MỞ ĐẦU
Việt Nam được xem là một trong các quốc gia Châu Á có tốc độ tăng trưởng
kinh tế gây ấn tượng đối với thế giới trong những năm gần đây. Kể từ năm 1986,
năm đánh dấu cho sự bắt đầu công cuộc đổi mới đất nước, với sự gia tăng nhanh
chóng của vốn đầu tư trong và ngoài nước, cùng với những tiến bộ đáng kể của
khoa học và công nghệ, Việt nam đạt được những thành tựu quan trọng trong tăng
trưởng kinh tế, góp phần xóa đói giảm nghèo và nâng cao mức sống của người dân.
Lựa chọn và chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế ở nước ta có tầm quan
trọng hàng đầu để sớm vượt ra khỏi tình trạng một nước có mức thu nhập trung
bình thấp, đảm bảo tăng trưởng kinh tế với nhịp độ nhanh, chất lượng cao và bền
vững. Để thực hiện việc lựa chọn và chuyển đổi đó cần phải hiểu rõ các mô hình
tăng trưởng kinh tế, thực trạng mô hình tăng trưởng kinh tế ở nước ta hiện nay,
phương hướng và giải pháp chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế trong giai
đoạn tới.
Sự phát triển kinh tế của nước ta trong những thập kỷ qua chủ yếu phụ thuộc
vào sự tích luỹ của các yếu tố đầu vào, đặc biệt là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (
FDI). Điều này đã đưa đất nước chúng ta từ nền kinh tế nông nghiệp đến những
bước đầu của nền kinh tế công nghiệp hoá. Khi các yếu tố đầu vào (nhân công,
nguyên liệu…) sẵn có và rẻ thì rất thuận lợi cho kinh tế chúng ta phát triển. Tuy
nhiên, sự phụ thuộc vào yếu tố đầu vào lại có nhược điểm đó là sự phụ thuộc vào
nguồn tài nguyên. Do đó, khi nền kinh tế phát triển ở mức cao hơn, bên cạnh chiến
lược tăng trưởng dựa vào đầu vào , thì cũng phải định hướng vào nâng cao hiệu
quả sử dụng nguồn vốn và lao động, đó chính là nâng cao TFP .
1
Chính vì thế, đề tài “Phân tích cách tính TFP và đánh giá sự đóng góp
TFP đối với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam” nhằm gợi ý các chính sách tăng
trưởng kinh tế trong dài hạn và nghiên cứu một mô hình tăng trưởng kinh tế mới có
thể được áp dụng tại Việt Nam.
2
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.
1.1.1.
Tăng trưởng kinh tế
Khái niệm
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về qui mô sản lượng quốc gia hoặc quy
mô sản lượng quốc gia tính bình quân trên 1 đầu người qua 1 thời gian nhất định
(thường là 1 năm).
1.1.2.
Đo lường tăng trưởng kinh tế
Các chỉ tiêu tổng quát: Các chỉ tiêu phản ánh giá trị tăng trưởng kinh tế theo
hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) bao gồm: tổng giá trị sản xuất (GO), tổng sản
phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân (GNP), tổng thu nhập quốc dân
(GNI), thu nhập quốc dân (NI), tổng sản phẩm tính bình quân đầu người. Trong đó
chỉ tiêu GDP thường là chỉ tiêu quan trọng và hay được sử dụng nhất.
Các công thức đo lường tăng trưởng kinh tế: Tăng trưởng kinh tế có thể
biểu thị bằng số tuyệt đối (qui mô tăng trưởng) hoặc số tương đối (tốc độ tăng
trưởng).
-Xác định mức tăng trưởng tuyệt đối: ΔY= Yt –Y0
-Xác định tốc độ tăng trưởng: gY = ΔY/Y*100
Trong phân tích kinh tế, để phản ánh mức độ mở rộng quy mô của nền kinh
tế, khái niệm tốc độ tăng trưởng kinh tế thường được dùng. -Tăng trưởng kinh tế
được xem xét dưới góc độ số lượng và chất lượng. Mặt số lượng của tăng trưởng
kinh tế là biểu hiện bên ngoài của sự tăng trưởng, nó thể hiện ở ngay trong khái
niệm về tăng trưởng như đã nói ở trên và được phản ánh thông qua các chỉ tiêu
3
đánh giá quy mô và tốc độ tăng trưởng thu nhập. Mặt lượng của tăng trưởng kinh
tế thể hiện cụ thể ở quy mô và tốc độ tăng trưởng của các chỉ tiêu giá trị nói trên.
Nếu quy mô và tốc độ tăng trưởng của các chỉ tiêu phản ánh tổng thu nhập và thu
nhập bình quân đầu người cao, có thể nói, đó là biểu hiện tích cực về mặt lượng
của tăng trưởng kinh tế.
1.1.3.
Các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế có nghĩa là sự gia tăng tổng sản lượng quốc gia mà sản
lượng được tạo ra từ sản xuất. Như vậy nguồn gốc của tăng trưởng xuất phát từ quá
trình sản xuất. Quá trình sản xuất là quá trình mà trong đó các yếu tố đầu vào được
phối hợp theo những cách thức nhất định để tạo ra khối lượng sản phẩm. Nếu xét ở
góc độ phạm vi toàn bộ nền kinh tế thì việc tạo ra GDP,GNP sẽ có quan hệ phụ
thuộc với các nguồn lực đầu vào của các quốc gia. Các lý thuyết tăng trưởng ra đời
phân tích nguồn gốc của tăng trưởng với nhiều quan điểm khác nhau, mỗi lý thuyết
đều có 1 sự khám phá mới, nhưng trên căn bản vẫn là phân tích mối quan hệ đầu ra
với đầu vào. Để liên kết mối quan hệ đầu ra với đầu vào được khái quát qua hàm
sản xuất tổng hợp như sau: y=F(Xi) với i-1,2,3…,n với Xi là các yếu tố đầu vào.
