ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG MÔ
HÌNH TỐ TỤNG TRANH TỤNG HÌNH
SỰ Ở VIỆT NAM TRONG VIỆC ĐẢM
BẢO QUYỀN BÀO CHỮA
TP. HỒ CHÍ MINH – 2017
LỜI MỞ ĐẦU
Trong hoạt động tư pháp, xét xử được coi là khâu trọng tâm vì ở giai đoạn này, dựa trên cơ sở
kết quả điều tra, truy tố và bào chữa, Toà án sẽ đưa ra phán xét một người có tội hay không có
tội. Một phán xét có chính xác, khách quan và đúng pháp luật hay không, quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân có được bảo đảm hay không phụ thuộc vào quá trình điều tra, truy tố và xét
xử từ phía cơ quan tiến hành tố tụng. Trong đó, luật sư với vai trò là người bào chữa, đã và
đang đóng góp một phần không nhỏ trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can, bị
cáo, từ đó giúp cho việc xét xử vụ án trở nên khách quan, nhanh chóng, chính xác, tránh oan
sai và góp phần tích cực bảo vệ công lý.
Trong bài tiểu luận này, nhóm nghiên cứu sẽ phân tích vai trò của luật sư với cương vị là
người bào chữa trong mô hình tố tụng hình sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự
2003. Cùng với đó nhóm sẽ đề cập một số thực trạng cụ thể ảnh hưởng đến việc đảm bảo
quyền bào chữa của luật sư đối với bị can, bị cáo trong xét xử các vụ án hình sự, nguyên nhân
và một số giải pháp để tăng cường vai trò của luật sư trong việc đảm bảo quyền bào chữa.
Ngoài ra, trong bối cảnh Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 sắp có hiệu lực thi hành, nhóm sẽ có
những so sánh và phân tích quy định về vai trò của luật sư trong cả hai Bộ luật.
Qua bài viết này, nhóm mong muốn người đọc nắm được vai trò của luật sư theo luật định,
thấy được một số thực trạng ảnh hưởng đến việc bào chữa của luật sư trên thực tế và đóng góp
nhiều ý kiến đề xuất tăng cường vai trò của luật sư trong việc đảm bảo quyền bào chữa ngoài
những ý kiến được nhóm nêu ra trong bài.
Bài viết không thể tránh khỏi những sai sót. Mọi đóng góp ý kiến của giảng viên và người đọc
sẽ được nhóm ghi nhận, tiếp thu.
1
CHƯƠNG 1
VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG MÔ HÌNH TỐ TỤNG TRANH TỤNG TRONG
VIỆC ĐẢM BẢO QUYỀN BÀO CHỮA
1.1. Địa vị pháp lý của luật sư với vai trò người bào chữa trong tố tụng hình sự:
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, bên cạnh vai trò của Viện kiểm sát trong việc điều
tra, truy tố người phạm tội thì vai trò của luật sư với tư cách người bào chữa cho người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo cũng quan trọng không kém trong việc giúp vụ án sáng tỏ, minh bạch và
khách quan hơn. Bộ luật tố tụng hình sự 2003 (BLTTHS năm 2003) không định nghĩa khái
niệm người bào chữa mà chỉ liệt kê các đối tượng được trao quyền trở thành người bào chữa
cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo: luật sư; người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo; và bào chữa viên nhân dân2. Tuy nhiên, từ các quy định về quyền và nghĩa vụ của
người bào chữa trong BLTTHS năm 2003 có thể đưa ra định nghĩa về người bào chữa như sau:
“Người bào chữa là người tham gia tố tụng hình sự do được mời hoặc được yêu cầu và được
cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền chấp thuận để giúp chứng minh sự vô tội hoặc giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội, giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, qua đó góp phần giúp Toà án giải quyết vụ việc một
cách nhanh chóng, chính xác, công minh.” [04, tr. 30]
Luật sư tham gia vào các vụ án hình sự với tư cách người bào chữa không có quyền và nghĩa
vụ liên quan đến vụ án. Việc tham gia vào quá trình tố tụng của luật sư bào chữa là giúp bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội. Bên cạnh đó, luật sư còn có thể tham gia
vào quá tố tụng hình sự với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự
trong vụ án. Tuy nhiên, địa vị pháp lý và vai trò của luật sư được thể hiện rõ nét nhất khi hoạt
động dưới tư cách luật sư bào chữa.
BLTTHS năm 2003 cho phép 3 đối tượng được trở thành người bào chữa trong vụ án hình sự:
Luật sư; Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữa, bị can, bị cáo; và Bảo chữa viên
nhân dân. Trong đó:
2
Điều 56 Luật TTHS năm 2003
- Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật
và thực hiện dịch vụ pháp lý theo quy định của khách hàng3.
- Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là những người theo
quy định của pháp luật, là người đã thành niên và phải có năng lực hành vi dân sự đầy
đủ.
- Bào chữa viên nhân dân là người được tổ chức, đoàn thể xã hội cử ra để bào chữa cho
người bị tam giữ, bị can, bị cáo.
Như vậy, có thể thấy trong 3 đối tượng được quy định có thể trở thành người bào chữa nêu
trên, chỉ có luật sư là đối tượng được luật pháp quy định chặt chẽ, cụ thể về điều kiện, tiêu
chuẩn và phương thức hoạt động. Từ các quy định này và nhiều yếu tố khác nhau mà hiện nay,
trong quá trình tố tụng hình sự, người bào chữa cho người bị buộc tội chủ yếu là luật sư, còn
người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và bào chữa viên nhân dân dường
như chỉ tồn tại trong pháp luật thực định mà trên thực tế thì ít có sự tham gia của họ vào quá
trình bào chữa cho người bị buộc tội.
Để tạo điều kiện cho luật sư tham gia vào quá trình tố tụng hình sự với tư cách người bào chữa
có thể phát huy tốt vai trò và nhiệm vụ của mình, pháp luật đã quy định các quyền và nghĩa vụ
nhất định.
1.1.1. Quyền của luật sư với tư cách người bào chữa trong tố tụng hình sự:
Quyền của luật sư tham gia tốt tụng với tư cách là người bào chữa được quy định tập trung tại
Điều 56, 58 của BLTTHS năm 2003. Bên cạnh đó, các quyền khác còn được quy định rải rác
trong BLTTHS năm 2003 như quyền bình đẳng trước Toà án (Điều 19), quyền đề nghị thay
đổi người tiến hành tố tụng (Điều 43), … và các quy định trong Luật luật sư.
