉ đạo các sở, ban, ngành cấp tỉnh, UBND các huyện, thị xã, thành phố đẩy mạnh
công tác thông tin tuyên truyền bình đẳng giới, vì sự tiến bộ phụ nữ với nhiều hình thức phong phú và đa
dạng. Hàng năm đều tiến hành thanh, kiểm tra các cơ sở in ấn, phát hành nhằm loại trừ các sản phẩm văn hóa
thông tin mang yếu tố định kiến giới, phân biệt giới được phát hành hoặc xuất bản trên địa bàn tỉnh.
Định hướng các cơ quan báo chí tuyên truyền, phổ biến Luật Bình đẳng giới, Nghị quyết số 07NQ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy (khóa VIII) thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ
chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Kế hoạch 3910/KHUBND ngày 10/6/2011 của UBND tỉnh.
Qua đó, đảm bảo 80% sản phẩm văn hóa, thông tin được kiểm soát loại trừ yếu tố định kiến giới;
Các cơ quan báo, đài cấp tỉnh có chuyên mục, chuyên trang bình đẳng giới hàng tháng; 100% Đài Truyền
thanh các huyện, thị xã Long Khánh, thành phố Biên Hòa và khoảng trên 77% đài truyền thanh các xã,
phường, thị trấn có chuyên mục bình đẳng giới hàng tháng.
2.2.6. Bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế
UBND tỉnh đã chỉ đạo các đơn vị tổ chức triển khai nhiều giải pháp nhằm giảm thiểu tình trạng mất
cân bằng giới tính khi sinh, thực hiện sàng lọc trước khi sinh nhằm tăng chất lượng dân số, giảm tỷ lệ tử
vong bà mẹ, trẻ em khi sinh, giảm tỷ lệ phá thai do kém hiểu biết bằng các hình thức tập huấn, hội thảo, xây
dựng mô hình, câu lạc bộ. Tăng cường việc triển khai có hiệu quả chương trình làm mẹ an toàn; tăng cường
12
số lượng, chất lượng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục cho phụ nữ và nam giới; duy
trì tốt công tác truyền thông về dân số, sức khỏe tình dục, phòng chống lây nhiễm HIV.
Tỷ số giới tính khi sinh năm 2016 là 107 trẻ sơ sinh trai/100 trẻ sơ sinh gái; Giảm tỷ lệ tử vong bà
mẹ liên quan đến thai sản xuống còn 7,52/100.000 trẻ đẻ sống; Tăng tỷ lệ phụ nữ mang thai được tiếp cận
dịch vụ chăm sóc và dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con, ước đạt 100%; Giảm tỷ lệ phá thai xuống
12,71/100 trẻ đẻ sống.
2.2.7. Bình đẳng giới trong gia đình
UBND tỉnh đã ban hành nhiều Kế hoạch, đề án về thực hiện Chiến lược phát triển Gia đình Việt
Nam tỉnh Đồng Nai đến năm 2020, tầm nhìn 2030 trên địa bàn tỉnh; về xây dựng gia đình thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trên địa bàn tỉnh; về thực hiện Đề án kiện toàn, đào tạo nâng cao năng lực
đội ngũ cán bộ thực hiện công tác gia đình các cấp đến năm 2020 trên địa bàn tỉnh; về Phòng, chống bạo lực
gia đình đến năm 2020 trên địa bàn tỉnh; về thực hiện Đề án phát huy giá trị tốt đẹp các mối quan hệ trong
gia đình và hỗ trợ xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững đến năm 2020 nhờ đó mà công tác bình đẳng giới,
phòng chống bạo lực gia đình được tổ chức thực hiện dưới nhiều hình thức phong phú, ngày càng đi vào
chiều sâu; nhiều mô hình câu lạc bộ gia đình phát triển bền vững, nhóm phòng, chống bạo lực gia đình, điểm
tạm lánh, địa chỉ tin cậy được thành lập và đi vào hoạt động hiệu quả, góp phần ngăn chặn và giảm thiểu các
vụ bạo lực gia đình, bạo lực trên cơ sở giới.
Thời gian qua, việc thực hiện bình đẳng giới trong gia đình tại Đồng Nai đã được chú trọng, tỷ lệ
nam giới làm công việc gia đình ngày càng tăng, tạo cơ hội để phụ nữ tham gia công việc ngoài xã hội.
Trong 05 năm, phát hiện 1.471 vụ bạo lực gia đình, trong đó có trên 1.250 vụ bạo lực đối với phụ
nữ. Số nạn nhân là nữ giới trong các vụ bạo lực gia đình gấp nhiều lần so với nam giới. Trong thực tế, các vụ
bạo lực gia đình vẫn xẩy ra bất bình đẳng giới, thế nhưng, các cơ quan chức năng chỉ ghi nhận các đơn thư
về bạo lực gia đình chứ không có xử phạt vi phạm hành chính về bình đẳng giới theo quy định. Nguyên nhân
chủ yếu là sự đấu tranh của người phụ nữ trước bạo lực gia đình và vấn đề bình đẳng giới còn hạn chế, thiếu
kiên quyết, cam chịu, sợ ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của gia đình trước họ hàng, làng xóm và khi đó
trong trường hợp có bạo lực xảy ra thì hình thức xử lý của pháp luật mới dừng lại ở cảnh cáo, khuyên răn,
giáo dục, chỉ khi nạn nhân chứng minh thương tích 11% trở lên mới truy cứu trách nhiệm hình sự.
2.3. Phân tích thực trạng quản lý nhà nƣớc về bình đẳng giới tỉnh Đồng Nai
2.3.1. Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược bình đẳng giới tỉnh Đồng Nai
Thực hiện Nghị quyết 11- NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Quyết định số 2351/QĐ-TTg ngày 24/12/2010 của Thủ tướng
Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020, Căn cứ Quyết định số
1241/QĐ-TTg ngày 22/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình quốc gia về bình
đẳng giới giai đoạn 2011-2015 và sự chỉ đạo của UBND tỉnh tại Kế hoạch hành động số 3910/KH-UBND
ngày 10/6/2011 thực hiện các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2015, Sở LĐTBXH và các
sở, ban, ngành, đoàn thể liên quan xây dựng dự thảo, trình UBND tỉnh ban hành văn bản số 3020/UBND ngày
15/11/2011 về thực hiện Chương trình quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2015 trên địa bàn tỉnh Đồng
Nai. Kế hoạchđã được triển khai, phổ biến đến các sở, ban, ngành, đoàn thể của tỉnh và UBND các huyện,
thành phố Biên Hòa, thị xã Long Khánh; các xã, phường, thị trấn trong toàn tỉnh.
Về công tác phối hợp, bình đẳng giới là một lĩnh vực rộng nên phải được thực hiện toàn diện trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình, do đó chỉ một ngành LĐTBXH không thể quản lý hết
13
được. Để thực hiện tốt bình đẳng giới cần có sự phối hợp giữa các cơ quan, trên cơ sở có sự chủ trì của cơ
quan chịu trách nhiệm chính thuộc ngành LĐTBXH.
