Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

DSpace at VNU: Biến đổi kiến trúc vùng ven thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh đô thị hóa- trường hợp xã Bà Điểm, Huyện Hóc Môn, T.P Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.96 MB, 7 trang )

B IẾ N Đ Ỏ I K IẾ N T R Ú C
V Ù N G V EN T H À N H P H Ó H Ò C H Í M IN H
TRO N G BỐI CẢNH ĐÔ TH Ị HÓA T R Ư Ờ N G H Ợ P XẲ BÀ Đ IẺ M , HUYỆN H Ó C M Ô N ,
T P. H Ò C H Í M IN H
Trương Hoàng Trương

Bà Đ iểm là m ột xa cũa huyện Hỏc M ôn, thành phố H ồ Chí M in h . Phía Nam
giáp với xa V ĩnh L ộ c A huyện B ỉnh Chánh, phía Bắc giáp với phường Tân Chánh
Hiệp quận 12, phỉa Đ ông giáp vởi phường Tân Thới Nhất quận 12, phía Tây giáp
với xã Xuân Thới Thượng. Toàn xã có 8 ấp là Đông Lân, Tiền Lân, Hậu Lẳn, Bắc
Lân, Nam Lân, Trung Lân, Tây Lân, Hưng Lân. Diện tích đất tự nhiên là 7,016 icm2,
mật độ trung bình là 4.818 n g uồ ri/km \

1. Đặc trung kiến trúc của xã Bà Điểm, huyện Hóc Môn
1.1. Kiến trúc nhà ờ
Nhà ở thể hiện sự ứng xử cùa con nguời trong m ôi trường tự nhiên, là sụ hài
hòa với ngoại cảnh, cảnh ư ỉ của thiên nhiên. Với quan niệm "an cư, lạc nghệp",
người dân rất coi ữọng ngôi nhà. N hà là nơi trú ngụ, là nơi lưu giữ các giá trị ván
hóa truyền thống của gia đỉnh qua nhiềụ thế hệ, nơi tổ chức giỗ chạp, lễ Tet, nơi họp
mặt của các thành viên trong gia d in h ... V ỉ thế, hầu hết các nỗ lực lao dộng sản tuất
dều nhăm cỏ được m ột ngôi nhà làm nơi ăn, ở.
Nhà truyền thống ở vùng Bà Đ iểm ngày trước, nếu là của tầng lớp g ià i có,
khá giả thi thường rộng, có nhiều gian và duợc làm tù nhiều loại gỗ quý. Còn người
nghèo và trung binh thi chi có nhà ừanh vách lá giống như nhiều vùng nồng hôn
khác ở Nam Bộ. T rong quá trình khảo sát, chúng tôi thấy cỏ ba loại nhà dặc t ’im g
cùa vùng này là nhà chữ đinh, nhà cửa rống và nhà ba gian hai chái.
Nhà chữ đinh
Nhà chữ dinh có 2 đòn dông, một dài, một ngắn, đấu thẳng góc với mau,
tương ứng với hai căn cũng thẳng góc với nhau, tạo thành hình chữ "din h ", là chữ