Thời điểm tham gia quá trình tố tụng của luật sư:
Luật sư có quyền tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can hoặc từ khi có quyết định tạm giữ đối
với trường hợp bắt người khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã; trường
hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì luật sư được tham gia
vào
3
3
Điều 2 Luật luật sư 2006, sửa đổi bổ sung năm 2012
4
tố tụng từ khi kết thúc điều tra. Luật sư có thể tham gia tố tụng theo yêu cầu của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của họ hoặc tham gia theo yêu cầu của cơ quan tiến hành
tố tụng. Luật sư có thể tham gia bào chữa cho nhiều người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong
cùng một vụ án nếu quyền và lợi ích của họ không bị đối lập nhau.
Trên thực tế, việc luật sư tham gia vào quá trình tố tụng của vụ án từ những giai đoạn tố tụng
đầu có vai trò rất quan trọng. Việc tham gia vụ án sớm giúp luật sư có thể nắm bắt tình hình và
diễn biến vụ án từ những bước đầu tiên, tạo điều kiện thuận lợi trong việc thu thập chứng cứ
gỡ tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của thân chủ. Bên cạnh đó, việc tham gia sớm còn
giúp luật sư giám sát các hạt động của Điều tra viên, hạn chế những hoạt động tiêu cực sẽ xảy
ra trong quá trình điều tra, xét hỏi: nhục hình, ép cung, …
Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý
thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các
biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến
người mà mình bào chữa. Đây là quyền giúp luật sư được tham gia vào quá trình điều tra xét
hỏi của Viện kiểm sát. Quyền này còn giúp luât sư có thể giám sát hoạt động điều tra, xét hỏi
của Điều tra viên, hạn chế những hành vi tiêu cực từ phía truy tố.
Bên cạnh đó, luật sư còn có quyền yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định,
người phiên dịch. Đây không chỉ là quyền của bị can, bị cáo mà còn là quyền của luật sư và
luật sư được phép thực hiện quyền này trong bất cứ giai đoạn nào của quá trình tố tụng trong
trường hợp có căn cứ cho rằng người tiến hành tố tụng, người giám định, phiên dịch viên
không khách quan trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình. Trên thực tế, bị can, bị cáo
thường là người có sự hiểu biết hạn chế về pháp luật, vì vậy tuy pháp luật trao quyền cho họ
nhưng không thể phát huy tốt vai trò của nó. Vì thế pháp luật trao quyền cho luật sư nhằm
giúp luật sư có thể hỗ trợ tốt có bị can, bị cáo thực hiện tốt quyền của mình. Bên cạnh đó, việc
trao quyền cho luật sư cũng góp phần đảm bảo sự vô tư, khách quan trong quá trình tố tụng,
đảm bảo cho những quyết định, bản án được ban hành mang tính chính xác, công bằng, khách
quan.
Quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan:
Để thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến vụ án, luật sư có thể thu thập từ người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo, từ ngừi thân thích của họ hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu
cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác.
Đây thực chất là quyền điều tra của luật sư. Để bảo vệ tốt quyền và lợi ích hợp pháp cho bị
can, bị cáo, luật sư cần thu thập tài liệu, chứng cứ thông qua việc tiếp xúc với người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của họ hoặc các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác nhằm tìm
ra luận cứ, bằng chứng gỡ tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Việc thu
thập tài liệu, chứng cứ giúp luật sư có thể chuận bị tốt cho luận cứ bào chữa của mình. Ngoài
ra, quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến vụ án cũng là một trong những quyền
thể hiện sự bình đẳng của luật sư và Viện kiểm sát trong việc đưa tài liệu, chứng cứ cho Toà
án.
Quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ:
Sau khi kết thúc điều tra, luật sư có quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ
sơ. Thông qua việc đọc, ghi chép và sao chụp tài liệu, luật sư có thể nắm bắt chính xác tình tết
của vụ án cũng như các căn cứ buộc tội của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát với bị can, bị
cáo từ đó tìm ra các chứng cứ để gỡ tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của họ. Đối với
nững vụ án đơn giản, tài liệu ít thì luật sư có thể đọc và ghi chép tại chỗ. Tuy nhiên, đối với
nhiều vụ án phức tạp, tài liệu nhiều và cần thời gian nghiên cứu thì luật sư không thể nào đọc
và ghi chép tại chỗ. Vì thế, quy định về quyền đọc, ghi chép và sao lưu tài liệu tạo điều kiện
cho luật sư thu thập tài liệu, tình tiết để chuẩn bị tốt cho việc bào chữa của mình.
Quyền được gặp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo:
Để chuẩn bị tốt cho công tác bào chữa của mình, pháp luật cho phép luật sư được gặp người bị
tạm giữ, bị can hoặc bị cáo. Để thu thập tài liệu, chứng cứ, luật sư không chỉ nghiên cứu hồ sơ
vụ án, sao chép tài liệu của cơ quan điều tra mà còn một nguồn tài liệu chứng cứ, quan trọng
hơn hết đó chính là bản thân người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Hơn ai hết, chính họ biết rằng
mình có thực hiện hành vi phạm tội hay không, và nếu có thực hiện thì nghiêm trọng ở mức độ
nào. Thông qua việc gặp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, luật sư có thể nắm bắt được diễn
biến tâm lý và ý chí của họ, từ đó tìm ra các chứng cứ ngoại phạm, hoặc các tình tiết giảm nhẹ
giúp họ gỡ tội, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hoặc động viên họ khai báo thành khẩn để nhận
được sự khoan hồng của pháp luật.
Quyền tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà:
Tại Khoản 3 Điều 222 BLTTHS năm 2003 quy định: “Khi nghị án chỉ được căn cứ vào các
chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các
chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng
khác tại phiên toà.” Qua đó có thể thấy, việc gỡ tội hay giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị
can, bị cáo phụ thuộc chính vào quá trình tranh tụng của luật sư bào chữa tại toà. Vì vậy,
quyền bào chữa của luật sư được ghi nhận và thể hiện rõ nhất qua quyền tham gia hỏi và tranh
luận tại phiên toà. Và đây cũng là quyền ghi nhận sự bình đẳng tuyệt đối giữa luật sư và Viện
kiểm sát trong việc gỡ tội và buộc tội bị can, bị cáo. Khi tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà,
luật sư góp phần làm sáng tỏ vụ việc và các tình tiết đối với các căn cứ buộc tội từ phía Viện
kiểm sát. Thông qua hoạt động hỏi và tranh tụng tại toà, luật sư có điều kiện để thực hiện
quyền điều tra công khai, làm rõ các tình tiết quan trọng, giúp Toà án có những phán quyết
chính xác, khách quan và hợp lý nhất.
