Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

DSpace at VNU: Chất lượng cuộc sống của cán bộ nhân viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (272.5 KB, 6 trang )

CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG CỦA CÁN BỘ NHÂN VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, HÀ NỘI
Nguyễn Thành Trung1*, Ngô Thị Tâm2, Nguyễn Thị Trang2, Nguyễn Hoàng Long1,
Đặng Đức Nhu1
1
Khoa Y Dược , Đại học Quốc gia Hà Nội
2
Đại học Y Hà Nội

TÓM TẮT
Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện nhằm xác định thực trạng chất lượng cuộc sống trong cán bộ
trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn và tìm hiểu một số yếu tố liên quan. Tổng cộng có 210 cán
bộ giảng viên được chọn ngẫu nhiên tham gia vào nghiên cứu. Bộ công cụ EQ-5D-5L được sử dụng nhằm
đo lường chất lượng cuộc sống của cán bộ. Mô hình hồi quy tuyến tính đa biến được sử dụng để đánh
giá mối liên quan giữa chất lượng cuộc sống và một số yếu tố. Kết quả cho thấy có cán bộ trường có chất
lượng cuộc sống ở mức cao. Kết quả phân tích đa biến cho nhóm cán bộ nam giới và có số năm công tác
từ 5 đến dưới 10 năm cao hơn so với các nhóm khác. Nghiên cứu cho thấy, dù chất lượng cuộc sống của
cán bộ ở mức cao, các nhà lãnh đạo cần có những chiến lược nâng cao CLCS ở các nhóm thấp hơn như
nữ giới hoặc nhóm có số năm công tác ít.
Từ khóa: Chất lượng cuộc sống, cán bộ, trường đại học, eq-5d-5l

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đại học đóng vai trò không thể thiếu trong
hệ thống giáo dục của một quốc gia, chịu trách
nhiệm đào tạo và cung cấp cho xã hội nguồn
nhân lực chất lượng cao. Hiệu quả đào tạo của
một trường đại học phụ thuộc vào các cán bộ
đang công tác tại trường đó. Cán bộ có sức
khỏe về thể chất và tinh thần tốt sẽ giúp gia
tăng đáng kể năng suất hoạt động của cá nhân
và của tổ chức [1]. Do đó, hiểu biết về thực


trạng sức khỏe cũng như chất lượng cuộc sống
(CLCS) của cán bộ là những thông tin hữu ích
giúp cho lãnh đạo trường đại học trong quá
trình phát triển cơ sở.
Chất lượng cuộc sống được định nghĩa là
những cảm nhận của cá nhân về cuộc sống của
họ trong bối cảnh văn hóa và các hệ thống giá
trị nơi người đó đang sống và liên quan đến các
mục đích, nguyện vọng, tiêu chuẩn và các mối
quan tâm của họ [2]. CLCS chịu tác động bởi
nhiều yếu tố từ bên trong tới bên ngoài như đặc
điểm cá nhân, lối sống, hành vi, môi trường...
Vì CLCS là khái niệm dựa trên cơ sở cảm
nhận của mỗi cá nhân nên thường mang tính
chủ quan của người được hỏi. Do đó, để đánh
giá CLCS và có thể so sánh với các cộng đồng
*Tác giả: Nguyễn Thành Chung
Địa chỉ: Đại học Quốc gia Hà Nội
Điện thoại: 0984365689
Email:

khác cần có thước đo thống nhất và được sử
dụng phổ biến. Hiện nay, EQ-5D-5L được sử
dụng như một công cụ đánh giá CLCS phổ
biến [3]. EQ-5D-5L đánh giá CLCS thông qua
một chỉ số tổng hợp và là cấu phần quan trọng
trong các phân tích chi phí – hiệu quả. Ở Việt
Nam, bước đầu đã có những nghiên cứu sử
dụng EQ-5D-5L trong đánh giá CLCS như trên
bệnh nhân HIV/AIDS [4] hay trên đối tượng là

sinh viên năm thứ nhất [5]. Tuy nhiên, chưa có
nghiên cứu nào thực hiện trên đối tượng cán bộ
công tác tại các trường đại học.
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐHKHXHNV), thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội là
một trong những đơn vị đào tạo và nghiên cứu
trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn lớn
nhất cả nước, với gần 500 cán bộ và 15000 sinh
viên, học viên. Nghiên cứu này được thực hiện
nhằm mục tiêu mô tả thực trạng chất lượng
cuộc sống của cán bộ và giảng viên tại trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học
Quốc gia Hà Nội và một số yếu tố liên quan.

