HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG
KHOA THIẾT KẾ VÀ SÁNG TẠO ĐA PHƯƠNG TIỆN
*****
GIÁO TRÌNH BÀI GIẢNG
IT
(Phương pháp đào tạo theo tín chỉ)
BIÊN TẬP VĂN BẢN BÁO CHÍ
Mã học phần: CDT
PT
(0 tín chỉ)
Biên soạn
Vũ Tiến Thành
LƯU HÀNH NỘI BỘ
Hà Nội, 12/2014
1
LỜI NÓI ĐẦU
Bài giảng “Biên tập văn bản báo chí” dùng cho sinh viên tham khảo, trong chuyên ngành
truyền thông Đa phương tiện, thuộc lĩnh vực Công nghệ Đa phương tiện. Nội dung tài liệu đề
cập, cung cấp những kiến thức cơ bản về quá trình ra đời và phát triển của các nền văn minh tiêu
biểu trong lịch sử loài người.
Bài giảng này gồm 5 chương đem lại cho người đọc sự hiểu biết cơ bản và hệ thống về
mô hình và quy trình tổ chức sản xuất hoạt động của một cơ quan báo chí. Đặc biệt là quá trình
biên tập nội dung cho một ấn phẩm báo chí.
Trên cơ sở những kiến thức khoa học, môn học này nhằm góp phần xây dựng quan điểm
nhân văn, biết quý trọng và giữ gìn những sản phẩm vật chất và tinh thần của văn minh nhân
loại, biết vận dụng hữu ích vào viêc hoàn thiện nhân cách của mỗi người và kiến thiết đất nước
theo đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng văn minh.
PT
IT
Tác giả xin chân thành cám ơn các cán bộ Viện công nghệ Thông tin và Truyền thông
CDIT, Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông PTIT đã trợ giúp để hoàn thành tài liệu này.
2
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ...........................................................................................................2
CHƯƠNG I – TỔNG QUAN VỀ CÔNG TÁC BIÊN TẬP .....................................4
1.1. Vị trí vai trò của công tác biên tập...................................................................4
1.2. Những nội dung chính của công tác biên tập ................................................19
1.3. Mối quan hệ Biên tập viên – phóng viên trong tòa soạn ...............................27
CHƯƠNG II – CÔNG TÁC TỔ CHỨC NỘI DUNG .............................................29
2.1. Các công việc cụ thể của công tác tổ chức nội dung .....................................29
2.2. Công tác tổ chức nội dung và chiến lược truyền thông của tòa soạn ............32
CHƯƠNG III – BIÊN TẬP NGÔN NGỮ VĂN BẢN BÁO CHÍ ..........................42
IT
3.1. Yêu cầu về ngôn ngữ đối với văn bản báo chí ..............................................42
3.2. Những hiện tượng sai về ngôn ngữ phổ biến trên báo chí hiện nay ..............47
CHƯƠNG IV – TỔ CHỨC NỘI DUNG THÔNG TIN TRONG TÁC PHẨM BÁO
CHÍ ...........................................................................................................................52
PT
4.1. Xu hướng tổ chức thông tin của báo chí hiện đại ..........................................52
4.2. Các yếu tố được sử dụng để tổ chức thông tin ..............................................59
CHƯƠNG V – BIÊN TẬP VĂN BẢN BÁO TRỰC TUYẾN ...............................67
5.1. Sự chi phối của đặc trưng loại hình đối với quy trình biên tập văn bản báo
trực tuyến ..............................................................................................................67
5.2. Các bước trong quy trình biên tập văn bản báo trực tuyến ...........................77
3
CHƯƠNG I – TỔNG QUAN VỀ CÔNG TÁC BIÊN TẬP
1.1. Khái niệm và một số mô hình tòa soạn báo
Khái niệm tòa soạn báo chí: Xuất phát từ tiếng Latinh: Redactús, tiếng Pháp:
Redaction, tiếng Nga: đều có hai nghĩa chính:
Biên tập, tu chỉnh, gọt dũa, sắp đạt, sắp xếp, nề nếp, trật tự, quy củ. Tùy
thuộc vào tình huống cụ thể để hiểu các ý nghĩa trên. Thông thường ý nghĩa thứ
nhất để chỉ công tác biên tập và ý nghĩa thứ hai để chỉ các cơ quan thông tin đại
chúng (báo in, phát thanh, truyền hình, hãng thông tấn…)
Có những quan niệm khác nhau về tòa soạn báo chí. Ở các nước tư bản cho
IT
rằng tòa soạn báo cũng như các nhà máy, xí nghiệp, là nơi “chế biến” các sự kiện
được “chế biến” thành tin tức để mang lại lợi nhuận kinh tế và uy tín chính trị.