Luật bình đẳng giới, Nghị định 70/NĐ–CP của Chính phủ quy định trách nhiệm phối hợp của một
số cơ quan, tổ chức có liên quan trong thực hiện bình đẳng giới, tỉnh Đồng Nai đã ban hành Chỉ thị số
07/CT–UBND ngày 26/10/2010 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bình Đẳng giới trên địa bàn
tỉnh, trong đó có quy định trách nhiệm chủ trì, phối hợp của các cơ quan, tổ chức trong phạm vi lĩnh vực của
mình.
Về công tác thống kê, cập nhật thông tin và báo cáo
Trong quá trình tổ chức thực hiện quản lý nhà nước về bình đẳng giới, công tác thống kê, cập nhật
thông tin và báo cáo về bình đẳng giới là một trong những công cụ quản lý quan trọng. Nó có vai trò cung
cấp các thông tin thống kê trung thực, khách quan, chính xác, đầy đủ, kịp thời phục vụ các cơ quan nhà nước
trong việc đánh giá, dự báo tình hình, hoạch định chiến lược, chính sách, xây dựng kế hoạch nhằm thực hiện
có hiệu quả các mục tiêu chiến lược về bình đẳng giới và đáp ứng nhu cầu thông tin thống kê của các tổ
chức, cá nhân.
Điều 8 Luật Bình đẳng giới quy định nội dung quản lý nhà nước về bình đẳng giới gồm 8 nhiệm
vụ, trong đó có thực hiện công tác thống kê, thông tin, báo cáo về bình đẳng giới. Theo đó, các cơ quan quản
lý nhà nước về bình đẳng giới các cấp cần thực hiện công tác thống kê, thông tin và định kỳ báo cáo cho các
cơ quan quản lý nhà nước cấp trên và các cơ quan, tổ chức khác về bình đẳng giới theo yêu cầu. Nội dung
của các báo cáo bình đẳng giới tập trung vào việc thực hiện các quy định của Luật bình đẳng giới, Chiến
lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 và Chương trình hành động quốc gia về bình đẳng giới
giai đoạn 2011-2015.
Từ năm 2011 đến năm 2016, các Sở, ban, ngành, địa phương trên địa bàn tỉnh đã thực hiện lồng
ghép giới căn cứ vào 7 mục tiêu với 21 chỉ tiêu được đề ra trong Kế hoạch thực hiện Chiến lược quốc gia về
bình đẳng giới tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2011-2015, 2015-2020. Hàng năm, đã kịp thời triển khai công tác
Bình đẳng giới của cấp trên, xây dựng được kế hoạch, giao nhiệm vụ cụ thể cho các cấp các ngành trong
toàn tỉnh, sơ kết tổng hợp công tác bình đẳng giới về đánh giá tình hình cũng như số liệu cụ thể các chỉ tiêu
thuộc các cấp các ngành trong thời gian qua giúp cho lãnh đạo tỉnh trong việc chỉ đạo điều hành về công tác
bình đẳng giới. Từ đó, góp phần giảm sự chênh lệch về giới và nâng cao vị thế của phụ nữ trong gia đình và
ngoài xã hội, đảm bảo thực hiện các cam kết của tỉnh về bình đẳng giới và xoá bỏ mọi hình thức phân biệt
đối xử với phụ nữ.
Công tác thống kê giới trên địa bàn tỉnh Đồng Nai trong thời gian gần đây cơ bản đáp ứng kịp thời
nhu cầu thông tin thống kê giới, giúp cho việc giám sát, đánh giá tình hình phát triển giới, sự tiến bộ của phụ
nữ và bình đẳng giới trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội từ số liệu thu thập, tổng hợp, báo cáo trên
địa bàn.
2.3.2. Ban hành và tổ chức thực hiện thể chế và chính sách về bình đẳng giới tỉnh Đồng Nai
Việc xây dựng và tổ chức thực hiện thể chế và chính sách về bình đẳng giới có ý nghĩa quan trọng
trong việc tạo hành lang pháp lý đề thực hiện công tác quản lý nhà nước về bình đẳng giới. Trên tinh thần
Hiến pháp, Luật bình đẳng giới và các văn bản quy phạm pháp luật về bình đẳng giới của Trung ương, tỉnh
đã xây dựng và ban hành nhiều văn bản nhằm thực hiện bình đẳng giới như: Nghị quyết số 07-NQ/TU ngày
28/11/2007; Kế hoạch số 9521/KH-UBND ngày 19/11/2010 về thực hiện Nghị quyết số 57/NQ-CP; Kế
hoạch số 3910/KH-UBND ngày 10/6/2011 về việc thực hiện Chiến lược Quốc gia về bình đẳng giới tỉnh
Đồng Nai giai đoạn 2011-2015. Ngoài ra, UBND tỉnh cũng đã ban hành Đề án can thiệp giảm thiểu mất cân
14
bằng giới tính khi sinh giai đoạn 2011-2015; Đề án 343 về tuyên truyền, giáo dục phẩm chất, đạo đức phụ nữ
Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước giai đoạn 2011-2015; Đề án 704 về giáo
dục 5 triệu bà mẹ nuôi dạy con tốt giai đoạn 2010-2015; Đề án 295 về dạy nghề cho lao động nông thôn;
Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030; Kế hoạch phòng chống
bạo lực gia đình tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2011-2015, Kế hoạch thực hiện công tác bình đẳng giới hàng năm.
Bên cạnh đó, UBND tỉnh Đồng Nai ban hành quyết định số 3020/QĐ–UBND ngày 15/11/2011 về
phê duyệt chương trình hành động về Bình đẳng giới tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2011-2015 triển khai thực hiện
4 dự án về bình đẳng giới, các dự án này nằm trong chương trình chiến lược quốc gia về Bình đẳng giới,
nhằm triển khai có hiệu quả các mục tiêu về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2015; Kế hoạch số 1133/KHUBND ngày 28/2/2016 thực hiện chương trình hành động quốc gia về bình đẳng giới trên địa bàn tỉnh Đồng
Nai giai đoạn 2016-2020 với 5 nội dung trọng tâm và dự toán kinh phí thực hiện trong giai đoạn là 12,2 tỷ
đồng, trong đó ngân sách Trung ương là 2,26 tỷ đồng và ngân sách địa phương là 9,94 tỷ đồng.
Công tác lồng ghép giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật bước đầu được thực hiện
trong các lĩnh vực việc làm, giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khỏe, chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội. Theo
báo cáo của Sở Tư pháp 100% các văn bản quy phạm pháp luật do HĐND và UBND ban hành phù hợp với
nguyên tắc quy định về bình đẳng giới, được thi hành có hiệu quả, được đối tượng chấp hành nghiêm chỉnh,
nhân dân ủng hộ góp phần bảo đảm nguyên tắc công bằng trong áp dụng pháp luật. Việc thực hiện lồng ghép
giới vào xây dựng và tổ chức thực hiện quyền bình đẳng giới của phụ nữ trong các lĩnh vực lao động và việc
làm, giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khỏe, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, lồng ghép trong quy hoạch,
đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt đối với đội ngũ cán bộ, công chức được triển khai thường xuyên ở tất cả các cấp,
các ngành, đoàn thể từ đó ý thức bình đẳng giới dần dần được thừa nhận và đi vào cuộc sống của cán bộ,
công chức và nhân dân.
