Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

Ứng dụng những đặc sắc văn hoá thời Nguyễn vào kinh doanh du lịch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.15 KB, 43 trang )

MỤC LỤC
1

Khái quát chung bối cảnh lịch sử thời Nguyễn..............................................2
1.1

Bộ máy nhà nước........................................................................................3

1.1.1 Chính quyền trung ương.........................................................................3
1.1.2 Chính quyền địa phương.........................................................................4
1.2

Kinh tế..........................................................................................................6

1.2.1

Nông nghiệp...........................................................................................6

1.2.2

Thương nghiệp......................................................................................6

1.2.3 Thủ công nghiệp.......................................................................................7
1.3

Pháp luật......................................................................................................8

2. Những đặc trưng văn hoá thời Nguyễn...........................................................9
2.1

Tôn giáo và tín ngưỡng...............................................................................9



2.1.1

Tôn giáo.................................................................................................9

2.1.2

Tín ngưỡng..........................................................................................12

2.2 Lễ hội.............................................................................................................15
2.3

Ẩm thực......................................................................................................17

2.4

Văn nghệ truyền thống và văn học..........................................................21

2.4.1 Văn nghệ truyền thống.........................................................................21
2.4.2 Văn học....................................................................................................23
2.5

Mỹ thuật, trang phục và kiến trúc..........................................................24

2.5.1

Kiến trúc..............................................................................................24

2.5.2 Trang phục.............................................................................................27
2.5.3 Mỹ thuật..................................................................................................29

3. Ứng dụng những đặc sắc văn hoá thời Nguyễn vào kinh doanh du lịch....32
3.1

Một số di sản văn hoá thời Nguyễn.........................................................32
1


3.2

Vận dụng đặc sắc văn hoá triều Nguyễn vào kinh doanh du lịch.........35

4. Đánh giá...........................................................................................................37
4.1

Thực trạng chất lượng dịch vụ du lịch ở Huế........................................37

4.2

Nguyên nhân..............................................................................................38

4.3

Giải pháp phát triển dịch vụ du lịch Huế...............................................38

4.3.1

Giải quyết khâu yếu kém về cơ sở hạ tầng.......................................38

4.3.2


Đào tạo đội ngũ nhân viên lao động chuyên nghiệp........................38

4.3.3

Chiến lược quảng bá – xúc tiến.........................................................39

4.3.4

Phối hợp giữa các ngành....................................................................39

2


LỜI MỞ ĐẦU
Nhà Nguyễn (Hán văn: 阮 阮 ) là triều đại quân chủ cuối cùng cai trị Việt Nam
trong lịch sử Việt Nam từ năm 1802 đến 1945, được thành lập sau khi hoàng
đế Gia Long lên ngôi năm 1802 sau khi đánh bại nhà Tây Sơn và chấm dứt hoàn
toàn khi hoàng đế Bảo Đại thoái vị vào năm 1945 – tổng cộng là 143 năm. Triều
đại Nhà Nguyễn là một triều đại đánh dấu nhiều thăng trầm của lịch sử, đặc biệt
là cuộc xâm lược của người Pháp giữa thế kỷ 19. Triều Nguyễn có thể chia làm
hai giai đoạn: giai đoạn Độc lập và giai đoạn Pháp thuộc. Trong bài thảo luận này,
chúng tôi chỉ nghiên cứu giai đoạn nhà Nguyễn độc lập.
Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua đặt niên hiệu Gia Long đóng đô ở Huế mở
đầu cho vương triều Nguyễn với 13 đời vua tồn tại 143 năm (1802 – 1945). Đây
là một thời kỳ đầy biến động và phân hóa sâu sắc trong lịch sử nước nhà, là tấm
gương phản chiếu hơn ngàn năm của chế độ quân chủ phong kiến Việt Nam và là
đêm trước của công cuộc giành độc lập và xây dựng đất nước hiện nay.
Chính vì ra đời và tồn tại trong một giai đoạn khá đặc biệt nên vương triều này có
những đặc điểm so với các triều khác thì giống có khác cũng có, đặc biệt là đặc
điểm về văn hóa. Sau đây, chúng tôi sẽ trình bày chi tiết về những đặc điểm đó và

kèm theo là sự đánh giá cũng như vận dụng những đặc điểm đó trong việc thừa
kế, gìn giữ và phát huy những văn hóa có trong thời Nguyễn.
1 Khái quát chung bối cảnh lịch sử thời Nguyễn.
Nhà Nguyễn độc lập kéo dài từ năm 1802 đến năm 1883 trải qua bốn đời vua.
Vua
Nguyễn Phúc Ánh
Nguyễn Phúc Kiểu
Nguyễn Phúc Miên Tông
Nguyễn Phúc Hồng Nhậm

Niên hiệu
Gia Long
Minh Mạng
Thiệu Trị
Tự Đức

3

Thời gian
1802 - 1820
1820 - 1841
1841 - 1847
1847 - 1883


Chân dung vua Gia Long
1.1 Bộ máy nhà nước
1.1.1 Chính quyền trung ương
Nhà Nguyễn về cơ bản vẫn giữ nguyên hệ thống quan chế và cơ cấu chính quyền
trung ương giống như các triều đại trước đó. Đứng đầu Nhà nước là vua, nắm mọi

quyền hành trong tay. Có 3 tổ chức cao nhất mang tính chất tư vấn là "tứ trụ đại
thần", Cơ mật viện và Nội các. Tứ trụ đại thần nằm trong Hội đồng quyền nhiếp,
tạm thay khi vua vắng mặt, gồm 4 vị: Đông các điện đại học sĩ, Cần chánh điện
đại học sĩ, Văn minh điện đại học sĩ và Võ hiển điện đại học sĩ.
Cơ mật viện do Minh Mạng lập ra, phỏng theo Khu mật viện nhà Tống và quân
cơ xứ nhà Thanh bên Trung Quốc, mục tiêu như lời Minh Mạng nói khi thành lập
nhằm "để gặp có việc quân, việc nước to lớn sẽ có chỉ dụ chọn các quan đại thần
sung vào để tỏ ý thận trọng". Quan chức Cơ mật viện có hàm tam phẩm trở lên,
nhưng thường trực chỉ có một viên Ngoại lang (tòng ngũ phẩm).

4


Giúp vua giải quyết giấy tờ, văn thư và ghi chép có Văn thư phòng (năm 1829
đổi là Nội các). Biên chế Nội các gồm có 4 vị quan chức từ Tam phẩm trở xuống,
thuộc các Bộ, Viện đưa sang làm việc. Có 2 người nữa lấy từ Thị lang các Bộ
hoặc Chưởng viện học sĩ sung vào làm Thượng bảo thiếu khanh cùng 28 hành tẩu
giúp việc. Trong Nội các có Thượng bảo tào, Ty luân tào, Bản chương tào. Năm
1823 đổi tên thành 4 Sở: Thượng bảo, Ty luân, Bá thư và Bản chương.
Bên dưới, triều đình lập ra 6 Bộ - đây là cơ quan thực sự điều hành bộ máy nhà
nước. Đứng đầu mỗi bộ là quan Thượng Thư chịu trách nhiệm chỉ đạo các công
việc chung của Nhà nước. Các bộ có chức năng như sau:
- Bộ Lại: lo việc thăng giáng các quan trong kinh ngoài trấn, chỉnh đốn
phương pháp làm quan giúp chính sự trong nước.
- Bộ Lễ: giữ trật tự 5 lễ hài hòa giữa thần và người, trên và dưới, giúp việc lễ
trong nước, lo những việc lớn như: lễ nghi, giáo dục và đối ngoại.
- Bộ Hình: Lo việc pháp luật, làm án để nghiêm phép nước.
- Bộ Hộ: lo nắm giữ các chính sách điền thổ, hộ khẩu, tiền thóc trong nước,
cân đối việc phát ra, thu vào để điều hòa nguồn của cải trong nước.
- Bộ Binh: lo việc tuyển dụng, bổ nhiệm các chức võ quan trong ngạch, khảo

duyệt vũ khí, lương thực để giúp chính trị trong nước.
- Bộ Công: lo việc thợ thuyền, đồ dùng trong thiên hạ, phân biệt vật hạng, xét rõ
tài liệu để sửa sang việc nước.
Thượng thư các Bộ nằm trong "cửu khanh" quan trọng nhất của triều đình và
thường kiêm nhiệm các việc khác. Bên cạnh 6 Bộ còn có Đô sát viện (tức là Ngự
sử đài bao gồm 6 khoa) chịu trách nhiệm thanh tra quan lại; Hàn lâm viện phụ
trách các sắc dụ, công văn; Tự phụ trách một số sự vụ, phủ Nội vụ coi sóc các kho
tang;Quốc tử giám phụ trách giáo dục; Thái y viện chịu trách nhiệm về việc chữa
bệnh và thuốc thang,... cùng với một số Ti và Cục khác.
1.1.2 Chính quyền địa phương
Ngạch quan lại chia làm 2 người: Đứng đầu tỉnh là Tổng đốc (mỗi người phụ
trách 2-3 tỉnh và chuyên trách 1 tỉnh) và Tuần phủ (dưới Tổng đốc, phụ trách chỉ 1
tỉnh). Giúp việc có Bố chánh sứ ti lo về thuế khóa, hộ khẩu, hành chính; Án sát sứ
ti lo về an ninh, luật pháp. Phụ trách về quân sự có chức lãnh binh. Tất cả các
quan chức đứng đầu tỉnh đều do chính quyền trung ương trực tiếp bổ nhiệm, và
thường là võ quan cao cấp (về sau nhà Nguyễn mới bổ dụng thêm các quan văn).
Hệ thống chính quyền được phân biệt rõ rệt giữa trung ương và địa phương, và

5


trong hệ thống này nhà vua là người đứng đầu đất nước, nắm nhiều quyền lực hơn
hẳn so với các thời kỳ trước.
Dưới tỉnh là phủ, huyện, châu, tổng và xã. Quan chức của triều đình chỉ phân
ra tới phủ huyện, từ tổng trở xuống thuộc về quyền tự trị của dân. Người dân tự
lựa chọn lấy người của mình mà cử ra quản trị mọi việc tại địa phương. Tổng gồm
có vài làng hay xã, có một cai tổng và một phó tổng do Hội đồng Kỳ dịch của các
làng cử ra quản lý thuế khóa, đê điều và trị an trong tổng. Nhưng nhìn chung là cơ
cấu hành chính của các tổng, xã được tổ chức khá chặt chẽ để triều đình có thể dễ
dàng quản lý và phản ứng mau lẹ khi có sự biến xảy ra.