V.I. Lenin khái quát tòa soạn báo (và báo chí nói chugn) là người tuyên
PT
truyền tập thể, cổ động tập thể và tổ chức tập thể… Tòa soạn báo là dàn nhạc giao
hưởng, còn số báo là bản nhạc do chính dàn nhạc giao hưởng đó chơi.
Ở nước ta, cách hiểu về tòa soạn cũng chưa thống nhất. Trong Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật báo chí tháng 6-1999 không đề cập đến khái niệm
tòa soạn báo mà chỉ cho rằng: “Cơ quan báo chí là cơ quan thực hiện một loại hình
báo chí. Báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử…”
Một số tác giả khác thì cho “Tòa soạn – công việc chính là biên tập, tổ chức
trang” hoặc “Trong bất kỳ một cơ quan báo chí nào, nhỏ hay lớn, báo ngành, báo
địa phương hay báo trung tương, tòa soạn bao giờ cũng là ban chuyên môn được
tổng biên tập quan nhất. Nếu so sánh ban biên tập như bộ não thì tòa soạn chính là
trái tim của cơ thể báo chí. Tất cả mọi tin, bài, tranh, ảnh… từ các địa phương, các
4
tin tức từ nước ngoài đều đổ về tòa soạn để từ đó được chọn lọc, biên tập, tổ chức,
thiết kế trở thành tờ báo hoàn chỉnh”.
Cũng có ý kiến lại cho rằng, tòa soạn, tòa báo, trụ sở báo hay là cơ quan báo
chí có ý nghĩa như nhau, chỉ khác về cách gọi.
Theo cuốn Tổ chức và hoạt động tòa soạn của tác giả Đinh Văn Hường: Tòa
soạn báo chí là cơ quan do Đảng, chính quyền, tổ chức và đoàn thể xã hội lập ra để
xuất bản báo chí theo quy định của pháp luật. Đó là cơ quan ngôn luận của một tổ
chức nhất định, thực hiện tôn chỉ, mục đích nhiệm vụ do tổ chức đó đặt ra bằng
những phương tiện và biện pháp đặc biệt.
PT
IT
Một số mô hình tòa soạn báo và ban biên tập:
5
6
IT
PT
7
IT
PT
8
IT
PT
9
IT
PT
10
IT
PT
11
IT
PT
12
IT
PT
13
IT
PT
1.2. Vị trí vai trò của công tác biên tập
Đã có một thời Biên tập viên – chủ yếu ở các báo nước ngoài được xem như
nhàbáo thứ cấp, hững phóng viên thất bại, lụt nghề hoặc phải lui về phía sau do
tuổi tác. Một số phóng viên vẫn nhìn các Biên tập viên như thế. Tuy vậy, trong
những năm gần đây, nghề này đã bắt đầu được kính trọng vì vao trò của báo chí đã
thay đổi.
Hiện nay, báo giấy phải tìm cách giải thích tin tức nhiều hơn trước vì tin
nóng, tin nhanh đã bị Internet, đài phát thanh, truyền hình giành mất rồi. Vì thế các
nhà báo phục vụ cho những tờ báo in đã ra sức săn tìm thông tin để có thể tường
IT
thuật những gì ở đằng sau các sự kiện, làm cho chúng nổi bật lên hơn. Các nỗ lực
này đã đưa việ viết hay, viết giỏi lên thành ưu tiên hàng đầu tại tào soạn của một số
tờ báo.
Nói chung, lãnh đạo của bất cứ cơ quan báo chí, truyền thông nào giờ cũng
PT
đều thừa nhận gái trị của cácBiên tập viên giỏi. Các báo Việt Nam trả lương cho
người biên tập cao hơn cho phóng viên cùng trình độ, có thể gần gấp đôi.
Nhưng Biên tập viên dựa vào đâu để làm việc. Vào ba điểm cơ bản:
Hiểu độc giả
Hiểu tin tức
Sử dụng ngôn ngữ nhuần nhuyễn
Trong báo chí có nhiều loại Biên tập viên: Biên tập viên văn bản, Biên tập
viên là trưởng ban, thư ký tòa soạn, tổn thư ký tòa soạn, phó tổng biên tập chuyên
trách nội dung, tổng biên tập. Mỗi người đều có nhiệm vụ riêng.