Điều quan trọng đối với xây dựng chính sách và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về bình
đẳng giới trên địa bàn tỉnh là đã đặt ra mục tiêu và phân công trách nhiệm thực thi. Nhiều chỉ tiêu về sự tham
gia của phụ nữ được đặt ra khác nhau, tùy thuộc theo lĩnh vực như trong lĩnh vực chính trị, tỷ lệ nữ tham gia
cấp ủy đảng từ 25% trở lên nhiệm kỳ 2010 – 2015, tỷ lệ nữ đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp từ 30% trở
lên nhiệm kỳ 2011 – 2016 và phấn đấu ở nhiệm kỳ tiếp theo là từ 35% trở lên, phấn đấu đến năm 2015 có
đến 70% các sở, ngành, cơ quan ngang sở, UBND các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ.
Bên cạnh đó, việc xây dựng chính sách và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật là cùng với
việc xây dựng các quyết định, kế hoạch thực hiện các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới thì đã xây dựng
được các chỉ tiêu phấn đấu nhằm đạt được mục tiêu chung của cả nước. Ngoài ra, trên cơ sở các quyết định,
nghị quyết và kế hoạch về thực hiện bình đẳng giới, các cơ quan liên quan đã chủ động phối hợp thực hiện
các mục tiêu đề ra gắn với thực hiện công tác chuyên môn, nghiệp vụ của cơ quan đơn vị, ví dụ như Sở Nội
vụ tham mưu cho ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định số 2361/QĐ-UBND về phê duyệt chương trình
tổng thể đào tạo phát triển nguồn nhân lực tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2011-2015, trong đó đưa ra chỉ tiêu nữ
tham gia chương trình đào tạo, bồi dưỡng đạt ít nhất 30%. Mục tiêu của chương trình là tạo nguồn cán bộ nữ
có trình độ và điều kiện tham gia lãnh đạo, quản lý, nghiên cứu khoa học kỹ thuật đảm bảo phụ nữ thực sự
tiến bộ và bình đẳng về mọi mặt.
2.3.3. Kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về bình đẳng giới tỉnh Đồng Nai
Đội ngũ cán bộ, công chức trong mỗi cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đóng một vai trò
quan trọng trong việc thực hiện hiệu quả công việc. Vì vậy trong công tác bình đẳng giới, việc xây dựng, đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ được tỉnh rất quan tâm và sớm xây dựng từ cấp tỉnh đến cấp xã.
15
Cấp tỉnh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh phụ trách khối văn hóa, xã hội chịu trách nhiệm quản lý về bình
đẳng giới, Sở LĐTBXH mà cụ thể là giám đốc Sở và Phòng bình đẳng giới thuộc Sở chịu trách nhiệm triển
khai công tác bình đẳng giới.
Ở cấp huyện, Phó chủ tịch UBND phụ trách khối văn hóa xã hội chịu trách nhiệm quản lý về bình
đẳng giới, Phòng LĐTBXH chịu trách nhiệm trực tiếp triển khai công tác bình đẳng giới trên địa bàn huyện.
Cấp huyện không có biên chế chuyên trách. Trưởng hoặc phó phòng LĐTBXH phụ trách, một chuyên viên
phòng LĐTBXH kiêm nhiệm công tác khác và bình đẳng giới trực tiếp thực hiện công tác này.
Ở cấp xã, Phó Chủ tịch UBND xã phụ trách khối văn hóa, xã hội chịu trách nhiệm quản lý về bình
đẳng giới trên địa bàn xã, một nhân sự kiêm nhiệm trực tiếp thực hiện công tác bình đẳng giới, nhân viên này
có thể là công chức văn hóa, xã hội hoặc là nhân viên phụ trách công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em hoặc cán
bộ Hội LHPN xã.
Đội ngũ cộng tác viên cộng tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em và bình đẳng giới tại các khu, ấp trên địa
bàn tỉnh được thành lập theo quyết định của UBNDxã. Đội ngũ này có trách nhiệm tuyên truyền trong nhân
dân thực hiện các chính sách, pháp luật quy định về bình đẳng giới, hỗ trợ chính quyền địa phương trong
việc quản lý về bình đẳng giới.
2.3.4. Phát triển đội ngũ cán bộ quản lý và thực hiện nhiệm vụ về bình đẳng giới tỉnh Đồng Nai
Hiện nay chỉ có cấp tỉnh có 5 biên chế chuyên trách quản lý về bình đẳng giới. Ở cấp huyện và cấp
xã có 266 cán bộ kiêm nhiệm làm công tác bình đẳng giới và phải thực hiện nhiều việc như công tác chăm
sóc, bảo vệ trẻ em, bảo trợ xã hội, công tác phụ nữ và bình đẳng giới. Ngoài ra, các cơ quan, sở, ban ngành
có trách nhiệm phối hợp thực hiện bình đẳng giới đều phân công nhân sự kiêm nhiệm theo dõi công tác này
ở cơ quan, đơn vị. Họ đồng thời là thành viên của Ban VSTBPN ở cấp tương đương.
Về năng lực thực hiện công việc, cán bộ quản lý và thực hiện nhiệm vụ về bình đẳng giới các cấp
đã có sự nỗ lực hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đối với cán bộ công chức làm công tác bình đẳng giới thuộc
sở LĐTBXH là đội ngũ hoạt động chuyên trách nên có điều kiện tìm hiểu, nghiên cứu, tham gia các lớp tập
huấn, bồi dưỡng để nâng cao nhận thức và kỹ năng hoạt động. Đội ngũ cán bộ công chức cấp huyện, xã hoạt
động kiêm nhiệm nhưng đã tích cực tổ chức, tham gia các hoạt động nhằm thúc đẩy bình đẳng giới ở địa
phương. Đội ngũ nhân sự ngoài ngành LĐTBXH cũng đã cố gắng trong công tác phối hợp theo yêu cầu,
nhiệm vụ được phân công.
Đối với những lĩnh vực liên quan đến tư tưởng, nhận thức như bình đẳng giới thì những người làm
công tác quản lý trước hết phải có nhận thức đúng về vấn đề giới. Tuy nhiên đội ngũ cán bộ công chức hoạt
động về bình đẳng giới trong tỉnh được tuyển chọn từ những người đang công tác trong ngành, hoặc tuyển
dụng mới tương tự như lĩnh vực khác, chưa có sự đánh giá về khả năng nhận thức, thái độ của họ đối với
vấn đề bình đẳng giới. Nhiều người làm công tác về bình đẳng giới nhưng vẫn còn mang nặng định kiến giới.