* TS, Trung tâm Nghiên cứu Đô thj và Phát triển. Thành phố Hồ Chí Minh



760


BIỂN ĐỔI KIÉN TRÚC VUNG VEN ì HÀNH P H Ố HỒ CHỈ MINH

hán cỏ dạng lự giống chừ J cùa mầu lụ la tinh, c ổ n g vào nhà không được mở ngay
vào cửa chính mà mở thăng vào căii dưới (nhà phụ). Cửa ra của căn dưới dược mở
cùng hưóiig với căn trén (nhà chính). Cãn dưới và căn trên thòng với nhau, cùng
m ội mặt phẳng nên rất thuận lợi cho việc bố tri bàn ghe khi cỏ tiệc tù n g ... Nhà chữ
dinh thương có dãy hàng ba phía trước nên nảng không bị chói, mưa không bị tạt
vào bén trong, Phía truớc nhà thường đirợc chù nhân đặt vài chậu kiềng. Cách bày
Irí trong nhà chừ dinh Ihường giống nhau
Căn nhà trên có bàn thờ tô tiên dược đặt ó gian giữa và các gian hai bên.
Trước bàn thờ, hên trái và bên phái được đặt hai hộ đi văng. Gian giữa đối diện với
bàn thừ to liên dược bố trí một chiếc bàn dài hình chũ nhật và 6 hoặc 8 chiếc ghế
tựa. K hông gian cùa căn nhà trên chi dược dùng tiếp khách là người lớn tuổi, người
có uy tín. hoặc dùng làm tổ chức dám liệc cưới hỏi, giỗ chạp,
Nhà cửa rông
Nhà cửa rống phổ biến ở vùng này, nhà kiểu này chú yếu là giới trung lưu, khá
giả. Loại nhả này bất đầu xuất hiộn ở vùng ven thành phố vào khoảng thời Pháp
thuộc và phổ bien nhất là những năm 40 của thế ký X X Cáu ca "B ỉnh Dương cửa
hông, H óc M ón cửa ro n g " cũng nói lên dặc trưng cùa loại nhà cửa rống ở vùng này.
Nhà cửa rồng thường có chiều rộng chừng 10m, nền nhà thường được lót băng gạch
tàu. Cừa chính của ngôi nhà làm băng gỗ, hai bên cửa là hai cửa rống hình chữ nhật
với 10 thanh gỗ xà ngang cách nhau khoảng 5cm. Cách xếp đặt trong nhà khá đơn
giản cũng gần giống như nhà chữ đinh
Nhà ba gian hai chải
Chũ nhân ngôi nhà này ứiưímg là người giàu cứ, có chức sác như điền chủ, hương
chức. Gỗ cẩl nhà thường làm băng gỗ quý như gõ. thau lau..


lợp ngói âm dương, móng

nổi hơn làm bằng đá xanh. Nhà nhò có khoảng 24 cột, nhưng thường là 48 cột và có khi
lớn hơn như nhà ông

Văn Dương ở ấp Trung Lần - Bà Điểm Nhà ông Dương xây

dựng da 120 năm với 20 cột tròn và 60 cột vuông, gian nhà bếp có 18 cột vuông, phía
irưức có 14 c ộ t Trong nhà còn giữ lại bàn thờ gia tiên cẩn xà cừ và nhiều bàn eỗ quý.
Theo nhiều người cao tu ổ i, trung bình mất 1 đến 2 nãm mới làm xong một căn
nhà ba gian hai chái. Nhà thường được trang tri rất cầu kỳ và công phu với các chữ
Phúc, Thọ, Hý. Cùng có nhà chọn đc tài bát bửu, tượng trưng cho sự bất tử gồm cái
quợt, thanh gươm, giò hoa, bầu rtrợu, cây tre, hoa sen. Iloặc như tứ hữu như mai,
lan, cúc, trú c ... cây cảnh được bào chuổl, chạm trỗ thành các vật trong nhóm tứ linh
như mai Ihành phượng trúc, tùng thành rồng.

1. Trân Quang Anh, 2007, B iế n đ ô i củ a vân h óa truyền thông tron g q u á trìn h đó th ị hóa ờ
h u y ệ n H ó c M ô n - th ònh p h o H o C h i M in h , Luận văn Cao học, tr.63.

761


VIỆT NAM HỌC - K Ỷ YẾU HỘI T H ẢO QUỔC TẾ LẰN T H Ứ T Ư

Ngoài ra, ỏ Bà Đ iểm cỏn có dạng nhà truyền thống nữa là nhà xếp đọi. Nhà
xếp dpi là nhà có hai đòn dông chạy song song, tạo nên hai căn song song nhau.
Cân trước (nhà trên) thường rộng hơn căn sau (nhà dưới) nhung thông thường căn
sau có chiều dài dài hơn so với căn trước.
N hìn chung, những dạng nhà truyền thống kể ưên được xây dựng hài hÒÉ với