Nhiệm vụ của Biên tập viên đều có những điểm tương đồng. Sự phân biệt
chức danh đôi khi chỉ mang tính hình thức, không dựa trên nội dugn công việc.
14
Biên tập viên thường khác nhau về trình độ, kinh nghiệm và mức độ chịu trách
nhiệm. Nhưng đều có những trách nhiệm chung: lên kế hoạch, tổ chức thực hiện và
đảm bảo chất lượng bài vở.
Là Biên tập viên, nhà báo không chỉ có trách nhiệm đối với công việc cũa
mình, mà còn phải có trách nhiệm đối với một lĩnh vực, toàn bộ khâu biên tập và
các cộng tác viên. Từ đấy hình thành những nhiệm vụ lãnh đạo hoặc quản lý, một
nhiệm vụ gắn liền với nhiều vấn đề và nhiều quyết định. Từ việc quản lý thời gian,
lãnh đạo nhân viên, và quan hệ nội bộ cho tớí việc kiểm tra những quá trình lao
động trong và ngoài ban biên tập. Kế hoạch, tổ chức và kiểm tra không còn là
những khái niệm xa lạ đối vớì Biên tập viên, cho dù hình như có một rào cản tinh
IT
thần tồn tại giữa Biên tập viên và người quản lý.
Để tác nghiệp, bên cạnh những kiến thức chuyên môn và những khả năng,
kỹ năng báo chí, nhà báo cần có đầu óc tổ chức, đấy là khả năng tư duy về nhữnệ
PT
mục tiêu có tính chiến lược, quy hoạch các mục tiêu đó, và tổ chức thực hiện có
hiệu quả, nhằm đóng góp cho thị trường những sản phẩm truyền thông vừa có chất
lượng chuyên môn lại vừa có hiệu quả kinh tế.
Để đảm bảo thành công và chủ động trong tài chính cũng như kế hoạch,
thông thường lãnh dạo ban biên tập phải xây dựng cho dược kế hoạch biên tập.
Qua thực tiễn khảo sát các báo, đài thì công tác quản lý biên tập rõ ràng cần được
cải tiến. Nhiều ban biên tập hoạt động đôi phó, nghĩa là họ chỉ giới hạn vào những
bài vở gửi tới và lưu ý tới kế hoạch thời gian mà thôi. Những kế hoạch biên tập cụ
thể, nhằm giúp Biên tập viên định hướng trong công việc hàng ngày của mình từ
đấy mới có được những sản phẩm có bản sắc trên thị trường truyền thông, thì hẳn
còn quá ít. Tình hình các báo đài địa phương cũng tương tự như. vậy. Ngay tại các
tờ báo nhỏ ở địa phương hầu như chẳng bao giờ có giao ban biên tập, tác phong
lãnh đạo của các trưởng phòng, ban biên tập thường mang tính sự vụ chỉ tập trung
15
vào phần tin địa phương. Nhiều đài phát thanh tư nhân cũng không có bộ máy quản
lý công tác biên tập. Tổng biên tập và những người chịu trách nhiệm biên tập vì lý
do kinh tế hoàn toàn bận rộn với việc sản xuất chương trình hàng ngày. Hầu hết họ
không còn thời gian cho công việc hoạch định kế hoạch và lãnh đạo đội ngũ biên
tập.
Muốn quản lý tốt công tác biên tập trước hết đòi hỏi tổng biên tập phải biết
nguyện vọng và nhu cầu của từng nhóm độc giả, thính giả, tình hình cạnh tranh
trên thị trường truyền thông va khả năng biên tập của cơ sở mình. Các dữ liệu này
người ta có thể thu nhập nhờ các kết quả điều tra công chúng và thị trường. Trên
cơ sở đó, ban biên tập mới có khả năng lập các kế hoạch với mục tiêu thỏa mãn các
IT
nguyện vọng và yêu cầu của các đối tượng công chúng khác nhau.
Trong những nãm gần đây trong công chúng hình thành các khuynh hướng
sau đây: nguyện vọng báo, đài mở thêm các dịch vụ khách hàng tăng lên, công
PT
chúng mong đợi một sự gắn bó chặt chẽ hơn giữa công tác biên tập với độc giả,
khán, thính giả; nguyện vọng có nhiều chương trình dôi thoại, giải trí cũng như
nâng cao chất lượng và độ tin cậy của các phương tiện truyền thông đại chúng
ngày một tàng lên. Trong từng trường hợp cụ thể còn có nhiều yếu tô" ảnh hưởng
mà trong khi xây dựng kế hoạch biên tập cần phải quan tâm tổi. Ví dụ như cần chú
ý tới điều kiện kinh tế, kỹ thuật, khả năng cán bộ và điều kiện cạnh tranh. Không
có một "Mô hình kế hoạch” nào có thể áp dụng chung cho mọi trường hợp. Vì vậy
việc xây dựng kế hoạch, phân công và tổ chức thực hiện đều phải được cân nhắc
thận trọng Và phải tương thích với điều kiện thực tế.