Hầu hết các nhà kinh tế học thống nhất các yếu tố đầu vào cơ bản của nền
kinh tế bao gồm 4 yếu tố theo hàm sản xuất Y=F(K,L,R,T), cụ thể như sau:
-Vốn sản xuất (K): là bộ phận quan trọng của tổng giá trị tài sản quốc gia,
tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất để tạo ra tổng sản lượng quốc gia. Sự thay
đổi qui mô vốn sản xuất ảnh hưởng trực tiếp đến thay đổi tổng sản lượng quốc gia.
-Lao động (L): là yếu tố sản xuất đặc biệt tham gia vào quá trình sản xuất
không chỉ về số lượng lao động mà cả chất lượng nguồn lao động. Đặc biệt yếu tố
phi vật chất của lao động như kỹ năng, kiến thức, kinh nghiệm lao động được xem
như yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến gia tăng sản lượng quốc gia. Yếu tố này
4
được nhấn mạnh như là vốn nhân lực của nền kinh tế. Do đó, đầu tư nâng cao chất
lượng nguồn lao động chính là đầu tư làm gia tăng giá trị yếu tố đầu vào đặc biệt
này.
-Đất đai nông nghiệp và tài nguyên thiên nhiên (R) : Đất đai nông nghiệp có
vai trò đặc biệt, là tư liệu sản xuất chủ yếu đối với sản xuất nông nghiệp. Quy mô
đất nông nghiệp của 1quốc gia càng lớn cũng sẽ góp phần tăng sản lượng. Các tài
nguyên khác dưới các tầng đất, từ rừng, biển,…cũng là đầu vào của sản xuất. Nếu
trữ lượng của chúng lớn sẽ tác động làm gia tăng sản lượng quốc gia nhanh chóng.
Công nghệ (T) : là đầu vào quan trọng làm thay đổi phương pháp sản xuất,
tăng năng suất lao động. ứng dụng các công nghệ mới sẽ nâng cao quy mô sản
lượng, chất lượng sản phẩm, tiết kiệm lao động sống, chi phí sản xuất thâp, do đó
tác động làn gia tăng tổng sản lượng quốc gia.
Như vậy, hàm sản xuất tổng hợp được thể hiện như sau: Y=F(K,L,R,T)
→ Ý nghĩa trong hàm sản xuất còn cho thấy:
-Tăng trưởng tổng sản lượng phụ thuộc vào qui mô, chất lượng của các yếu
tố đầu vào K,L,R,T và cách thức phối hợp chúng.
-Mỗi yếu tố giữ vai trò nhất định và tác động qua lại.
-Tùy theo mỗi giai đoạn phát triển kinh tế, có thể yếu tố nào đó được đề cao
hơn yếu tố khác nhưng không có nghĩa phụ thuộc duy nhất vào 1 yếu tố.
Ngoài các yếu tố đầu vào trên, tăng trưởng kinh tế còn phụ thuộc vào những
yếu tố khác nữa được gọi là các yếu tố phi kinh tế như :thể chế chính trị bao gồm
bộ máy tổ chức thực hiện, pháp luật, các chế độ, chính sách, chiến lược, nguyên tắc
quản lý…., đặc điểm văn hóa xã hội, tôn giáo….
5
1.2.
1.2.1.
Mô hình TFP
Khái niệm TFP
Khi đo lường năng suất có thể xem xét năng suất cho từng nhân tố, nhóm
hay toàn bộ các nhân tố tham gia vào quá trình sản xuất. Việc đo lường năng suất
cho từng nhân tố thì đơn giản hơn nhưng sử dụng để phân tích thì rất khó khăn.
Chẳng hạn nhờ đầu tư rất nhiều vào máy móc, còn lao động giữ nguyên về lượng
lẫn chất thì năng suất lao động (NSLĐ) vẫn tăng. Khi nghiên cứu các số liệu thống
kê, các nhà phân tích kinh tế đã phát hiện ra rằng, tại các nước có trình độ phát
triển cao, trong tốc độ tăng lên của kết quả sản xuất, sau khi loại trừ phần đóng góp
do các yếu tố đầu tư thêm lao động và vốn, đất đai, tài nguyên,… thì vẫn còn lại
một phần “dôi ra” đáng kể; và phần “dôi ra” này tùy thuộc vào quá trình áp dụng
ngày càng nhiều hơn các tiến bộ khoa học, công nghệ, tri thức quản lý hiện đại.
Hiểu một cách khái quát, thì phần “dôi ra” này chính là năng suất các nhân tố tổng
hợp (TFP- Total Factor Productivity). Thuật ngữ tiếng Anh “Total Factor
Productivity” được dịch ra tiếng Việt theo nhiều cách, có tài liệu dịch là “Tổng
năng suất nhân tố” hay như trong Báo cáo chỉ tiêu năng suất Việt Nam 2006-2007
của Trung tâm Năng suất Việt Nam (2009), TFP được dịch là “Năng suất các yếu
tố tổng hợp”... Tuy nhiên, theo quan điểm của chúng tôi, thuật ngữ này nên được
dịch là “Năng suất nhân tố tổng hợp”, căn cứ vào bản chất của vấn đề này cũng
như cấu trúc ngữ pháp tiếng Anh của nó.