sân trước, vườn sau, cây cao bóng mát, là "chuối sau, cau trưởc", cho thấy khung
cảnh hài hòa với thiên nhiên.
Đô thi hóa trài qua các thài kỳ, đã tác dộng làm biến đổi cấu trúc không gian
nhà truyền thống. Các ngôi nhà truyền thống ở vùng ven ngày nay ít di Năm 1997,
theo một khảo sát của Trung tim N ghiên cứu Đ ông N am Á thuộc V iện Khoa h(,c xã
hội tại thành phố H ồ Chí M in h ' thì kiểu nhà hai gian ba chái vẫn còn phổ biần ỏ
vùng Bả Điểm . Năm 2010, chúng tô i làm cuộc khảo sát lặp lại thì những căn nhà
này hẩu như đã được sửa sang lại hoặc cho xây lại m ỏi không còn với hình dạng
kiến trúc ban dầu vốn có của nó.
Trước đây, loại nhà cửa rống có thể tìm gập rất nhiều ở Bà Đ iểm như nhà ông Tô
Văn Tám, ông Lê Văn Kìa, ông Nãm K é o ... Nhưng hiện nay chi còn lại duy nhấ: nhà
của ông Năm Kéo ở ấp Tây Lân là còn giữ được kiến trúc truyền thống. Loại nhá chữ
đinh cũng mất dần do chiếm nhiều diện tích, không còn được người dân ưa ch lộng
trong môi truòng đô thị hóa khi mà giá đất được dịnh theo từng mét. Bên cạnh đó một
số gia đình có điều kiện muốn xây lại nhà theo kiểu nhà phố hoặc cải tạo lại chc phù
hợp với không gian riêng tư hơn. Vật liệu xây cất những ngôi nhà này cùng dàn thay
dổi, mái ngói Ihay bàng mải tôn, hoặc tôn giả ngối, cột gỗ thay bàng cột xi măng
Trong một nghiên cứu mới đây tại tại xã Bà Điểm chúng tôi thấy xu hưởng thay
dổi trong kiến trúc cùa những ngôi nhà truyền thống. Theo đó, xu hướng xây nhà ỏ hiện
nay theo hướng hiện đại chiếm đa số. Hầu hét các nhà dược xây dựng theo kiểu mới
Bà Điểm
X u hướng
Số lirựng

%

Hiện dại

75


50,0

Xưa

57

38,0

Vừa xưa vừa hiện dại

18

12,0

ISO

100,0

Tổng

Nguồn: Trương Hoàng Trương, 2010, Luận án Tiến sĩ, Đại học Provence, trang 277.

I . Xem Tôn Nử Quỳnh Trân (chù hiên), 1999, Vờn h ó a là n g x ã trư ớ c th á c h ihứ c cùa lô thị
h óa l ạ i th à n h p h ổ H ồ C h i M in h , Nxb. Trẻ, 272 trang.

762


BIỂN ĐỔI KIÉN TRÚC VỪNG VEN TH ẢN H PH Ố HỒ CHÍ MINH


Do đỏ thị hỏa, điộn tích đất ngày càng hị thu hẹp, vì vậy mà không gian xung
quanh những ngni nhà tm ycn thống Irước kia giờ hầu như khòng còn nữa. Thay vào
đó là những ngôi nhà biệt thự kiểu mới, nhà phố dang lấn át và phá vỡ không gian
thoáng đãng của nhà truyền thong. Nhiều ngôi nhà ở vùng vcn hiện nay không còn
sân trước, sân sau nữa. Sự biến dồi này được lý giải một phần do người dân íheo xu
hưỏng kicn trúc mới, hiện dại (biệl thự, nhà lầu) khi dời sống ngày càng khá giả hom
trước. M ộ t phần do sự phát triển của dô thi làm cho đất đai ngàv m ột nâng can giá
trị nên nliững dạng nhà xưa như ban gian, nhà chử đinh xem như không còn phù
hợp Irong bôi cảnh phái triển đô thị hiện nay.
Thật vậy, tại vùng ven ngày càng cố nhiều người nhập cư. Những người có
tièn thường xây nhà ống, mái băng, nha pho với lối kiến trúc lai tạp, màu sắc nhòe
nhoẹt. Nhà của những người nhập cư thì tùy thuộc vào diều kiện thu nhập và tình
hình cư trú của họ ở địa phương có hợp pháp hay không. H ọ thường xây dựng
nhừng căn nhà nhỏ, tạm bợ. Diện tích trung binh của những ngôi nhà này khoảng
40-80m . Những k h ố i nhà bê tông được xây dựng trên diện tích trẽn không theo m ột
trật tự nào, làm cho cánh quan nông thôn càng thêm chậl chội, hỗn độn.
1.2. K iến trú c cộng đồng
Đ ình làng
N ói đán vàn hóa làng xã V iệt Nam chung ta không thể không nhắc đến đình
làng. Đ inh làng gấn liền với quá trình dịnh cư, lập làng của người dân. Ở Bà Điểm
cỏ đinh Tân Thới N hất dược xem là một trong những ngôi dinh dầu tiên ở vùng dất
này có niên dại nửa cuối thế kỷ X IX .
Vào những ngày đầu mới lập làng, thuờng thì mồi làng có m ột ngôi dinh
nhưng sau này do nhiều lần tách nhập các xã nên có làng có đến 2-3 ngôi đình và có
làng không có ngôi đình nào.
Trước dây, cánh quan xung quanh dinh thường rộng, thông thoáng, nhiều cây
cả thụ. Đình Tân Thới N hất lúc dầu được xây dựng trên khuôn viên rất rộng.
Ngày xưa, không gian dinh là nơi trang nghiêm và người dân tôn trọng sự linh
thiêng cùa thần linh. Cây Ưong khu vực đinh cùng được bà con trong làng gìn giữ
cẩn thận, không dược dốn hạ. Dân làng quan niệm, động đến cây lả động dến thần