II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 9/2013
Ngày nhận bài: 01/12/2014
Ngày phản biện: 31/12/2014
Ngày đăng bài: 30/1/2015

Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXIV, Số 1 (161) 2015

69


đến tháng 2/2014 tại trường ĐHKHXHNV
2.2 Đối tượng
Cán bộ nhân viên của trường
2.3 Thiết kế nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu cắt ngang.

2.4 Cỡ mẫu và cách chọn mẫu
Cỡ mẫu được tính toán theo mục tiêu mô tả
thực trạng CLCS của cán bộ, nhóm tiến hành
chọn mẫu ngẫu nhiên đơn theo danh sách cán
bộ nhân viên. Cỡ mẫu dựa trên công thức ước
tính cỡ mẫu cho một giá trị trung bình.
σ2
n=
Z21-α/2
(με)2
Với α = 0,05 → Z1-α/2 = 1,96; σ = 0,26; μ
= 0,75 (trung bình CLCS theo nghiên cứu thử
trên 15 cán bộ); sai số tương đối ε = 0,05. Cỡ
mẫu cần thiết cho nghiên cứu là 185. Dự trù
10% đối tượng trong danh sách không đồng
ý tham gia cuộc điều tra. Tổng cộng có 203,
làm tròn là 210, cán bộ được mời tham gia vào
nghiên cứu.
2. 5 Công cụ và phương pháp thu thập số liệu
Bộ câu hỏi được xây dựng nhằm tìm hiểu
một số thông tin về đặc điểm cá nhân và CLCS
của cán bộ.
CLCS được đo lường bằng bộ công cụ EQ5D-5L, đã được chuẩn hóa và áp dụng ở Việt
Nam với Cronbach’s alpha = 0,8 [4]. Bộ công
cụ EQ-5D-5L đánh giá CLCS theo 5 khía cạnh:
đau đớn/khó chịu, lo lắng, khả năng đi lại, khả
năng làm việc hàng ngày và khả năng tự chăm
sóc bản thân, với 5 mức (1 = không có vấn đề
đến 5 = có vấn đề rất nhiều). Tổng hợp năm
đánh giá ở năm khía cạnh khác nhau có thể đưa

ra trạng thái sức khỏe của người được hỏi. Ví
dụ nếu cả 5 khía cạnh đều được đánh giá là
không có vấn đề gì, thì trạng thái sức khỏe của
người được hỏi là 11111. Mỗi trạng thái sức
khỏe tương ứng với một chỉ số tổng hợp được
quy định theo chuẩn quốc tế để đánh giá CLCS

70

(có giá trị từ 0 đến 1 với 0 thể hiện tử vong và 1
thể hiện sức khỏe tốt nhất có thể có) [3]. Trong
nghiên cứu này, thang chuyển đổi của Thái Lan
được sử dụng (do có sự tương đồng về kinh tế
và văn hóa giữa 2 nước).
2.6 Xử lý và phân tích số liệu
Số liệu được quản lý bằng phần mềm Epidata 3.1 và được phân tích bằng STATA 12.0.
Thống kê mô tả bao gồm trung bình, và độ lệch
chuẩn cho biến định lượng và tỷ lệ phần trăm
cho biến định tính được áp dụng. Kiểm định
Mann-whitney và Kruskal – Wallis được sử
dụng để xác định sự khác biệt về CLCS giữa các
nhóm. Hồi quy tuyến tính đa biến được áp dụng
để xem xét mối liên quan giữa CLCS và một số
yếu tố. Mức ý nghĩa thống kê với giá trị α = 0,05.
2.7 Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu được sự chấp thuận của hội
đồng đạo đức Khoa Y Dược, Đại học Quốc gia
Hà Nội. Thông tin các cán bộ cung cấp được
đảm bảo giữ bí mật và chỉ phục vụ cho mục
đích nghiên cứu.