Nói tóm lại, TFP là chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất mang lại do nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn và lao động, nhờ vào tác động của các nhân tố đổi mới công
nghệ, hợp lý hóa sản xuất, cải tiến quản lý, nâng cao trình độ lao động,… Theo đó,
chúng ta có thể chia kết quả sản xuất thành ba phần: (i) phần do vốn tạo ra, (ii)
phần do lao động tạo ra; (iii) và phần do nhân tố tổng hợp tạo ra. Như vậy, không
nhất thiết lúc nào cũng phải tăng lao động hoặc vốn để tăng đầu ra, mà có thể có
6
đầu ra lớn hơn bằng cách sử dụng tối ưu nguồn lao động và vốn, cải tiến quá trình
công nghệ, trình độ quản lý, trong đó các nhân tố đầu vào được phối hợp sử dụng
tốt nhất. Do đó, tăng TFP là chỉ tiêu phản ánh đích thực khái quát về hiệu quả sử
dụng vốn và lao động, là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng tăng trưởng
cũng như sự phát triển bền vững của nền kinh tế và là căn cứ để phân tích hiệu quả
kinh tế vĩ mô và đánh giá sự tiến bộ khoa học và công nghệ (KH&CN) của mỗi
ngành, mỗi địa phương và mỗi quốc gia. TFP có thể thay đổi do một số nguyên
nhân chủ yếu như thay đổi chất lượng nguồn lực lao động, thay đổi cơ cấu vốn,
thay đổi công nghệ, phân bố lại nguồn lực và trình độ quản lý.
1.2.2. Cách tính TFP
Do TFP là một phạm trù tương đối trừu tượng, việc tính toán TFP và các chỉ
tiêu liên quan đến TFP không hề đơn giản. Cho đến nay, vẫn chưa có một công
thức tính TFP thống nhất cho tất cả các nước trên thế giới. Tùy theo điều kiện từng
nước cũng như hệ thống số liệu thống kê sẵn có mà người ta tính toán chỉ tiêu này
theo các công thức và phương pháp khác nhau. Cho đến nay, ở khắp các nước, sự
chính xác trong tính toán TFP chỉ là tương đối, chưa ở đâu loại bỏ được sai số và
cũng chưa nước nào, chưa phương pháp bào tính được TFP thật chính xác. Ở đây,
chúng tôi đề cập tới hai phương pháp phổ biến nhất, đó là cách tính toán tốc độ
tăng TFP theo phương pháp hạch toán và phương pháp dùng hàm sản xuất Cobb
Douglas.
Theo phương pháp hạch toán. Công thức tính tốc độ tăng TFP theo phương
pháp hạch toán do Tổ chức Năng suất châu Á đưa vào áp dụng có dạng:
tfp = IY- (α.IK+βIL)
7
Trong đó: IY là tốc độ giá trị tăng thêm; IK là tốc độ tăng của vốn cố định;
IL là tốc độ tăng của lao động; α và β là hệ số đóng góp của vốn cố định và lao
động. Hệ số β bằng tỷ số giữa thu nhập của người lao động và giá trị tăng thêm,
còn α = 1- β.
Theo phương pháp dùng hàm Cobb- Douglas: Hàm Cobb-Douglas có dạng
như sau:
Trong đó: Y là đầu ra; A là năng suất nhân tố tổng hợp; L là lao động; K là
vốn đầu vào; α β là độ co giãn của đầu ra tương ứng với lao động và vốn.
Từ hai công thức trên có thể thấy chính xác hơn những yếu tố góp phần làm
thay đổi năng suất. Rõ ràng là trong cũng những điều kiện như nhau thì khi tăng
mức vốn và lao động sẽ làm cho năng suất lao động tăng lên. Tương tự, việc nâng
cao trình độ quản lý, công nghệ (ở đây gọi là nhân tố tổng hợp) dẫn đến tăng sản
lượng mà không cần phải tăng thêm các yếu tố đầu vào như vốn và lao động.
TFP thay đổi do một số nguyên nhân chủ yếu sau:
- Thay đổi chất lượng lao động. Một trong những nguyên nhân ảnh hưởng
đến chất lượng lao động chính là việc đầu tư nguồn lực con người bằng chính sách
giáo dục, đào tạo;
- Thay đổi cơ cấu vốn;
- Thay đổi công nghệ;
- Phân bố lại nguồn lực;
8
- Trình độ quản lý...
Chỉ tiêu TFP rất quan trọng trong phân tích kinh tế. Sự biến động TFP được
Solow sử dụng đầu tiên nhằm phản ánh sự thay đổi công nghệ và giải thích sự tăng
trưởng kinh tế. Từ đó về sau được các nhà kinh tế sử dụng rộng rãi và trở thành
một chỉ tiêu không thể thiếu trong phân tích kinh tế.
Sự biến động TFP được đo lường theo mức tuyệt đối và tương đối.
Xuất phát từ những nguồn tài liệu khác nhau, chúng ta có phương pháp phân
tích phù hợp. Sau đây chúng ta nghiên cứu một trường hợp phổ biến là sử dụng
hàm sản xuất với hai nhân tố đầu vào để phân tích sự biến động của TFP và mức
ảnh hưởng của nó đến sự biến động kết quả sản xuất.
Giả định chúng ta xem xét hàm sản xuất Yt = At f (Kt, Lt) (1). Với At chính
là TFP. Trong mô hình này chúng ta xem Y, A, K và L là hàm liên tục theo thời
gian. Còn hàm f là thuần nhất bậc một. Qua mô hình này ta thấy kết quả sản xuất Y
thay đổi do các đầu vào và TFP.