Ngạch quan lại chia làm 2 người: Đứng đầu tỉnh là Tổng đốc (mỗi người phụ
trách 2-3 tỉnh và chuyên trách 1 tỉnh) và Tuần phủ (dưới Tổng đốc, phụ trách chỉ 1
tỉnh). Giúp việc có Bố chánh sứ ti lo về thuế khóa, hộ khẩu, hành chính; Án sát sứ
ti lo về an ninh, luật pháp. Phụ trách về quân sự có chức lãnh binh. Tất cả các
quan chức đứng đầu tỉnh đều do chính quyền trung ương trực tiếp bổ nhiệm, và
thường là võ quan cao cấp (về sau nhà Nguyễn mới bổ dụng thêm các quan văn).
Hệ thống chính quyền được phân biệt rõ rệt giữa trung ương và địa phương, và
trong hệ thống này nhà vua, người đứng đầu đất nước, nắm nhiều quyền lực hơn
hẳn so với các thời kỳ trước.
Dưới tỉnh là phủ, huyện, châu, tổng và xã. Quan chức của triều đình chỉ phân
ra tới phủ huyện, từ tổng trở xuống thuộc về quyền tự trị của dân. Người dân tự
lựa chọn lấy người của mình mà cử ra quản trị mọi việc tại địa phương. Tổng gồm
có vài làng hay xã, có một cai tổng và một phó tổng do Hội đồng Kỳ dịch của các
làng cử ra quản lý thuế khóa, đê điều và trị an trong tổng. Nhưng nhìn chung là cơ
cấu hành chính của các tổng, xã được tổ chức khá chặt chẽ để triều đình có thể dễ
dàng quản lý và phản ứng mau lẹ khi có sự biến xảy ra.
Ngạch quan lại chia làm 2 ngành văn và võ. Kể từ thời vua Minh Mạng được
xác định rõ rệt giai chế phẩm trật từ cửu phẩm tới nhất phẩm, mỗi phẩm chia ra
chánh và tòng 2 bậc. Trừ khi chiến tranh loạn lạc còn bình thường quan võ phải
dưới quan văn cùng phẩm với mình. Quan Tổng đốc (văn) vừa cai trị tỉnh vừa chỉ
huy quân lính của tỉnh nhà.
1.2 Kinh tế
1.2.1 Nông nghiệp
6


Triều Nguyễn có những chính sách ưu đãi để phát triển nông nghiệp, như là: cấm
mua bán ruộng đất công, lập kho Thường bình, Sở Tịch điền, Sở Diễn canh, kho
Bình thiếu, Sở Đồn điền, Đàn Xã tắc,.. Năm 1828, Minh Mạng giao cho bộ
Lễ soạn thảo chu đáo các điển lễ khôi phục lại nghi lễ Tịch điền và làm thành luật

lệ lâu dài, cũng như quy định rất nghiêm túc, cụ thể.
Về vấn đề ruộng đất, ngay khi mới lên ngôi, Gia Long đã phải ra lệnh cấm bán
ruộng đất công và quy định chặt chẽ việc cầm cố loại công điền công thổ này để
bảo đảm đất cày cho mọi người nông dân. Tại miền Nam, nhà Nguyễn vẫn tiếp
tục việc khai hoang và phục hóa, từ thời các chúa Nguyễn để lại như việc khẩn
hoang, mở rộng, phát triển nông nghiệp. Ngoài ra, triều đình nhà Nguyễn còn
khuyến khích nhân dân tự do khai hoang kết hợp phục hóa. Việc đinh điền cũng
có chỉnh đốn và kiểm soát chặt chẽ hơn.
Các vua thời Nguyễn rất chú ý đến vấn đề trị thuỷ.Việc đắp đê, sửa chữa và khám
xét được quy định tỉ mỉ. Năm 1809, hệ thống đê điều ở Bắc Thành tổng cộng là
239.933 trượng tương đương 960 km. Sau 21 năm dưới thời nhà Nguyễn, chiều
dài các con đê ở Bắc Kỳ đã tăng lên 303.616 trượng tương đương 1.215 km. Tới
cuối thế kỷ XIX, hệ thống đê này đã dài tới 2.400 km.
1.2.2 Thương nghiệp
Thương mại Việt Nam sau khi đất nước được thống nhất vẫn không phát triển lắm
tổ chức thương mại của người Việt sơ sài, trong phạm vi gia đình. Nếu có
những hội buôn lớn thì cũng chỉ là những phường họp vài thương gia góp vốn với
nhau để kinh doanh rồi chia tiền ngay, không liên kết lại thành những hội buôn
làm ăn lâu dài. Nhiều người Việt Nam dùng tiền của để mua ruộng đất chứ không
đầu tư kinh doanh, khuếch trương thương mại hay công nghệ. Việc buôn bán ở
các chợ quy mô lớn do thương nhân Hoa kiều chi phối, dù những người này chỉ là
thiểu số. Các mặt hàng tiêu dùng họ kinh doanh gồm có: mua thổ sản
như gạo, lúa, bắp, đường, hạt tiêu... và bán và nhập cảng trà, thuốc Bắc, vải, đồ
đồng, giấy. Trong vùng nông thôn, hoạt động thương mại cũng chỉ nhằm trao đổi
nông sản và hàng tiểu thủ công ở các chợ. Ở đó, ngoài những cửa hàng tạp
hóa quy mô nhỏ hay các cửa tiệm bán thuốc Bắc, còn có những nông dân bán thổ
sản và nông sản địa phương và một số thương nhân nhỏ bán vải vóc, hàng xén,
cau thuốc, đi rong từ chợ này sang chợ khác. Theo sử gia Trần Trọng Kim,
7



người Việt Nam chỉ quanh quẩn trong nước, buôn bán những hàng hóa lặt vặt, nên
bao nhiêu mối lợi lớn về tay người ngoài mất.
Còn về ngoại thương, chủ yếu là buôn bán với Trung Quốc và Singapore.Cho tới
thời Thiệu Trị, chính sách ngoại giao của nhà Nguyễn với phương Tây khá cẩn
trọng nhưng thương mại với họ vẫn được khuyến khích.Sau năm 1818, các
thương gia phương Tây khỏi phải trả thuế nhập cảng quá cao, chỉ vài loại hàng
mới phải chịu thuế xuất cảng còn phần lớn được miễn. Hoạt động thương mại của
Việt Nam với các nước láng giềng không thể phát triển tự do khi các quan chức
đánh thuế nặng lên thương mại, còn thủ tục thì rất phiền phức. Ngoài ra, triều đình
còn cấm đoán một số mặt hàng, muốn bán phải có giấy phép riêng.Guồng máy
hành chính của nhà Nguyễn cản trở rất nhiều các hoạt động của thương nhân
trong thế kỷ XIX mà cũng không có một tầng lớp trung lưu làm giàu bằng thương
mại để thúc đẩy triều đình mở rộng giao dịch quốc tế. Về các thành thị công
thương thì Hội An, Phố Hiến, Thanh Hà do nhiều nguyên nhân trở nên suy tàn và
không thể phục hồi như xưa; còn Thăng Long, Bến Nghé, Đà Nẵng vẫn tiếp tục
cuộc sống công thương như bình thường; Gia Định vẫn phát triển đều đặn. Xuất
hiện thêm vài hiệu buôn người Hoa, một số phường thủ công cũng ổn định mặt
hàng nhưng không thay đổi nhiều.

1.2.3 Thủ công nghiệp
Thủ công nghiệp Nhà nước thời Nguyễn chế tạo tất cả những đồ dùng cho
hoàng gia, tham gia đóng thuyền cho quân đội, đúc vũ khí, đúc tiền... Chính vì
vậy, nhà Nguyễn cũng tập trung xây dựng hệ thống các xưởng thủ công Nhà nước,
nhất là ở kinh đô và các vùng phụ cận.Nhà Nguyễn cũng lập các Ti trông coi các
ngành thủ công. Ví dụ như ti Vũ khố chế tạo quản lý nhiều ngành thủ công khác
nhau, gồm 57 cục: làm đất, đúc, làm đồ vàng bạc, vẽ tranh, làm ngói, làm đồ pha
lê, khắc chữ, đúc súng, làm trục xe, luyện đồng,...Ti Thuyền chịu trách nhiệm về
các loài thuyền công và thuyền chiến, gồm 235 sở trên toàn quốc.Ngoài ra còn có
các ti Doanh kiến, ti Tu tạo, ti Thương bác hoả dược.