III. KẾT QUẢ
Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong mẫu
nghiên cứu, tỷ lệ cán bộ nữ cao hơn tỷ lệ cán
bộ nam (nữ là 63,2%, nam là 36,8%), hơn một
nửa số cán bộ ở độ tuổi dưới 38 tuổi (58,6%).
Tình trạng hôn nhân chủ yếu là đã có vợ/chồng
chiếm 85,7%. Tỷ lệ cán bộ nhân viên có trình
độ sau đại học chiếm phần lớn (78,2%). Đa số
cán bộ là giảng viên, chiếm 63,2% còn lại là
chuyên viên chiếm 28,6% và tỉ lệ nhỏ giữ các
chức vụ khác. Số năm công tác trung bình là
13,9 ± 10,4 năm.
3.1 Thực trạng chất lượng cuộc sống của cán
bộ trường ĐHKHXHNV
Bộ công cụ EQ-5D-5L có hệ số cronbach’s
alpha = 0,8, cho thấy bộ công cụ có độ tin cậy
cao. Kết quả các khía cạnh của bộ công cụ theo
các mức độ được thể hiện ở hình 1.

Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXIV, Số 1 (161) 2015


Đau đớn, khó chịu (%)

Lo lắng, buồn phiền (%)


Rất
Tương Chút Không

cùng nhiều đối
ít
hề

Khó khăn đi lại do đau


Rất
Tương Chút Không
cùng nhiều đối
ít
hề


Rất
Tương Chút Không
cùng nhiều đối
ít
hề

Khó khăn khi làm việc thường ngày (%)

Khó khăn trong tự chăm sóc bản thân (%)

Chút Không

Rất
Tương ít
hề
cùng nhiều đối



Rất
Tương Chút Không
cùng nhiều đối
ít
hề

Hình 1. Mức độ các vấn đề theo thang đó

Nhìn chung, CLCS của cán bộ trường ĐHKHXHNV ở mức cao. Vấn đề sức khỏe chủ yếu là
đau đớn khó chịu và lo lắng buồn phiền, tuy nhiên

chiếm tỷ lệ thấp so với các nhóm cán bộ bình thường
3.2 Một số yếu tố liên quan tới chất lượng cuộc
sống của cán bộ trường ĐHKHXHNV.

Bảng 1. Chất lượng cuộc sống của cán bộ theo các nhóm đặc điểm cá nhân
Thông tin chung
Nhóm tuổi

Giới

Tình trạng hôn nhân

Trình độ học vấn

Tỉ lệ (%)

X (SD)


≤ 38 tuổi

60,9

0,83 (0,20)

39 – 49 tuổi

20,3

0,75 (0,19)

≥ 50 tuổi

18,8

0,77 (0,23)

Nam

36,8

0,84 (0,19)

Nữ

63,2

0,79 (0,21)


Độc thân

12,8

0,84 (0,17)

Có vợ/chồng

85,7

0,80 (0,21)

Li dị/li thân/góa

1,5

0,74 (0,37)

≤ Cao đẳng

3,0

0,81 (0,24)

Đại học

18,8

0,82 (0,21)


Sau đại học

78,2

0,80 (0,20)

100,0

0,80 (0,20)

Chung

Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXIV, Số 1 (161) 2015

p-value
> 0,05

< 0,05

> 0,05

> 0,05

71


Kết quả bảng 1 cho thấy, nam giới có chỉ số
CLCS cao hơn so với nữ giới có ý nghĩa thống kê
(p<0,05). Ở các nhóm khác, cán bộ thuộc lứa tuổi

≤ 38 tuổi, độc thân, có trình độ học vấn là đại

học có CLCS cao hơn so với các nhóm khác,
nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê
(p>0,05). Trung bình CLCS của cán bộ trường
ĐHKHXHNV bằng 0,80±0,20.

Bảng 2. Chất lượng cuộc sống của cán bộ theo các nhóm đặc điểm nghề nghiệp
Thông tin chung
Chức vụ hiện tại

Số năm công tác

Tỉ lệ (%)

X (SD)

Chuyên viên

28,6

0,83 (0,18)

Giảng viên

63,2

0,80 (0,21)

Khác


8,2

0,74 (0,18)

< 5 năm

21,1

0,78 (0,18)

5 – < 10 năm

18,8

0,85 (0,19)

10 – < 20 năm

37,6

0,78 (0,22)

≥ 20 năm

22,6

0,79 (0,21)

Kết quả bảng 2 cho thấy đối với các yếu

tố nghề nghiệp, kết quả cho thấy, không có sự
khác biệt về CLCS giữa các nhóm chức vụ.

p-value
> 0,05

< 0,05

Nhóm có số năm công tác từ 5 đến < 10 năm có
CLCS cao hơn so với các nhóm khác có ý nghĩa
thống kê (p<0,05).