Chúng ta lấy vi phân hai vế của (1) theo thời gian, ta được:
dYt = At [fk,t dKt + fL,t dLt] + ft dAt
(2)
Trong đó:
fk,t = ∂f (Kt, Lt) / ∂Kt và fL,t = ∂f (Kt, Lt) / ∂Lt
Chia cả hai vế của (2) cho Yt, ta được:
9
dYt f K ,t K t dK t f L,t L t dL t dA t
=
+
+
Yt
ft
Kt
ft Lt
At
Trong đó:
dYt dK t dL t
dA t
,
,
vµ
Yt K t L t
At
tương ứng là tốc độ tăng của đầu ra, vốn, lao động và
TFP;
f K ,t K t
vµ
ft
f L ,t L t
tương ứng là hệ số co giãn của đầu ra theo vốn và lao động.
ft
Như vậy tốc độ tăng của kết quả sản xuất bằng tổng gia quyền các tốc độ
tăng của các đầu ra và tốc độ tăng của TFP.
Với những quyền số đã cho, chúng ta dùng biểu thức (3) để tính tốc độ tăng
của TFP.
Theo Solow trong điều kiện nền kinh tế cạnh tranh hoàn hảo thì các hệ số co
giãn có thể đo lường thông qua tỷ trọng đóng góp của từng nhân tố. Trong điều
kiện cạnh tranh, để cực đại lợi nhuận, các doanh nghiệp bán sản phẩm của mình tại
mức giá pt, và thuê hay mua các đầu vào tại mức giá pKt và pLt sao cho: pt At
fK,t = Pkt (4) và pt At fL,t = PLt (5).
Nhân hai vế của phương trình (4) cho Kt / ptYt, phương trình (5) cho Lt / pt
Yt ta được:
f K ,t K t
ft
=
p Kt K t
= w Kt
p t Yt
10
và
f L ,t L t
ft
=
p Lt L t
= w Lt
p t Yt
wKt + wLt = 1 (tổng các quyền số bằng 1)
Vì vậy, chúng ta có thể đo lường tốc độ tăng TFP bằng cách dùng số liệu thu
thập được về tốc độ tăng của đầu ra, tốc độ tăng của các đầu vào và tỷ trọng đóng
góp của các nhân tố. Cách đo lường về tốc độ tăng của TFP như vậy chính là phần
dư Solow:
dA t dYt fK,tK t dK t fL,tL t dLt
=
−
−
At
Yt
ft K t
ft L t
(6)
Như vậy, tốc độ tăng của TFP chính là tốc độ tăng của kết quả sản xuất sau
khi đã loại trừ ảnh hưởng của tốc độ tăng đã được gia quyền của các đầu vào.
Ngoài cách tính như trên chúng ta có thể sử dụng hàm lôgarit tự nhiên (Ln)
để ước lượng tốc độ tăng trưởng của TFP.
Chúng ta có thể dùng biểu thức xấp xỉ sau:
Z ∆Z
(Ln) t ≈
Z t −1 Z t −1
(7)
Có nghĩa là Ln (tốc độ phát triển) ≈ tốc độ tăng
Bây giờ, chúng ta xem một trường hợp hàm sản xuất là Cobb-Douglas với
hai yếu tố đầu vào như sau:
11
Y = AK α L1− α
(8)
Với Y, K, L được giả định là hàm liên tục theo thời gian.
Logarit hai vế (8) ta được:
LnY = LnA + αLnK + (1 - α)LnL
(9)
Vi phân hai vế của (9) theo thời gian, ta có:
dY dA
dK
dL
=
+α
+ (1 + α)
Y
A
K
L
Dựa vào phương trình này ta xác định các nhân tố ảnh hưởng đến sự biến
động của TFP và các nhân tố ảnh hưởng đến nó.
dA dY
dK
dL
=
−α
− (1 − α)
A
Y
K
L
Như vậy, chúng ta đã có thể hiểu về bản chất của TFP và một số cách tiếp
cận về phương pháp nghiên cứu sự biến động của nó. Tuy nhiên, để có thể vận
dụng vào thực tiễn là một vấn đề không đơn giản bởi nguồn số liệu.
1.3.
Vai trò của TFP
Như phần trên đã đề cập, TFP phản ánh hiệu quả của các nguồn lực được sử
dụng vào sản xuất. Ngoài ra, TFP còn phản ánh hiệu quả do thay đổi công nghệ,
trình độ tay nghề của công nhân, trình độ quản lý,… Nâng cao TFP tức là nâng cao
hơn kết quả sản xuất với cùng đầu vào. Theo nhiều nghiên cứu, tất cả các nhân tố
tổng hợp như thể chế kinh tế, yếu tố thị trường, trình độ khoa học công nghệ, cơ
12
chế quản lý, tài nguyên thiên nhiên, lợi thế so sánh,… đều có vai trò đối với tăng
trưởng và phát triển. Ví dụ, những thành tựu KH&CN được vật chất hóa và được
chuyển giao ứng dụng vào các lĩnh vực sản xuất thì trở thành bộ phận lực lượng
sản xuất quan trọng có tính quyết định đến hiệu quả sản xuất. Trong quá trình phát
triển, sự tăng lên của đầu vào - lao động và vốn - cũng gia tăng, nhưng một điều dễ
nhận thấy là ở các nước phát triển, thành phần quan trọng nhất đóng góp cho tăng
trưởng sản lượng là sự gia tăng của TFP. Nếu mỗi nền kinh tế biết cách khai thác
được ngày càng nhiều hơn từ mỗi chiếc máy, hay mỗi người công nhân thông qua
công nghệ tốt hơn hoặc từ những phương tiện khác, thì sản lượng và thu nhập sẽ
cao hơn mà không cần đầu tư nhiều thêm về vốn.