Phần lớn nhân lực trong các xưởng thủ công Nhà nước là do triều đình trưng dụng
thợ khéo trong các ngành như khảm xà cừ, kim hoàn, thêu thùa... tới làm việc để
cung cấp đồ dùng cho triều đình. Vì vậy người thợ luôn tìm cách trốn tránh dù
triều đình áp dụng những biện pháp trừng phạt nặng nề để ngăn chặn.
8


Nhà Nguyễn cũng tập trung tham gia quản lý khai mỏ. Đến nửa đầu thế kỷ 19,
triều đình đã quản lý 139 mỏ, và năm 1833 có 3.122 nhân công trong các mỏ Nhà
nước. Tuy nhiên, phương thức khai mỏ thời bấy giờ vẫn kém phát triển so với thế
giới.
1.3 Pháp luật
Lúc đầu, nhà Nguyễn chưa có một bộ luật rõ ràng, chi tiết.Vua Gia Long chỉ mới
lệnh cho các quan tham khảo bộ luật Hồng Đức để rồi từ đó tạm đặt ra 15 điều
luật quan trọng nhất. Năm 1811, theo lệnh của Gia Long, tổng trấn Bắc Thành là
Nguyễn Văn Thành đã chủ trì biên soạn một bộ luật mới và đến năm 1815 thì nó
đã được vua Gia Long ban hành với tên Hoàng Việt luật lệ hay còn gọi là luật Gia
Long . Bộ luật Gia Long gồm 398 điều chia làm 7 chương và chép trong một bộ
sách gồm 22 cuốn, được in phát ra khắp mọi nơi. Hoàng Việt luật lệ được xây
dựng trên cơ sở khảo xét, tham chiếu bộ luật Hồng Đức (tức Quốc triều Hình luật,
là bộ luật của nhà Lê ), nhưng chủ yếu là mượn bộ luật của nhà Thanh, dù đã được
chỉnh sửa và cập nhật cho phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam lúc bấy giờ.
Bộ luật Gia Long nói riêng và pháp luật thời Nguyễn nói chung thể hiện rất rõ ý
đồ bảo vệ quyền hành tuyệt đối của nhà vua và đề cao địa vị của quan lại và gia
trưởng, trừng trị tàn bạo những người chống đối. Tuy nhiên, bộ luật cũng đề cao
việc chống tham nhũng và đặt ra nhiều điều luật nghiêm khắc để trừng trị tham
quan.Tất nhiên, đến các đời vua sau Gia Long, bộ luật này cũng được chỉnh sửa
và cải tiến nhiều, nhất là dưới thời Minh Mạng.
2.


Những đặc trưng văn hoá thời Nguyễn.

2.1

Tôn giáo và tín ngưỡng

2.1.1 Tôn giáo
Trải qua mấy thế kỉ nội chiến liên miên, sự bất ổn định của tình hình kinh tế,
chính trị, xã hội là điều kiện để cho tôn giáo phát triển.Dưới thời nhà Nguyễn,
ngoài đạo giáo, phật giáo, nho giáo còn có sự xuất hiện và phát triển của thiên
chúa giáo.
Trước khi bị thực dân pháp can thiệp, nước Việt Nam vẫn còn là một nhà nước
phong kiến độc lập. Song sự bùng phát các sinh hoạt tôn giáo với một số nhân tố
mới đã đặt ra cho nhà Nguyễn những thách thức không nhỏ.Trước tiên là chính
sách độc tôn nho giáo trong mối tương quan của truyền thống tam giáo. Trong 3
9


tôn giáo Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo duy chỉ có Nho giáo với tư cách là quốc
giáo được triều đình tạo điều kiện phát triển, còn lại Phật giáo, Đạo giáo đều bị
hạn chế. Lên nắm quyền trong tình hình chính trị xã hội không thuận lợi, triều
Nguyễn chủ trương dựa vào Nho giáo để tập trung quyền lực, củng cố vương
quyền và ổn định xã hội.Tuy nhiên tình hình phát triển của Phật giáo, Đạo giáo đã
cản trở quá trình tập trung quyền lực của triều Nguyễn.Năm 1804, sau khi lên
ngôi vua Gia Long đã phải ra những chỉ định về tôn giáo nhằm hạn chế sự phát
triển của các tôn giáo trong nước và chấn chỉnh kỉ cương xã hội.
Tư tưởng đề cao Nho giáo và Nho học của Minh Mạng có liên quan đến những
vấn đề rất cơ bản, đó là: vị trí của người hiền, những biện pháp chính trong việc
cầu hiền và những nguyên tắc cần phải tuân theo trong việc dùng người. Việc
Minh Mạng kế thừa và phát triển ý đồ của người cha, tức vua Gia Long, ở tinh

thần đề cao Nho giáo, Nho học ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX cũng là điều hiển
nhiên. Thứ nhất, ông tôn Nho giáo lên địa vị thống trị về mặt hệ tư tưởng, nhờ đó
mà giai đoạn trị vì của Minh Mạng là thời kỳ thịnh trị nhất trong lịch sử phong
kiến Việt Nam. Thứ hai, khác với Gia Long, ông vua đầu tiên của triều Nguyễn đã
tỏ ra rất thận trọng trong quan hệ với Thiên Chúa giáo, Minh Mạng đã có thái độ
dứt khoát, thậm chí có thể nói là tàn bạo đối với tôn giáo phương Tây này. Quan
điểm nhất quán của ông là “trong một nước không thể có hai đạo”, tức là “quốc
giáo” mà ở triều Nguyễn đã tôn lên địa vị hàng đầu là Nho giáo. Qua đó cho thấy,
Minh Mạng không đặt vấn đề chống Phật, bởi ông dùng từ “trọng kính đức Phật”,
mà chỉ tập trung chống Thiên Chúa giáo một cách tàn bạo để bảo vệ “chính đạo”
(đạo Nho).
Về Phật giáo: Các vua nhà Nguyễn ủng hộ đạo Phật phục hồi. Dưới triều Nguyễn,
đạo Phật đã được phần nào chỉnh đốn, phục hồi sau khi bị chiến tranh tàn phá.
Khác với chúa Nguyễn xem đạo Phật như là chỗ dựa tinh thần cho sự nghiệp lập
quốc an dân, các hậu duệ của họ từ vua Gia Long đến các đời vua kế tiếp lại sùng
Nho giáo, lấy Khổng học làm nền tảng chỉ đạo đường lối cai trị. Tuy vậy, đối với
Phật giáo, họ vẫn có thiện niệm và ủng hộ đáng kể nên đạo Phật đã có điều kiện
chỉnh đốn phục hồi. Các vị vua Nguyễn đều có những hoạt động hỗ trợ đạo Phật
như xây dựng mới hoặc trùng tu các chùa chiền bị hư hại, nhất là bởi chiến sự,
dựng tháp, đúc chuông, cấp bộ điệp, sắc lập cùa công (quan tự), bổ dụng tăng
cang, trụ trì để lãnh đạo tăng chúng, chuẩn cấp lương bổng, cấp ruộng cho các
chùa để cung ứng lương thực kinh tế sinh hoạt chùa chiền.

10


- Vua Gia Long cho trùng tu chùa Thiên Mụ, chùa Tam Thai (Quảng Nam –
1825), chùa Thánh Duyên (cửa biển Tư Hiền – 1826), tái trùng tu chùa Thiên Mụ
(1831), chùa Túy Vân (1837). Năm 1882, vua cho triệu tập cao tăng ở các tỉnh về
kinh để Bộ Lễ xem xét rồi cấp giới đao độ điệp.

- Vua Thiệu Trị lại cho trùng tu chùa Túy Vân (1841) và liệt chùa này vào hàng
thắng tích của đất thần kinh. Năm 1844, nhà vua sắc dựng ở trước chùa Thiên Mụ
một ngôi tháp bảy tầng (cao 21,24m), đặt tên là Tứ Nhơn Tháp. Năm sau, đổi lại
là Phước Duyên Bảo Tháp (nay hiện còn) và cũng trong năm nay, nhà vua sắc
dựng chùa Diệu.
- Vua Tự Đức, năm 1850 nghị chuẩn rằng các chùa công phải có tăng cang trị trì,
có lương bổng chu cấp. Năm 1854, sắc cấpcông điền cho các chùa ở kinh Thiên
Mụ, Diệu Đế, Thánh Duyên, Linh Hựu, Long Quang và các chùa ở nơi khác như
Tam Thái, Ứng Châu (Quảng Nam), Khải Tường (Gia Định),...
Khác với Phật Giáo, Thiên chúa giáo dưới triều Nguyễn đã gặp phải các chính
sách nhằm tiêu diệt của các vị vua nhà Nguyễn:

- Triều Gia Long (1802 – 1819)
Trong các vua triều Nguyễn ở thời kỳ tự chủ, Gia Long là người rất có thiện
chí với Thiên chúa giáo nhưng ông vẫn chủ trương bảo vệ Nho giáo và nghi lễ thờ
cúng tổ tiên; ông cũng cho rằng địa ngục, thiên đàng của luận thuyết Thiên chúa
giáo là sự dị đoan chỉ làm mê hoặc, quyến rũ những người thiếu hiểu biết.Nhưng
quan điểm của vua Gia Long cho rằng người theo Thiên chúa giáo cũng là công
dân nếu họ không tin tưởng vào thờ cúng tổ tiên và các thần linh thì cũng không
nên cấm đoán họ.Không một lệnh cấm đạo nào được ban hành dưới thời Gia
Long, các giáo sĩ đều cho rằng đây là giai đoạn thuận lợi cho việc truyền giáo ở
Việt Nam.Tuy nhiên, Gia Long vẫn thấy nguy cơ về mất chủ quyền mỗi khi cơ hội
đến với phương Tây thông qua con đường bảo vệ đạo Thiên chúa nên ông căn dặn
người kế vị (Minh Mạng) không nên đối xử phân biệt giữa các đạo Nho, Phật,
Thiên chúa giáo. Việc khủng bố tôn giáo sẽ là nguyên nhân dẫn đến các biến động
xã hội và gây ra thù oán trong nhân dân; đôi khi làm sụp đổ cả ngôi vua.
- Triều Minh Mạng (1820-1840) và Triều Thiệu Trị (1841 – 1847)

11



Các vua đều ban hành dụ cấm đạo: Buộc tất cả những người theo đạo phải bỏ
đạo trong vòng một năm, xây dựng chùa chiền vào những nơi trước đây xây dựng
nhà thờ. Tất cả thần dân phải tích cực trông nom chùa chiền.Rất nhiều người đã bị
xử tội chết khi truyền bá đạo Thiên Chúa.
- Triều Tự Đức (1848 – 1883)
Những áp lực quân sự và ngoại giao của Pháp đã đưa đến những sóng gió dưới
triều đình Tự Đức, gây ra nhiều biến cố trong giáo hội Thiên chúa giáo ở Việt
Nam.Giai đoạn 1848 – 1862 là thời kỳ khốc liệt trong cuộc chiến Việt – Pháp
không cân sức cũng là thời kỳ sát đạo gay gắt của triều đình Huế với các nhà
truyền giáo và giáo dân.Năm 1861, Tự Đức ra sắc lệnh “Phân tháp giáo dân”
nhằm phân tán, cô lập, kiểm soát và tiêu diệt mầm chống dối của giáo dân. Chỉ dụ
này được các cấp chính quyền chấp hành nghiêm chỉnh là một đòn chính trị, tâm
lý đánh vào cân não và tình cảm của giáo dân và tổ chức của giáo hội Thiên chúa
giáo; làm phá hủy các làng và các cơ sở Thiên chúa giáo, các gia đình theo Thiên
chúa giáo buộc phải ly tán để tự tiêu vong, họ hàng, bà con xa lánh. Giáo dân
không có cơ hội để làm lễ, sinh hoạt hội đoàn, cách ly với các giáo sĩ và các tổ
chức tôn giáo; bản thân những người theo đạo thường xuyên bị giám sát, con cái
bị cách ly khỏi môi trường tôn giáo và làm con tin.Giai đoạn 1862-1874 là thời kỳ
hiệp thương, nhân nhượng của triều đình nên Thiên chúa giáo được tự do truyền
giảng. Khoản 2 của hiệp ước Nhâm Tuất (1862) quy định: “Công dân hai nước
Pháp và Tây Ban Nha có thể hành đạo Gia Tô trong nước Việt Nam và công dân
của nước này, bất luận ai, nếu muốn theo đạo Gia Tô thì theo và không bị ngăn
trở; nhưng không được cưỡng bức ai trở thành tín đồ Gia Tô nếu người ấy không
muốn”.
Năm 1865, Tự Đức lại ra một chỉ dụ chính thức cho phép các giáo sĩ tự do truyền
giáo và dân chúng được tự do theo đạo.
Chính sách đối với Thiên chúa giáo có liên quan trực tiếp đến chủ quyền và vận
mệnh dân tộc là một sai lầm của triều Nguyễn để cả dân tộc phải trả giá bằng máu
xương và sự sỉ nhục, là bài học muôn thuở để các thế hệ Việt Nam tìm cho mình

một chính sách tôn giáo đúng đắn, phù hợp trong từng giai đoạn lịch sử và bối
cảnh chính trị trong nước và quốc tế khác nhau.
2.1.2 Tín ngưỡng
12


2.1.2.1 Tín ngưỡng phồn thực
Đây là tín ngưỡng mang tính biểu tượng linh thiêng được thể hiện rõ nhất trong
các lễ hội diễn ra vào mùa xuân, mùa của sự sinh sôi, nảy nở.Một số nghi lễ phồn
thực còn được cách điệu hóa thành những trò chơi dân gian ngày xuân, tiêu biểu
nhất là trò đấu vật.Sới vật ở bất cứ đâu cũng đều có hình tròn và thường được đặt
trước sân đình hình vuông. Đó không phải là sự sắp đặt ngẫu nhiên mà đều có ý
nghĩa sâu xa của nó, bởi vuông và tròn theo quan niệm của dân tộc Việt là 2 hình
toàn vẹn. Hình tròn tượng trưng cho trời, cho tính dương, hình vuông tượng trưng
cho đất, cho tính âm, vuông và tròn - âm và đương dặt cạnh nhau nghĩa là một sự
kết hợp hài hòa, trọn vẹn và mang lại những điều tốt đẹp. Bởi vậy người Việt xưa
không coi đấu vật là trò chơi đơn thuần mà thông qua trò chơi này người ta mong
cho dương vượng để có mưa thuận gió hòa, cây cối, mùa màng tốt tươi. Các trò
chơi, màn biểu diễn mang giá trị nghệ thuật trong hội làng đã phản ánh được nội
dung một hình thức tín ngưỡng dân gian.Những trò diễn đó nhằm biểu đạt lòng tin
của người xưa vào thế giới hư ảo, bên ngoài nhưng thể hiện giá trị thực tiễn của
lòng tin đó là con người rất mực chân thành đối với điều mình ngưỡng mộ và phải
có lòng tin đó thì con người và cộng đồng đó mới tiến hành một cuộc sống bình
thường được.Con người thời xưa tự hình thành các tín ngưỡng dân gian và lấy
những niềm tin đó làm giàu có thêm đời sống tinh thần của cộng đồng. Tín
ngưỡng phồn thực còn được thể hiện cả trong hội họa mà đặc trưng là dòng tranh
Đông Hồ ở Bắc Ninh.Rất nhiều bức tranh mang sắc thái phồn thực, thể hiện ước
mong một cuộc sống viên mãn như tranh đàn gà, đàn lợn, đàn cá.
2.1.2.2


Tín ngưỡng thờ thành hoàng làng

Theo sách “Khâm Định Đại Nam Hội điển sự lệ”, ở kinh đô Huế vào thời
Nguyễn, việc tế tự các thần được thực hiện ở đàn, đền, miếu… Riêng miếu thờ có
nhiều loại như miếu thờ Công thần mở nước, miếu thờ Công thần đời Trung
Hưng, miếu thờ Công thần Trung tiết, miếu thờ Công thần các trực, tỉnh; miếu
Tiên y, miếu thờ Thần mưa, miếu thờ Thần gió, miếu thờ Nam Hải Long Vương,
miếu thờ Thần cửa bể Tư Hiền, miếu thờ Hà Bá, miếu thờ Thần lửa, miếu thờ
Thần súng, miếu Hội đồng, miếu thờ Thành hoàng…Ở kinh đô Huế miếu thờ
Thành hoàng lập năm 1809 : “Gia Long năm thứ 8, chuẩn lời nghị; làm miếu ở
bên hữu trong kinh thành, chính giữa đặt một án phụng thờ Thành hoàng ở kinh
đô, 2 bên trái bên đông bên tây đều đặt 5 án thờ phụ, phụng thờ các Thành hoàng
13


tỉnh…”.Minh Mạng năm thứ 20 (1839), chuẩn lời tâu của bộ Lễ đổi miếu Hội
đồng thành miếu Thành hoàng, “Khi mới khôi phục nước nhà, đã dựng miếu thờ
Thành hoàng, lại dựng thêm 2 nhà tòng tự.Nhà bên tả thờ các vị thần Thành hoàng
các tỉnh từ Quảng Bình trở vào Nam. Nhà bên hữu thờ các vị thần Thành hoàng từ
Hà Tĩnh trở ra Bắc. Các tỉnh có riêng miếu Hội đồng phụng thờ các vị thần kỳ, mà
không đặt riêng miếu thờ Thành hoàng bản hạt. “Ôi! Thành hoàng trừ tai ngăn
hoạn, thật có công đức với dân. Các nơi sở tại đặt nhà riêng là lễ vậy; xin hạ lệnh
cho các địa phương lập thêm thần vị Bản cảnh Thành hoàng ở trong miếu Hội
đồng.Bàn thờ các vị thần kỳ đem đặt ở hai gian bên tả bên hữu.Khắc lại cái biển
treo trong miếu làm miếu Thành hoàng.Các bài vị tòng tự trong miếu Thành
hoàng ở kinh đô đều đem rước ra đốt cháy”.Nhưng khi Thiệu Trị lên ngôi thì cho
thành lập miếu Thành hoàng ở các tỉnh, còn miếu Hội đồng vẫn giữ như
cũ.“Thiệu Trị năm đầu (1841) xuống dụ : Từ trước đến giờ thần vị Thành hoàng
các trực tỉnh, từng được phụ thờ ở miếu Đô Thành hoàng tại kinh thành.Năm
trước Bộ lễ nghị xin cho các hạt làm thần bài, bày thờ ở miếu Hội đồng thực hạt