Như vậy, với việc quy định các quyền nêu trên đã xây dựng một hành lang pháp lý hỗ trợ và
giúp phát huy vai trò của luật sư, đảm bảo quyền bào chữa của luật sư trong quá trình tham gia
tố tụng hình sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích tốt nhất cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Thông qua đó, còn giúp luật sư hỗ trợ Toà án có những phán quyết chính xác, khách quan và
hợp lý bên cạnh vai trò quan trọng không kém của Viện kiểm sát.
1.1.2. Nghĩa vụ của luật sư với tư cách người bào chữa trong tố tụng hình sự:
Bên cạnh quy định các quyền của luật sư khi tham gia bào chữa cho bị can, bị cáo, pháp luật
cũng quy định các nghĩa vụ nhất định cho họ. Nghĩa vụ của luật sư với tư cách người bào chữa
được quy định tập trung tại Điều 58 BLTTHS năm 2003. Luật sư có chức năng bảo vệ quyền
và lợi ích chính đáng của bị can, bị cáo. Tuy nhiên, để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của
mình luật sư chỉ được sử dụng các biện pháp, phương thức theo khuôn khổ luật định.
Luật sư có nghĩa vụ sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình
tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự của bị can, bị cáo. Tuỳ theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên
quan đến vụ án thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Toà án.
Quy định này đòi hỏi luật sư phải làm hết sức mình, vận dụng các biện pháp theo quy định của
pháp luật nhằm tìm kiếm, thu thập tài liệu, bằng chứng giúp bị can, bị cáo gỡ tội hoặc giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự, nhằm hạn chế sự vô trách nhiệm của luật sư đối với người bị buộc
tội.
Nghĩa vụ giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhàm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của họ. Việc giúp đỡ pháp lý của luật sư rất quan trọng, vì từ thời điểm bị khởi tố,
người buộc tội luôn trong trạng thái lo sợ, tinh thần căng thẳng do hiểu biết hạn chế về pháp
luật. Bên cạnh đó, việc giúp đỡ pháp lý trong suốt quá trình tố tụng không những giúp họ hiểu
biết các quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân mà còn giúp giáo dục họ tinh thần tôn trọng
pháp luật.
Luật sư không được từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà mình đã nhận
bào chữa, nếu không có lý do chính đáng. Việc quy định nghĩa vụ này là cần thiết, giúp nâng
cao trách nhiệm của luật sư đối với các vụ án thuộc trách nhiệm của mình. Bên cạnh đó, việc
nhận lời bào chữa đã làm phát sinh mối quan hệ mật thiết giữa luật sư và người bị buộc tội. Vì
vậy, việc từ chối có thể dẫn đến tâm lý của người bị buộc tội, có thể ảnh hưởng đến tiến trình
tố tụng chung.
Luật sư phải tôn trọng pháp luật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác
khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật. Nhiệm vụ của luật sư bào chữa khi tham gia tố
tụng là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội. Tuy nhiên, luật sư cũng đồng
thời là công dân, việc tôn trọng pháp luật là điều hiển nhiên, vì vậy bên cạnh nghĩa vụ đối với
than chủ, luật sư có nghĩa vụ bảo vệ và tôn trọng pháp luật, trong đó sự thật là không thể chối
cãi. Để thực hiện tốt vai trò luật sư bào chữa của mình, luật sư chỉ được áp dụng các biện pháp
theo quy định pháp luật để tìm ra sự thật khách quan nhằm gỡ tội hoặc giảm trách nhiệm hình
sự của bị can, bị cáo. Luật sư không được bóp méo sự thật, cưỡng ép hay xúi giục người khác
khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật. Hành vi đó không chỉ vi phạm pháp luật mà
còn đi ngược lại với đạo dức hành nghề luật sư.
Việc có mặt theo giấy triệu tập của Toà án vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của luật sư bào chữa.
Phiên toà là giai đoạn quan trọng nhất của quá trình tố tụng, bởi tại đây sẽ quyết định người bị
buộc tội vô tội hoặc mức trách nhiệm hình sự nếu họ bị tuyên án có tội. Sự có mặt, tham gia
vào quá trình tranh tụng tại toà của luật sư là việc luật sư sử dụng các tài liệu, chứng cứ nhằm
bác bỏ căn cứ buộc tội của Viện kiểm sát hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các
căn cứ
buộc tội. Qua đó làm rõ các tình tiết, sự thật khách quan của vụ án góp phần vào qua trình đưa
ra phán quyết khách quan, công bằng hợp lý của Toà án.
Luật sư không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện bào chữa; không
được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích
Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Do đặc thù nghề nghiệp,
trong quá trình tham gia tố tụng, luật sư có thể biết được các thông tin liên quan đến bí mật
Nhà nước, các thông tin bí mật, cá nhân của bị can, bị cáo, của tổ chức hay cá nhân khác. Vì
vậy pháp luật quy định luật sư không được dùng các bí mật mà mình biết vào mục đích khác
ngoài mục đích bào chữa cho bị can, bị cáo vì chúng xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, tổ
chức và cá nhân khác.
Pháp luật quy định các nghĩa vụ cho luật sư bào chữa bên cạnh trao các quyền giúp họ phát
huy quyền bào chữa của mình nhằm ngăn chặn các hành vi lạm dụng quyền vào các mục đích
khác, có thể gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, ảnh hưởng đến
tiến trình tố tụng chung. Trường hợp luật sư làm trái với pháp luật thì tuỳ vào mức độ vi phạm
sẽ có chế tài tương ứng.
1.2. Vai trò của luật sư với tư cách người bào chữa trong tố tụng hình sự:
Góp phần làm rõ sự thật khách quan của vụ án, giúp giải quyết vụ án một cách nhanh chóng,
chính xác, đúng pháp luật; làm minh bạch hoạt động tố tụng.
Trong quá trình tham gia bào chữa, luật sư thu thập tài liệu, chứng cứ thông qua tiếp xúc với
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, những người có liên quan, … Qua đó, luật sư nắm được tình
tiết các vụ án: người bị buộc tội có thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hay không, hành vi đó
có cấu thành tội phạm hay không, nếu có thì cấu thành tội gì; động cơ, mục đích phạm tội; …
Trên cơ sở đó, luật sư đưa ra quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án liên quan đến việc
định tội danh và mức hình phạt đối với bị can, bị cáo. Trên cơ sở lập luận tại toà của luật sư và
Viện kiểm sát, Toà án sẽ ra những phán quyết công bằng, chính xác và hợp lý. Trên thực tế,
nhiều vụ án có sự tham gia của luật sư bào chữa, tội danh và hình phạt đối với bị can, bị cáo
dường như đã định, nhưng lại có phán quyết thấp hơn mức đề nghị của Viện kiểm sát nhờ vào
lý luận sắc sảo của luật sư bào chữa.