2.3.5. Hỗ trợ và huy động nguồn lực tài chính thực hiện mục tiêu bình đẳng giới tỉnh Đồng Nai
Kinh phí thực hiện cho công tác bình đẳng giới của tỉnh Đồng Nai tăng dần theo các năm, từ 830
triệu của năm 2012 và đến năm 2016 là 1,4 tỷ, nhất là ngân sách tỉnh hàng năm đều dành nguồn ngân sách
nhất định để đảm bảo thực hiện công tác bình đẳng giới trên địa bàn. Song đến năm 2016 Trung ương không
phân bổ ngân sách thực hiện công tác bình đẳng giới cho Đồng Nai mà đề nghị tỉnh tự cân đối. Tuy nhiên,
Đồng Nai chưa khai thác được các nguồn kinh phí xã hội hóa, vận động từ bên ngoài để thực hiện các giải
pháp đảm bảo công tác bình đẳng giới.
Đối với các huyện, hàng năm vẫn đảm bảo nguồn kinh phí thực hiện công tác bình đẳng giới trên địa
bàn huyện theo đề xuất của cơ quan thường trực là Phòng LĐTBXH huyện.
16
Đối với các sở, ngành, cơ quan thì cân đối kinh phí của cơ quan để tổ chức triển khai các hoạt động
bình đẳng giới, kinh phí này ít hay nhiều tùy thuộc vào nguồn kinh phí trong năm của cơ quan, đơn vị.
2.3.6. Thanh tra, kiểm tra, tổng kết, đánh giá thực hiện mục tiêu bình đẳng giới tỉnh Đồng Nai
Công tác thanh tra, kiểm tra thực hiện bình đẳng giới
Ngày 10/5/2011 Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Kế hoạch số 27-KH/TU và tổ chức 04 đoàn
kiểm tra, giám sát các cấp ủy trực thuộc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng năm 2011, trong đó có
nội dung kiểm tra Nghị quyết số 07-NQ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về thực hiện Nghị quyết số 11NQ/TW của Bộ Chính trị.
UBND tỉnh đã tổ chức 14 đoàn kiểm tra công tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ tiến
hành kiểm tra ở 52 lượt sở, ban, ngành cấp tỉnh và 11 huyện, thị xã, thành phố, nhằm đánh giá tình hình triển
khai thực hiện Chiến lược, Chương trình quốc gia bình đẳng giới và hoạt động vì sự tiến bộ phụ nữ các đơn
vị, địa phương; những thuận lợi, khó khăn, vướng mắc để kịp thời tháo gỡ, đề xuất, kiến nghị với Tỉnh ủy và
các cơ quan Trung ương.
Qua công tác kiểm tra cho thấy việc thực hiện các mục tiêu bình đẳng giới, công tác phát triển đảng
viên nữ, công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ đã được các cơ quan, đơn vị quan tâm, chú trọng,
tuy nhiên bên cạnh đó cũng phát hiện một số hạn chế như tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy, HĐND các cấp và tỷ lệ
nữ lãnh đạo trong các cơ quan quản lý nhà nước còn thấp so với năng lực và số lượng đội ngũ cán bộ, công
chức nữ; một số mục tiêu chưa thực sự bền vững; một số Ban VSTBPN các đơn vị chưa được kiện toàn
thường xuyên, chưa kịp thời bổ sung quy chế hoạt động, chưa thực hiện chế độ họp Ban theo quy định; công
tác tuyên truyền, tổ chức các hoạt động truyền thông nâng cao nhận thức về bình đẳng giới chưa thường
xuyên, chưa mang tính bền vững; chế độ thông tin báo cáo một số đơn vị chưa đảm bảo.
Bên cạnh đó, còn nhiều lĩnh vực mà tỉnh chưa có chính sách hướng dẫn thực hiện như: quy hoạch
xây dựng trường mầm non, nhà giữ trẻ trong khu công nghiệp, các địa bàn đông lao động nữ; hướng dẫn xây
dựng cơ sở dữ liệu và bộ chỉ số giám sát, đánh giá thực hiện bình đẳng giới theo từng lĩnh vực.
Tuy nhiên, công tác kiểm tra mới dừng lại ở cấp tỉnh. Trong thời gian tới, tỉnh cần có kế hoạch
phân công các huyện tự kiểm tra các xã trên địa bàn hoặc kiểm tra chéo để giảm tải công việc cho các cơ
quan quản lý cấp tỉnh cũng như nâng cao tinh thần trách nhiệm của địa phương, tạo điều kiện để mọi đơn vị
cấp cơ sở đều được kiểm tra đồng loạt.
Mặc dù Chính phủ ban hành Nghị định số 55/NQ–CP ngày 10/6/2009 của Chính phủ về xử phạt vi
phạm hành chính về bình đẳng giới. Nhưng từ khi Nghị định có hiệu lực đến năm 2016, trên địa bàn tỉnh
Đồng Nai chưa ghi nhận trường hợp xử phạt vi phạm hành chính về bình đẳng giới. Nguyên nhân là do thiếu
thông tư hướng dẫn cụ thể; không có đơn thư khiếu nại, tố cáo, hoặc trực tiếp phát hiện vụ việc vi phạm hành
chính về bình đẳng giới. Thực tế tại Đồng Nai cho thấy từ khi Nghị định 55 được ban hành, thanh tra ngành
LĐTBXH, thanh tra chuyên ngành khác đã được tập huấn để thực hiện nghị định này. Nhưng thực tế, quá
trình thực hiện gặp rất nhiều khó khăn, bởi theo quy định thì những hành vi bị xử phạt là những hành vi vi
phạm bình đẳng giới và bị dư luận phản ánh. Trong khi đó, tư tưởng cả nể, không “vạch áo cho người xem
lưng” vẫn còn hằn sâu trong tư tưởng người Việt khiến dễ dàng bỏ qua cho những hành vi vi phạm. Trong
gia đình có thể xảy ra vi phạm về bình đẳng giới, nhưng nếu ở mức độ không nghiêm trọng thì người dân
không lên tiếng tố cáo. Hơn nữa việc phạt tiền gây ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế gia đình nên người bị vi
phạm không muốn pháp luật can thiệp.
Công tác tổng kết, đánh giá việc thực hiện bình đẳng giới luôn được quan tâm thực hiện, định kỳ 6
tháng, 1 năm Ban VSTBPN tỉnh họp để đánh giá công tác triển khai thực hiện kế hoạch, chương trình hoạt
17
động bình đẳng giới, qua đó đánh giá những mặt làm được, chưa làm được, tìm ra nguyên nhân của những
việc chưa làm được để từ đó xây dựng phương hướng, nhiệm vụ thực hiện thời gian tới đạt hiệu quả hơn
Từ năm 2011 đến nay Ban VSTBPN tỉnh đã tổ chức 12 hội nghị để sơ tổng kết hoạt động công tác
bình đẳng giới trên địa bàn tỉnh, 5 hội thảo, tọa đàm chia sẻ kinh nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động,
công tác bình đẳng giới
2.4. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nƣớc về bình đẳng giới tỉnh Đồng Nai
2.4.1. Kết quả đạt được
Một là, công tác bình đẳng giới luôn nhận được sự quan tâm, chỉ đạo, định hướng thường xuyên
của Tỉnh ủy, HĐND tỉnh và cấp ủy, chính quyền địa phương, các đơn vị; sự phối hợp của các cấp, các ngành
trong quá trình triển khai, thực hiện kế hoạch hành động bình đẳng giới.