mình, rồi đổi gọi miếu Hội đồng là miếu Thành hoàng…Trẫm kính nối nghiệp
lớn, được theo chí tiên đế cử hành lễ trọng, sắp đặt phẩm trật các thần, nghĩ rằng:
Các vị thần trước đây ở miếu Hội đồng, phần nhiều là thượng đẳng thần, giúp
nước che chở dân, có công đức rõ rệt, chưa tiện cho thay đổi ngay…Vậy thông dụ
cho các trực tỉnh được làm miếu riêng thờ Thành hoàng ở nơi gần tỉnh, thành,
doanh để chỗ tôn thờ; còn miếu Hội đồng cũ vẫn cho phụng thờ theo như trước,
không nên thay đổi”.Như vậy từ năm 1841 thời Thiệu Trị ngoài miếu Thành
hoàng ở kinh đô Huế, các tỉnh, thành đều có miếu thờ Thành hoàng. Riêng Nam
bộ, một số nơi có miếu thờ Thành hoàng khá sớm. Chẳng hạn ở Gia Định miếu
Thành hoàng được xây dựng vào năm 1807, trước 2 năm so với miếu Thành
hoàng ở kinh đô Huế: “Ở phía Nam sông Tân Bình, cách phía Đông Nam trấn 6
dặm rưỡi, nguyên xưa là ngôi đình cúng tế các vị âm thần. Năm Gia Long thứ 6
(Đinh Mão, 1807) phụng chỉ dựng nhà ngói làm miếu Thành hoàng trong trấn,
xuân thu 2 kỳ tế lễ, trấn quan đến hành lễ”.
Miếu thờ Thành hoàng đã lập ở kinh đô Huế vào năm 1809, đến năm 1841 ở các
tỉnh có miếu thờ Thành hoàng.Riêng ở Gia Định lập miếu thờ Thành hoàng vào
năm 1807, sớm hơn 2 năm so với miếu Thành hoàng ở kinh đô Huế. Nội dung về
sắc thần Thành hoàng ở kinh đô Huế và càc tỉnh chưa được công bố rộng rãi. Việc
phong sắc thần cho các đình làng có từ thời Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và
14


nhiều nhất là thời Tự Đức. Về thần hiệu, trước thời Nguyễn đã có nhân thần và
thiên thần. Năm 1804, Gia Long cho xếp các thần này vào 3 hạng: hạng trên, hạng
giữa, hạng dưới.Đặc biệt là vào năm 1850, Tự Đức cho gia tăng mỹ tự ghi vào sắc
phong cho 6 loại thần (Thiên thần, Thổ thần, Sơn thần, Thủy thần, Dương thần,
Âm thần), liệt vào 3 hạng (thượng đẳng, trung đẳng, hạ đẳng).Qua đó cho thấy
đình làng thờ nhiều vị thần có sắc phong chưa kể một số thần không có sắc phong.
Thần Thành hoàng thờ ở đình thường được ghi là “Thành hoàng bổn cảnh” chỉ là
thần hạ đẳng trong loại Thổ thần được gia tặng mỹ tự “Đôn ngưng” vào thời Tự

Đức và mỹ tự “Dực bảo Trung hưng” ở các thời sau. Đình làng là nơi thờ Thần
chứ không phải chỉ dành riêng thờ thần Thành hoàng.Có nhiều đình thờ những
loại thần khác như thờ Thuỷ thần, hoặc Dương thần, hoặc Âm thần…và đều có
nhiệm vụ giúp đỡ bảo vệ cho dân.
2.2 Lễ hội
Lễ hội là sinh hoạt văn hoá tinh thần của một cộng đồng người và đã có từ lâu
trong lịch sử của nhân loại nói chung và của dân tộc Việt Nam nói riêng. Lễ hội
phản ánh một cách rõ nét những đặc trưng về lịch sử và văn hoá của mỗi địa
phương và của từng quốc gia.Tất cả 54 tộc người trên đất nước ta đang bảo tồn
được một số lượng lễ hội truyền thống rất phong phú và đa dạng. Chúng giữ một
vị trí xứng đáng trong kho tàng văn hoá của dân tộc.Hiện nay, nhìn chung trong cả
nước, lễ hội dân gian thì địa phương nào cũng có và đang diễn ra hàng năm;
nhưng, về lễ hội cung đình thì chỉ Huế mới có khả năng phục hồi. Lý do rất dễ
hiểu: đây từng là kinh đô cuối cùng trong lịch sử các triều đại quân chủ Việt, và
triều đại quân chủ cuối cùng ấy, triều Nguyễn (1802 - 1945), mới chấm dứt cách
đây chỉ hơn nửa thế kỷ. Với các loại hình di sản văn hoá ấy, nhất là với bối cảnh
kiến trúc cổ kính ấy, người ta có thể tái hiện những lễ hội cung đình đã từng diễn
ra tại đây; tất nhiên là để giới thiệu một cách sinh động những đặc trưng văn hoá
nghệ thuật cao cấp của một thời và để phục vụ du lịch.
Theo những tư liệu chính thống của triều Nguyễn, các lễ hội cung đình bấy giờ
được chia làm 2 loại: loại Tiết lễ và loại Tế tự.Loại Tiết lễ: gồm các kỳ triều hội
hàng tháng còn Loại tế tự bao gồm: Lễ tế Trời Đất ở Đàn Nam Giao; Lễ tế Xã
Tắc…Ngoài ra, triều đình còn cử hành các lễ hội thường kỳ và bất thường kỳ sau
đây: Lễ Tiến Xuân ngưu vào ngày Lập xuân; Lễ Thanh minh; Lễ Trùng cửu; Ngày
Hổ quyền; Lễ Phất thức; Lễ Thánh thọ (sinh nhật Hoàng Thái hậu), Lễ Tiên thọ
15


(sinh nhật Hoàng Thái phi), Lễ Thiên xuân (sinh nhật Hoàng Thái tử), lễ Thiên
thu (sinh nhật Hoàng hậu); Lễ Hưng quốc Khánh niệm (ngày mồng 2 tháng 5 âm

lịch); v.v...Như vậy, các lễ hội cung đình ngày xưa ở Kinh đô Huế là rất phong
phú và đã từng diễn ra tại nhiều địa điểm khác nhau ở miền núi Ngự sông
Hương.Ngày nay, Cố đô Huế, với những giá trị toàn cầu nổi bật của nó đã trở
thành một trung tâm văn hoá và du lịch quốc gia và quốc tế, và đang dần dần được
khẳng định là “Thành phố Festival đặc trưng của Việt Nam”. Chứa đựng trong
lòng mình một kho tàng to lớn những di sản văn hoá vật thể và phi vật thể, Huế
hoàn toàn có khả năng chọn lựa để tái hiện những lễ hội cung đình đặc sắc, hoành
tráng và thích hợp nhất nhằm phục vụ cho nhu cầu văn hoá và du lịch của thời
đại.Theo thiển ý, với Quần thể Di tích vàng son cổ kính giữa bối cảnh thiên nhiên
êm đềm thơ mộng mà Huế may mắn còn bảo tồn được, chúng ta có thể phục hồi
dần các lễ hội cung đình mang giá trị cao về lịch sử, văn hoá và nghệ thuật truyền
thống, chẳng hạn như:
- Lễ Truyền lô của một khoa thi Hội, thi Đình ở Ngọ.
- Lễ Đăng quang hoặc Lễ Nguyên đán.
- Lễ Thánh thọ .
- Lễ tế Trời Đất ở Đàn Nam Giao.
- Lễ Tứ tuần hoặc Ngũ tuần
- Lễ “Hạ giá”.
- Lễ vua đi Du Xuân.
- Lễ Thanh minh của vua và hoàng gia ở các lăng tẩm.
Ví dụ như Lễ Tế Trời Đất ở Đàn Nam Giao: Đàn Nam Giao là nơi các vua
Nguyễn tế trời, được đặt tại làng An Ninh vào năm 1803, thời vua Gia Long. Năm
1806, đàn được dời về phía Nam của Kinh Thành - nay là địa phận phường
Trường An, thành phố Huế.Đây là đàn tế trời duy nhất ở Việt Nam còn khá
nguyên vẹn, với rừng thông xanh bao bọc quanh đàn. Trước đây, đích thân vua
cùng các quan trong triều phải trồng và chăm sóc những cây thông này. Đối với
họ, đây là chốn thiêng liêng bậc nhất cần phải gìn giữ. Ngày nay, số thông cũ tuy
không còn nhưng một loạt các cây khác đã được tiếp tục trồng thay thế. Đàn gồm
3 tầng, xây chồng lên nhau, tượng trung cho “tam tài“: thiên, địa, nhân. Theo quan
niệm “Vua là Thiên tử“ (con trời) nên chỉ có vua mới được quyền cúng tế trời đất

(cha mẹ của vua), cầu cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, tạ ơn trời đất. Lễ
16