Bên cạnh đó, việc luật sư tham gia vào quá trình tố tụng còn giúp giám sát hoạt động của các
Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng, hạn chế việc lạm quyền trong quá trình
điều tra, xét hỏi. Sự góp mặt trong quá trình tố tụng của luật sư làm cho hoạt động của các Cơ
quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng được thực hiện một cách đúng pháp luật.
Trên thực tế, nhiều bản án oan, sai là hậu quả của việc tiến hành các hoạt động tố tụng không
đúng pháp luật. Do đó, việc tuân thủ pháp luật suốt tiến trình tố tụng là điều tiên quyết, góp
phần làm cho việc giải quyết vụ án cũng được thực hiện đúng theo pháp luật.
Bảo vệ quyền con người, bảo vệ công lý.
Quyền con người là quyền được pháp luật ghi nhận và đảm bảo thực hiện qua nhiều quy định
pháp luật. Vì vậy, cho dù là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vẫn có những quyền và lợi ích hợp
pháp được hưởng. Tuy nhiên, do hiểu biết hạn chế về pháp luật, khi rơi vào trường hợp như bị
tạm giữ để điều tra, truy tố, xét hỏi, … họ không biết các quyền và nghĩa vụ của mình được
pháp luật quy định như thế nào. Do đó, luật sư là người hỗ trợ pháp lý đặc biệt quan trọng đối
với bị can, bị cáo, đảm bảo cho các quyền con người, quyền công lý được thực hiện.
Đối với những người bị cáo buộc vi phạm pháp luật, pháp luật trao cho họ các quyền tự bào
chữa, nhờ người bào chữa; được hưởng các tình tiết giảm nhẹ, khoan hồng theo pháp luật; …
Khi rơi vào trường hợp đó, nhiều người không thể tự bảo vệ được các quyền và lợi ích hợp
pháp của mình nên nhờ đến sự hỗ trợ của luật sư. Trên cơ sở cho phép của pháp luật, luật sư
thực hiện các biện pháp nhằm chứng minh bị can bị, bị cáo vô tội hay giúp họ giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự. Thực tế phản ánh, việc luật sư tham gia vào các vụ án hình sự giúp cho quyền
và lợi ích của bị can, bị cáo được đảm bảo hơn, họ được đối xử và hưởng các quyền lợi hợp
pháp của bản thân; khả năng bị dùng nhục hình, bức cung, … cũng ít hơn.
Một người chỉ được xem là có tội và chịu hình phạt khi có bản án kết tội của toà án có hiệu lực
pháp luật, do đó, trong quá trình điều tra, truy tố, xét tội, người bị buộc tội vẫn được có các
quyền và lợi ích hợp pháp và sự tham gia của luật sư trong quá trình tố tụng chính là một trong
những nhân tố đảm bảo cho các quyền và lợi ích hợp pháp của họ được thực hiện.
Giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật trong xã hội; nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật.
Trong quá trình tham gia tố tụng, tiếp xúc với bị can, bị cáo, luật sư không chỉ hỗ trợ pháp luật
mà còn tuyên truyền pháp luật. Việc tuyên truyền pháp luật làm cho bị can, bị cáo hiểu được
những điều pháp luật cấm, những điều pháp luật cho phép, nhận thức được hành vi vi phạm
pháp luật của bản thân, từ đó ăn năn, hối lỗi nhằm được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.
Đối với người người bị can, bị cáo bị buộc tội oan thì việc giáo dục pháp luật giúp nâng cao
nhận thức về pháp luật, tự bào chữa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân, giúp
các Cơ quan tiến hành tố tụng có thể nhanh chóng làm sáng tỏ sự thật vụ án. Một người không
thể tự bảo vệ bản thân nếu như họ không có hiểu biết về pháp luật. Bên cạnh đó, hoạt động
bào chữa của luật sư không chỉ có tác dụng tuyên truyền, giáo dục pháp luật đối với bị can, bị
cáo mà mà còn có tác dụng với người thân của họ. Với sự góp sức của luật sư, một phán quyết
công bằng, khách quan, hợp lý sẽ nhận được sự đồng tình trong dư luận xã hội, từ đó sẽ có tác
động đối với mọi người trong việc nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VỀ VIỆC ĐẢM BẢO QUYỀN BÀO CHỮA CỦA LUẬT SƯ TRONG
VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN
2.1. Một số thực trạng về việc đảm bảo quyền bào chữa của luật sư trong vụ án hình sự
Dựa trên những phân tích về vai trò của luật sư với cương vị là người bào chữa trong Chương
1, ta thấy pháp luật đã quy định theo hướng nâng cao vai trò của luật sư, đảm bảo quyền tranh
tụng của luật sư tại tòa. Đặc biệt còn chú trọng đến việc đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư đủ
số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn cao.
Tuy nhiên, khi áp dụng các quy định về vai trò của luật sư ra thực tiễn, đã xảy ra nhiều thực
trạng bất cập ảnh hưởng tiêu cực đến việc đảm bảo quyền bào chữa của luật sư. Một số thực
trạng đến từ việc pháp luật có quy định, nhưng thực tiễn không áp dụng được, hoặc áp dụng
không thống nhất, chính xác dẫn đến luật sư khó thực hiện quyền của mình một cách tốt nhất.
Trong Chương này, nhóm đề cập một số thực trạng tiêu biểu hiện nay như về số lượng và chất
lượng luật sư tham gia bào chữa cho các vụ án hình sự, về kết quả hoạt động của luật sư tham
gia bào chữa trong các vụ án hình sự. Ngoài ra, nhóm còn đề cập 2 vấn đề gây tranh luận gay
gắt mà theo quan điểm của nhóm, 2 vấn đề này cực kỳ ảnh hưởng đến việc luật sư đảm bảo
quyền bào chữa của mình, đó là về vị trí chỗ ngồi của luật sư trong khi tham gia phiên tòa và
vấn đề luật sư phải tố giác thân chủ trong một số tội danh nhất định được quy định trong
BLTTHS 2015 sắp có hiệu lực thi hành.
2.1.1. Về số lượng luật sư tham gia bào chữa trong các vụ án hình sự
Tính đến ngày 30/9/2013, cả nước có 8.156 luật sư, tăng 7% so với năm 2012 và tăng 13,26%
so với năm 2011. Số liệu do Cục Bổ trợ tư pháp cung cấp cho thấy, năm 2013 đội ngũ luật sư
đã thực hiện 13.361 dịch vụ về hình sự.4
Bộ Tư pháp (2014), Báo cáo số 15/BC-BTP ngày 20/01/2014 về tổng kết công tác tư pháp năm
2013 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác năm 2014, Hà Nội.