Công tác biên tập có thể nhìn nhận qua bốn đặc điểm chính như sau:
Đặc điểm thứ nhất: Những mục tiêu và kế hoạch cụ thể được coi là những
công việc thường nhật của các Biên tập viên. Trong khoa học quản lý người ta chia
16
việc lãnh đạo doanh nghiệp thành ba khu vực: kế hoạch, tổ chức sản xuất và kiểm
tra. Tất nhiên khi vận dụng khoa học quản lý cần chú ý đến những đặc điểm của
công tác biên tập: mỗi một sản phẩm truyền thông được đưa ra cho hai thị trường.
Trên thị trường thứ nhất nó được bán tới độc giả, thính giả hoặc khán giả. Trên thị
trường thứ hai nó cạnh tranh trên thị trường quảng cáo.
Đặc điểm thứ hai: Sản phẩm truyền thông có chu trình sản xuất cực ngắn
trong chu trình của nó sản phẩm thường xuyên được sản xuất mới.
Đặc điểm thứ ba: Công tác biên tập có quan hệ rộng rãi với trung tâm báo
chí, các cơ quan thông tấn, các phóng viên thường trú và độc giả, thính giả, khán
IT
giả.
Đặc điểm thứ tư: Ngành truyền thông có tốc độ cao về tiến bộ kỹ thuật.
Trong lý thuyết về tổ chức người ta phân biệt bốn mô hình tổ chức cơ bản:
PT
tổ chức một tuyến, tổ chức một tuyến có cố vấn, tổ chức đa tuyến và tổ chức hỗn
hợp. Phổ biến nhất trong thực tiễn biên tập là hình thức tổ chức một tuyến truyền
thống. Ban biên tập được phân công thành các tiểu ban, đứng đầu tiểu ban là một
trưởng tiểu ban và một phó tiểu ban, các trưởng phó tiểu ban này trực thuộc tổng
biên tập. Đứng đầu ban biên tập thường có một bộ ba gồm Tổng biên tập, Phó tổng
biên tập và Phó tổng biên tập thường trực, vị phó thường trực này là người trực
tiếp chịu trách nhiệm điều hành doanh nghiệp.
Chức vụ tư vấn hầu hết chỉ bố trí ở cấp lãnh đạo doanh nghiệp, có thể dưới
hình thức một cố vấn hoặc một người phát ngôn và cũng chỉ áp dụng chủ yếu trong
lĩnh vực “công tác tiếp dân”. Các hình thức tổ chức đa tuyến và hỗn hợp cho đến
nay rất ít được 'áp dụng trong các ban biên tập. Điều này thật đáng ngạc nhiên, bởi
vì chính những hĩnh thức tổ chức này mở ra các mối quan hệ thông tin giữa các
Biên tập viên trong các tiểu ban và có khả năng phôi hợp công tác tốt. Trong khi tổ
17
chức một tuyến việc phân công phân nhiệm gặp khó khăn, ví dụ cùng một đề tài có
thể rơi vào hai tiểu ban: địa phương và khoa học hoặc ngược lại chẳng có tiểu ban
nào chịu trách nhiệm biên tập. Những khó khăn này giảm thiểu khi áp dụng hình
thức tổ chức đa tuyến hoặc hỗn hợp, bởi vì nó tạo điều kiện cho việc kiểm tra chéo
và thông tin nhanh các quyết định của cấp trên.
Sự nhất trí của các tiểu ban thông thường thực hiện qua hội nghị giao ban
của ban biên tập, tuỳ theo quy mô của ban biên tập mà họp toàn thể hoặc chỉ họp
các trưởng phó tiểu ban. Chế độ họp giao ban thường có giao ban hàng ngày, hàng
tuần và hàng tháng.
IT
Chương trình biên tập trong ngày, trong tuần và trong tháng được lên kế
hoạch tại các cuộc họp giao ban này. Việc phân bô" chỉ tiêu ngân sách thực hiện
qua tổng dự toán của ban biên tập. Theo kinh nghiệm người ta xây dựng tổng dự
toán hàng năm, mà cho 3 hoặc 5 năm, sau đó lại xây dựng mới hoàn toàn cho giai
PT
đoạn tiếp theo.