Tế Giao đầu tiên dưới thời Nguyễn được tổ chức năm 1807 và từ đó trở đi được tổ
chức vào mùa xuân hàng năm cho đến thời Thành Thái, vào năm 1907, thì đổi lại
3 năm một lần. Cuộc lễ chính thức bắt đầu lúc 2 giờ sáng, với nhiều nghi lễ lần
lượt tiến hành ở các tầng đàn, có sự tham gia của các quan cũng như sự góp mặt
của dàn nhạc (chuông, trống, chiêng, khánh, tù và, nhị, sáo...). 128 văn công và vũ
công múa Bát Dật, các ca công hát 9 khúc nhạc tế trong 9 giai đoạn khác nhau của
cuộc lễ. Sau gần 3 tiếng đồng hồ, buổi tế mới kết thúc.Lễ Tế Giao cuối cùng của
nền quân chủ Việt Nam được tổ chức dưới thời vua Bảo Đại, vào nửa đêm rạng
ngày 23-3-1945, đúng 5 tháng trước khi nền quân chủ ấy sụp đổ hoàn toàn. Ngày
nay, đàn Nam Giao trở thành một chứng tích lịch sử quan trọng trong cụm di tích
triều Nguyễn.
Lễ hội cung đình Huế đang trở thành một di sản văn hoá tinh thần và là một sản
phẩm du lịch cao cấp nhất; là phần hồn sẽ làm sống động và nâng cáo giá trị hơn
cho các di tích kiến trúc mà chúng ta còn gìn giữ được. Nếu chúng ta không phục
hồi ngay từ bây giờ, thì e sẽ muộn màng. Mấu chốt của vấn đề được đặt ra hiện
nay là việc tổ chức thực hiện của các nhà quản lý văn hoá và hoạch định du lịch
tại địa phương.
2. 3 Ẩm thực
Nói đến ẩm thực xứ Huế, người ta thường nghĩ đến lối ăn cung đình, một phong
cách ẩm thực được hình thành để phục vụ triều đình nhà Nguyễn trong hơn một
thế kỷ đóng đô ở đây.
Theo số liệu thống kê gần đây, Việt Nam có khoảng 1.700 món ăn, trong đó riêng
vùng đất Thừa Thiên Huế có tới 1.300 món, cho thấy ẩm thực Thừa Thiên Huế
nói chung và ẩm thực cung đình nói riêng rất đa dạng và phong phú.
Thành lập năm 1802, đến năm 1808, dưới triều Minh Mạng, bộ phận bếp núc
chính thức có tên gọi là Thượng Thiện đội, chuyên lo việc bếp núc, từ mua sắm

thức ăn, nấu nướng, chuẩn bị bát đĩa, tăm, thìa cho bữa ăn của vua và cúng giỗ
của hoàng gia. Nhân viên đội Thượng Thiện có khoảng 50 người, phải chịu nhiều
điều cấm để bảo đảm an toàn trong việc ăn uống và đặt dưới sự giám sát của viện
Thái Y. Bên cạnh đội Thượng Thiện, trong cung còn có viện Thượng Trà chuyên
trách việc cung cấp đồ uống cho vua và cúng giỗ của hoàng gia.
17


Bữa cơm vua không những chỉ trình bày tỉ mỉ đẹp mắt, màu sắc hài hòa thanh nhã
mà phải lo chăm chút từng món ăn cho phù hợp, món này không kiêng kỵ món
kia, phải biết kết hợp giữa các loại thực phẩm và gia vị một cách tinh tế của nóng
và lạnh, của sự cân bằng âm và dương, nước uống phải tinh sạch, gạo thơm lựa
từng hạt để cho bữa Ngự Thiện được hoàn mỹ. Đồ ngự dụng gồm chén, bát, đĩa
bằng men lam, những đôi đũa vua dùng được vót bằng tre vừa trổ đủ lá một ngày
thay một lần...
Ông hoàng, bà chúa khẩu vị mỗi người mỗi khác…
Theo những bậc cao niên kể lại, các bữa ăn hàng ngày của ông hoàng bà chúa
trong cung không khác những bữa ăn của dân thường là bao. Món ăn được ưa
thích của mẹ vua Bảo Đại vẫn chỉ là cá bống kho, canh cá óc mó, canh rau dại nấu
với tôm... Vua Gia Long cũng được ghi nhận là ăn uống giản dị nhất, không bao
giờ uống rượu, bữa ăn chỉ gồm ít thịt, cá, cơm, rau, bánh, trái… khi vua ăn không
ai được ngồi cùng, kể cả hoàng hậu.
Vào đầu thế kỷ này, một vị phu nhân trong hoàng tộc đã ghi lại những món bà
thường ăn để truyền lại cho con cháu học theo. Tập sách mỏng có tên là Thực phổ
bách thiện giới thiệu 100 món ăn theo thể văn vần. Điều khiến ta ngạc nhiên là
những món ăn đó không khác mấy so với món ăn dân dã. Thịt thú rừng chỉ chiếm
4%, trong khi đó thịt nói chung chiếm 17%, gia cầm chiếm 9%, tôm cá 28%
chiếm tỷ lệ cao nhất. Nếu tìm những món lạ và đắt tiền như vi cá, hải sâm, yến
sào... thì chỉ có 5%. Ngược lại những món ăn bình thường như rau dưa chiếm tỷ lệ
cao là 28% và các thứ mắm chiếm 14%.

Cách ăn uống giản dị này còn thể hiện qua những sản phẩm mà triều đình quy
định cho các địa phương cúng tiến hàng năm theo mùa. Điểm lại các sản vật cung
tiến được ghi trong sách xưa, ta thấy hầu hết chỉ là những hoa quả thông thường
được trồng ở các địa phương như: dừa ở Vĩnh Long, Định Tường, xoài Phú Yên,
bòng bong Quảng Nam, cam đường Thanh Hóa, Hải Dương, vải Hà Nội, mắm
rươi Ninh Bình, Nam Định, lê Cao Bằng, Tuyên Quang. Tỉnh phải nộp nhiều thứ
nhất là Quảng Bình thì cũng chỉ là dưa hấu, bột hoàng tinh, tương đậu, rượu dâu,
thịt cửu khổng khô (ruột một thứ sò lớn ở biển). Đây đều là những đặc sản địa
phương, có thể thu hoạch một cách dễ dàng, không phải mất công khó nhọc lên

18


rừng xuống biển tìm kiếm như xưa kia người Việt phải làm để cung tiến cho triều
đình Trung Hoa.
Một số món ngự thiện đã được đưa vào ca Huế qua điệu Nam Ai, liệt kê gồm:
nem công, thấu thỏ, xôi vò, nham bò, trứng gà lộn, khum lệt, xào lươn, bó sò trâu,
chiên cua gạch, hầm câu, cao lầu, kho tàu, thịt quay, dưa gia, kiệu thịt phay, gầm
ghì, măng cày, hon hôn, nướng sẻ, um cò, tao sò, mực trộn, gân chân vịt, giò nai,
cháo hải sâm, kim châm, da bì, bành mì tây....
Đỉnh cao của nghệ thuật ẩm thực cung đình Huế phải kể đến những yến tiệc được
tổ chức vào những dịp hưng quốc, đại khách, lễ đăng quang, lễ sinh nhật nhà vua
(hoặc hoàng thái hậu, hoàng hậu, hoàng tử, công chúa…), thiết đãi tân khoa, tiếp
thần sứ nước ngoài…
Theo sách Khâm Định Đại Nam hội điển sự lệ do Nội các nhà Nguyễn biên soạn,
cỗ bàn được chia làm nhiều loại: cỗ hạng lớn gồm 161 phẩm vị, cỗ ngọc soạn có
30 đĩa, cỗ quý có 50 phẩm vị, cỗ điểm tâm có 12 phẩm vị. Ngoài ra còn có các cỗ
chay để cúng chùa hạng nhất có 25 món, hạng hai có 20 món.... Mỗi loại cỗ, yến
đều được quy định thứ bậc và định giá.
Khác với vua chúa phương Tây và Trung Hoa thường lấy săn bắn làm thú giải trí

vương giả, và sự xuất hiện của thịt thú rừng trên bàn tiệc của các lãnh chúa vương
công là chuyện thường xuyên, thì vua chúa Việt Nam ít ăn thịt thú rừng. Thịt dã
thú chỉ thấy trong cỗ cúng với số lượng rất hạn chế: hươu, lợn rừng, công, tê tê,
vịt nước, đuôi cá sấu... Hàng năm, trước ngày giỗ 12 hôm, các đội lính săn gồm
300 người và 100 con chó săn được bủa đi săn thú rừng, tối thiểu mỗi kỳ phải săn
được từ 10-20 con, cũng là một số lượng không lớn.
Các vua triều Nguyễn chuộng “đặc sản”.Theo lời người già trong hoàng tộc kể lại
thì có một món ăn lạ là "sâu mây" rất được các vua nhà Nguyễn ưa chuộng. Đây
là một loại ấu trùng sống trong thân cây mây mọc trên rừng.Người ta chặt mây,
lấy những con sâu đó về, đem thả vào ngọn cây mía trồng trong vườn. Con nhộng
đục thân mía để ăn. Chờ đúng ngày nhộng vừa lớn mới chẻ cây mía ra, lấy nhộng
làm thức ăn. Ngoài ra còn có một loại thức ăn được vua chúa nhà Nguyễn ưa
thích, đó là con đuông, một loại ấu trùng sống trên ngọn cây dừa, vì vậy mang vị
ngọt của cùi dừa, muốn lấy con đuông phải chặt cả cây dừa, chỉ những vùng trồng
dừa ở miền Nam mới lấy được. Đuông hẳn là một món ăn quý, chẳng thế mà hình
19