Điều này rất quan trọng đối với người lao động, doanh nghiệp và toàn nền
kinh tế. Đối với người lao động, nâng cao TFP sẽ góp phần nâng lương, nâng
thưởng, điều kiện lao động được cải thiện, công việc ổn định hơn. Đối với doanh
nghiệp thì có khả năng mở rộng tái sản xuất. Còn đối với nền kinh tế sẽ nâng cao
sức cạnh tranh trên trường quốc tế, nâng cao phúc lợi xã hội. Nếu TFP thấp, thì
tăng trưởng của nền kinh tế sẽ không bền vững.
13
CHƯƠNG II. VAI TRÒ CỦA TFP ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
CỦA VIỆT NAM
2.1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam
Trong 6 năm này, GDP tăng trưởng trung bình là 6,83%/ năm, thấp hơn so
với giai đoạn trước. Giai đoạn này chứng kiến và đánh dấu thời điểm trồi sụt thất
thường của tăng trưởng GDP cũng như CPI.
Tại thời điểm đầu tiên khi gia nhập WTO năm 2007, Việt Nam đã được
hưởng lợi từ việc tăng trưởng nguồn vốn FDI, song đây là năm tốc độ tăng trưởng
đạt mức cao nhất trong giai đoạn này là 8,46% và đi kèm theo nó là tốc độ tăng
CPI cao nhất từ năm 2001 đạt 19,6%. Tốc độ trung bình GDP giai đoạn này là
6,83% thấp hơn giai đoạn trước 7,51% nhưng tốc độ lạm phát thực sự nghiêm
trọng, trung bình giai đoạn này là 12,66%, lớn hơn gấp 2 lần so với trung bình giai
đoạn trước là 5,14%. Năm 2007 là năm bước ngặt về tăng trưởng thương mại,
nhưng là việc nhập siêu ngày càng thường xuyên xảy ra và nhập siêu lạm phát góp
phần tăng của lạm phát trong nước ngày càng trầm trọng.
Sang năm 2008, trước bối cảnh khó khăn của nền kinh tế thế giới và cơ cấu
kinh tế dễ bị ảnh hưởng, mục tiêu tăng trưởng do Chính phủ đặt ra đã được điều
chỉnh giảm từ 8,5 – 9% theo kế hoạch xuống 7,2% nhưng cũng không thể hoàn
thành. Tốc độ tăng trưởng GDP năm 2008 chỉ đạt 6,18% đánh dấu điểm khởi đầu
suy giảm tăng trưởng và sự bất ổn ngày càng gia tăng.
Năm 2009, nền kinh tế Việt Nam chịu tác động của khủng hoảng kinh tế
toàn cầu khiến tốc độ tăng trưởng trong quý I sụt giảm mạnh. Tuy nhiên, với những
chính sách kích thích kinh tế khá cương quyết của Chính phủ, nền kinh tế đã ra
khỏi thời kỳ thu hẹp và đang tăng trưởng vững chắc hơn. Tính cả năm 2009, tuy
14
GDP giảm so với năm trước, chỉ đạt 5,46% song mức tăng CPI tăng thấp dưới một
con số là 6,52%.
Mặc dù đã đạt được những thành công nhất định trong năm 2009, nhưng nền
kinh tế bước sang năm 2010 vẫn còn đối mặt với những nguy cơ, quan trọng nhất
là: nhu cầu bên ngoài tiếp tục hạn chế; nền kinh tế đang phát triển thiên về các
ngành phi thương mại và nguy cơ lạm phát cao quay trở lại. Nền kinh tế Việt Nam
năm 2010 vẫn tiếp tục đà hồi phục của năm 2009 và có tốc độ tăng trưởng cao hơn
năm trước.
Những mặt trái của chính sách kích cầu (năm 2009) cũng đã dần bộc lộ
khiến nền kinh tế đứng trước một số nguy cơ mất ổn định như: lạm phát cao, thâm
hụt thương mại lớn, thị trường tài chính tiền tệ diễn biến phức tạp.
Trong năm 2011, tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt 5,86% so với năm
2010, theo xu hướng quý sau cao hơn quý trước, cả 3 khu vực kinh tế đều tăng
trưởng khá: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,08%; khu vực công
nghiệp và xây dựng tăng 6,49%; khu vực dịch vụ tăng 6,12%. Tuy tốc độ tăng
GDP năm nay thấp hơn năm 2010 (6,78%), nhưng vẫn cao hơn năm 2009 (tăng
5,46%), là kết quả quan trọng trong bối cảnh kinh tế thế giới và khu vực có nhiều
khó khăn, tốc độ tăng trưởng kinh tế nhiều nước chậm lại (GDP Trung Quốc năm
2011 tăng 9% so với 10,3% năm 2011).
Tại giai đoạn bất thường này, bên cạnh sự bất thường của khủng hoảng tài
chính là sự chịu đựng cú sốc từ khủng hoảng trên thế giới cũng như tình trạng xấu
từ nguyên nhân bên trong, là cơ cấu kinh tế và mô hình tăng trưởng đã lạc hậu và
không còn động lực.
15
2.2. Đóng góp của TFP đến tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam
2.2.1. Môi trường kinh tế vĩ mô
Trước hết, đổi mới kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô có tác động mạnh mẽ tới
tăng trưởng TFP. Ổn định kinh tế vĩ mô (với tỷ lệ lạm phát được coi như một thước
đo) có tác động tới tăng trưởng TFP (trực tiếp) và GDP (gián tiếp). Khi giá cả tăng
nhanh và bất ổn, các tín hiệu thị trường bị méo mó và tăng trưởng TFP suy giảm.
2.3.2. Phân bổ lại nguồn lực
Hiệu quả kinh tế được nâng cao nếu các nguồn lực như lao động, đầu tư giữa
các khu vực, sự thay đổi trong cơ cấu thương mại và đầu tư trực tiếp nước ngoài
được phân bổ tốt hơn.