Hai là, đội ngũ cán bộ công chức làm công tác bình đẳng giới được xây dựng và củng cố từ cấp
tỉnh đến tận các khu phố, ấp. Cấp tỉnh có phòng bình đẳng giới thuộc Sở LĐTBXH tỉnh với 05 biên chế
chuyên trách thực hiện công tác bình đẳng giới, cấp huyện và cấp xã có nhân sự kiêm nhiệm làm công tác
này, các khu phố, ấp có đội ngũ cộng tác viên hỗ trợ nhằm nắm bắt thông tin và tuyên truyền chính sách,
pháp luật về bình đẳng giới cho nhân dân. Hàng năm, đội ngũ cộng tác viên làm công tác bình đẳng giới
được tập huấn, bồi dưỡng về các văn bản pháp luật bình đẳng giới, các kiến thức lồng ghép giới, kỹ năng
hoạt động, chất lượng công tác.
Ba là, công tác phối hợp liên ngành tổ chức thực hiện các mục tiêu bình đẳng giới được các cơ
quan, tổ chức liên quan quan tâm và thực hiện tốt. Hàng năm các cơ quan, tổ chức có liên quan đã thực hiện
chế độ báo cáo tình hình thực hiện bình đẳng giới theo lĩnh vực mình phụ trách và cử người tham gia đoàn
kiểm tra liên ngành về thực hiện bình đẳng giới.
Bốn là, trong công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật về bình đẳng giới được các sở,
ban, ngành và chính quyền địa phương phối hợp khá chặt chẽ và tổ chức thực hiện sâu rộng trong nhân dân,
bao gồm truyền thông theo đợt, chiến dịch và truyền thông định kỳ. Vấn đề truyền thông về bình đẳng giới
được tuyên truyền qua nhiều hình thức phong phú như: tờ rơi, tờ gấp, pano, loa phát thanh tại khu dân cư,
chuyên mục trên báo và đài phát thanh, qua tập huấn, bồi dưỡng.
Năm là, công tác kiểm tra được tiến hành thực hiện định kỳ hàng năm. Đoàn kiểm tra do các cơ
quan, tổ chức có liên quan phối hợp tổ chức thực hiện, kiểm tra tình hình hoạt động bình đẳng giới ở cấp
huyện và một số xã, phường, thị trấn. Nội dung kiểm tra là tình hình triển khai các văn bản của cấp trên, kế
hoạch và kết quả hoạt động của đơn vị trong năm. Việc duy trì kiểm tra giúp những người làm công tác quản
lý nhà nước về bình đẳng giới đánh giá những mặt làm được, tìm hiểu nguyên nhân, lắng nghe các kiến nghị
đề xuất để nắm rõ hơn tình hình hoạt động của địa phương, từ đó tìm kiếm những giải pháp và cách thức để
quản lý hoạt động có hiệu quả hơn, đồng thời tháo gỡ những khó khăn để giúp địa phương nâng cao chất
lượng hoạt động bình đẳng giới. Việc thành lập đòan kiểm tra hàng năm còn thể hiện sự quan tâm của lãnh
đạo tỉnh đối với công tác này.
2.4.2. Hạn chế
Một là, các quy định của pháp luật chưa đồng bộ, chưa được hướng dẫn cụ thể và chưa có biện pháp
chế tài đảm bảo thực hiện bình đẳng giới một cách hữu hiệu. Công tác triển khai thực hiện các nghị định thực
hiện Luật Bình đẳng giới còn hạn chế, thiếu đồng bộ, cụ thể là Nghị định số 55/2009/NĐ-CP ngày 10/6/2009
của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính về bình đẳng giới chưa có hướng dẫn cụ thể từ cấp
trên nên thực tế trên địa bàn tỉnh cho đến nay vẫn chưa xử phạt một hành vi vi phạm nào theo Luật quy định.
18
Tỉnh cũng chưa ban hành quy định về việc xử phạt trên cơ sở Nghị định 55/2009/NĐ-CP do chưa có sự
hướng dẫn cụ thể của Bộ LĐTBXH.
Hai là, nhận thức về giới tuy có chuyển biến nhưng chưa cao, cụ thể vẫn còn khoảng trên 10% lãnh
đạo các cấp, các ngành chưa quan tâm đến công tác bình đẳng giới, coi công tác phụ nữ là công tác phong
trào, không phải là công tác trọng tâm của chính quyền, của người đứng đầu, của lãnh đạo các cấp, các
ngành mà chỉ riêng của nữ giới. Cho đến nay nhiều người vẫn quan niệm bình đẳng giới là đấu tranh cho phụ
nữ là việc của Hội LHPN. Bên cạnh đó, định kiến giới, tư tưởng trọng nam, khinh nữ vẫn còn tồn tại ở một
bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức và người dân tại các địa bàn dân cư.
Ba là, các hoạt động triển khai, phổ biến Luật Bình đẳng giới, kiến thức bình đẳng giới còn mang
tính hình thức, chưa sâu do đó nhận thức về bình đẳng giới trong cộng đồng chưa rõ ràng; công tác lồng ghép
giới vào quá trình hoạch định và thực thi chính sách chưa được thực hiện một cách đầy đủ, đồng bộ, chủ
động ở tất cả các cấp, các ngành. Truyền thông bình đẳng giới để thay đổi nhận thức và hành động của cộng
đồng còn yếu, đặc biệt là ở cấp phường, xã, thị trấn, các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện
kinh tế khó khăn; công tác tuyên truyền cho công nhân lao động trong các công ty, xí nghiệp chỉ có thể thông
qua tờ gấp, thông báo nội bộ, bảng tin, dẫn đến nhận thức bình đẳng giới của một bộ phận cán bộ, công chức
và nhân dân chưa đầy đủ, tư tưởng trọng nam hơn nữ còn tồn tại trong xã hội. Tài liệu tập huấn, tuyên truyền
bình đẳng giới còn ít.
Bốn là, công tác đào tạo, bồi dưỡng và thực hiện quy hoạch cán bộ nữ ở các cấp ủy Đảng một số
nơi vẫn chưa được quan tâm đúng mức; tỷ lệ cán bộ nữ được đào tạo theo yêu cầu chuẩn hóa cán bộ chiếm tỷ
lệ thấp so với nam giới. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng thiếu tính chiến lược, chưa gắn kế hoạch
đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng, đề bạt cán bộ nữ.
Năm là, tỷ lệ phụ nữ tham gia lãnh đạo và quản lý có tăng nhưng chậm; tỷ lệ nữ giữ lãnh đạo chủ
chốt còn thấp, giữ vị trí cấp phó là chủ yếu; đội ngũ cán bộ trẻ còn ít, khó khăn trong công tác tạo nguồn. Vị
thế lãnh đạo và quản lý chưa tương xứng với tiềm năng to lớn của nguồn cán bộ nữ. Đội ngũ nhân sự làm
công tác bình đẳng giới còn lúng túng, nhiều người chưa nắm bắt được công việc, nhận thức và năng lực
quản lý về bình đẳng giới còn hạn chế.