Thực hiện quá nhiều các giải pháp cải tổ trong công tác biên tập là điều tối
kỵ, bởi vì các khả năng cán bộ và chi phí sản xuất sẽ thường bị đánh giá sai. Việc
thực hiện một sự thay đổi trong cơ cấu tổ chức luôn luôn phải phù hợp với khả
năng, trình độ cán bộ.
Hơn nữa đôi với cơ cấu tổ chức biên tập thì sự linh hoạt còn quan trọng hơn
sự phân công “đúng”, vì các ban biên tập làm việc trong một môi trường thường
xuyên biến động.
Biện pháp tổ chức không thể bù đắp cho những thiếu sót trong công tác cán
bộ như việc tuyển chọn, đào tạo và lãnh đạo cán bộ. Điều quyết định cho thành bại
của công tác biên tập là việc cơ cấu lại đội ngũ cán bộ có trình độ và làm sao để
gắn bó họ với cơ quan, doanh nghiệp. Đặc biệt cần chú ý trong mọt ban biên tập
18
bao giờ cũng có sự pha trộn nhiều tính cách khác nhau. Vấn đề là làm sao để các
tính cách đó bổ sung lẫn nhau và cùng nhau tiến bộ, để xây dựng được một không
khí lao động lành mạnh, hợp tác. Phong cách lãnh đạo trong các ban biên tập cũng
rất quan trọng, mà chủ yếu người ta nhìn vào vai trò của thủ trưởng. Tuy nhiên,
trong công tác lãnh đạo cán bộ người ta cần quan tâm tới việc nâng cao trình độ
cán bộ, việc cân nhắc, đề bạt cán bộ và các điều kiện làm việc khác. Ví dụ như thật
là bất cập nếu quy định cụ thể cho một nhà báo lâu năm rằng anh ta phải triển khai
công việc của mình như thế nào?
Cuối cùng thành công của một kế hoạch biên tập phụ thuộc rất nhiều vào
việc các thành viên trong ban biên tập sẩn sàng đồng tâm hiệp lực và vào việc họ
IT
có thừa nhận việc quản Ịý là tiền đề cho những thành tựu về chuyên môn. U đây sự
tinh thông nghề nghiệp và tính tự giác có một vai trò rất quan trọng, vẫn còn nhiều
nhà báo cảm nhận trách nhiệm đối với lợi ích của cộng đồng và đôi với độc giả,
PT
khán thính giả lớn hơn là đối với doanh nghiệp truyền thông. Sự lo lắng đánh mất
chủ quyền trong công tác biên tập dẫn tới sự quan ngại tiếp cận với ban lãnh đạo
của doanh nghiệp truyền thông. Nhưng chỉ có sự thông cảm lẫn nhau và sự nỗ lực
chung mới làm cho các mục tiêu biên tập trở thành hiện thực.
Cả ban lãnh đạo doanh nghiệp và tổng biên tập cùng các trưởng tiểu ban
biên tập và các Biên tập viên phải có ý thức về những mục tiêu xã hội và mục tiêu
kinh tế và sự cần thiết kết hợp hài hoà các mục tiêu này với nhau. Để tránh hiện
tượng có thể xảy ra là các nhà kinh tế đảm nhiệm các chức vụ lãnh đạo trong các
ban biên tập, còn các nhà báo thì không quan tâm tới những tác dộng của thị
trường và hiệu quả kinh tế của những công việc họ làm.
1.3. Những nội dung chính của công tác biên tập
19
Báo chí bao gồm nhiều loại hình khác nhau: Báo in, Phát Thanh, Truyền
hình, Báo mạng điện tử. với nhiều hình thức thể hiện. Tuy nhiên, công vệc của các
Biên tập viên vẫn có những điểm chung và đặc điểm riêng.
Một trong những nghịch lý của công việc biên tập là vấn đề trách nhiệm. Về mặt
luật pháp, Biên tập viên không chịu trách nhiệm về nội dung của sản phẩm in.
Trách nhiệm ở đây, trước hết thuộc về tác giả, và ở một mức độ nhỏ hơn, nhiều khi
chỉ mang tính gián tiếp, thuộc về nhà xuất bản. Tuy nhiên, chính sự khác biệt giữa
mộ biên tập viên trung bình và một biên tập viên giỏi là ở chỗ biên tập viên giỏi
nhất định cần phải có sự can thiệp về nội dung bản thảo và như thế, vẫn có trách
IT
nhiệm ở một dạng nào đó khi tác phẩm được in.