Cơ cấu lao động
Cách thức ước lượng tăng trưởng TFP luôn đi với giả định rằng yếu tố năng
suất lao động là đồng nhất, nhưng trong thực tế, có các loại lao động khác nhau
trong nền kinh tế. Với tổng số lao động nhất định, thì sự thay đổi phân bố lao động
chắc chắn tác động tới tăng trưởng sản lượng thông qua tăng trưởng TFP. Tăng
trưởng lao động trong khu vực nông nghiệp ổn định nhất, với mức thấp dưới
3%/năm, nhưng có sự giảm sút đáng kể trong 10 năm trở lại đây. Lực lượng lao
động khu vực công nghiệp biến động mạnh hơn, đặc biệt có tốc độ tăng cao vào
năm 2000 và 2010. Ngoại trừ giai đoạn 2001-2009, lao động của khu vực dịch vụ
luôn có mức tăng trưởng cao nhất trong ba khu vực. Sự khác biệt về tốc độ tăng
trưởng lao động của ba khu vực dẫn đến thay đổi cơ cấu lao động: xu hướng giảm
dần của khu vực nông nghiệp (từ 73% xuống 48% trong thời kỳ 1991-2010), và sự
gia tăng của khu vực công nghiệp (từ 11% lên 22%) và dịch vụ (từ 16% lên 29%)
trong tỷ trọng lao động kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, gần ½ lực lượng lao động Việt
16
Nam vẫn làm việc trong các ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản trong khi ngành
công nghiệp – xây dựng chỉ chiếm một tỷ lệ khiêm tốn là 22% năm 2015.
Bên cạnh đó, năng suất lao động (đo bằng GDP bình quân lao động) của ba
khu vực cũng có sự khác biệt. Năng suất lao động của khu vực nông nghiệp hầu
như không biến động trong khi khu vực công nghiệp gia tăng mạnh mẽ, đặc biệt
trong giai đoạn trước năm 2000. Tăng trưởng năng suất lao động của khu vực dịch
vụ thấp hơn khu vực công nghiệp, nhưng vẫn cao hơn khu vực nông nghiệp rất
nhiều. Điều này chứng minh rằng có sự phân bổ lại lực lượng lao động từ khu vực
nông nghiệp sang hai khu vực còn lại, và từ khu vực dịch vụ sang khu vực công
nghiệp từ sau năm 1995 (mốc đánh dấu năng suất lao động của khu vực công
nghiệp vượt qua khu vực dịch vụ). Sự dịch chuyển cơ cấu lao động như vậy đã góp
phần làm tăng năng suất lao động chung và qua đó tác động tích cực đến tăng
trưởng kinh tế.
Đầu tư tư nhân có tác động tích cực đến TFPG trong ngắn hạn, bởi đây có
thể coi là một loại vốn năng động, giúp tăng khả năng huy động các nguồn lực và
thúc đẩy cạnh tranh. Trong dài hạn (tính độ trễ của đầu tư), nguồn vốn tư nhân thực
sự thúc đẩy nâng cao hiệu quả kỹ thuật của nền kinh tế, thể hiện qua hệ số tương
quan dương với TFPG.
Nguồn vốn ngân sách tác động ngược chiều đến TFPG, và chỉ mang lại hiệu
quả kỹ thuật cho nền kinh tế sau 1-2 năm đầu tư. Điều này không khó hiểu khi
chúng ta biết rằng hiệu quả đầu tư của loại vốn này khá thấp, và thông thường nhà
nước dành vốn ngân sách chủ yếu vào xây dựng cơ sở hạ tầng, vốn chỉ đem lại
hiệu quả kinh tế - xã hội sau một thời gian nhất định.
Vốn vay của nhà nước có tương quan âm với TFPG. Chính phủ thường vay
vốn ở mức lãi suất ưu đãi, và sử dụng vốn này vào xây dựng cơ sở hạ tầng, cũng
17
như sản xuất các loại hàng hóa có lợi thế cạnh tranh. Tuy nhiên, trong dài hạn, dấu
âm trong mối quan hệ giữa TFPG và vốn vay của nhà nước là sự cảnh báo về tính
hiệu quả của loại vốn này.
Đầu tư của doanh nghiệp nhà nước tác động tích cực đến TFPG trong thời
kỳ 1995-2015, chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp nhà nước đã
được nâng cao nhờ việc chính phủ tái cơ cấu doanh nghiệp doanh nghiệp theo
hướng tăng quyền tự chủ. Tuy vậy, sau hai năm, đầu tư của doanh nghiệp nhà nước
lại có mối tương quan âm đối với TFPG, thể hiện tính hiệu quả công nghệ chưa
được phát huy trong dài hạn.
Những phân tích trên đây cho thấy bức tranh tổng quát về mối quan hệ giữa
các nguồn đầu tư trong nước với tăng trưởng TFP. Sự gia tăng đầu tư của khu vực
tư nhân có tác động tích cực đến nền kinh tế trong dài hạn, trong khi các nguồn
vốn còn lại của khu vực nhà nước dường như không đóng góp cho sự gia tăng hiệu
quả công nghệ trong suốt giai đoạn 1995-2015.
Thương mại quốc tế
Có thể phân tích tác động của thương mại quốc tế đến tăng trưởng TFP
thông qua các thước đo độ mở của nền kinh tế như tỷ lệ tổng kim ngạch xuất nhập
khẩu trên GDP; tỷ lệ xuất khẩu trên GDP; và tỷ lệ nhập khẩu trên GDP.