Sáu là, tỉnh vẫn chưa xây dựng bộ tiêu chí thống kê phát triển giới. Các số liệu thống kê hoặc thiếu
hoặc chưa có sự tách biệt giới, các ngành liên quan khi thống kê số liệu còn đánh giá chủ quan theo chuyên
môn ngành mình, thiếu sự thống nhất giữa các ngành.
Số liệu báo cáo kết quả thực hiện bình đẳng giới của một số đơn vị, địa phương còn chung chung,
chưa có sự tách biệt giới (tách biệt nam, nữ), ảnh hưởng đến công tác tổng hợp, báo cáo chung của tỉnh. Một
số tiêu chí trong kế hoạch bình đẳng giới còn mang tính định tính nên khó thu thập, thống kê báo cáo.
Bảy là, chưa bố trí được nguồn kinh phí cho công tác bình đẳng giới, mà chỉ lồng ghép vào các
hoạt động của các ngành, địa phương nên hiệu quả chưa cao.
Tám là, đối với công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát. Tỉnh chưa tổ chức thanh tra về bình đẳng
giới theo quy định mà chỉ thực hiện thanh tra liên ngành trong đó tập trung vào thực hiện pháp luật lao động.
2.4.3. Nguyên nhân của hạn chế
Một là, nhận thức về công tác bình đẳng giới của một số cấp ủy, chính quyền ở một số đơn vị, địa
phương còn hạn chế, chưa thực sự quan tâm đúng mức đến công tác vì sự tiến bộ phụ nữ và công tác bình
đẳng giới, chưa chủ động trong việc tổ chức triền khai thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách pháp
luật của nhà nước về bình đẳng giới; chưa gắn mục tiêu bình đẳng giới với mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội
của ngành, địa phương; cơ chế phối hợp giữa các cấp ủy và các ban, ngành, đoàn thể từ huyện đến cơ sở
19
chưa đồng bộ, chặt chẽ; còn nhầm lẫn giữa công tác bình đẳng giới là hoạt động phong trào nên thiếu quan
tâm, chỉ đạo sâu sát dẫn đến hiệu quả thấp.
Hai là, việc quy hoạch, đào tạo chưa gắn với đề bạt, bổ nhiệm nên tỷ lệ cán bộ nữ tham gia lãnh đạo,
quản lý trong bộ máy nhà nước còn thấp, chưa tương xứng với năng lực, trình độ và lực lượng lao động nữ;
việc bố trí nguồn lực cho tổ chức các hoạt động tuyên truyền, giáo dục chưa đủ mạnh, có nơi còn xem nhẹ
việc thực hiện nhiệm vụ này.
Ba là, vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu một số cơ quan, đơn vị đối với kết quả thực hiện bình
đẳng giới chưa được thực hiện một cách rõ ràng, dẫn đến thiếu sự quan tâm, đầu tư đúng mức.
Bốn là, việc hướng dẫn thực hiện các văn bản dưới Luật còn chậm, việc xử lý vi phạm hành chính về
bình đẳng giới theo Nghị định số 55/2009/NĐ-CP ngày 10/6/2009 của Chính phủ chưa thực sự đi vào cuộc
sống.
Năm là, sự phối hợp giữa các cơ quan, ban ngành còn thiếu đồng bộ, nhất quán từ khâu triển khai thực
hiện đến cơ chế báo cáo. Cán bộ làm công tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ phụ nữ các cấp chủ yếu là kiêm
nhiệm và thường xuyên chuyển đổi công tác nên có phần hạn chế trong công tác tham mưu và triển khai thực
hiện.
Sáu là, nhiều đơn vị, địa phương chỉ bố trí được nguồn kinh phí rất ít cho công tác bình đẳng giới, vì
sự tiến bộ phụ nữ (khoảng 10 triệu/năm) nên rất khó để có thể triển khai được các nội dung đến cán bộ, công
chức và nhân dân.
Bảy là, chưa xây dựng được bộ chỉ tiêu phát triển giới nên hàng năm, tỉnh chỉ thống kê các số liệu theo
yêu cầu báo cáo thực hiện các mục tiêu của quốc gia về bình đẳng giới.
Chƣơng 3
ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ BÌNH ĐẲNG
GIỚI TỈNH ĐỒNG NAI
3.1. Dự báo xu hƣớng bình đẳng giới trên thế giới và Việt Nam
3.1.1. Dự báo xu hướng bình đẳng giới trên thế giới.
Bình đẳng giới là vấn đề ngày càng được quan tâm ở các quốc gia, nhất là trong thời kỳ hội nhập kinh
tế quỗc tế sâu rộng giữa các quốc gia như hiện nay. Lãnh đạo đa phần các quốc gia trên thế giới luôn quan
tâm, xây dựng các chương trình, giải pháp thực hiện bình đẳng giới.
Bình đẳng giới, nâng cao quyền năng cho phụ nữ sẽ là xu hướng phát triển và mục tiêu hướng đến của
nhiều quốc gia, nhất là trong quá trình hội nhập sâu rộng của các quốc gia, khu vực.
Do đó, hướng tới mục tiêu bình đẳng giới luôn được các quốc gia trên thế giới quan tâm thực hiện,
cũng như dự báo các nước ASEAN sẽ đạt mục tiêu bình đẳng giới vào năm 2030.
3.1.2. Dự báo xu hướng bình đẳng giới ở Việt Nam
Bình đẳng giới được xem là tiêu chí quan trọng đánh giá sự phát triển của một xã hội, một đất nước.
Nó vừa là mục tiêu của sự phát triển vừa là yếu tố nâng cao khả năng tham gia đóng góp của phụ nữ và nam
giới vào sự phát triển ổn định và bền vững của mỗi quốc gia. Bình đẳng giới là một chủ trương lớn của Đảng
và nhà nước, là nhiệm vụ quan trọng của chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Bình đẳng giới vừa
là mục tiêu, vừa là cơ sở thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xây dựng xã hội ổn định, phát triển bền vững theo xu
thế hội nhập quốc tế.
Việt Nam hiện nay đang tiến sâu vào hội nhập kinh tế quốc tế nên vấn đề bình đẳng giới càng được
quan tâm thực hiện để đảm bảo các cam kết của Việt Nam khi tham gia thành viên các tổ chức.
3.2. Quan điểm và định hƣớng về bình đẳng giới ở Việt Nam và tỉnh Đồng Nai
20
3.2.1. Quan điểm của Đảng về bình đẳng giới ở Việt Nam
Quan điểm bình đẳng giới đã được thể hiện trong Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà năm 1946 bằng nguyên tắc “không phân biệt giống nòi, gái trai” và đã quy định: “Tất cả các công
dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội” (Điều 6) và “Đàn bà
ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện” (Điều 9). Quan điểm đó tiếp tục được kế thừa và phát triển
phù hợp với xu thế phát triển của đất nước và thời đại qua các lần sửa đổi Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992
và đặc biệt, tại Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, quan điểm này được khẳng
định tại Điều 26: “Công dân nữ, nam bình đẳng về mọi mặt”. Từ đó, những tư tưởng tiến bộ về bình đẳng
giới nói trên đã được cụ thể hoá bằng các chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước.