4
11
Trong 6 năm từ 2007 đến 2013, đội ngũ luật sư Việt Nam đã tăng thêm gần 6.000 từ 2.173 luật
sư lên 8.156 luật sư (tăng 275%). Hơn 66% trong số đó (khoảng gần 3.500 người) là luật sư trẻ
(có độ tuổi dưới 40) đã góp phần trẻ hóa đội ngũ luật sư Việt Nam. Sự phát triển đội ngũ luật
sư chủ yếu là tập trung tại các thành phố lớn, các tỉnh có điều kiện kinh tế, xã hội phát triển,
đáp ứng nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý của cá nhân, cơ quan, tổ chức tại các địa phương đó,
như Đoàn luật sư thành phố Hà Nội từ 812 luật sư (năm 2006) tăng lên 3.075 luật sư (năm
2011) (tăng 275%); Đoàn luật sư thành phố Cần Thơ từ 87 luật sư (năm 2006) tăng lên 204
luật sư (năm 2011) (tăng 134,48%); Đoàn luật sư tỉnh Đồng Nai từ 54 luật sư (năm 2006) tăng
lên 193 luật sư (năm 2011) (tăng 257,4%)… Các địa phương có điều kiện kém phát triển về
kinh tế xã hội cũng đã tăng về số lượng luật sư, đến thời điểm năm 2011 chỉ còn 12 Đoàn luật
sư có số lượng luật sư dưới 10 người. Trong thời gian này, cả nước đã phát triển được gần
1.600 tổ chức hành nghề luật sư, đưa số lượng tổ chức hành nghề luật sư trên toàn quốc từ
1.300 tổ chức hành nghề luật sư năm 2006 lên 2.833 tổ chức hành nghề luật sư năm 2011
(tăng 118%), trong đó có
2.054 văn phòng luật sư, 779 công ty luật và có 104 luật sư đăng ký hành nghề với tư cách cá
nhân.
Tuy nhiên, theo báo cáo của Bộ Tư pháp thì hiện nay dù 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương đã thành lập được Đoàn luật sư với gần 9.500 luật sư (không tính khoảng 3.500 luật sư
tập sự) nhưng chỉ có trên 20% các vụ án hình sự trong cả nước có luật sư tham gia (trừ luật sư
chỉ định trong các vụ án hình sự bắt buộc phải có người bào chữa). Đây là một con số rất hạn
chế, thể hiện sự bất cập trong việc thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo.
Theo Báo cáo số 46/BC-BTP ngày 06/3/2012 của Bộ Tư pháp thì cho đến nay mới chỉ có
khoảng 21,42% tổng số VAHS trong cả nước có luật sư tham gia bào chữa. Trong 5 năm từ
2007 - 2011, luật sư đã tham gia 64.173 vụ án trên tổng số 299.574 VAHS đã xét xử. Phần lớn
các vụ án (chiếm hơn 50%) là luật sư tham gia bào chữa do yêu cầu của CQTHTT [2]. Thành
phố Hồ Chí Minh là địa phương có đội ngũ luật sư đông đảo nhất và có số vụ án có luật sư
tham gia bào chữa lớn nhất so với cả nước nhưng cũng chỉ đạt khoảng 40% số VAHS có luật
sư tham gia bào chữa.
Nguyên nhân
Số lượng luật sư hiện có so với dân số còn rất thấp, và có sự phát triển mất cân đối lớn giữa
khu vực thành thị và nông thôn, khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa và đồng bằng… Số
lượng luật sư ở nước ta hiện nay chưa đủ đáp ứng nhu cầu về dịch vụ pháp lý nói chung và
hoạt động bào chữa trong giai đoạn XXST VAHS nói riêng. Số lượng luật sư đã tăng khá
nhanh trong thời gian vừa qua nhưng tỷ lệ luật sư trên số dân mới ở mức trung bình là 1 luật
sư/11.034 người dân, trong khi đó theo Tiến sĩ Nguyễn Duy Phương (Khoa Luật, Đại học Huế)
thì tỷ lệ này ở Thái Lan là 1/1.526, ở Pháp và Singapore là 1/1.000, ở Nhật Bản là 1/1.546, ở
Mỹ là 1/250…Một số tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa số lượng luật sư chưa đủ để bào chữa
trong các vụ án bắt buộc phải có luật sư mà phải mời luật sư ở các địa phương khác tham gia
(như ở Lai Châu, Yên Bái..), làm nhiều vụ án phải tạm hoãn nhiều lần, kéo dài thời gian giải
quyết, gây khó khăn cho các CQTHTT. Nhiều địa phương luật sư chủ yếu tham gia bào chữa
theo chỉ định (như ở Hòa Bình, Điện Biên, Kon Tum, Hà Giang, Quảng Trị…).
Số lượng luật sư còn thấp và phân bố không đồng đều, chủ yếu tập trung ở những địa phương
có điều kiện kinh tế xã hội phát triển. Cụ thể, đến tháng 10/2013, trong khi Hà Nội có 2.141
luật sư, Thành phố Hồ Chí Minh có 3.653 luật sư thì Lai Châu chỉ có 5 luật sư, Hòa Bình có 7
luật sư... Ngày 17/7/2013 Đoàn Luật sư tỉnh Lai Châu mới được thành lập do trước đó không
đủ số lượng luật sư tối thiểu theo quy định để thành lập Đoàn Luật sư. Sự chênh lệch quá lớn
trong sự phân bố luật sư giữa miền núi và đồng bằng, giữa thành thị và nông thôn gây khó
khăn cho việc đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo (trong đó có quyền nhờ luật sư bào chữa),
đảm bảo nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa.
Ta có thể thấy rõ các số liệu thông qua bảng chi tiết sau đây.
Bảng 2.2. Kết quả khảo sát hoạt động bào chữa tại một số tổ chức hành nghề luật sư trong
các năm từ 2010 – 2013
Nguồn: Bộ Tư pháp
Ngoài ra, bất cập trong việc thực hiện các quyền của luật sư trong việc tham gia điều tra, truy
tố, xét xử VAHS cũng có thể là nguyên nhân dẫn đến việc ít luật sư có ý định tham gia bào
chữa trong các vụ án hình sự. Một trong các bất cập trên thực tiễn có thể thấy liên quan đến
các vấn đề về thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa, rồi vấn đề về thời điểm được tham gia
điều tra, xét xử, gặp thân chủ,…Các vấn đề trên sẽ được nhóm trình bày ở phần sau.