Tuy nhiên, khi xem xét về cơ cấu xuất nhập khẩu của nước ta, cần phải nhìn
nhận hai thực tế sau:
(1) Gần 50% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam thuộc nhóm hàng thô hoặc
mới sơ chế, bao gồm các mặt hàng như lương thực, thực phẩm, nguyên vật liệu
thô, nhiên liệu… Bên cạnh đó, trong nhóm hàng chế biến hoặc đã tinh chế, thì
phần nguyên vật liệu phải nhập khẩu là rất lớn (ví dụ chiếm đến 70-80% giá trị
18
xuất khẩu ở các mặt hàng dệt may), nên giá trị giá tăng được tạo ra thấp, không
mang lại nhiều lợi ích cho việc tăng hiệu quả công nghệ.
(2) Tỷ lệ nhập khẩu các loại hàng hóa đã qua chế biến rất cao, trong đó tỷ
trọng hàng hóa tiêu dùng trong tổng kim ngạch nhập khẩu tăng từ 6,7% (2004) lên
9,3% (2015). Cơ cấu nhập khẩu này có thể không giúp nâng cao năng lực sản xuất
trong nước, trong khi lại có thể tác động tiêu cực đến các ngành kinh doanh trong
nước.
Bởi vậy, khi nền kinh tế đạt đến trình độ phát triển nhất định, thì sự chuyển
dịch cơ cấu xuất nhập khẩu của Việt Nam là cần thiết để có thể thúc đẩy hơn nữa
tác động tích cực của thương mại quốc tế đến tăng trưởng TFP. Có thể thấy điều
này qua hệ số giảm dần của thương mại quốc tế theo thời gian.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Về lý thuyết, FDI là kênh chuyển giao công nghệ hiệu quả đối với các nước
đang phát triển, qua đó có tác động tích cực đối với gia tăng hiệu quả sản xuất –
kinh doanh. Điều này lý giải vì sao tỷ trọng FDI trên GDP có mối tương quan
dương với TFPG cả trong ngắn hạn lẫn dài hạn. Tuy nhiên, FDI vẫn có thể mang
lại những hiệu ứng tiêu cực đối với nền kinh tế, nếu chính sách ưu đãi trong việc
thu hút FDI đã tạo lợi thế cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong
một thời gian dài, gây ra sự bất bình đẳng trong cạnh tranh với các doanh nghiệp
sản xuất – kinh doanh trong nước. Hơn nữa, một phần lớn FDI được đầu tư vào các
ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu, được bảo hộ ở mức cao, do vậy có thể áp
đặt mức giá cao cho nền kinh tế, làm giảm hiệu quả sản xuất – kinh doanh.
Một vấn đề khác có thể nhận thấy qua hệ số hồi quy giữa vốn FDI đăng ký
và vốn FDI thực hiện với TFPG: hệ số này cao ở FDI thực hiện nhưng rất thấp ở
FDI đăng ký. Điều này khiến người nghiên cứu cần thận trọng trong việc sử dụng
19
FDI đăng ký như một biến số đo lường, đồng thời phản ánh thực trạng giải ngân
chậm của FDI trong nền kinh tế Việt Nam.
Vốn con người
Giáo dục trang bị cho con người kiến thức, còn đào tạo giúp nâng cao kỹ
năng cho người lao động. Đây là các kênh chủ yếu nâng cao vốn con người và tăng
trưởng TFP. Dựa trên số liệu của Tổng cục Thống kê và Bộ Lao động, thương binh
và xã hội, có thể tính được tỷ lệ lao động chia theo trình độ học vấn với các nhóm:
(1) mù chữ, (2) chưa tốt nghiệp tiểu học, (3) tốt nghiệp tiểu học, (4) tốt nghiệp
trung học cơ sở, (5) tốt nghiệp trung học phổ thông, và (6) tốt nghiệp cao đẳng, đại
học và sau đại học.
Trước hết, tỷ lệ lao động mù chữ và lao động chưa tốt nghiệp tiểu học gia
tăng gây tác động tiêu cực đến tăng trưởng TFP trong giai đoạn 2000-2015. Trong
khi đó, tỷ lệ lao động tốt nghiệp tiểu học, lao động tốt nghiệp PTTH và tốt nghiệp
cao đẳng, đại học trở lên có mối tương quan dương với TFPG, và hệ số này đặc
biệt cao trong năm thứ hai, thể hiện độ trễ của vốn con người đối với tăng trưởng
TFP. Như vậy, số lao động có trình độ càng cao thì tăng trưởng TFP càng lớn, điều
này cảng khẳng định mối quan hệ cùng chiều giữa vốn con người và TFP.
Tuy vậy, có một lưu ý nhỏ ở số liệu lao động tốt nghiệp THCS. Do việc chia
nhóm lao động theo cách nêu trên dẫn đến việc bỏ qua một lực lượng lao động rất
lớn được đào tạo nghề ngay sau khi tốt nghiệp tiểu học hoặc THCS. Vì vậy, tỷ lệ
lao động tốt nghiệp THCS có quan hệ ngược chiều với TFPG cho thấy thước đo
này cần được nghiên cứu thêm.
Đổi mới công nghệ
20
Nghiên cứu thực nghiệm ở nhiều quốc gia khẳng định vai trò của chi tiêu
cho R&D (nghiên cứu và triển khai) đối với hiệu quả công nghệ rất quan trọng.