ảnh và tên của nó đã được khắc trên Cửu đỉnh trước Thái Miếu của kinh thành
Huế với cái tên "hồ da tử".
Nhìn chung, ngoài những món ăn thông thường được đội Thượng thiện tinh chế
cầu kỳ, mỗi bữa Ngự thiện thường có thêm vài ba món ăn quý hiếm, trong đó có 8
món đặc biệt được gọi là “bát trân”: nem công, chả phượng, da tây ngưu, bàn tay
gấu, gân nai, môi đười ươi, thịt chân voi, yến sào. 8 món này dành riêng cho các
bậc vua chúa để bồi bổ thần kinh, tăng cường sinh lực, dẻo dai gân cốt và kéo dài
tuổi thọ. Ngày nay một số thú rừng nói trên gần như tuyệt chủng, cần phải được
bảo vệ thay vì giết để lấy thịt, chỉ món yến sào và hải sâm còn được phổ biến.
Dù là món dân dã hay cao lương mỹ vị, cái khác cơ bản ở đây chính là cách nấu
nướng sạch sẽ, thực phẩm có chọn lọc hơn và đặc biệt là cách trình bày đẹp và
tinh xảo. Nhà văn Nguyễn Tuân đã từng nhận xét rằng người Huế ăn bằng mắt,

bằng mũi trước khi ăn bằng miệng. Tỷ dụ như các thứ rau, dưa được tỉa thành
những bông hoa, rau muống ăn sống phải chẻ nhỏ như sợi bún, bánh đậu xanh
được nặn thành hình trái cây với màu sắc như thật, chả thịt lợn kết hợp với rau củ
xếp thành hình công, phượng với tên gọi "nem công, chả phượng". Bởi vậy, tuy
chưa hẳn ẩm thực cung đình Huế tiêu biểu cho phong cách ăn uống của dân tộc
nhưng đã đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật ăn uống Việt Nam.
Ẩm thực dân gian Huế và ẩm thực cung đình Huế có những nét tương đồng bởi
những người đầu bếp của hoàng cung cung xuất thân từ dân gian mà ra và các
nguyên liệu ở nội trù cũng được mua ngoài phố chợ trừ một vài loại quý hiếm. Ở
nông thôn, đa số là gia đình lao động trên đồng ruộng hay bách nghệ, người dân
tuy cần chất lượng hơn mỹ thuật, bữa ăn thường ngày đơn giản là cua đồng, cá
ruộng, rau vườn tuy nhiên khi cần thanh nhã như tiệc, kỵ giỗ...thì đầu bếp vẫn có
thể thực hiện những món ăn tinh xảo.
Ngoài những nét đặc trưng tổng quát của ẩm thực Việt Nam, ẩm thực dân gian
Huế mang những đặc trưng riêng, nổi bật. Một là tính đa dạng, trên mỗi bữa ăn
thường với nhiều chất liệu thịt, cá, rau quả và được thể hiện qua nhiều món như
canh, kho, luộc, nướng, xào, hấp...Hai là tính mỹ thuật, dù giàu nghèo, mâm cơm
bao giờ cũng sắp xếp gọn gàng, tươm tất trên bàn, trên phản, chõng hay trên chiếc
chiếu trải giữa nhà; lễ tiệc phải chú ý bày biện, phối hợp màu sắc của các thực đơn
để hấp dẫn người ăn. Thứ ba là tính tập thể, tất cả các món đều được bày ra hết,
nhất là trọng kỵ giỗ và có thể chúng được bày chồng lên nhau, mỗi mâm cỗ dành
20


cho nhiều người. Thứ tư là tính tinh tế và ngon lành, kể cả món mặn lẫn món
chay, và để thu hút thực khách, người Huế thường đặt tên cho món ăn những tên
gọi đầy hoa mỹ.
2.4 Văn nghệ truyền thống và văn học
2.4.1 Văn nghệ truyền thống
Văn nghệ truyền thống phát triển phong phú. Nghệ thuật sân khấu, tuồng, chèo

phổ biến khắp nới, nhất là vào các dịp hội làng. Ở miền xuôi, có làn điệu quan họ,
trống quân, hát lo, hát dặm, hát tuồng,.. Ở miền núi, có hát lượn, hát xoan,... Tiêu
biểu cho văn nghệ truyền thống thời này phải kể đến Nhã nhạc cung đình Huế và
tuồng Huế.
Nhã nhạc cung đình Huế
Theo những tài liệu tham khảo hiện có, thời kỳ vàng son của âm nhạc cung đình
Đại Việt - Việt Nam - Đại Nam là thịnh thời triều Nguyễn trước khi kinh đô Phú
Xuân (Huế) thất thủ vào năm 1885. Hai tài liệu chủ yếu là Lịch triều hiến chương
loại chí của Phan Huy Chú (đầu thế kỉ XIX) và Khâm định Đại Nam hội điển sự
lệ của Quốc sử quán (giữa thế kỉ XIX) cho biết: Từ sau khi Gia Liều nhạc,
Thường triều nhạc, Yến nhạc, Cung trung chi nhạc đã ảnh hưởng qua lại nhiều với
nhạc cổ điển đất nước và con người thính phòng (ca Huế, đờn Huế) và nhạc tuồng
cổ điển, cung đình (thanh nhạc và nhạc múa của hát bội Huế). Đáng chú ý là
nhiều nhà hát, rạp hát lớn nhỏ của vua, đại thần và dân thường được xây dựng làm
nơi biểu diễn nhạc cung đình, nhạc cổ điển, hát bội hay nhạc dân gian: Duyệt thị
đường trong hoàng thành, Minh Khiêm đường trong lăng Tự Đức, Cửu tư đài
trong cung Ninh Thọ, rạp hát ông Hoàng Mười, nhà hát Mai Viên tại tư dinh
thượng thư Đào Tấn, đã không loại trừ sự tấp nập của những rạp hát ông Sáu Ớt
(Nguyễn Nhơn Từ), rạp hát gia đình họ Đoàn (ở An Cựu), rạp hát bà Tuần (tồn tại
đến 1975), v.v...
1802 - 1819: Thời Gia Long, Việt tương đội, một tổ chức âm nhạc cung đình lớn
được thành lập với 200 nghệ nhân. Vua lại cho dựng đài Thông minh, một sân
khấu ca múa nhạc và hát bội trong cung Ninh Thọ.
1820 - 1840: Minh Mạng cho xây dựng Nhà hát lớn Duyệt thị đường (1824), đổi
Việt tương đội thành Thanh bình thự, lập thêm một Đội nữ nhạc với 50 ca nữ, vũ
21


nữ, lại cho xây dựng Nhà thờ các tổ sư nghệ thuật âm nhạc và hát bội Huế: Thanh
bình từ đường (1825). Trước nhà thờ dựng một tấm bia, một sân khấu hát bội và

ca vũ nhạc. Văn bia cho biết vào đời Minh Mạng, nghệ thuật âm nhạc và sân khấu
đã phát triển tốt đẹp:
" Vũ đài xuân rạng hàng ngũ chỉnh tề, sân khấu mây lồng âm thanh dìu dặt (...)
Khánh chuông ra lệnh xướng hòa, kèn trống nhịp nhàng đánh thổi (...) Trải mấy
triều vương đều khuyến khích, Biết bao âm nhạc thảy dồi dào (...) Giữa điện đình
ca múa, tỏ điềm thái vận nước nhà; Trên lăng miếu xướng hòa, ngưỡng đức cao
thâm biển núi... (bản dịch của Ưng Dự).
1841 - 1883: Đời Tự Đức, âm nhạc cổ điển, nhã nhạc cung đình và hát bội cung
đình đạt tới đỉnh cao. Nhà hát Minh khiêm đường được xây dựng (1864) trong
Khiêm cung (sau khi vua mất sẽ gọi là Khiêm lăng). Tương truyền chính Tự Đức
đã sáng tác bản nhạc Tứ đại cảnh nổi tiếng. Say mê thơ, nhạc và hát bội hơn chính
trị, vua lập nên Hiệu thơ phòng để cùng các danh nho trong triều đình xướng họa
thơ văn, thưởng thức âm nhạc, sáng tác hay nhuận sắc các vở hát bội. Nhà thơ và
nhà soạn tuồng lỗi lạc thời Tự Đức là Đào Tấn(1845 - 1907).
Tuồng Huế
Tuồng cung đình Huế là một hiện tượng phát tích rực rỡ trong truyền thống kịch
hát dân tộc. Sự phát triển của nghệ thuật Tuồng dưới triều đại nhà Nguyễn, mà
giai đoạn cực thịnh là thời Tự Đức – Thành Thái, đã nâng nghệ thuật Tuồng vốn
mang tính dân gian trước đó lên thành một bộ môn nghệ thuật hoàn thiện, mang
tính bác học cả về mặt kịch bản cũng như về nghệ thuật biểu diễn và đã tạo dựng
một phong cách riêng. Trải qua hơn một thế kỷ trị vì của triều Nguyễn, nghệ thuật
Tuồng đã đạt đến đỉnh cao. Tuồng đã trở thành quốc kịch của một quốc gia. Bấy
giờ tại đây, Tuồng đã nở rộ và phát triển mạnh mẽ trong hoàng cung cũng như
ngoài dân dã. Nó được tất cả các tầng lớp trong xã hội, từ Vua, quan đến dân
chúng hết sức ưa chuộng. Dưới triều Minh Mạng đã cho xây dựng nhà hát Duyệt
Thị Đường (nhà hát đầu tiên được xây dựng trong cung) chủ yếu để diễn các vở
Tuồng phục vụ cho Vua, quan và Hoàng thân quốc thích. Đến thời vua Tự Đức
nghệ thuật Tuồng phát triển tột đỉnh. Vua xây dựng nhà hát Minh Khiêm Đường,
quy tụ các đào, kép giỏi về đây để tập luyện và biểu diễn Tuồng. Thành lập ban
hiệu thư, tập hợp các tài năng đương thời để chỉnh lý các “Phường bản” (Tuồng