lin li trong đỉnh nên họ rất thận trụng. Sự tôn (rọng ấy không dược được thể hiện
băng luậl song nó trở thành nguyên tác của người dân trong làng.
Ngày nay, diện tích trong đình làng không còn được như trước. Qua nhiều thời
gian, diện lích của ngôi đình bị thu hẹp dần, dặc hiệt trong thời k ỳ phát triển đô thj
hiện nay, người dân xây cấl nhà cửa trong khuôn vicn của đình Khuôn viên không

763


VIỆT NAM HỌC - K Ỷ YỂU HỘI T H Ả O QUỐC TỂ LẲN T H Ứ T ư

còn cây xanh Nhà dân hai bên cũng xây cất áp sát vào. K h ô ng gian cộng dồng,
không gian tâm lin h bị lấn chiếm.
Chùa
Vùng Bà Đ iểm có hai ngôi chùa: chùa Giác Hoàng ở ấp Tiền Lân, chùa Thiền
Lâm ở ấp Đông Lân. Kiến trúc chùa nhìn chung còn giữ dược theo lối kiển trúc
truyền thống, mái lợp ngói âm dương. N hiều bao lam, án thờ làm bằng gỗ, chạm
khắc tinh tế. Chùa Giác Hoàng dược xây cách đây khoảng 200 năm. D iện tích chính
diện rộng 390m J, khuôn viên rộng 5.600m2. N gôi chùa này thuộc phái Lâm Te.
Chùa còn lưu giữ 6 tấm liễn sơn son thiếp vàng có tù thời chùa mởi khai sơn, một
đại hồng chung cao ],40m , dưòmg kính 80cm được đúc íừ thời vua D uy lâ n , là hảo
vật do nhà sư Thích Quảng Sơn mang từ Huế vào. N hiều tượng phật như thần Hộ
pháp, tượng A D i Đà, tượng N gọc H o à n g ... có niên đại hơn 120 năm 1.
Hiện nay, chùa Thiền Lâm ở ấp Đông Lân bị người dân xung quanh lấn chiếm
khoảng trống trước cổng chùa để buôn bán, nhóm họp, làm mất đi không gian thanh
tịnh của ngôi chùa. Thêm vào dó là quán cà phê sân vườn dối diện ngày đêm cũng mở
nhạc inh ỏi. Phía sau chùa lại là nơi để nhóm thanh niên nghiện ngập tụ tập chích hút,
làm mất an ninh và ảnh hưởng đển đời sống trật tự của nguời dân ừong thôn ấp.
2.