Đảng, Chính phủ tiếp tục quan tâm công tác bình đẳng giới thể hiện qua Nghị quyết Đại hội Đảng
Toàn quốc lần thứ XII; Nghị quyết 11-NQ/TW ngày 24/4/2007 về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước xác định mục tiêu đến năm 2020; Luật bình đẳng giới; Chiến lược quốc
gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020.
3.2.2. Định hướng về bình đẳng giới tỉnh Đồng Nai
Đồng Nai là một trong những tỉnh đi đầu trong cả nước về việc triển khai thực hiện công tác quản
lý nhà nước về bình đẳng giới. Trong đó tỉnh đã thực hiện được nhiều hoạt động, thu hút được sự quan tâm
và tham gia của các cấp, các ngành và nhân dân trong tỉnh, tích cực và nâng cao năng lực quản lý nhà nước
trong lĩnh vực bình đẳng giới, đồng thời đã xác định công tác bình đẳng giới là một công tác quan trọng
nhằm góp phần ổn định chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh.
Để thực hiện quản lý nhà nước về bình đẳng giới trong giai đoạn 2011-2016, 2016 – 2020, Ủy ban
nhân dân tỉnh Đồng Nai tỉnh đã ban hành các kế hoạch về việc thực hiện chiến lược quốc gia về bình đẳng
giới tỉnh Đồng Nai; về việc thực hiện chương trình hành động quốc gia về bình đẳng giới trên địa bàn tỉnh
Đồng Nai giai đoạn 2016-2020; về thực hiện biện pháp đảm bảo bình đẳng giới đối với nữ cán bộ, công
chức, viên chức giai đoạn 2016-2020; về thực hiện đề án phòng ngừa và ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới
giai đoạn 2016-2020 và tầm nhìn đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh.
3.3. Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nƣớc về bình đẳng giới tỉnh Đồng Nai
3.3.1. Cụ thể hóa và tổ chức thực hiện hiệu quả thể chế và chính sách về bình đẳng giới
Hệ thống chính sách, pháp luật chính là hành lang pháp lý, là căn cứ, cơ sở để quản lý một lĩnh vực,
đưa nó vào khuôn khổ, trật tự nhất định mà nhà nước đã định hướng nhằm phục vụ tốt nhất cho sự phát của
xã hội. Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật đối với một lĩnh vực luôn là một vấn đề quan trọng để phát
triển lĩnh vực đó đúng định hướng.
Đồng Nai là một tỉnh công nghiệp, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía nam, có tốc độ phát triển
nhanh và toàn diện, trong khi đó tỉnh có tỷ lệ tăng dân số cơ học cao, thu hút lao động từ các nơi khác đến
làm việc. Vì vậy trong thời gian tới, công tác quản lý nhà nước về bình đẳng giới trên địa bàn tỉnh phải đối
mặt với nhiều thách thức và khó khăn đó là cùng với sự tăng trưởng kinh tế nhanh, tất yếu sẽ nảy sinh nhiều
vấn đề xã hội ảnh hưởng đến cuộc sống dân cư, trong đó có tác động đến nhóm yếu thế trong xã hội, trong
đó có vấn đề về giới nữ và vấn đề về bình đẳng giới.
Chính sách quy định về bình đẳng giới bao gồm quy định bảo đảm tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, HĐND
các cấp, chính sách cân bằng giới tính khi sinh, chính sách hỗ trợ phụ nữ vay vốn và giải quyết việc làm,
chính sách đảm bảo 100% hộ nghèo do phụ nữ làm chủ được vay vốn, chính sách đào tạo nghề và giải quyết
việc làm cho lao động nữ, chính sách hỗ trợ tư vấn cho người bị bạo lực gia đình, chính sách bảo vệ bà mẹ
sinh con và nuôi con nhỏ.
21
Tỉnh cần xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật phù hợp với mục tiêu bình đẳng giới tại địa
phương. Xây dựng và thực hiện các chính sách nhằm thúc đẩy việc thực hiện các mục tiêu bình đẳng giới.
Ngoài ra, tỉnh cũng cần ban hành văn bản hướng dẫn công tác quản lý như các chính sách hỗ trợ, tư vấn cho
nạn nhân bị bạo lực gia đình để giúp đỡ những người này thoát khỏi bệnh bạo hành, sẵn sàng tố cáo các hành
vi bạo lực gia đình; tỉnh cần sớm ban hành các hướng dẫn đối với việc xử phạt các hành vi vi phạm hành
chính về bình đẳng giới; đối với việc nâng cao vị thế và sự tham gia của phụ nữ vào các hoạt động chính trị
và cơ quan quản lý nhà nước cần bổ sung chính sách ưu đãi, hỗ trợ đối với cán bộ nữ trong việc đi học, đào
tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ, xây dựng chính sách hỗ trợ và khuyến khích nữ tài năng trẻ,thực hiện tốt
chính sách về luân chuyển cán bộ nữ và giải quyết hợp lý vấn đề tuổi nghỉ hưu của cán bộ nữ làm công tác
quản lý và nghiên cứu khoa học; đối với công tác cán bộ nữ cần có chính sách mang tính chiến lược đồng bộ
trong toàn bộ công tác cán bộ của Đảng và Nhà nước.
Trên cơ sở quy hoạch, có kế hoạch tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ, tạo điều kiện để cán
bộ nữ cống hiến và trưởng thành, phấn đấu tăng tỷ lệ nữ trong các cấp ủy Đảng, cơ quan Nhà nước, trong các
lĩnh vực quản lý kinh tế, xã hội, y tế, giáo dục, khoa học, nghệ thuật. Bên cạnh đó, cần quan tâm lồng ghép
vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng chính sách và ban hành văn bản quy phạm pháp luật là một trong
những nội dung của lồng ghép giới, là biện pháp nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng giới bằng cách xác định
vấn đề giới, dự báo tác động giới của văn bản, trách nhiệm, nguồn lực để giải quyết vấn đề giới trong các
quan hệ xã hội được văn bản quản lý nhà nước điều chỉnh.
Đối với các chương trình, dự án, cần xem xét đến mức độ tác động của nó đến đời sống của cả nam
và nữ. Việc lồng ghép giới phải tiến hành bắt đầu từ bước xác định vấn đề cần giải quyết của dự án đến bước
cuối cùng là đánh giá kết quả thực hiện của dự án.