22


dân gian) soạn các vở Tuồng và hoạ văn thơ. Vì vậy, các Tuồng bản xuất hiện rất
nhiều. Nhiều loại Tuồng chính thống cũng đã xuất hiện dưới triều đại này.
2.4.2 Văn học
Thời Nguyễn đã để lại một khối lượng khổng lồ về văn học cả của Triều đình lẫn
của dân gian nhất là dưới thời Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức sau khi đã thành
lập Quốc sử quán. Văn học nhà Nguyễn có thể chia làm các thời kỳ như sau: thời
Nguyễn sơ, thời kỳ nhà Nguyễn còn độc lập và thời kỳ nhà Nguyễn thuộc Pháp.
Thời Nguyễn sơ là thời kỳ của các nhà thơ thuộc hai nguồn gốc chính là quan của
vua Gia Long và các cựu thần nhà Hậu Lê bất phục nhà Nguyễn. Tiêu biểu cho
thời kỳ này là các tác giả: Phạm Quy Thích, Nguyễn Du, Trịnh Hoài Đức và Lê
Quang Định. Nội dung tiêu biểu cho thời kỳ này là nói về niềm tiếc nhớ Lê triều
cũ và một lãnh thổ văn chương Việt Nam mới hình thành ở phương Nam. Thời
nhà Nguyễn độc lập là thời của các nhà thơ thuộc đủ mọi xuất thân trong đó có
các vua như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, và các thành viên hoàng tộc như
Tùng Thiện Vương Nguyễn Phúc Miên Thẩm. Các nho sĩ thì gồm có Nguyễn Văn
Siêu, Cao Bá Quát, Hà Tôn Quyền, Trương Quốc Dụng, Phan Thanh Giản, Phạm
Phú Thứ. Hai thể kiểu thơ chủ yếu của thời kỳ này là thơ ngự chế của các vị vua
và các thi tập của nho sĩ. Thời nhà Nguyễn thuộc Pháp là thời kỳ ảnh hưởng của
hoàn cảnh lịch sử đương thời tác động rất lớn vào văn chương, các nhà thơ sáng
tác nhiều về cảm tưởng của họ đối với quá trình Pháp chiếm Việt Nam. Tác giả
tiêu biểu thời kỳ này gồm Nguyễn Tư Giản, Nguyễn Thông, Nguyễn Khuyến,
Dương Lâm, Nguyễn Thượng Hiền. Thời kỳ nhà Nguyễn, văn học phát triển trong
cả Hán văn, lẫn một cách mạnh mẽ ở chữ Nôm với nhiều thành tựu lớn, trong đó
tác phẩm chữNôm tiêu biểu nhất là Truyện Kiều và Hoa Tiên. Hai thể theo được
dùng phổ biến ở thời kỳ này là lục bát và lục bát gián cách, sử dụng một thứ tiếng
Việt mới có một trình độ rất cao.

Ở miền Nam Việt Nam, hình thành một lãnh thổ văn chương mới với nhiều nét
độc đáo riêng so với các vùng cũ. Về nội dung, ngoài các nội dung văn chương
mang đậm tư tưởng Nho giáo truyền thống thì số phận con người và phụ nữ cũng
được đề cập đến.

23


2.5 Mỹ thuật, trang phục và kiến trúc
2.5.1 Kiến trúc
2.5.1.1 Kiến trúc thời Nguyễn
Nhà Nguyễn là triều đại có nhiều đóng góp trong lịch sử Việt Nam, đặc biệt là
một kho tàng kiến trúc đồ sộ, mà tiêu biểu là quần thể kinh thành Huế và nhiều
công trình quân sự khác. Kiến trúc cung đình Huế đã tiếp thu và kế thừa kiến trúc
truyền thống thời Lý, Trần, Lê đồng thời tiếp thu tinh hoa của Mỹ thuật Trung
Hoa nhưng đã được Việt Nam hóa. Kiến trúc cung đình thời Nguyễn ở Huế, triều
đại cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam đạt được những giá trị tạo hình ở
nhiều phương diện.Đó cũng là hiệu quả một chặng đường phát triển nghệ thuật có
kế thừa và chuyển dịch tích cực về mặt tạo hình và phản ánh tâm thức, chiều sâu
mỹ cảm của người Huế xưa.Nghệ thuật tạc tượng đạt đến trình độ điêu luyện.
2.5.1.2

Những đặc trưng cơ bản của nền kiến trúc truyền thống dân tộc

Kiến trúc có tính dân tộc và tính địa phương phong phú, có bản sắc riêng
biệt. Phong cách kiến trúc giản dị khiêm tốn, nhẹ nhàng , khoáng đạt phù hợp
phong tục tập quán dân tộc và khí hậu nhiệt đới Việt Nam.
Những thành tựu của nghệ thuật cung đình ở Huế đã được phát triển, nâng cao từ
nghệ thuật truyền thống, nó quen thuộc nhưng tinh tế, gắn với triều đình nhưng
cũng gần gũi với nhân dân, là trí tuệ của nghệ sỹ Việt Nam. Góp vào di sản văn

hoá thế giới như đã được UNESCO xác nhận.
Mỹ thuật thời Nguyễn là mỹ thuật của giai đoạn cuối mùa quân chủ, từng có lúc bị
bỏ qua và vị bỏ quên. Nhưng nghệ thuật cung đình Việt Nam chỉ đến thời Nguyễn
và chỉ ở Huế mới còn, là tinh hoa sáng tạo của trí tuệ một thời. Là cung đình
nhưng không xa dân, có ảnh hưởng phương Bắc nhưng đã dân tộc hóa, lại đi lên
từ vốn truyền thống dân gian, để mang vẻ đẹp Việt Nam đích thực. Trong khi đó,
ở các làng quê dòng dân gian đã có sức sống vẫn cứ tồn tại và phát triển, tiếp tục
xây dựng diện mạo văn hóa truyền thống, không sắc sảo như giai đoạn trước,
nhưng bình dị và do đó càng bình dân.
Vị trí địa hình kết hợp chặt chẽ với cảnh quan thiên nhiên,bố cục tương
xứng - hài hòa, tỉ lệ tương xứng.
24


Tạo hình nghệ thuật trong kiến trúc cổ Việt Nam thường là bố cục cân xứng - hài
hòa: trong một quần thể kiến trúc cung điện hay tôn giáo tín ngưỡng thường đăng
đối theo một trục dọc hoặc quy tụ vào một điểm. Hình thức mặt đứng công trình
cũng được tạo dựng trên nguyên tắc bố cục tạo hình này để gây hiệu quả thẩm mĩ
cho kiến trúc.
Đồng thời, vận dụng khéo léo các yếu tố tạo hình: thống nhất và biến hóa, cân
bằng và ổn định, tỉ lệ và tầm thước… kiến trúc cổ Việt Nam có kích thước tương
xứng với tầm vóc người Việt Nam, giữa kiến trúc và tổng thể, giữa bộ phận này
với bộ phận khác… mối quan hệ tỉ lệ hết sức được chú ý để tạo nên giá trị nghệ
thuật kiến trúc.

Khai thác và sử dụng vật liệu địa phương là chủ yếu, hệ thống cấu trúc
vững vàng, có tính khoa học - kinh tế cao. Màu sắc trang trí đẹp mắt và giàu tính
dân gian.
Có nhiều ý kiến khác nhau về nghệ thuật trang trí khảm sành sứ trong mĩ thuật
cung đình thời Nguyễn, nhìn chung các nghệ nhân thời Nguyễn đã biết cách tạo ra

những hệ màu mới để thỏa mãn sự biểu hiện nghệ thuật và nội dung cần phản ánh.
Trường hợp này thấy rõ ở hình tượng con rùa ngậm bọt biển tại điện Long An,
hình tượng rùa tại bình phong tam quan cung Trường Sanh. Con rùa tại đây trông
có vẻ bề thế, dữ dằn, chúng toát ra một sức mạnh tâm linh, sức mạnh tinh thần bên
trong của hình tượng mang nhiều ý nghĩa tượng trưng cho bộ tứ linh. Tại cổng
chính cung An Định, rồng phụng là tổ hợp của nhiều nhịp điệu do chính cấu trúc
quy định với thân hình được gắn những vảy xanh trắng, đuôi là dải vân xoắn đa
sắc xung quanh là những ô hộc trang trí tứ thời với những sắc màu lục, lam, cam,
tím và trên các trụ biểu là là các bầu pháp lam bằng nề vữa khảm sứ lam trắng.
Tại vòm cửa sổ có đôi phụng chầu cuốn thư được trang trí tỉ mỉ theo gam màu lam
trắng kết hợp với những hoa văn mây lửa màu xanh lục. Trong công trình kiến
trúccung đình thời Nguyễn thì cổng chính cung An Định là công trình duy nhất có
các ô hộc nổi chứ không chìm âm vào trong. Hầu hết các ô hộc này đều trang trí
màu lam trắng, ngoài ra, phần trang trí ở dải dưới cũng tạo ra cảm giác ô hộc cho
25


×