2.1.2. Về chất lượng của đội ngũ luật sư tham gia bào chữa trong các vụ án hình sự
Cùng với sự phát triển về số lượng, chất lượng của đội ngũ luật sư ở nước ta đã và đang từng
bước được nâng lên. Đội ngũ luật sư có trình độ cử nhân luật trở lên được nâng từ 59% (năm
1989) lên trên 98% (năm 2010); số luật sư đã qua đào tạo nghề luật sư chiếm hơn 75% tổng số
luật sư của cả nước; số luật sư có trình độ trên đại học đến nay chiếm trên 5% tổng số luật sư
của cả nước. Qua khảo sát chất lượng đội ngũ luật sư thì hiện nay có nhiều luật sư thông thạo
từ
1 đến 2 ngoại ngữ trong giao tiếp, đủ khả năng trực tiếp tham gia đàm phán và giải quyết các
tranh chấp thương mại quốc tế.5
Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những trường hợp một số đội ngũ luật sư chưa đảm bảo chất lượng,
chưa đáp ứng được yêu cầu của cải cách tư pháp, làm cho kết quả hoạt động bào chữa của luật
sư chưa cao. Một số luật sư hiện nay tuy đã được đào tạo bài bản về kỹ năng hành nghề nhưng
ít có cơ hội cọ xát, thực hành nghề nghiệp nên yếu về kỹ năng hành nghề trong thực tế, tính
chuyên nghiệp chưa cao. Nếu như Pháp lệnh luật sư năm 2001 cho phép luật sư tập sự được
tham gia tố tụng (bao gồm cả việc tham gia bào chữa) trong các vụ án thuộc thẩm quyền xét
xử của TAND cấp huyện, tòa án quân sự khu vực khi được luật sư hướng dẫn phân công và
được khách hàng đồng ý, đã tạo điều kiện cho luật sư tập sự có cơ hội được cọ xát với thực
tiễn ngay từ khi chưa là luật sư chính thức thì Luật Luật sư năm 2006 và Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Luật sư hiện hành lại không cho phép người tập sự hành nghề luật sư
được tham gia bào chữa khiến cho người tập sự chỉ biết đến lý thuyết, việc đào tạo và tập sự
hành nghề luật sư còn mang tính hình thức. Chất lượng đào tạo cử nhân luật và đào tạo nghề
luật sư ở nước ta còn hạn chế. Chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo chưa phù hợp với
yêu cầu thực tiễn. Do chưa được đào tạo bài bản về kỹ năng hành nghề, đặc biệt là kỹ năng
tranh tụng nên nhiều luật sư còn yếu về trình độ, thiếu kinh nghiệm khi tham gia bào chữa. Đa
số các luật sư hành nghề bằng kinh nghiệm tự đúc rút, tự học hỏi lẫn nhau. Việc cập nhật các
kiến thức mới về pháp luật, kinh tế, xã hội, công nghệ thông tin, việc truyền đạt thông tin, trao
đổi kinh nghiệm hành nghề chưa được thực hiện thường xuyên dẫn đến có nhiều trường hợp
luật sư không đủ khả năng tranh luận do thiếu những kiến thức chuyên môn.
Hiện nay, có trên 1/3 số lượng luật sư chưa được đào tạo một cách bài bản về kỹ năng hành
nghề. Các luật sư còn thiếu kinh nghiệm trong việc thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan
đến việc bào chữa, chưa nhạy bén trong việc tranh luận tại phiên tòa hoặc đưa ra các yêu cầu,
kiến nghị đối với các CQTHTT. Nhiều luật sư tuy đã được đào tạo bài bản nhưng kỹ năng
hành nghề rất kém, chưa chủ động, tích cực trong việc tự học tập, cập nhật kiến thức pháp luật
để nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, kỹ năng hành nghề cũng như trau dồi đạo đức nghề
nghiệp. Một số luật sư chưa có tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc, chưa tận tụy nhiệt
tình với
5
Bộ Tư pháp (2012), Báo cáo số 46/BC-BTP ngày 06/3/2012 về tổng kết 5 năm thi hành Luật Luật
sư, Hà Nội.
khách hàng, chỉ quan tâm đến thù lao mà coi nhẹ chất lượng hành nghề, từ đó làm giảm sút
niềm tin của khách hàng cũng như ảnh hưởng đến uy tín, chất lượng của nghề luật sư. Nhiều
luật sư không dành thời gian nghiên cứu toàn bộ hồ sơ mà chỉ đọc bản kết luận điều tra và cáo
trạng dẫn đến việc không thể tìm ra các chứng cứ gỡ tội hay giảm nhẹ TNHS cho bị cáo, thậm
chí còn đưa ra những lời lẽ có ý nghĩa buộc tội bị cáo. Trong nhiều vụ án, đặc biệt là các vụ án
mà luật sư tham gia bào chữa theo yêu cầu của CQTHTT thì vai trò của luật sư rất mờ nhạt,
chỉ mang tính hình thức.
Nhiều luật sư khi bào chữa mới chỉ tập trung vào việc phân tích, đánh giá hoàn cảnh khách
quan để từ đó cho rằng hành vi của bị cáo thuộc trường hợp loại trừ tính chất tội phạm của
hành vi như phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết, sự kiện bất ngờ… nhưng lại không đưa ra
được những tài liệu, đồ vật có tính bất ngờ hoặc tính cấp thiết của hành vi. Có những trường
hợp luật sư đưa ra quan điểm bào chữa không nhất quán như tìm mọi cách để chứng minh bị
cáo không phạm tội nhưng lại đề nghị Tòa án xem xét về những tình tiết giảm nhẹ TNHS hoặc
quyết định hình phạt thấp hơn quy định của điều luật.
Ta có thể xem xét các ví dụ thực tế sau đây để thấy thực trạng về chất lượng luật sư hiện nay.
Trong một phiên tòa xét xử vụ án hiếp dâm trẻ em đối với Lê Văn T (17 tuổi) tại TAND thành
phố Hà Nội, do tham gia bào chữa cho T theo yêu cầu của Tòa án, luật sư T.T.H không nghiêm
túc trong việc nghiên cứu hồ sơ và không theo dõi sát sao diễn biến phiên tòa, tại phần xét hỏi
bị cáo đã nhận tội mà luật sư không biết nên đến phần tranh luận luật sư vẫn hùng hồn bào
chữa theo hướng bị cáo không phạm tội khiến cho HĐXX phải đưa ra những lời "uốn nắn" đối
với luật sư. Trong một vụ án khác tại TAND Thành phố Hồ Chí Minh, khi bào chữa cho bị cáo
về tội giết người, luật sư đã lập luận rằng bị cáo chém nạn nhân là để phòng xa. Theo luật sư
này, khi hai bên ẩu đả, nạn nhân đuổi theo bị cáo thì việc bị cáo cầm dao chém nạn nhân là
chuyện bình thường, bởi nếu không làm vậy nạn nhân vẫn tiếp tục đuổi theo và có thể… giết
bị cáo. Khi bị KSV vặn lại: "Tại sao khi nạn nhân gục xuống rồi mà bị cáo vẫn tiếp tục chém
thêm nhiều nhát làm nạn nhân chết hẳn?". Luật sư này còn cố cãi: "Thưa quý viện, thân chủ
của tôi làm như vậy để cho… chắc ăn". KSV tức giận: "Đề nghị luật sư tranh luận nghiêm túc
vào đúng bản chất của vụ án. Rõ ràng hồ sơ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa thể hiện bị cáo
đã cố tình chém nạn nhân cho đến chết rồi bỏ trốn trong khi nạn nhân không có bất cứ hung
khí nào, hành vi của bị cáo không hề có dấu hiệu của phòng vệ chính đáng, vậy mà luật sư còn
cố biện hộ cho
được". Vị luật sư này vẫn cố cãi: "Đấy là ý kiến của tôi, quyết định thế nào tùy Hội đồng xét
xử".