Cố nhiên, Biên tập viên không bao giờ được thực hiện những thay đổi,
những bổ sung về nội dung và những chỉnh sửa nếu không được sự biết đến của tác
giả. Nhưng, một biên tập viên, nếu muốn quan tâm đến những vấn đề nội dung, đòi
PT
hỏi phải có sự hiểu biết trong lĩnh vực mà tác giả đả động tới, cho dù có thể không
ở mức như tác giả. Có điều, một biên tập viêngiỏi không chỉ suy nghĩ được trong
bản thảo, mà còn phải suy nghĩ được trong tác phẩm in, nghĩa là sau khi đọc bản
thảo, trái với đa số các tác giả, biên tập viênphải có được hình dung về tác phẩm in
hoàn chỉnh.
Thông thường, các tác giả cũng nhận thức được điều này nên họ luôn gắn bó
với một vài Biên tập viêncó tên tuổi. Cố nhiên, uy tín của Biên tập viên ở mọi nơi
trên thế giới kém xa uy tín của tác giả. Và, cũng không thể trả lời được câu hỏi tại
sao một biên tập viênxuất sắc lại "cam phận" biên tập viên, mà không trở thành tác
giả...
Biên tập viên có vai trò môi giới giữa tác giả và độc giả, bởi lẽ đồng thời họ
phải suy nghĩ được bằng cái đầu của tác giả và độc giả, nghĩa là, họ cần phải hiểu
20
tác giả thực chất muốn nói gì, mặt khác, cần giúp đỡ người đọc hiểu được điều mà
tác giả muốn nói. Trên tư cách người đầu tiên đọc bản thảo, biên tập viên truyền tải
cho tác giả những nguyện vọng của các độc giả trong tương lai, vì thế, quan hệ mật
thiết giữa tác giả và Biên tập viêntrong quá trình xuất bản là không thể thiếu được.
Công việc biên tập khó ở chỗ biên tập viên như kẻ khiêu vũ mà bị trói tay:
chỉ có thể xuất phát từ dụng ý của tác giả, sự chỉnh sửa và thay đổi không thể vượt
quá một giới hạn nhất định biên tập viên cần phải để ý tới chủ tâm của tác giả khi
triển khai kết cấu của tác phẩm in, các đơn vị cấu trúc phải phục vụ điều này.
Những giới hạn có thể đến đâu? - không có lời giải đáp xác quyết cho câu hỏi này.
IT
Biên tập viên không thể bắt ép tác giả phải theo quan điểm của mình. Bởi lẽ,
vẫn có thể là tác giả có lý. Và rốt cục, tác phẩm vẫn là của tác giả, lời cuối cùng
luôn phải thuộc về tác giả.
Để biên tập nội dung, cần xét bài một cách tổng thể, không xét từ ngữ hoặc
PT
câu cú một cách riêng lẻ. Cần nêu ba câu hỏi để có thể biên tập bài được toàn diện
hơn. Bài có trong tâm không ?, Phần khỏi có tốt không ? Và bố cục của bài đã hợp
lý chưa ?.
Việc biên tập có thể sẽ dễ dàng hơn nếu xem viết lách như một quy trình
gồm những bước:
Tìm ý tưởng: Phóng viên giỏi không bao giờ thiếu ý tưởng, tức biết tư duy đề
tài. Biên tập viên cũng có thể cung cấp ý tưởng cho phóng viên viết bài.
Tìm thông tin: Nhà báo chuyên nghiệp luôn đi ra đường thu thập thông tin,
tức đi săn tin, không ngồi một chỗ làm báo xa lông.
Tạo trọng tâm: Săn tin xong, người viết giỏi thường tự hỏi “bài này nói về
cái gì là chính?”.
21
Tạo trật tự: Bước thứu tư này hay bị bỏ qua. Sau khi thu thập được thông
tin, nhiều phogns viên lao vào viết ngay, theo kiểu có gì đưa nấy, không có bố cục.
Tập viết nháp: Nên viết ngay sau khi đã sắp xếp xong bài nhưng chỉ nên
xem đó như mới làm nháp.
Tiếp tục viết: Đây là lúc phóng viên biên tập bài của mình tức tự sửa lỗi,
xem lại và làm cho bài hay hơn. Nhưng nhiều người lại đùn hết trách nhiệm này
cho Biên tập viên.