Không gian kiến trúc vùng ven thành phố H ồ C h ỉ M in h trong quá trìn h

đô thịhóa
Dân số thành phố Hồ Chí M in h ngày m ột lăng, nhu cầu nhà ở ngày m ột lớn
khién cho việc xây dựng nhà ở khu vục vùng ven tăng lên nhanh chóng. M ộ t báo
cáo tư vấn mứi dây cho thấy rằng thành phố Hồ Chi M in h đang nhanh chóng trở
thành một thành phố "do n u t"2, mặc đù khu trung tâm thành phố việc xây dựng diễn
ra sôi nồi nhưng chi là xây dựng các cơ sơ thuơng mại, còn dân cư nội thành dang
dàn di chuyển ra vùng ven ngoại thành.
Nhà tự phát, nhà dạng này được xây đựng trong từng thửa đất theo kiểu dân cư
nông thôn, mỗi thừa có m ột vài căn nhà với m ục đích cho con cái ra ở riêng. N goài
ra còn một dạng tự phát khác theo từng nhỏm {hợp thửa) theo kiểu dô thị. Các thửa
dất được gom để hình thành một khu dất tuơng đối lớn, sau đó tự phân lô dế ban
hoặc cho thuê.

]. Trần Quang Anh, tòi liệu đã dẫn, ừang 58.
2. Donut là loại bánh rán, hình tròn, có lỗ ỏ giữa. So sánh thánh phố Hồ Chf Minh vởi một
chiếc bánh donut, tức dân số nội thành đang giảm, còn dân số vùng ven đang tăng nhanh,
dược trích từ nghiên cứu mỏi dây cúa Viện Quy hoạch đô thj thảnh phố Hồ Chí Minh, dan
lại từ Michel Leaf, 2008.
764


BIẾN ĐỔI KIỂN TRÚC VÙN G VEN TH ẢN H PHỐ HỒ C H Í MINH

Viộc hình thành hai dạng tlân cư lự phát như trcn hoàn toàn năm ngoài quy
hoạch, kẻ hoạch của chinh quyền dịa phưííng làm ảnh hưởng đển cơ sở hạ tầng
chung của khu vực. Thực trạng này lảm cho vùng ven đang dô thị hóa phát triển
Iheo hướng không mong muốn như dụ kiên quy hoạch trước dỏ hoặc khó khăn cho
công tác quy hoạch trong tương lai Hình ảnh này hoàn toàn ngược vói những khu

dân cư được quy hoạch, cỏ cơ sỏ hạ tầng hoàn chỉnh. Các khu dân cư tự phát xuấl
phái lừ những căn nhà được xây ílựng trên đất nông nghiệp, tự phân lô và hầu như
chưa có cơ sở hạ lầng kỹ thuật. Thoát nước bàng kênh mương, thiếu hệ thống xử lý
nước sinh hoạt; nước sinh hoạt là chủ yếu lấy từ nước ngầm riêng rỗ hoặc mua nước
sạch lừ nơi khác; cấp điện bằng biện pháp tự kéo chù đất Hoặc người dân bên cạnh
kém an toàn, không cỏ cây xanh khu sinh hoạt công cộng cho người dân.
X él về yếu tố cảnh quan, sự xuẩl hiện của những khu dân cư tự phát này mang
tính chấp vá, thiểu đồng bộ, ánh hướng dcn bộ mặt cảnh quan và việc chinh trang
dô th ị Irong tương lai. T uy nhiên, nhìn lù góc độ kinh tế - xã hội thỉ việc hình thành
các khu dân cư lự phái như thế này dối với thành phố có tác động hai chiểu, tích cục
và licu cực. Tính tích cực về tính ổn định xã hội khi mà nhà ở xã hội của thành phố
chưa đáp ứng dược và thu nhập của người còn quá thấp.
Ở dạng nhà tụ phát này phổ bién là việc cho việc xây dựng nhà trọ ừản lan.
Xét goc độ quản lý thì xây dựng nhà tụ phát lả không hợp pháp. Trong thời gian
qua, ở những khu vực đang dô thị hóa, khu vục cỏ nhiều người nhập cư, nhiều khu
công nghiệp thi hiện tượng xây nhà tự phát không được sự cho phép của chinh
quycn địa phương xảy ra ngày càng nhiều. Hiện tượng này được cho là có nhiều
nguyên nhản từ khâu quản ]ý dô thị yếu kém, thiếu nhân lực quản lý, cho dán lý do
vì quan hệ "tinh cảm ", quan hệ "cá nhân" trọng hom luật pháp Chính vl sức ép,
quyền hạn dịa phương, "quan hệ tinh cảm cá nhân11 đã đần đến những tiêu cực trong
quy hoạch xây dựng nhà ở, nhà cho thuê tự phát ở vùng ven. Điều này ảnh hưởng
rất nhiều dên bộ mặt kiến trúc đô thị vùng ven hiện tại và khả năng phát triển bền
vửng trong lương lai.
Đô thị hóa tạo nên sự giao tiếp giữa yếu lố nội sinh và ngoại sinh của văn hóa
vùng ven. V ì vậy, không gian kiến trúc nhà ở và kiến trúc công cộng của vủng ven
trong quá trình phát Iriển chịu tác dộng bởi yếu tổ truyền thống, sự đan xen, sự dổi
mới. Quá trình nảy, m ột mặt đó là sự đổi mới, mặt khác sự đổi mới thiếu dịnh
hưởng làm cho kiến trúc vùng vcn thiếu di tính dặc trưng vốn có cùa nó.
Sự biến đổi trong kiến trúc cảnh quan của vùng ven diễn ra m ột cách tử từ và
khò kiểm soát. Sự biến đổi cùa không gian kiến trúc chưa đồng bộ do thiéu quản lý