Bảng 3. Mô hình hồi quy tuyến tính đa biến về tương quan giữa chất lượng cuộc sống
của cán bộ và một số yếu tố
Thông tin chung

Hệ số

p>t

Khoảng tin cậy 95%CI

39 – 49 tuổi

-0,108

0,077

-0,227


0,012

≥ 50 tuổi

-0,137

0,132

-0,317

0,042

0,09

0,03

0,032

0,142

Nhóm tuổi (so với ≤ 38 tuổi)

Giới (so với nữ)
Nam

Tình trạng hôn nhân (so với nhóm li dị, độc thân, góa)
Độc thân

-0,032


0,614

-0,159

0,094

Có vợ/chồng

-0,112

0,498

-0,437

0,214

Trình độ học vấn (so với ≤ Cao Đẳng)
Đại học

-0,063

0,608

-0,305

0,179

Sau đại học

-0,056


0,627

-0,281

0,170

Chức vụ hiện tại (so với nhóm chuyên viên)
Giảng viên

-0,038

0,466

-0,139

0,064

Khác

-0,079

0,333

-0,239

0,082

Số năm công tác (so với nhóm < 5 năm)


Hằng số

5 – < 10 năm

0,076

0,048

0,014

0,138

10 – < 20 năm

0,035

0,582

-0,091

0,161

≥ 20 năm

0,127

0,189

-0,063


0,317

0,879

0,000

0,590

1,168

p = 0,01
R2 = 0,076

72

Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXIV, Số 1 (161) 2015


Bảng 3 thể hiện sau khi điều chỉnh các yếu
tố, cán bộ là nam giới và có thời gian công tác
từ 5 đến 10 năm có chất lượng cuộc sống lớn
hơn so với các nhóm khác (p<0,05). Các đặc
điểm khác không thấy có mối tương quan.

IV. BÀN LUẬN
Nghiên cứu trên 210 cán bộ công nhân viên
Trường ĐHKHXHNV từ tháng 9/2013 đến
tháng 2/2014. Tỷ lệ cán bộ nữ cao hơn tỷ lệ cán
bộ nam (nữ là 63,2%, nam là 36,8%), đa số cán
bộ là giảng viên, chiếm 63,2%. Phân tích độ tin

cậy của bộ công cụ EQ-5D-5L cho thấy cronbach’s alpha = 0,8. Kết quả này tương đồng với
nghiên cứu của tác giả Trần Xuân Bách và cộng
sự [4], cho thấy bộ công cụ này có độ tin cậy
cao và có thể áp dụng cho những cộng đồng
khác nhau.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, CLCS của cán
bộ trường ĐHKHXHNV ở mức cao (CLCS =
0,80), tương đồng với cộng đồng người Việt
Nam [6] và tương đồng với kết quả nghiên cứu
trên nhóm sinh viên năm thứ nhất [5]. Vấn đề
sức khỏe chủ yếu gặp ở nhóm đối tượng này là
các vấn đề về lo lắng, buồn phiền. Nghiên cứu
cũng cho thấy, nam giới có CLCS tốt hơn so với
nữ giới và những cán bộ có thời gian công tác
từ 5 đến 10 năm có CLCS cao hơn so với các
nhóm khác. Có thể do nam giới có nhiều thời
gian chơi thể thao, đi giao lưu với bạn bè đồng
nghiệp, còn nữ giới ngoài việc đi làm ở trường
về vẫn phải lo việc nhà như chăm sóc con cái,
thổi cơm, dọn nhà,… cho nên chất lượng cuộc
sống cũng giảm hơn so với nam giới. Đối với
chất lượng cuộc sống của cán bộ có thời gian
công tác từ 5 đến 10 năm cao hơn đối tượng
mới vào vì công việc và thu nhập có phần ổn
định, trong khi đó những cán bộ mới vào làm
việc sẽ có mức lương thấp hơn cho nên thường
có suy nghĩ thay đổi công việc cho nên cũng
phần nào ảnh hưởng đến chất lượng sống. Điều
này là chỉ báo cho thấy cần có những biện pháp
trợ giúp những đối tượng có CLCS thấp hơn