Hay tình trạng luật sư được chỉ định bởi các cơ quan tiến hành tố tụng trong một số trường
hợp phạm tội luật định cũng là vấn đề gây nhức nhối bởi chất lượng bào chữa của các vị luật
sư được chỉnh định này. Thực tiễn hoạt động của luật sư chỉ định tại phiên tòa rất nhạt nhòa,
chất lượng bào chữa còn thấp.
“Kính thưa HĐXX, tôi là luật sư Nguyễn Văn A... Sở dĩ tôi có mặt tại đây là do được tòa án
chỉ định để bào chữa cho bị cáo Trần Văn B tại phiên tòa này. Thực hiện quyền bào chữa của
mình, tôi xin nêu ra một số luận điểm như sau. Trước hết về mặt tội danh, tôi hoàn toàn đồng
tình với truy tố của VKS trong cáo trạng, không có tranh luận gì thêm. Tuy nhiên, tôi cũng xin
lưu ý với HĐXX một số tình tiết, cụ thể là bị cáo phạm tội lần đầu; do hiểu biết pháp luật hạn
chế; đã khắc phục một phần hậu quả; gia đình bị cáo có bố, mẹ (hoặc ông, bà nội ngoại) là
người có công với cách mạng và sau khi phạm tội bị cáo đã ra đầu thú… Từ các tình tiết nêu
trên, tôi đề nghị HĐXX xem xét và tuyên phạt bị cáo mức án thấp hơn mức đề nghị của đại
diện VKS”.
Đó là những lời bào chữa gần như thành “công thức” được hầu hết các luật sư chỉ định ưa
dùng trong các phiên toà hình sự vào thời điểm hiện nay. Theo ghi nhận của PV ANTĐ, thực
tế cho thấy luật sư chỉ định hầu như không tham gia xét hỏi hoặc có xét hỏi, nhưng chỉ xoay
quanh những khía cạnh về điều kiện, nguyên nhân phạm tội, hoàn cảnh gia đình và vấn đề
khắc phục hậu quả. Rất ít luật sư đi vào thẩm vấn nhân thân, tiền án, tiền sự và sẵn sàng cung
cấp thêm cho tòa bản xác nhận về việc trước thời điểm phạm tội, bị cáo là người tốt. Đối với
các câu hỏi nhằm làm sáng tỏ bản chất vụ án như: có đồng phạm hay không, cơ quan tiến hành
tố tụng bỏ lọt tội phạm, cơ chế hình thành thương tích trên cơ thể nạn nhân, hung khí, nhân
chứng, vật chứng cũng như tính chính xác trong hành vi tội phạm của bị cáo thì chẳng mấy khi
được luật sư xoáy vào. Thể hiện quyền thẩm vấn của mình, không ít luật sư còn khẳng định
ngay khi được HĐXX yêu cầu tham gia xét hỏi: “Tôi thấy nội dung vụ án đã rõ ràng nên
không cần hỏi thêm gì nữa”. Mới đây, có một vụ án giết người được TAND TP Hà Nội đưa ra
xét xử, một nữ luật sư được chỉ định bào chữa cho bị cáo còn không thẩm vấn lấy một câu.
Đến khi vị kiểm sát viên
kết luận và đề xuất mức án, luật sư này lại lôi điện thoại ra… tí toáy, khiến không ít người dự
toà phải lắc đầu ngán ngẩm.6
Theo quan điểm của nhóm, bên cạnh việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho bị can, bị cáo, các luật sư cũng còn phải quan tâm về vấn đề kinh tế! Đối với những vụ án
mà luật sư được mời, thuê, luật sư có thể nhận thù lao từ vài triệu đồng đến vài chục triệu
đồng, thậm chí hơn thế. Trong khi đó, luật sư chỉ định tối đa chỉ được nhận không quá 300.000
đồng, mà luật sư còn phải chạy ngược chạy xuôi hết cơ quan này tới cơ quan khác, tiền xăng
cũng phải mất một khoản kha khá, chưa kể vấn đề rườm rà về thủ tục với các cơ quan tố tụng,
luật sư trong các trường hợp trên muốn hết mình cũng khó!
2.1.3. Về kết quả hoạt động của luật sư tham gia bào chữa trong các vụ án hình sự
Các quy định về quyền và nghĩa vụ của luật sư đã tương đối cụ thể trong BLTTHS 2003. Tuy
nhiên do nhận thức chưa thật đầy đủ và do chưa có sự hướng dẫn cụ thể, đồng bộ, thống nhất
dẫn đến việc luật sư tham gia vào hoạt động tố tụng chưa hiệu quả. Một số quy định của
BLTTHS còn mang tính hình thức hoặc khó thực hiện hoặc có nhiều cách hiểu khác nhau dẫn
đến việc áp dụng thiếu thống nhất. Thiết nghĩ đã đến lúc phải xem việc tham gia của luật sư
vào quá trình tố tụng hình sự là sự giám sát tốt nhất đối với các hoạt động của cơ quan tiến
hành tố tụng hình sự. Bên cạnh việc làm rõ chức năng buộc tội, chức năng xét xử thì cần phải
chú ý đến chức năng bào chữa, trong đó có vai trò của luật sư.
Để thực hiện tốt được quyền bào chữa của luật sư trong tranh tụng hình sự, nhóm cho rằng sự
tham gia của luật sư từ giai đoạn điều tra của vụ án cho đến khi mở phiên tòa xét xử cần phải
được đảm bảo, bởi chỉ khi được tham đầy đủ các giai đoạn, luật sư mới nắm rõ các tình tiết, hồ
sơ vụ án, mới có nhiều thời gian làm việc, trao đổi với bị can, bị cáo, từ đó khi tham gia tranh
tụng, luật sư mới bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ một cách tốt nhất.