h'Jt'mg dẫn kịp thời, hoậc do ý thức của mỗi cá nhân muốn thay dổi kiến trúc đề phù
hợp hơn với công năng sử dụng. Trong khi do thì kiến trúc công cộng đang phải đối

7 65


VIỆT NAM HỌC - KỶ YÊU HỘI T H Ả O QUỔC TÉ LẢN T H Ứ T ư

mật với sụ biến dổi nhanh chóng do tác động của con người, hành vi lấn chiếm
không gian công cộng cùa dinh, miếu làm nơi buôn bán, sinh hoạt diễn ra thường
xuyẻn và làm biến dạng hình ảnh của loại hình kiến trúc này. N hìn chung sự biến
đổi này mang tính tụ phát, không theo trật tự nào ảnh hướng dến đặc trung kiến trủc
và không gian văn hóa cùa vùng ven. Sụ biến dổi trên thiếu sự cân bằng giữa yếu tố
con người, cơ chế quản lý và cân băng giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa.
Trong đồ án quy hoạch và phát ưiển kiến trúc của thành phố, các nhà quản lý
cần chủ ý nhiều hơn nữa kién trúc vùng ven ngoại thành, cần có dịnh hướng phát
triển trong tương lai, rất càn tạo nên một đậc trưng cho kiến trúc vùng ven. cầ n
giám sát và mạnh tay hcm nữa dối với việc xây nhà tự phát, đổng thời phải có sụ
định hướng trong việc xây dựng, bảo tồn cảnh quan kién trúc cùa vùng ven.

T à i liệu tbam khảo
1. Trưcmg Hoàng Trưcmg, 2010, Elude sociologique des quartỉers pẻriphẻriques de Ho
Chi Minh - Ville Approche monographique de Bà Điểm (Hóc Môn) et Vĩnh Lộc A
(Bình Chánh), Thèse de doctorat, Université de Provence.
2. Trần Quang Ánh, 2007, Biển đổi vủn hóa truyền thống trong quả trình đô thị hóa
ờ huyện Hóc Môn - ihành phố Hô Chi M inh, Luận ván Cao học Văn hóa, thành
phố Hồ Chí Minh.
3. Tôn NQ Quỳnh Trân (chù biên), 1999, Văn hóa làng xâ trước thách thức của đô thị
hóa tại thành phố Hẻ Chỉ Minh, Nxb. Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.
4. Đỗ Thái Đồng, 1994, "Trung tâm và ngoại vi trong dời sống văn hóa đỏ thi", T?p chí

Khoa học xã hội, số 20.
5. Tạ Văn Thành, 1994, "Vàn hóa nông thôn ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh trong
quá trinh đô thị hóa" ừong Tạp chỉ Khoa học xâ hội, sổ 20.

766



×