như nữ giới hay các nhóm mới đi làm chưa đến
5 năm... thông qua tăng cường các hoạt động
giúp đỡ, tương trợ cũng như tổ chức các hoạt
động giúp nâng cao tinh thần và sự gắn kết giữa
các cán bộ.
Nghiên cứu này có một số hạn chế. Do đây

là nghiên cứu mô tả cắt ngang nên chưa đánh
giá được xu hướng thay đổi CLCS theo thời
gian. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng mới chỉ
xem xét giới hạn một số yếu tố nhân khẩu học
và nghề nghiệp. Nhóm nghiên cứu khuyến nghị
cần có những nghiên cứu sâu hơn về từng vấn
đề như các mối quan hệ trong cơ quan, trường
học ảnh hưởng tới CLCS hay các hành vi sức
khỏe của cán bộ ảnh hưởng tới CLCS, nhằm
cung cấp các bằng chứng toàn diện nhất cho
các hoạt động dự phòng và can thiệp dài hạn.

V. KẾT LUẬN
Chất lượng cuộc sống của cán bộ trường
ĐHKHXHNV ở mức cao tương đương với
cộng đồng chung. Một số vấn đề hay gặp chủ
yếu là lo lắng buồn phiền và có chút ít đau đớn,
khó chịu. Nam giới có chỉ số CLCS cao hơn so
với nữ giới có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Ở các
nhóm khác, cán bộ thuộc lứa tuổi ≤ 38 tuổi, độc
thân, có trình độ học vấn là đại học có CLCS
cao hơn so với các nhóm khác, nhưng sự khác
biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Phân

tích hồi quy đa biến cho thấy yếu tố nam giới
và thời gian công tác từ 5 đến dưới 10 năm có
liên quan tới CLCS của cán bộ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Semnani ASH, Ramezani ZN, Leila Samaee. A comparison of the Health Related
Quality of Life of the Active and Sedentary
Faculty Members of IAU. European Journal of Experimental Biology 2012; 2(5):
1843-1846.
2. World Health Organization, WHOQOL:
Measuring quality of life. 1997. Division
of Mental Health and Prevention of Substance Abuse, Geneva, Switzerland.
3. EuroQOL Group. EQ-5D-5L User Guide:
Basic information on how to use the EQ5D-5L instrument. 2013. Rotterdam, The
Netherlands. />Folders_Flyers/UserGuide_EQ-5D-5L.
pdf.
4. Tran BX, Ohinmaa A,Nguyen LT. Quality
of life profile and psychometric properties
of the EQ-5D-5L in HIV/AIDS patients.
Health Qual Life Outcomes 2012. 10:132.
73
Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXIV, Số 1 (161) 2015


5. Nguyễn Hoàng Long, Hoàng Minh Tuấn,
Nguyễn Thành Trung và cộng sự. Tình
trạng dinh dưỡng và chất lượng cuộc sống
của sinh viên năm thứ nhất Đại học Quốc
gia Hà Nội. Tạp chí Y học dự phòng 2014;


24(6): 96-102.
6. Tran BX, Ohinmaa A, Nguyen LT et al.
Determinants of health-related quality of
life in adults living with HIV in Vietnam.
AIDS Care. 2011; 23(10):1236-1245.

QUALITY OF LIFE OF STAFFS AT
UNIVERSITY OF SOCIAL SCIENCES AND HUMANITITES, HANOI
Nguyen Thanh Trung1, Ngo Thi Tam2, Nguyen Thi Trang2, Nguyen Hoang Long1,
Dang Duc Nhu1
1
School of Medicine and Pharmacy, Vietnam National University, Hanoi
2
Hanoi Medical University
A cross-sectional study was conducted to
identify the current situation of quality of life
among staffs at University of Social sciences
and Humanitites, Hanoi and determine some
related-factors. A total of 210 staffs and
lecturers were selected randomly. EQ-5D-5L tool
was used to measure quality of life. Multivariate
linear regression was used to evaluate the
association between quality of life and some
factors. The study showed that staffs had

74

high quality of life. Results of multivariable
analysis suggested that male staffs and staffs

having work time from 5 to under 10 years
had high quality of life than others. The study
suggested that leaders of university should
prepare a strategy for improving quality of life
of groups such as female or staffs having lower
work time.
Keywords: Quality of life, staffs, university,
eq-5d-5l

Tạp chí Y học dự phòng, Tập XXIV, Số 1 (161) 2015



×