Thông thường mỗi bài chỉ nên có một ý chính gắn kết nhiều thông tinn lại
với nhau vào trong một bài. Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa mỗi bài báo chỉ
IT
đề cập đến duy nhất một chuyện. Nếu vậy, các bài ngắn củn sẽ tràn ngập các trang
báo. Nhiều khi phóng viên cho rằng sự kiện có nhiều ý quan trọng ngang nhau và
sẽ tìm cách đưa hết các ý đó vào trong một bài.
PT
Nếu không có trọng tâm,bài sẽ lộn xộn. Muốn biết bài có trọng tâm hay
không nên xem lại phần về quy trình viết. Giữa các bước thu thập thông tin và
trình bày thông là lúc người viết suy nghĩ, tìm cách tạo ra mối liên kết cho các
thông tin. Một bài báo không có trọng tâm thường nói về nhiều thứ, mỗi thứ một ít,
khoogn tập trung cung cấp đủ thông tin cho bất kỳ vấn đề nào. Các đoạn của bài
cũng không kết nối được với nhau một cách hài hòa.
Một trong những bổn phận của biên tập viên là giúp phóng viên mới, phóng
viên bình thường, phóng viên thích an nhàn viết cho ra viết. Nói cách khác, bài báo
không giống một đống hỗn độn các thông tin thu thập được, mà là sản phẩm do
phóng viên tạo nên từ các thông tin đó.
Bạn có thể khuyên phóng viên trình bày trọng tâm, tức điểm tập trung của
bài viết trong một hoặc hai câu tóm tắt ý chính cảu bài. Nên đề nghị phóng viên ghi
điều này ra giấy hoặc đầu màn hình máy tính dưới dạng cô động nhất nhưng rõ
22
ràng và chính xác. Phần tóm tắt cũng phải khách quan, không nên trích dẫn lời
người khác.
Một cách nữa cũng khá tốt để tìm trong tâm cho bài báo là đề nghị phóng
viên nói về bài và lắng nghe chính các câu chữ của họ.
Vậy nên luôn luôn phải giới hạn đề tài, trừ khi có thể điều tra thấu đáo, tức
rất tốn thời gian và đổ nhiều mồ hôi. Không thể soát xét đến tất cả các vấn đề trong
một bài báo. Nếu phóng viên muốn thế. Tuy nhiên, có một sự phải đương đầu,
nhiều bài báo không có trọng tâm vì người viết không chịu suy nghĩ, săn tìm thông
tin cho đầy đủ. Đây là thách thức lớn đối với các Biên tập viên.
IT
Tổ chức nội bộ của báo chí thông thường chia thành các khối. Các khối
truyền thống được gọi theo lĩnh vực chuyên môn: chính trị, kinh tế, văn hoá, địa
phương và thể thao. Ngoài ra ở một số báo này báo họ có thêm một số khối khác.
PT
Không phải tờ báo nào hoặc số báo nào cũng có một ban biên tập đầy đủ, nghĩa là
có tất cả các khôi truyền thống. Con số thực tê của các khối phụ thuộc vào sự hợp
tác với một số tờ báo liên kết nào đấy.
Những phần chính của tờ báo như toàn bộ nội dung chủ yếu có thể được
biên tập từ một tờ báo hợp tác. Trong trường hợp này, chỉ còn lại khối địa phương
biên tập trang địa phương.
Sự hợp tác kinh tế hoặc sự hợp nhất cũng tác dụng tới tể chức công tác biên
tập và sự hợp tác giữa các khôi. Trong ban biên tập địa phương của một tờ báo tuỷ
theo quy mô và cơ cấu các Biên tập viên phân công công việc theo đề tài như chính
sách làng xã, thể thao địa phương, văn hoá và an ninh, theo quy trình sản xuất như
biên tập hình ảnh, sản xuất thiết kế maket, xuất bản; theo địa bàn như địa phương
và các vùng phụ cận; theo hình thức thể hiện như phóng sự và bình luận; theo
nhiệm vụ đặc biệt như công tác bạn đọc và các hoạt động khác. Không phụ thuộc
23
vào hình thức tổ chức lao động, một ban biên tập có thể duy trì sự phân công kéo
dài hoặc thay đổi nhiệm vụ của các biên tập viên theo nguyên tắc quay vòng.