Phân tích này lấy số bằng phát minh sáng chế được cấp mới làm đại diện cho mức
R&D (với giả định là số bằng phát minh sáng chế tỷ lệ với hoạt động R&D). Số
liệu từ Cục Sở hữu trí tuệ (2010) cho thấy việc cấp số bằng độc quyền sáng chế, số
bằng độc quyền giải pháp hữu ích, số bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp và
giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu mặc dù ngày càng cao, tuy nhiên vẫn còn rất
khiêm tốn. Xét về đầu tư, chi tiêu chính phủ cho sự nghiệp khoa học và công nghệ
môi trường trong 20 năm qua chưa từng đạt đến 2% tổng chi tiêu (cao nhất vào
khoảng 1,9% trong giai đoạn 1996-2000). Số lượng bằng phát minh sáng chế được
cấp trong thời kỳ 1991-2009 cũng chỉ tập trung cho đối tượng người nước ngoài
(chiếm 95,2%).
Tuy vậy, hệ số tương quan giữa số bằng độc quyền sáng chế và tăng trưởng
TFP bằng 47,7%, điều này khẳng định cải tiến công nghệ có tác động tốt đến hiệu
quả kỹ thuật của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 1995-2015.
2.4. Đánh giá về đóng góp TFP đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam
Từ những phân tích trên đây về TFP trong giai đoạn 1991-2015, có thể rút ra
một số kết luận sau:
Chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Kết quả phân tích cho thấy hiệu ứng
tích cực của chuyển dịch cơ cấu kinh tế đối với hiệu quả công nghệ. Tuy nhiên, sự
phân bổ lại lực lượng lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp
vẫn còn khiêm tốn, qua đó hạn chế việc nâng cao năng suất lao động. Đến nay, tỷ
lệ lao động làm việc ở khu vực nông thôn vẫn chiếm tới hơn 50% toàn bộ lực
lượng lao động. Khu vực này hiện có lao động trình độ không cao (mức vốn con
người thấp), cũng không khuyến khích nhiều hoạt động R&D, không thu hút được
21
FDI, và mức độ đóng góp cho xuất khẩu cũng hạn chế. Bởi vậy, giải pháp nhằm
thúc đẩy tăng trưởng TFP phải tập trung vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu
lao động, đi kèm với đầu tư cao hơn vào giáo dục và đào tạo để đáp ứng nhu cầu
phát triển.
Chính sách đầu tư: Phân tích tác động của đầu tư trong nước đối với hiệu
quả công nghệ cho thấy đầu tư tư nhân đóng vai trò quan trọng cho việc nâng cao
hiệu quả công nghệ. Trong khi FDI (ngoại lực) thực sự có hiệu ứng dương với tăng
trưởng TFP thì đối với vốn trong nước, cần xem xét lại vấn đề hiệu quả đầu tư ở
khu vực nhà nước.
Chính sách thương mại: các kết quả phân tích tương quan cho thấy thương
mại quốc tế có tác động tích cực đến hiệu quả kỹ thuật, tuy nhiên hiệu ứng này
giảm theo thời gian, thể hiện cơ cấu xuất nhập khẩu chưa bền vững (xuất khẩu sản
phẩm thô trong khi nhập khẩu sản phẩm đã qua chế biến). Việt Nam cần xác định
lợi thế cạnh tranh dài hạn trong thương mại quốc tế và có những chính sách đúng
đắn để thay đổi cơ cấu xuất nhập khẩu.
Chính sách về khoa học và công nghệ: Rõ ràng R&D có tác động tích cực
đến tăng trưởng TFP, nhưng chi tiêu ngân sách cho khoa học – công nghệ ở Việt
Nam còn quá thấp. Trong bối cảnh nguồn lực nhà nước còn hạn chế, thì việc
khuyến khích khu vực tư nhân tham gia vào hoạt động này cần được đẩy mạnh,
đặc biệt thông qua các mối liên kết giữa trường đại học và doanh nghiệp.
22
KẾT LUẬN
Nền kinh tế Việt Nam lựa chọn là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa.Vì vậy, tăng trưởng kinh tế mà Việt Nam xác định là tăng trưởng bền
vững, tăng trưởng vì con người, vì xã hội ngày càng công bằng hơn, dân chủ hơn,
tăng trưởng gắn với bảo vệ môi trường.
Ngày nay, chúng ta có thể thấy, mục tiêu hàng đầu của nâng cao năng suất là
nâng cao chất lượng cuộc sống của con người; và kết quả của nâng cao năng suất
là giúp nâng cao chất lượng tăng trưởng, nâng cao khả năng cạnh tranh của các tổ
chức, doanh nghiệp và cả nền kinh tế. Trong đó, nâng cao TFP tức là nâng cao hơn
kết quả sản xuất với cùng đầu vào. Điều này là rất quan trọng đối với người lao
động, doanh nghiệp và toàn nền kinh tế. Đối với người lao động, nâng cao TFP sẽ
góp phần nâng lương, nâng thưởng, điều kiện lao động được cải thiện, công việc
ổn định hơn. Đối với doanh nghiệp thì có khả năng mở rộng tái sản xuất. Còn đối
với nền kinh tế sẽ nâng cao sức cạnh tranh trên trường quốc tế, nâng cao phúc lợi
xã hội.
23
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Thọ Đạt (2010), Giáo trình mô hình tăng trưởng kinh tế, NXB Đại học Kinh
tế quốc dân.
2. Võ Văn Đức (2011), Tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam qua mô hình tăng trưởng
kinh tế Solow, NXB Chính trị quốc gia.
3. Nguyễn Xuân Thành (2010), Báo cáo “Những trở ngại về cơ sở hạ tầng của Việt
Nam” trong “Loạt bài nghiên cứu sức cạnh tranh quốc tế và sự gia nhập WTO của
Việt Nam”, Tài liệu đối thoại chính sách Havard – UNDP, TP. Hồ Chí Minh, tháng
01 – 2010.
4. Nguyễn Đức Thành (2011), Báo cáo thường niên kinh tế Việt Nam 2011 “Nền kinh
tế trước ngã ba đường”, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
24
MỤC LỤC
25