Tóm lại, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện hiệu quả thể chế và chính sách, các văn bản quy phạm
pháp luật về bình đẳng giới là biện pháp quan trọng để tạo cơ sở pháp lý và định hướng cho hoạt động quản
lý nhà nước về bình đẳng giới. Để làm được điều này thì các cấp, các ngành có liên quan cần phải có sự quan
tâm, trong đó ngành LĐTBXH giữ vai trò chủ động tham mưu và phối hợp với các ngành liên quan nhằm
xây dựng hoàn thiện hệ thống này. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh công tác truyền thông nâng cao nhận thức về
bình đẳng giới
3.3.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về bình đẳng giới tỉnh Đồng Nai
Hoạt động quản lý nhà nước về bình đẳng giới là một hoạt động rộng lớn, liên quan đến nhiều
ngành, nhiều lĩnh vực, chính vì vậy để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với bình đẳng giới cần hoàn
thiện hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về bình đẳng giới, nâng cao năng lực điều tra và thu thập số liệu về
giới, tăng cường về công tác tổ chức nhân sự, cơ sở vật chất kỹ thuật và đẩy mạnh phối hợp giữa cơ quan chủ
trì và các đơn vị liên quan nhằm thực hiệc hiệu quả các mục tiêu bình đẳng giới, đáp ứng yêu cầu phát triển
và xu hướng hội nhập của đất nước.
Hiện tại tỉnh Đồng Nai đang đánh giá mức độ thực hiện bình đẳng giới thông qua các chỉ tiêu của
mục tiêu về bình đẳng giới. Tuy nhiên, các chỉ tiêu theo chương trình quốc gia còn ít, chỉ thể hiện một phần
các số liệu cơ bản cần có đối với mỗi lĩnh vực chính trị, lao động, y tế, giáo dục, gia đình và năng lực quản
lý. Trong khi đó để có cái nhìn toàn diện về tình hình phát triển giới của tỉnh, có căn cứ số liệu phong phú
cho việc chứng minh sự phát triển giới cũng như đánh giá tình hình phát triển giới qua các giai đoạn và để
góp phần thực hiện có hiệu quả công tác quản lý nhà nước về bình đẳng giới, trong thời gian tiếp theo tỉnh
cần sớm xây dựng và ban hành bộ tiêu chí phát triển giới làm cơ sở dữ liệu phục vụ lâu dài cho công tác bình
đẳng giới và các công tác khác có liên quan, đồng thời xây dựng và hoàn chỉnh bộ chỉ tiêu thống kê phát
22
triển giới theo Quyết định số 56/QĐ-TTg ngày 14/10/2011 của Thủ tướng Chính phủ để đảm bảo tính thống
nhất thống kê và lưu trữ số liệu phù hợp với đặc điểm tình hình của địa phương.
Các cơ quan cần đề cao tính chủ động trong việc thực hiện thống kê giới; chấp hành nghiêm túc
chế độ báo cáo, biểu mẫu thống kê đầy đủ và kịp thời. Gắn trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan với số
liệu thống kê về giới do cơ quan mình thu thập, tổng hợp. Hệ thống chỉ tiêu phát triển giới phải được lồng
ghép trong hệ thống chỉ tiêu kế hoạch ngành và lĩnh vực và thực hiện đồng thời với thời gian xây dựng kế
hoạch ngành hàng năm.
3.3.3. Bồi dưỡng năng lực quản lý và chuyên môn cho đội ngũ cán bộ quản lý về bình đẳng giới
tỉnh Đồng Nai
Trong thời gian qua tỉnh Đồng Nai đã xây dựng được đội ngũ nhân sự làm công tác bình đẳng giới từ
cấp tỉnh đến cấp xã. Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ công chức làm công tác quản lý về bình đẳng giới chỉ có 05
cán bộ thuộc phòng bình đẳng giới, Sở LĐTBXH tỉnh là chuyên trách còn lại cấp huyện, cấp xã và các
ngành khác là kiêm nhiệm, bán chuyên trách, trong khi đó ngoài việc tham gia quản lý thì họ còn tham gia
vào công tác tham mưu xây dựng chính sách và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật. Chính vì kiêm
nhiệm, công việc nhiều, trình độ của nhiều cán bộ cấp cơ sở còn hạn chế, gây ảnh hưởng phần nào đến việc
tham mưu và tổ chức thực hiện.
Để khắc phục những tồn tại hạn chế của đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu, thực hiện lồng ghép
giới trong hoạch định chính sách cần củng cố đội ngũ cán bộ công chức làm công tác bình đẳng giới theo
hướng chuyên trách ở các cấp, đặc biệt là ở cấp cơ sở. Bên cạnh đó thường xuyên tổ chức tập huấn, hội thảo,
hội nghị, lồng ghép giới nhằm nâng cao năng lực tham mưu và ra quyết định cho đội ngũ cán bộ công chức
làm công tác bình đẳng giới.
3.3.4. Tăng hỗ trợ, huy động và sử dụng hiệu quả nguồn tài chính từ ngân sách tỉnh, từ xã hội
hóa trong thực hiện bình đẳng giới tỉnh Đồng Nai
Kinh phí luôn là một trong những vấn đề đầu tiên và quan trọng nhất để thực hiện công việc. Đảm
bảo kinh phí chính là đảm bảo điều kiện vật chất để tiến hành công việc.
Hiện nay, kinh phí hoạt động bình đẳng giới của tỉnh Đồng Nai gồm hai nguồn: ngân sách trung
ương và ngân sách địa phương. Tuy nhiên đến nay nguồn tài chính cho hoạt động bình đẳng giới của tỉnh
hoàn toàn dựa vào nguồn ngân sách nhà nước, chưa huy động được các nguồn đóng góp từ các tổ chức, cá
nhân, chưa khuyến khích các hoạt động tăng nguồn kinh phí.
Bình đẳng giới liên quan đến nhiều lĩnh vực, đặc biệt nó là vấn đề phức tạp đòi hỏi phải có sự đầu
tư lâu dài. Trước mắt, cần tập trung kinh phí để củng cố tổ chức bộ máy quản lý, xây dựng và phát triển đội
ngũ cán bộ cán bộ, công chức làm công tác bình đẳng giới. Tiếp theo đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và phát
triển hệ thống các dịch vụ hỗ trợ, thúc đẩy bình đẳng giới.
Vấn đề đảm bảo kinh phí không phải là cung cấp thật nhiều kinh phí cho hoạt động. Điều quan
trọng là phải sử dụng kinh phí thật hiệu quả, tiết kiệm, đầu tư đúng đối tượng, đúng mục đích, đảm bảo kinh
phí được triển khai đem lại lợi ích thiết thực tối đa cho những người được hưởng lợi từ các chính sách.
3.3.5. Tiến hành thường xuyên hoạt động thanh tra, kiểm tra, tổng kết, đánh giá và xử lý nghiêm
vi phạm trong thực hiện bình đẳng giới tỉnh Đồng Nai
Thanh tra, kiểm tra, tổng kết, đánh giá là việc làm cần thiết để đánh giá tình hình hoạt động, nhận xét
những ưu điểm, hạn chế, để từ đó tháo gỡ khó khăn, giải quyết những đề xuất, kiến nghị, có cơ sở biểu
dương, khen thưởng hoặc xử lý vi phạm các đơn vị được thanh tra, kiểm tra nhằm có kế hoạch, biện pháp
thúc đẩy giúp đơn vị hoạt động tốt hơn. Công tác thanh, kiểm tra phải tổ chức theo đúng quy định, quy trình.
23