Ngoài ra, luật sư đáng lẽ ra nên được tạo mọi điều kiện để thực hiện tốt nhất vai trò của mình,
thì trên thực tiễn, luật sư gặp không ít khó khăn từ các cơ quan tố tụng. Trong phần này, nhóm
sẽ trình
Nhà báo Trịnh Tuyến, Luật sư chỉ định, có cho đủ…thủ tục, 28/02/2013 Báo An Ninh Thủ
Đô. Chi tiết: />6
bày một số thực trạng tiêu biểu tồn tại gây ảnh hưởng nhiều đến việc thực hiện quyền bào
chữa của luật sư, bao gồm cả từ giai đoạn điều tra cho đến giai đoạn xét xử.
2.1.3.1. Về thời điểm luật sư được tham gia tố tụng và quyền tham gia điều tra,
thu thập, đánh giá chứng cứ
Sự tham gia của luật sư trong tố tụng không chỉ giúp bị can, bị cáo bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình, mà còn góp phần trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án, giúp việc
điều tra, truy tố và xét xử được nhanh chóng, chính xác, tránh làm oan người vô tội, để lọt tội
phạm. Tuy nhiên vị trí, vai trò của luật sư chưa được nhìn nhận đúng và chưa thực sự bảo đảm
theo yêu cầu của pháp luật. Theo quy định của pháp luật, luật sư có thể tham gia tố tụng từ khi
khởi tố bị can, thậm chí còn sớm hơn là từ khi có quyết định tạm giữ. Nhưng trên thực tế tỉ lệ
các vụ án luật sư được tham gia từ giai đoạn điều tra còn quá thấp so với tổng số vụ án hình sự
bị khởi tố, trong đó có cả những vụ án theo quy định của pháp luật sự tham gia của luật sư là
bắt buộc theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng. Về vấn đề này có nhiều nguyên nhân, là
do bị can không biết mình có quyền mời luật sư hoặc biết nhưng vì có khó khăn về tài chính
nên không thể thuê luật sư. Bên cạnh đó còn có một nguyên nhân là do cơ quan tố tụng chưa
tạo điều kiện để luật sư thực hiện đầy đủ chức năng tố tụng của mình, một số điều tra viên
chưa ủng hộ việc luật sư được tham gia từ giai đoạn điều tra. Trong một số trường hợp sự
không ủng hộ này được thể hiện bằng cách khuyên bị can không nên mời luật sư mà tốt nhất là
khai báo trung thực để được hưởng khoan hồng. Đối với bị can kém hiểu biết pháp luật, lại ở
trong tình trạng tạm giam, do vậy tâm lý bất ổn, lo lắng, vì vậy thường nghe theo lời khuyên
nói trên là điều thường có thể xảy ra. Trong trường hợp bị can từ chối luật sư, nhưng khi luật
sư đề nghị được xem văn bản từ chối luật sư của bị can thì điều tra viên lấy lý do là luật sư
chưa được cấp giấy chứng nhận là người bào chữa cho nên không được xem văn bản từ chối
luật sư của bị can. Rất khó xác định được việc từ chối luật sư của bị can có phải xuất phát từ ý
chí của bị can hay từ sức ép nào đó. Trong trường hợp này cơ quan điều tra phải tạo điều kiện
để bị can được tiếp xúc với luật sư, còn quyền từ chối luật sư của bị can có thể thực hiện ở bất
cứ giai đoạn nào của tố tụng. Việc gặp gỡ với luật sư không làm mất đi quyền từ chối luật sư
của bị can, nó chỉ giúp cho bị can nhận thức đúng hơn về vai trò của luật sư cũng như sáng
suốt hơn trong việc lựa chọn người bào chữa cho mình.
Bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là nguyên tắc dân chủ trong tố tụng hình sự vì vậy
việc mở rộng sự tham gia của luật sư trong tố tụng hình sự, cho phép luật sư tham gia tố tụng
từ khi có quyết định tạm giữ là cần thiết. Bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo cần thực
hiện theo hướng mở rộng quyền của của bị can, bị cáo và cho phép luật sư tham gia sớm hơn
và trong mọi giai đoạn của tố tụng , đồng thời tăng cường trách nhiệm của cơ quan, người tiến
tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm quyền tham gia tố tụng của luật sư.
Sự tham gia của luật sư ở giai đoạn điều tra không chỉ mở rộng những nguyên tắc dân chủ
trong tố tụng hình sự mà còn nâng cao chất lượng điều tra, tăng cường pháp chế trong giai
đoạn điều tra. Việc bào chữa kiên định, dũng cảm trong vụ án hình sự không những không cản
trở mà còn thúc đẩy cuộc đấu tranh chống tội phạm, giúp khắc phục những sai lầm trong việc
xử lý vụ án. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo và các đương sự khác bằng
những phương tiện hợp pháp luật sư thể hiện vai trò của mình trong việc bảo vệ quyền công
dân, góp phần vào công cuộc cải cách tư pháp ở Việt nam. Vì vậy cần có nhận thức đúng về vị
trí , vai trò của luật sư trong tố tụng nói riêng và trong xã hội nói chung. Nhận thức đó phải
được quán triệt trong các cơ quan nhà nước, đặc biệt là các cơ quan tiến hành tố tụng và mọi
người dân.
Theo quy định của Điều 58 BLTTHS, luật sư có thể tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can.
Trong trường hợp bắt người thì luật sư có thể tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ.
Nhưng trên thực tế đa phần luật sư chỉ đến được cánh cửa phòng trực ban của cơ quan điều tra
để gửi giấy tờ làm thủ tục chờ được tham gia mà thôi với nhiều lý do khác nhau như cán bộ
giải quyết vụ án bận, luật sư thiếu giấy tờ cần bổ sung (dù pháp luật không yêu cầu các giấy tờ
đó), thủ trưởng cơ quan đi vắng, chờ cán bộ vào trại gặp hỏi ý kiến bị can có cần có luật sư
không. Mặc dù việc cấp giấy chứng nhận người bào chữa đã được quy định trong BLTTHS,
Luật Luật sư và các văn bản có liên quan, tuy nhiên do nhận thức khác nhau về vấn đề này do
vậy luật sư đã gặp không ít khó khăn khi tham gia tố tụng, nhất là trong giai đoạn điều tra vụ
án.
BLTTHS 2003 đã mở rộng quyền của luật sư trong việc tham gia tố tụng như có mặt khi lấy
lời khai của người bị tạm giữ, hỏi cung bị can, được gặp bị can, bị cáo, thu thập và xuất trình
tài liệu, đồ vật, nghiên cứu hồ sơ vụ án...Tuy nhiên không phải lúc nào, nơi nào luật sư cũng
được tạo điều kiện để thực hiện các quyền của mình đã được pháp luật quy định.