Đứng đầu một ban biên tập đầy đủ là một tổng biên tập, người có quyền chỉ
đạo các phụ trách khôi hay các trưởng tiểu ban biên tập. Tuy nhiên, cũng có các
mô hình khác nhau về hệ thống cấp, bậc trong tổ chức lao động. Vậy nên cũng có
những phó tổng biên tập thường trực, hoặc một Biên tập viên phụ trách sản xuất có
quyền hành rộng rãi trong điều hành sản xuất hàrig ngày. Trong thực tế, các câu
chuyện trao đổi nghề nghiệp và các sự nhất trí trong công việc là biểu hiện của
công tác chỉ đạo hàng ngày.
IT
Tổ chức biên tập của các tạp chí
Các tạp chí đề cập một phạm vi đề tài có tính hạn chế về mặt thời sự hoặc
tính phổ thông. Thị trường của tạp chí bao gồm từ các tạp chí phổ cập, tạp chí
PT
chuyên môn, tạp chí sở thích cho tới các đặc san của các câú lạc bộ và các tổ chức.
Tuỳ theo quy mô của ban biên tập, mục tiêu của nhà xuất bản và vị thế trên thị
trường mà việc tổ chức các quá trình biên tập tạp chí rất khác nhau. Nó bao gồm từ
một Biên tập viên độc lập kiêm chức cho nhiều tạp chí tới một ban biên tập dược
cơ cấu mang tính chuyên nghiệp theo những mục tiêu của nhà xuất bản đủ sức
cạnh tranh trong cơ chế thị trường.
Sự đa dạng về hình thức cũng như nội dung của tạp chí tiến bộ rõ rệt. Nhìn
vào các sản phẩm trên các ki ốt sẽ thấy rõ sự nỗ lực của các tạp chí để tồn tại thắng
lợi trong cuộc cạnh tranh trên thị trường truyền thông.
Việc quản lý công tác biên tập theo hướng đáp ứng nguyện vọng của công
chúng và có hiệu quả kinh tế là vấn đề sống còn của các tạp chí.
Đài Phát thanh – Truyền hình
24
Mỗi dài phát thanh truyền hình dù tổ chức theo mô hình kinh tế tư nhân hay
nhà nước đều có bốn lĩnh vực, thể hiện trong tất cả các cơ cấu tổ chức, đó là: quản
trị, chương trình, kỹ thuật và kinh doanh thời gian quảng cáo. Các hình thức tổ
chức khả thi nói chung và tổ chức biên tập nói riêng còn phụ thuộc vào hiện trạng
cạnh tranh mà nhà đài đang phải đối mặt. Trình độ kỹ thuật, năng lực quảng cáo,
quy mô chương trình cũng như các chủ trương mang tính pháp lệnh sẽ quy định cơ
cấu tổ chức và mức độ chuyên môn hoá giữa các lĩnh vực: quản trị, chương trình,
kỹ thuật và kinh doanh quảng cáo.
Tổ chức lao động cho Biên tập viên trong môi trường phát thanh truyền hình
có một cơ cấu riêng khác với cơ cấu của báo và tạp chí. Công việc của nhà báo
IT
được tiến hành trong các ban biên tập, trong hội nghị giao ban biên tập có sự thoả
thuận giữa các tiểu ban. Trong các chương trình phát thanh hầu như các ban biên
tập lời và âm nhạc chịu trách nhiệm trong khâu sản xuất. Tuỳ theo quy mô chương
PT
trình và hình thức tổ chức, ban biên tập lời bao gồm một số tiểu ban khác nhau.
Các tiểu ban truyền thông là biên tập tin tức, biên tập chuyên đề như văn học hoặc
thể thao cũng như biên tập tạp chí truyền hình. Các đài phát thanh truyền hình địa
phương và khu vực bổ sung vào cơ cấu tổ chức của các đài phát thanh truyền hình
nhà nước.
Tác phong lãnh đạo và làm việc trong các ban biên tập phụ thuộc vào phong
cách của tổng biên tập và cơ chế tổ chức của doanh nghiệp truyền thông. Tác
phong lãnh đạo có thể tạo được uy tín và thái độ hợp tác, có sức thuyết phục đối
với cán bộ công nhân viên, có thể khích lệ, động viên họ hoặc tác dụng ngược lại,
có thể thúc đẩy đổi mới hoặc kìm hãm. Phong cách làm việc có thể tạo nên tinh
thần tập thể, hoặc chạy theo chủ nghĩa cá nhân. Việc phân công lao động trong mỗi
ban biên tập một khác, tuỳ thuộc vào tầm quan trọng của năng lực, hiệu quả kinh tế
và sự yên tâm công tác của từng cán bộ công nhân viên. Trong khuôn khổ của công
25